Posted 16 Tháng 6, 2008 Kính thưa quí vị quan tâm. Truyền thống văn hoá sử của dân tộc Việt luôn nói về một cội nguồn gần 5000 năm văn hiến. Tuy nhiên; hiện có số đông các nhà nghiên cứu lịch sử cả trong nước và quốc tế cho rằng: “Quan niệm truyền thống này chưa từng được khoa học chứng minh”. Bởi vậy; họ đã đưa ra một quan niệm lịch sử mới là: “Thời Hùng Vương chỉ là một liên minh bộ lạc hoặc cùng lắm là một nhà nước sơ khai”. Nhưng theo nhận xét của người viết bài này thì tất cả những luận cứ và phương pháp luận của những người có quan điểm lịch sử mới này đều chủ quan và tất nhiên nó không hề có tính khoa học. Có rất nhiều vấn đề liên quan đến thời đại Hùng Vương, mà một sự kiện quan trọng trong đó chính là nguyên nhân kết thúc thời đại này. Cũng có nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và nghiệp dư có những luận điểm chứng minh cho cội nguồn dân tộc, nhưng những luận cứ lại lặp lại điều mà chính các sử gia theo quan điểm mới đã nói tới. Thí dụ như họ cho rằng: Thục Phán là dòng dõi vua Ba Thục và đã lật đổ Vương triều của các vua Hùng. Bởi vậy; bài viết này nhằm chứng minh cho quan điểm trên là một sai lầm; với mục đích tìm về chân lý và nhân danh khoa học, với một tiêu chi khoa học rõ ràng và công khai là: Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng; nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó một cách hoàn chỉnh, nhất quán, có tính khách quan, tính quy luật và khả năng tiên tri. Kính thưa quí vị. Truyền thuyết của dân tộc Việt nói về một cuộc nhường ngôi vị của vị vua cuối cùng ở thời Hùng Vương thứ 18 cho Thục Phán – An Dương Vương. Nhưng có nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và không chuyên; tỏ ra hoài nghi hiện tượng lịch sử này. Họ đã căn cứ theo một số tư liệu lịch sử không mấy chính xác; thiều tính hợp lý và bằng những suy diễn chủ quan để kết luận một cách vỗi vã rằng: An Dương Vương đã tiêu diệt Hùng Vương. Trong những học giả hiện đại thì giáo sư Đào Duy Anh – nếu không phải là người đầu tiên – thì cũng đồng quan điểm với lập luận nói trên. Sử gia Đào Duy Anh với những lập luận của ông đã gây một ảnh hưởng lớn đến các thế hệ sau, khi tìm về cội nguồn dân tộc. Bởi vậy; việc chứng minh những sai lầm của ông, sẽ là một phương tiện giúp cho sự định hướng mới khi tìm về cội nguồn dân tộc Việt. Bài viết này được lấy từ cuốn: “Thời Hùng Vương và bí ẩn lục thập hoa giáp”. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Người viết hiệu chỉnh lại. Về nguyên nhân kết thúc thời đại Hùng Vương, giáo sư Đào Duy Anh đã dẫn những tài liệu và lập luận trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời” như sau: Sách “Giao Châu ngoại vực ký” dẫn ở ”Thủy kinh chú” có lẽ là sách xưa nhất chép chuyện An Dương Vương là con Thục Vương, làm vua nước Âu Lạc sau khi chiếm nước Văn Lang của Lạc Vương: Giao Chỉ có ruộng Lạc, trông nuớc triều lên xuống mà làm. Người ăn ruộng là Lạc Vương và Lạc Hầu. Các huyện gọi là Lạc tướng, có ấn đồng dải xanh, tức là quan lệnh ngày nay. Sau con Thục Vương đem binh đánh Lạc Vương và Lạc hầu, tự xưng là An Dương Vương, đóng trị sở ở Phong Khê. Sau Nam Việt Vương là Úy Đà đánh An Dương Vương, sai hai sứ cai trị hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, tức là nước Âu Lạc. Việt sử lược thì chỉ nói rằng: Cuối thời nhà Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường, xưng hiệu là An Dương Vương, không thông hiếu với nhà Chu. Toàn thư thì chép rằng: An Dương Vương (húy là Phán, người Ba Thục, ở ngôi 50 năm, sử cũ cho là họ Thục là sai) – Giáp Thìn, năm đầu (năm 58 Chu Văn Vương), vua nổi binh đánh diệt nước Văn Lang. Trước vua đã đánh nhiều lần. Hùng Vương binh cường tướng giỏi, vua nhiều lần bị thua. Hùng Vương nói rằng: Ta có sức thần, nước Thục không sợ sao? Bèn bỏ không săn sóc vũ bị, ngày ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Quân Thục bức đến gần, Hùng Vương còn say mềm chưa tỉnh, hộc máu nhảy xuống giếng chết. Binh chúng trở giáo đầu hàng. Thục Vương gồm chiếm lấy nước, đổi tên là nước Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê.” Giáo sư Đào Duy Anh cho rằng: Thục Phán là người Ba Thục mà sách Giao Châu ngoại vực ký nói đến: Giao Châu ngoại vực ký gọi An Dương Vương là Thục Vương Tử nghĩa là con vua nước Thục. Để chứng minh cho quan điểm của mình giáo sư đã dẫn chứng truyền thuyết của đồng bào Tày và lập luận như sau: Bọn con cháu nước Thục ấy đã vào nuớc ta do đường nào? Về vấn đề này cũng như về sự thành lập của nước Âu Lạc, có một truyền thuyết của người Tày có thể cho chúng ta ít nhiều ánh sáng. Tại miền Cao Bằng ngày nay, trong đồng bào Tày được lưu hành một truyền thuyết bằng thơ về nguồn gốc của các bộ lạc. Truyền thuyết ấy gồm ba phần: 1) Phần thứ nhất trình bày tình hình của các bộ lạc Nam Cương, 2) Phần thứ hai kể chuyện chín chúa tranh nhau ngôi vua, 3) Phần thứ ba trình bày sự thắng lợi của Thục Phán trong cuộc cạnh tranh ấy. Truyền thuyết ấy đại khái nói rằng: Từ thuở xưa, khi người ta vừa mới biết ánh sáng, biết ăn chín, biết che thân, biết phát rừng trồng lúa, biết đào mương lấy nước, biết dựng nhà che mưa nắng thì người ta cũng tụ tập thành bản mường, nhưng mỗi mường ở độc lập một phương. Về sau người ta tụ tập đông hơn, nhiều mường họp lại thành bộ, đứng đầu là vua chủ trương mọi việc, đặt chữ cho dân, vỗ về dân chúng khiến họ làm ăn yên ổn. Vua tốt thì dân được nhờ, vua ác thì dân nổi loạn, vua mạnh thì bờ cõi yên lành, vua không được dân phục thì phải nhường ngôi cho người khác. Ở phía Nam Trung Quốc, đầu sông Tả Giang, về gần nước Văn Lang, có bộ Nam Cương hùng cứ một phương. Bộ này do Thục Chế tức An Trị Vương đứng đầu, đóng đô ở Nam Bình, do chín xứ họp thành. Các xứ cứ ba năm triều cống một lần. Chín xứ ấy là: Thạch Lâm, Hà Quảng, Bảo Lạc, Thạch An, Phúc Hòa, Thượng Lang, Quảng Nguyên, Thái Ninh (tức phủ Thái Bình tỉnh Quảng Tây), Quy Sơn. Từ lúc An Trị Vương lên ngôi, nhân dân yên ổn, chín xứ đều thần phục cho nên dần dần trở nên hùng cường. Nước Trung Hoa mấy lần xâm lăng đều bị đánh lui, rồi từ đấy không dám quấy nhiễu nữa, hai bên kết tình giao hảo. Thục Chế làm vua 60 năm, thọ 95 tuổi. Con là Thục Phán mới lên 10 tuổi, cháu họ là Thục Mô tạm lên cầm quyền. Chín chúa nghe tin ấy tưởng rằng Thục Mô cướp ngôi, bèn kéo quân về bao vây kinh đô. Thục Mô sợ, phải giao quyền lại cho Thục Phán, các chúa mới chịu yên. Thục Phán còn nhỏ, sợ bị các chúa lấn át, nói rằng: Nay trong bộ có mười xứ, chín chúa giữ chín xứ, còn lại một xứ cho vua, như vậy thì có đâu phải là vua. Nay hãy thi tài, ai có tài hơn người mà thắng tất cả mọi cuộc thì ta xin nhường ngôi cho cai trị cả bộ. Các chúa nghe theo. Thục Phán bèn tổ chức mười cuộc thi tài: 1. Đấu võ 2. Làm nghề tốt việc nhanh 3. Sang Trung Quốc lấy trống rồng (có lẽ là trống đồng, sách in sai chăng – người viết) 4. Bắn cung trúng lá đa 5. Làm một nghìn bài thơ 6. Nhổ mạ Phiêng Pha (gần Tinh Túc) cấy ruộng Tổng Chúp (Cao Bằng) 7. Đóng thuyền rồng 8. Đẽo đá làm guốc 9. Nung vôi gạch xây thành 10. Mài lưỡi cày thành kim. Trong các cuộc thi ấy Thục Phán đều dùng kế mỹ nhân để phá, không cho chúa nào thắng được, nên cuối cùng Phán được các chúa tôn làm vua. Thục Phán ra sức củng cố cơ đồ nước Nam Cương, làm cho dân giàu nước mạnh. Nước Văn Lang láng giềng bấy giờ đang suy yếu, nhân dân xiêu tán đói rét, quân lính biếng lười, các tướng chỉ thích rượu thơ. Thục Phán nhớ lại đời Tiên Vương đất nước nhiều lần bị nước Văn Lang uy hiếp, cho rằng nay đã đến lúc phục thù, bèn cất quân sang đánh, Hùng Vương nhu nhược bại vong. Thế là nước Văn Lang bị gồm làm một nước với nước Nam Cương. Thục Phán đặt tên nước mới là Âu Lạc, đóng đô ở Loa Thành. Từ đó bốn phương yên ổn. Do truyền thuyết trên ấy, chúng ta có thể nhận thấy rằng bộ Nam Cương do Thục Phán làm vua là tương đương với miền Cao Bằng từ Bảo Lạc lấn sang đến cả một phần phủ Thái Bình tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc. Nếu thế thì có thể nói rằng con cháu của vua nước Thục mà Thục Phán là đại biểu cuối cùng đã từ miền Tứ Xuyên và Vân Nam vào nước Nam Cương của truyền thuyết theo đường sông Lô, sông Gầm, rồi tràn sang miền thượng lưu sông Cầu và sông Hữu Giang. Người nước Nam Cương là người gì? Chúng ta đã biết rằng người nước Văn Lang là người Lạc Việt, lại cũng biết rằng nhóm Việt tộc sinh tụ ở miền Quảng Tây, tức trong lưu vực sông Tây giang với hai nhánh của nó là Tả giang và Hữu giang, là người Tây Âu, vậy nhân dân nước Nam Cương ở đầu sông Tả giang và lưu vực Hữu giang cũng là thuộc nhóm Tây Âu. Trước hết người viết xin được cáo lỗi bạn đọc vì sự trích dẫn quá dài, mong được sự thông cảm của bạn đọc; vì để bảo đảm tính khách quan khi so sánh giữa hai quan niệm khác nhau. Với quan điểm trên của giáo sư Đào Duy Anh, có lẽ đây là nguyên nhân để sau này có khá nhiều học giả đã phát triển quan niệm cho rằng: “ Hùng Vương bị Thục Phán – dòng dõi vua Ba Thục – tiêu diệt”, chứ không phải là một cuộc nhường ngôi. Để chứng minh tính khiên cưỡng và chưa rõ ràng cho kết luận nói trên – trong trường hợp này vì hoàn cảnh thiếu tư liệu – người viết xin phép được minh chứng cho luận điểm của mình; bằng cách sử dụng lại chính những tư liệu của giáo sư đã trích dẫn ở trên và chỉ ra tính mâu thuẫn trong lập luận của chính ông ta. Trước hết chúng ta nhận thấy rằng giáo sư Đào Duy Anh đã căn cứ vào một cách gọi An Dương Vương là Thục Vương tử trong sách ”Giao Châu ngoại vực ký’ để suy luận rằng nhân vật Thục Phán là con vua Thục (tức là một nước Tây Bắc sông Dương Tử). Đây là một nước đã bị Tần diệt vào năm thứ 5 Chu Thận Vương tức là khoảng cuối thế kỷ thứ IV tr.CN (năm 316 tr.CN), trước khi Văn Lang mất nước 60 năm (thời điểm sử cũ 258 tr.CN) hoặc khoảng hơn100 năm (thời điểm quan niệm mới 208 tr.CN). Sách Đất nước Việt Nam qua các đời của giáo sư Đào Duy Anh chép: “Giao Châu ngoại vực ký” gọi An Dương Vương là Thục Vương tử, nghĩa là con cháu vua nước Thục. Chúng ta hãy xét xem An Dương Vương có phải là Thục Vương tử không?” Trước hết, chúng ta xem một đoạn tư liệu sau đây trong cuốn sách nói trên của giáo sư Đào Duy Anh. “Về nước Thục ở thời Xuân Thu thì sách Hoa Dương Quốc chí đời Tấn là sách đầu tiên chép rõ. Sách ấy chép rằng: “Năm thứ 5 Chu Thận Vương, bọn đại phu Trương Nghi, Tư Mã Thác và đô úy Mặc của nước Tần theo đường Thạch Ngưu đi đánh nước Thục. Vua Thục tự cầm quân cự chiến ở Gia Manh, thua , bỏ chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần giết. Tướng phó cùng với thái tử lui đến Phùng Hương, thái tử chết ở Bạch Lộc Sơn. Thế là họ Khai Minh mất, gồm 12 đời vua nước Thục.” Để thống nhất con vua Thục với Thục Phán, giáo sư đã liên hệ với truyền thuyết của dân tộc Tày. Tất nhiên giữa vua Thục Chế tức An Trị Vương với Thục Vương tử (Thục Phán) và dòng dõi vua Ba Thục ở Tây Bắc sông Dương Tử liên hệ với nhau như thế nào là một điều cần lý giải. Giáo sư Đào Duy Anh đã dựa vào một giả thuyết như sau: “Trần Tu Hòa, tác giả sách “Việt Nam cổ sử cập kỳ dân tộc văn hóa chí nghiên cứu” (Chú thích của Giáo sư Đào Duy Anh: Sách này xuất bản ở Côn Minh năm 1944) cho rằng An Dương Vương có thể là con út hay là con di phúc của Thục Vương và dựng lên ức thuyết rằng: Vũ Dương nay là đất huyện Bành Sơn tỉnh Tứ Xuyên ở phía nam Thành Đô, miền trung lưu sông Mân Giang. Phùng Hương và Bạch Lộc Sơn không rõ đích xác ở đâu, nhưng theo tình hình chạy tránh quân Tần và điều kiện địa lý thì triều đình và thái tử nước Thục tất phải chạy theo sông Mân Giang về phía Nam và thái tử có lẽ chết ở hạ lưu sông ấy. Nhưng sau khi thái tử chết thì dư chúng của nước Thục trong ấy có con nhỏ hay con di phúc của vua Thục vẫn theo sông Mân Giang mà chạy về nam, đến đất các huyện Nghi Tân, Khánh Phù tỉnh Tứ Xuyên ngày nay, tức là theo lối Bặc đạo mà về sau Đường Mông đời Hán sẽ mở để xuống miền Nam Trung. Bấy giờ nước Sở đã chiếm cứ đất Kiềm Điền (tức Quý Châu và Vân Nam). (Người viết xin phép ngắt ngang: Đoạn này đã chứng tỏ rằng vào năm 316 tr.CN, vùng Quý Châu và Vân Nam vốn là đất của Văn Lang đã bị mất).Có lẽ con vua Thục và bộ chúng đã trốn tránh trong miền ấy thuộc nước cừu địch của nước Tần để mong chờ cơ hợi khôi phục. Sau đó 36 năm (tức năm 280 tr.CN, người viết), nước Tần lại chiếm đất Kiềm Trung của Sở. Trang Kiểu là tướng Sở bị cách tuyệt với bản quốc bèn chiếm lãnh đất Điền Trì tự xưng là Điền Vương. Nhưng chỗ con vua Thục ẩn thân thuộc miền Tường Kha, là đất nghèo và độc địa, lại ở gần với phạm vi thế lực nước Tần, cho nên con cháu vua Thục có lẽ đã phải hướng về Nam mà phát triển vào miền khí hậu ôn hòa, sản vật giàu thịnh, rồi cuối cùng chiếm được nước Văn Lang.” Như vậy quí vị đã thấy được tất cả những dẫn chứng khá đầy đủ những luận cứ của giáo sư Đào Duy Anh. Những luận cứ này có thể tóm lược như sau: 1) Sách Giao Châu ngoại vực ký gọi An Dương Vương Thục Phán là Thục Vương tử. 2) Truyền thuyết dân tộc Tày cùng với Toàn Thư và Việt Sử lược nói đến Thục Phán tiêu diệt Hùng Vương chiếm Văn Lang. 3) Liên hệ giữa Thục Phán của dân tộc Tày với Thục Vương tử được coi là con vua Thục qua giả thuyết của Trần Tu Hòa. Như vậy nguồn gốc của tất cả mọi vấn đề bắt đầu từ sách Giao châu ngoại vực ký. Sau đó là sự lý giải xuất phát từ một giả thiết nhiều hơn là một luận cứ được chứng minh, trên cơ sở những hiện tượng lịch sử liên quan. Qua phần trên, điều nhận thấy trước hết là: những tư liệu của giáo sư Đào Duy Anh đều có sau Sử ký của Tư Mã Thiên (ngoại trừ truyền thuyết của dân tộc Tày chưa xác định được). Về việc nhà Tần đánh nước Ba Thục, Sử ký – Truyện Trương Nghi, chép rõ như sau: “Huệ Vương nói: – Phải, quả nhân xin nghe theo nhà ngươi. (nghe theo Tư Mã Thác, bác bỏ lập luận của Trương Nghi – người viết) Rồi đem binh đánh Thục. Đến tháng 10 lấy được Thục. Bèn bình định nước Thục, truất Thục Vương, đổi hiệu làm Hầu, rồi khiến Trần Trang làm Thừa tướng nước Thục.” Qua đoạn Sử ký nói trên bạn đọc thấy rằng: không hề có việc Hoàng triều nước Ba Thục bị giết sạch, mà dòng dõi vua Thục vẫn tồn tại. Chi tiết “truất Thục Vương, đổi hiệu làm Hầu.” chứng tỏ điều này. Do đó, không thể có việc con di phúc của vua Thục chạy trốn xuống miền Nam để rồi làm vua Âu Lạc như ông Trần Tu Hòa nói tới. Vì vậy, việc một giả thuyết về cuộc chạy nạn của hậu duệ vua Ba Thục; chỉ là một sự giải thích cho một sai lầm từ ngay cách đặt vấn đề. Về truyền thuyết dân tộc Tày mà giáo sư Đào Duy Anh dẫn chứng cũng rất mâu thuẫn. Trước hết, chúng ta xem lại đoạn sau đây của truyền thuyết dân tộc Tày được trích dẫn ở trên: “Thục Chế làm vua 60 năm, thọ 95 tuổi. Con là Thục Phán mới lên 10”. Nếu sự liên hệ trên của giáo sư Đào Duy Anh là đúng thì chúng ta sẽ có một sự liên hệ tiếp tục sau đây: “Thục Chế làm vua 60 năm, thọ 95 tuổi”, tức là Thục Chế lên ngôi vua lúc 35 tuổi. Nếu lấy năm 316 tr.CN là năm vua Thục Chế ra đời (Con di phúc; theo cách luận của Giáo sư Đào Duy Anh) thì 35 năm sau ông ta đã làm vua nước Thục, trong khi đó theo giả thuyết của ông Trần Tu Hòa thì 36 năm sau con di phúc của triều đình vua Ba Thục vẫn còn đang chạy loạn. Cho rằng có thể có sai số trong khoảng thời gian 1 năm đó thì cũng không thể lý giải nổi một đám người lưu vong 36 năm; đến một quốc gia đã ổn định mà truyền thuyết Tày nói đến, lại có thể lập tức lên làm vua. Thời điểm vua Thục Chế băng hà tức là vào năm 221 tr.CN (thời điểm Ba Thục mất nước và giả thuyết vua Thục Chế sinh năm 316 tr.CN – 95 năm tuổi thọ của Thục Chế = 221 tr.CN) – Thục Phán mới lên 10 tuổi (Tức là Thục Phán sinh năm 231 tr.CN). Thời điểm nhà Tần thống nhất lục quốc được ghi nhận là năm 221 tr,CN, chấm dứt thời Chiến quốc. Không có cơ sở nào để Thục Phán lên 10 tuổi chống Tần và không thần phục nhà Chu cả. Vì lúc này nhà Chu đã sụp đổ từ lâu. Qua những mâu thuẫn đã nêu ở trên, chứng tỏ tính chưa thuyết phục trong lập luận của giáo sư Đào Duy Anh. Để chứng tỏ điều này, người viết đã lấy thời điểm kết thúc thời Hùng Vương theo quan niệm mới là năm 208 tr.CN. Hay nói một cách khác: Tức là tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giả thuyết của giáo sư Đào Duy Anh. Còn nếu theo sử cũ, thời điểm này là 258 tr.CN thì Thục Phán lúc này chưa ra đời. Với lập luận đã mâu thuẫn ngay trong nội tại của lập luận đó thì không thể nói đến khả năng lý giải những hiện tượng lịch sử liên quan. Bởi vậy, Thục Vương tử mà Giao Châu ngoại vực ký nói tới chỉ có thể giải thích một cách hợp lý là: ông vua một nước nhỏ họ Thục hoặc con vua Thục. Hoàn toàn không có một liên hệ gì với dòng dõi vua Thục cách đó gần 100 năm về trước; bị nhà Tần diệt. Về Thục Phán trong truyền thuyết của dân tộc Tày còn một điểm tồn nghi. Như chúng ta đã biết: chiến công lớn nhất tạo điều kiện để ngài Thục Phán nắm vương quyền chính là chiến công chống lại nhà Tần. Điều này trong truyền thuyết của người Tày lại không thấy nói tới. Đây là cơ sở để hoài nghi sự nhầm lẫn giữa An Dương Vương Thục Phán với Thục Phán trong truyền thuyết của dân tộc Tày. Điều sai lầm rất khiên cưỡng nữa của cả ông Trần Tu Hoà và Đào Duy Anh là: Tên nước là Thục thì không có nghĩa là tên họ của vua cũng là Thục. Điều này không khác gì nói Tổng Thống Bus là Tổng thống Hoa Kỳ thì họ và tên Ngài Bus sẽ phải là Hoa Kỳ Bus chăng? Thật là một sự liên hệ kỳ quặc. Với giả thuyết dựa trên truyền thuyết của người Việt được lưu truyền ở Vĩnh Phú, thì Vua Hùng Vương đã nghe theo lời của ngài Tản Viên Sơn Thánh, nhường ngôi cho Thục Phán. Sau đó hậu duệ của ngài đã về miền Tây Bắc Việt Nam và một phần Nam Trung Quốc. Đây chính là vùng của dân tộc Tày Mường, nơi có truyền thuyết mà giáo sư Đào Duy Anh đã dẫn chứng ở trên. Việc hoàng tộc của vua Hùng cùng với những quan chức trung thành với ngài chuyển lên vùng Tây Bắc mà truyền thuyết người Việt nói tới, hoàn toàn phù hợp với một hiện tượng văn hóa đã được các học giả quan tâm nghiên cứu: đó chính là sự liên hệ giữa những di sản văn hóa truyền thống của vùng Tày – Mường với người Việt cổ. Thậm chí có những học giả còn cho rằng văn hóa của người Việt có nguồn gốc từ Tày, Mường. Người viết cho rằng: Đây chính là dấu ấn của văn hóa cổ Văn Lang - cội nguồn của văn hoá Việt – đã để lại ở vùng Tây Bắc Việt Nam khi hoàng triều của vua Hùng đã chuyển đến đây. Hiện tượng này chứng tỏ khả năng thực tế của truyền thuyết của người Việt ở Vĩnh Phú. Tại vùng Tây Bắc Việt Nam (cũng là Tây Bắc Vĩnh Phú) tồn tại 1 di sản văn hóa nổi tiếng thế giới, đó là bãi đá cổ Sa Pa. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là di sản của người Việt cổ. Hiện tượng này minh chứng cho tính thực tế của truyền thuyết người Lạc Việt về Hoàng triều vua Hùng rút lên Tây Bắc. Kết hợp giữa hai truyền thuyết của hai dân tộc, người viết xin được đưa giả thuyết cho rằng: 1) Cuộc chiến giữa thủ lĩnh họ Thục và Hùng Vương mà truyền thuyết Tày nói tới, có thể chỉ là cuộc chiến giữa các thủ lĩnh địa phương ở vùng Tây Bắc Âu Lạc với hậu duệ của vua Hùng. Bởi vì: Sử Ký đã chép”Miền nam sông Dương tử vốn là nơi giống Bách Việt ở cùng một chủng tính”. Như vậy sự tồn tại của một “nước Thục” ở Quảng Tây – theo giáo sư Đào Duy Anh; chỉ có thể giải thích đó là những sự kiện vào cuối thời Hùng Vương; Hoặc với hậu duệ của vua Hùng sau khi đã nhường ngôi; chỉ còn cai quản và cư trú tại vùng Tây Bắc Việt Nam. 2) Về việc vua Thục Phán trong truyền thuyết của dân tộc Tày tấn công tiêu diệt Hoàng tộc của vua Hùng; có khả năng đây là sự ngụy tạo với mục đích nhằm bảo vệ dòng dõi vua Hùng trước sự tìm diệt của các đội quân xâm lược. Về khả năng ngụy tạo – người viết lưu ý bạn đọc những tình tiết của cuộc chiến trong truyền thuyết dân tộc Tày và của Toàn thư. Nếu theo đúng miêu tả của những tư liệu này – thì đây không thể là cuộc chiến giữa hai quốc gia, vì nó quá dễ dàng và đơn giản như diễn biến trên sân khấu. (Vua đang say rượu thì quân vào chiếm thành?). Hơn nữa; cả Việt sử lược lẫn Toàn Thư đều là những cuốn sách viết sau khi Văn Lang sụp đổ đã hàng ngàn năm. Quan điểm cho rằng: vua Hùng đã nhường ngôi cho An Dương Vương được chứng tỏ bằng những truyền thuyết, ca dao, tục ngữ lưu truyền trong dân gian để chứng minh cho nền văn hiến 5000 năm của đất nước này, qua việc giải mã những ca dao; truyền thuyết thời Hùng Vương để khám phá sự bí ẩn của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nếu triều đại Hùng Vương bị kết thúc một cách đột ngột trong chiến tranh thì không thể có sự chuẩn bị như vậy. Như truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, Sơn Tinh Thủy Tinh chắc chắn phải ra đời sau khi kết thúc thời đại vua Hùng. Trong lịch sử nhân loại hiện đại; chính phủ kháng chiến Pháp cũng rút khỏi thủ đô Paris để tránh một sự tàn phá những di sản văn hoá vốn là niềm tự hào của dân tộc họ; trong cuộc chiến với quân Đức Hitle. Bởi vậy; giả thuyết cho rằng: Vua Hùng đã nghe theo lời Đức Tản Viên Sơn Thánh; nhường ngôi cho Thục Phán nhằm bảo vệ những giá trị văn hoá dân tộc là một lập điểm hoàn toàn có cơ sở và hợp lý với những hiện tượng văn hoá lịch sử liên quan. Chính vì có công lao lớn trong việc bảo tồn văn hoá Việt là nguyên nhân – và cũng là sự giải thích: Ngài Tản Viên Sơn Thánh được người Việt tôn vinh là một trong Tứ trụ Thiên Vương Hộ Quốc của người Lạc Việt. Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị. Thiên Sứ Share this post Link to post Share on other sites