thanhdc

Thử tìm lại biên giới cổ của Việt-Nam - Giáo-sư Trần Đại-Sỹ.

18 bài viết trong chủ đề này

Th tìm li biên gii c ca Vit-Nam: bng c s, bng triết hc, bng di tích và h thng ADN

Giáo-sư Trn Ðại-S.

Chúng tôi xin giới thiệu với ðộc giả Việt-Nam bài diễn vãn của Giáo-sý Trần Ðại-Sỹ ðọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á (Institut Franco-Asiatique viết tắt là IFA). Nguyên vãn bằng tiếng Pháp, ðây là bản dịch tiếng Việt của chính tác giả và cô Tãng Hồng Minh chú giải. Trong dịp khai giảng niên học này, IFA ðã mời một số đông các học giả,trí thức và ký giả tham dự. Sau bài diễn văn, có cuộc trao đổi rất thú vị. Xin nhắc lại, trong khoảng thời gian 1977-1992, tác giả làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique, viết tắt là CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), nên đã được các đồng nghiệp giúp đỡ, dùng hệ thống ADN để tìm lại nguồn gốc dân tộc Việt-Nam.

Chính với công trình nghiên cứu của tác giả trong thời gian 1977-1991, dùng hệ thống ADN phân biệt dân-tộc Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đã kết thúc cuộc tranh cãi 90 năm qua biên giới cổ của Việt–Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược lại với tất cả các thuyết từ trước đến giờ. Các thuyết này khẳng định người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người ở vùng Đông Nam Á đã đi lên phương Bắc thành người Hoa.

Sau khi bài diễn vãn này phổ biến (1991), có một số "học giả" vì không theo kịp đà tiến hóa của khoa học, đã lên tiếng chỉ trích chúng tôi. Biết rằng họ dốt nát quá, muốn giải thích cho họ, họ phải có một trình độ nào đó... vì vậy chúng tôi không trả lời. Phần nghiên cứu của chúng tôi quá dài, quá chuyên môn. Độc giả muốn tìm hiểu thêm có thể đọc công trình nghiên cứu dưới ðây: J.Y.CHU, cùng 13 nhà bác học Trung-quốc cũng nghiên cứu Di-truyền học ADN (DNA), công bố nãm 1998: The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 nãm 1998. Tài liệu khẳng ðịnh rằng nguồn gốc người Trung-hoa, Ðông Á, do ngýời Ðông-Nam-á ði lên, chứ không phải do ngýời Trung-hoa di cư xuống.

ALBERTO-PIAZZA (ðại học Torino, Ý): Human Evolution: Towards a genetic history of China, Proc.of Natl. Acad. Sci, USA, Vol 395, No 6707-1998.

LI YIN, Distribution of halotypes from a chrosmosomes 21 Region - distinguishes multiple

prehistotic human migrations - Proc.of Natl. Acad. Sci - USA, Vol.96 , 1999.

1

Yên-tử cý-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Về bài diễn vãn này, từ nãm 1991, có rất nhiều bản dịch sang nhiều thứ tiếng, ðãng trên nhiều báo khác nhau. Mỗi dịch giả lại tự ý lược ði, ðôi khi cắt mất nhiều ðoạn. Nay chúng tôi xin dịch nguyên bản, ðầy ðủ. Vì vậy độc giả thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn, xin lướt qua.

Trong khi diễn giả trình bầy, ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả thảo luận. Các bài trích đăng trước không ghi phần này. Để độc giả dễ theo dõi, cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép, chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ, thay vì ghi ở cuối bài.

Khi xuất bản lần thứ nhất², bộ Anh-hùng Bắc-cương của giáo-sý Trần, chúng tôi có cho ích một phần bài này in vào cuối quyển 4. Nay chúng tôi công bố toàn bộ tài liệu, lấy làm tài liệu chính thức và phủ nhận tất cả những bản do nhiều nơi phổ biến trước ðây?

Paris ngày 10-10-2001 Sở tu thư, viện Pháp-Á

2

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Kính thưa ông Viện–trưởng,

Kính thưa quý đồng nghiệp,

Kính thưa quý vị quan khách.

Các bạn sinh viên rất thân mến,

Tôi không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà khảo cổ, hay nhà chủng tộc học. Tôi chỉ là một thầy thuốc. Nhưng những may mắn ðến tiếp diễn trong suốt cuộc ðời, vô tình đã đưa tôi đến đây trình bày cùng quý vị về nguồn gốc, biên giới cổ của tộc Việt. Ở cuối giảng đường này tôi thấy có nhiều bạn trẻ bật cười. Tôi biết bạn bật cười vì đa số người ta đều than đời bất hạnh, toàn rủi ro. Còn tôi, tôi lại nói rằng suốt cuộc đời toàn may mắn. Tôi có thể nói thực với Quý-vị rằng, về phương diện nghiên cứu học hành, suốt ðời tôi,tôi có cảm tưởng tổ tiên ðã trải thảm cho tôi đi trên con đường vô tận đầy hoa. Nếu bạn chịu khó đọc bộ Sexologie médicale chinoise của tôi, phần bài tựa tôi có viết :

« Trong lịch sử cổ kim nhân lọai, nếu có người may mắn về phưõng diện nghiên cứu học hành, tôi ðứng ðầu. Nhýng nếu có ngýời bất hạnh nhất trong tình trường tôi cũng ðứng ðầu ».

Hôm nay tôi trình bày với Quý-vị về công cuộc đi tìm biên giới cổ của nước Việt-Nam và nguồn gốc tộc Việt, Quý-vị sẽ thấy tôi may mắn biết chừng nào, và Quý-vị sẽ thấy tộc Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Nhưng gần ðây, vì chiến tranh tiếp diễn trong hơn 30 nãm, khiến cho ðất nước chúng tôi ðiêu-tàn, và... hiện nước tôi là một trong bốn nước nghèo nhất trên thế giới.

I. SƠ TÂM VỀ TỘC VIỆT

Nãm lên nãm, tôi học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng chung cho hầu hết các nước vùng Á-châu Thái-bình dýõng (ACTBD). Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông tôi là một ðại thần của triều ðình Đại-Nam (tức Việt-Nam). Chế độ phong kiến của nước tôi đã chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị Hoàng-đế cuối cùng của Đại-Nam là Bảo Đại. Ngài vẫn còn sống ở quận 16 Paris.

Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho. Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học chữ Nho, tôi có một kho tàng vãn hóa vĩ ðại ðể ðọc, ðể thỏa mãn trí thức của tuổi thơ. Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nõi ðây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó nhý thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng ðã thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thi. Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Đại-học.

3

Yên-tử cý-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Chương trình giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh ; không bằng một phần trăm những gì tôi học ở nhà. Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn ðồng lớp về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như : Đại-Việt sử ký toàn thý (ÐVSKTT), An-Nam chí lýợc (ANCL), Ðại-Việt thông-sử (ÐVTS), Khâm-ðịnh Việt sử thông giám cương mục KÐVSTGCM), Ðại-Nam nhất thống chí(ÐNNTC). Ðại cương mỗi bộ sử ðều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam sau : « Vua Minh cháu bốn ðời vua Thần-Nông, nhân ði tuần thú phương nam, ðến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục. Vua lập ðài, tế cáo trời ðất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng : « Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy ðiều hiếu hoà mà ở với nhau. Tuyệt ðối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn ». Xét triều ðại Thần-Nông, khởi từ nãm 3118 trýớc Tây lịch, ðến ðây thì chia làm hai :

1. Thần-Nông Bắc.

Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch)

Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch)

Vua Ly (2795-2751 trước Tây-lịch)

Vua Du-Võng (2752-2696 trước Tây-lịch).

Ðến ðây triều ðại Thần-Nông Bắc chấm dứt, ðổi sang triều ðại Hoàng-ðế từ nãm giáp Tý (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời ðại Hoàng-ðế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tý-mã Thiên khởi chép quyển một là Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại Thần-Nông.

4

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

2. Triều ðại Thần-Nông Nam.

Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua nãm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh- Dương, lúc mười tuổi. Sau người Việt lấy nãm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho ðến nay (1991) là 4870 nãm, vì vậy ngýời Việt tự hào rằng ðã có năm nghìn năm văn hiến. (1) Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lý của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. Còn như ði xa hơn về những thời tiền cổ, thời ðồ ðá, ðồ ðồng, ðồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận ðến ở ðây.

Xét về cương giới cổ sử chép :

« Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương(2), ðặt tên nýớc là Xích-quỷ, ðóng ðô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tây. Vua Kinh-Dương lấy con gái vua Ðộng-ðình là Long-nữ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lãm. Thái-tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Ðế-Lai(3). Khi vua Kinh-Dương bãng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Vãn-Lang. Nước Vãn-Lang Bắc tới hồ Ðộng-ðình, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, ðông giáp biển Ðông-hải.) Cổ sử ðến ðây, không có gì nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép : « Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trãm trứng nở ra trãm con. Ngài truyền cho các hoàng tử ði bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nối . Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Ðộng-ðình.(Nay là Hồ-Nam, Quý-châu, Trung-quốc.)

Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận.(Nay là Vân-Nam và một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng Chiêm-thành.(Nay thuộc Việt-Nam, từ Thanh-hóa ðến Ðồng-nai.)

Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới nãm mươi lập ra vùng Lão-qua.(Nay là nước Lào và một phần Bắc Thái-lan.)

Hoàng-tử thứ nãm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng Nam-hải. (Nay là Quảng-ðông, và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.)

Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm.(Nay thuộc Quảng-tây, Trung-quốc.)

Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam.(Nay thuộc Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-bình.)

5

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân.(Nay thuộc Việt-Nam từ Ninh-bình tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh)

Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trãm lập ra vùng Giao-chỉ.(Nay là Bắc Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam thuộc Trung-quốc.)

Ngài hẹn rằng : Mỗi nãm các hoàng-tử phải về cánh ðồng Tương vào ngày Tết, ðể chầu hầu phụ mẫu ».

Một huyền sử khác lại thuật :

Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng :

« Ta là Rồng, nàng là loài Tiên ở với nhau lâu không ðược. Nay ta ðem nãm mươi con xuống nước, nàng ðem nãm mươi con lên rừng. Mỗi nãm gặp nhau tại cánh ðồng Tương một lần »

Các sử gia người Việt lấy nãm vua Kinh-Dương lên làm vua là nãm Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua Kinh-Dương với Công-chúa con vua Ðộng-ðình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cõ làm Quốc-mẫu. Cho ðến nay Quý-vị hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào : « Chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên. Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ».

Chủ ðạo của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin này.

Ghi chú của Tãng Hồng Minh,

Ký giả chuyên về Văn-minh Đông-á Jean Marc Decourtenet hỏi về đoạn này như sau:

« Thưa Giáo-sư, hiện Việt-Nam là nước theo chế ðộ Cộng-sản, liệu người Việt trong nước họ có cùng một niềm tin như người Việt hồi 1945 về trước cũng nhý người Việt hải ngoại hay không ? »

Trả lời :

« Những nhà lãnh đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam suốt từ năm 1930 đến giờ, không một người nào muốn dùng triết lý Marxisme, Léninisme để xóa bỏ niềm tin con Rồng cháu Tiên. Trái lại họ còn dùng niềm tin này để quy phục nhân tâm. Vì niềm tin này đã ăn sâu vào tâm não người Việt. Những người lãnh đạo chính trị Việt cả hai miền Nam-Bắc trong thời gian nội hiến 1945-1975 cũng không ai dám, không ai muốn, không ai đủ khả năng xóa bỏ niềm tin này. Người Việt có niềm tin vào Chủ-ðạo của mình. Họ xây đền thờ các vua Hùng ở Phú-thọ dường như ðã hơn nghìn năm. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch là người người ðều tụ tập về ðây ðể tưởng nhớ công ơn các vua Hùng ðã dựng nước. Trong thời gian chiến tranh (1945-1975) vì tình hình an ninh di chuyển khó khăn, vì tình hình kinh tế không cho phép, số người hành hương có giảm thiểu. Nhưng từ sau 1987, số người hành hương tăng vọt. Ngay ở ngoại quốc, người Việt lưu lạc khắp nơi, nhưng hằng nãm ðến ngày 10 tháng 3, lịch Á-châu, nơi nào họ cũng tổ chức giỗ tổ rất thành kính.

6

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam như Chủ-tịch Hồ Chí Minh, Chủ-tịch Trường Chinh; Tổng bí thư Lê Duẩn, Đỗ Mười; Thủ-tướng Phạm Văn Đồng v.v. đều hành hương ðền thờ vua Hùng, và ðọc diễn vãn ca ngợi công ðức Quốc-tổ nhý một hành ðộng thu phục nhân tâm. Kết lại dù ở trong nước hay ngoại quốc, hiện người Việt vẫn cùng một niềm tin như nhau."

Ghi của Tãng Hồng Minh dành cho người Việt. Theo sự tìm hiểu của Tăng Hồng Minh tôi, các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam, đã viếng đền Hùng là :

- Chủ-tịch Hồ Chí Minh, ngày 19-9-1954. 19-8-1962.

- Tổng bí thư Lê Duẩn, 5-5-1977.

- Chủ tịch nhà nước Trường Chinh 6-2-1959. 5-2-1978.

- Thủ tướng Phạm Vãn Ðồng 6-2-1969. 27-8-1978.

- Tổng bí thư Ðỗ Mười 27-4-1993.

Tôi xin trở lại với ðầu ðề,

3. Triều ðình, dân tộc.

Tôi đã trình bầy với Quý-vị về hai triều đại đầu tiên cai trị vùng Á-châu Thái-bình dương : Phía Bắc sông Trường-giang sau thành Trung-quốc. Phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan, sau thành Ðại-Việt. Hai triều ðại Thần-Nông Nam-Bắc cai trị dân chúng :

- Không có nghĩa là dân chúng cùng một chủng tộc ;

- Không có nghĩa là tộc Hoa, tộc Việt là một;

- Cũng không có nghĩa tất cả dân chúng tộc Hoa, tộc Việt ðều là huyết tộc của vua Thần-Nông.

- Trung-quốc, Ðại-Việt là anh em về phương diện chính trị. Giòng Thần-Nông cai trị vùng đất Trung-quốc, Đại-Việt là anh em, nhưng dân chúng không hoàn toàn là anh em. Dân chúng hai nước bao gồm nhiều tộc khác nhau như Mongoloid, Malanésien, Indonésien, Australoid, và cả Négro-Australoid...v.v.

- Người Hoa, người Việt nhân triều ðại Nam-Bắc Thần-Nông tổ chức cai trị, lập thành nước, mà tôn làm tổ mà thôi. Chứ hai vùng hồi ðó hàng nghìn, hàng vạn bộ tộc khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, văn hóa khác nhau.

7

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Sau này các vãn nhân người Hoa ở vùng lưu vực Hoàng-hà, lưu vực sông Hán, nhân có chữ viết, lại không ði ra ngoài, rồi tưởng tượng mà viết thành sách, tự cho mình là con trời, tự trời mà xuống; sau đó đem văn minh, truyền bá ra khắp thế giới (Thiên-hạ), người sau lấy làm chủ ðạo của họ. Tôi sẽ bàn ðến ở dưới. Tôi xin cử một tỷ dụ, ðể Quý-vị nhìn rõ hơn. Ông Washington là vị Tổng-thống ðầu tiên lập ra nýớc Hoa-kỳ, chứ ông không phải là tổ của các sắc dân ðến từ châu Phi, châu Âu, cũng như dân bản xứ. Hai vị vua Nghi, vua Kinh Dương không phải là tổ huyết tộc của người Hoa, người Việt. Hai ngài chỉ là tổ về chính trị mà thôi.

II. CHỦ ÐẠO TRUNG QUỐC, VIỆT-NAM.

Như Quý-vị đã thấy, mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệu. Người Pháp cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật týợng trýng là con gà trống. Ngýời Anh lấy biểu hiệu là con sư-tử. Ngýời Hoa-kỳ lấy biểu hiệu là con chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con Rồng. Người Việt lấy biểu hiệu là con Rồng và con chim Âu. Gốc biểu hiệu này lấy từ huyền sử vua Lạc-Long là loài rồng, công-chúa Âu-Cơ là loài chim. Người Do-thái họ tự tin rằng họ là giống dân linh, ðược Chúa chọn. Vì vậy, sau hai nghìn năm mất nước, họ vẫn không bị đồng hóa. Khi tái lập quốc, với dân số bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với bao cuộc tấn công để tồn tại. Đó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân được Chúa chọn. Tôi xin nói rõ về chủ đạo của Trung-quốc và Việt-Nam. Như Quý-vị đều biết, hiện Trung-quốc, Việt-Nam đều là những nước theo chủ nghĩa Cộng-sản, ðặt cãn bản trên thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels. Chủ thuyết này ðến Trung-quốc, Chủ-tịch Mao Trạch Ðông biến thể ði thành Maoisme. Tại Việt-Nam, người mang chủ thuyết Marx, Engels vào là Chủ-tịch Hồ Chí Minh ; ông ðược ðào tạo tại Liên-sô, vì vậy chủ thuyết của ông phảng phất Léninisme, pha thêm Việt-tính do ông tạo ra. Dường như hiện nay trên khắp thế giới, kể cả Liên-bang Sô-viết chỉ Việt-Nam là quốc gia duy nhất còn duy trì tượng Lénine tại một công viên lớn của Thủ-ðô (Hà-nội). Theo như dự ðoán của chúng tôi thì Trung-quốc, cũng như Việt-Nam cùng nhận thấy thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels không còn hợp thời, không còn ích lợi nữa. Cả hai đang từng bước, từng bước trở lại với chủ đạo của mình. Xin các vị cứ chờ, không lâu đâu cả hai sẽ hoàn toàn trở về với kho tàng quý báu của nước mình! Tôi thấy Trung-quốc trở lại quá mau, quá mạnh. Con rồng Trung-quốc mà Hoàng-đế Napoléon bảo rằng hãy để nguyên cho nó ngủ. Bằng như nó thức dậy, nó sẽ làm rung chuyển thế giới. Thưa Quý-vị, con rồng Trung-quốc đã thức dậy rồi, nhưng nó chưa làm rung ðộng thế giới!

8

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Ghi chú của Tãng Hồng Minh (ngày 19-8-2000, nhân ðọc lại bài này). IFA trao cho tôi dịch hầu hết những bài diễn vãn của các nhà lãnh đạo Việt-Nam từ 1992 đến nay. Tôi thấy ông Tổng-bí-thư Đỗ Mười trong các diễn văn kỷ niệm 19-8 cũng như ngày Quốc-khánh, những từ ngữ ông dùng cũng như nội dung, ngày một xa Marx, Engels, Lénine. Nếu thời kỳ ông Lê Duẩn cầm quyền, khắp Việt-Nam ðều thi nhau phá bỏ hết phong tục, truyền thống, nhất là phá các di tích tôn giáo bao nhiêu; thì bây giờ hầu hết các truyền thống dân tộc đều được phục hồi ở cấp xã. Niềm tin (chủ đạo) của hạ tầng hầu như trở lại thời kỳ trước 1945.

1.- Chủ đạo của Trung-quốc.

Người Hoa thì tin rằng mình là con trời. Cho nên trong các sách cổ của họ, vua được gọi là Thiên-tử, còn các quan thì luôn là người nhà trời xuống thế phò tá cho vua. Chính niềm tin đó cùng với văn minh Hoa-hạ, văn minh Nho-giáo đã kết thành chủ-đạo của họ. Cho nên người Hoa dù ở ðâu, họ cũng có một tổ chức xã hội riêng, sống với nhau trong niềm kiêu hãnh con trời. Cho dù họ lưu vong ðến nghìn năm họ cũng không bị đồng hóa, không quên nguồn gốc. Cũng chính vì vậy, mà từ một tộc Hoa nhỏ bé ở lưu vực sông Hoàng-hà, họ ðánh chiếm, ðồng hóa hàng nghìn nước xung quanh, và nước của họ rộng lớn như ngày nay. Hầu hết những nước khác ðến cai trị họ, ðều bị họ ðồng hóa. Mông-cổ, Mãn-thanh bị đồng hóa, bị mất hầu hết lãnh thổ. Nhưng chủ-ðạo và sức mạnh của ngýời Trung-quốc phải ngừng lại ở biên giới Hoa-Việt.

Ghi chú của Tăng Hồng Minh

Giáo sư Nhân chủng học Van Gotensbert (Hòa-lan) hỏi :

« Tôi thấy người Hoa, kiều ngụ ở các nước Á-châu, châu Phi cũng nhý tại Hoa-kỳ, Canada, Úc cùng một số các nước Âu-châu, dù trải qua mấy trãm nãm, họ vẫn duy trì được dòng giống và không bị đồng hóa, đó là nhờ chủ đạo tự tin là con trời của họ. Thế nhưng tại sao, họ mới tới Pháp từ sau 1975, dưới danh nghĩa tỵ nạn Việt, họ bị ðồng hóa rất mau. Không lẽ chủ ðạo của Trung-quốc lại bị chủ ðạo của Gaulois xóa bỏ mau chóng như vậy sao ? ».

Ðáp :

« Thưa Giáo-sư, ðiều Giáo-sư hỏi, cũng là ðiều tôi chú tâm nghiên cứu từ 1975 ðến giờ. Khi ngýời Hoa tới bất cứ nước nào, họ cũng bị kỳ thị không ít thì nhiều, họ phải sống quần tụ với nhau, giúp đỡ nhau, bảo vệ nhau. Bên cạnh đó họ có niềm tin là con trời, tự hào về nền văn minh cổ của họ. Do đó họ tổ chức thành xã hội riêng : Giáo dục con em, thương mại, sinh hoạt vãn hóa, tương trợ. Vì vậy họ giữ được bản sắc Trung-quốc của họ. Còn khi người Hoa tới Pháp, thì người Pháp với tinh thần cởi mở, với tính hiếu hòa, không kỳ thị, lại tận tình giúp đỡ kẻ tha hương hơn chính người Hoa giúp nhau, thành ra người Hoa không cần sống quần tụ. Họ sống lẫn với người Pháp. Con em người Hoa ngày ngày tới trường ðược bạn học, ðược thầy yêu thương, chúng thu nhập vãn hóa Pháp rất mau. Trong khi cha mẹ chúng phải làm việc không có thời giờ dạy con cái về vãn hóa Trung-quốc. Do vậy chỉ trong vòng mấy năm là trẻ Hoa thành trẻ Pháp: Tiếng nói, cách suy tư, nếp sống, trừ...ẩm thực.

9

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Tôi xin nói một câu thẳng thắn, mong các vị ðừng buồn: trên khắp thế giới, khi người Việt tỵ nạn ðến ðịnh cư bất cứ nơi nào, ðều gặp nạn kỳ thị. Nước Pháp là nước duy nhất dân chúng không kỳ thị mà lại còn tận tình giúp đỡ. Do vậy nhiều người tỵ nạn đến các nước khác của châu Âu, rồi cũng tìm định cư ở Pháp, dù ở Pháp khó kiếm việc làm.Chính phủ và nhân dân Pháp biết thế, nên cánh cửa tự do không hề đóng lại. Tôi xin trở lại với đầu đề.

Chủ đạo của Trung-quốc bắt nguồn từ thời nào ? Từ sách nào ? Do ai khởi xướng ? Ðầu tiên là Kinh-thư, không rõ tác giả là ai, xuất hiện trước Khổng-tử, thiên Vũ-cống gọi thế giới chúng ta ở là Thiên-hạ (Dưới trời). Thời cổ, các vãn nhân Trung-quốc không ði xa hơn vùng sông Hán, sông Hoàng-hà, họ tưởng ðâu thế giới chỉ có Trung-quốc, nên gọi Trung-quốc là Thiên-hạ. Thiên-hạ là Trung-quốc, tức là nước ở giữa. Bốn phía Trung-quốc là biển, nên gọi Trung-quốc là hải-nội, các nước khác là hải-ngoại. Kinh-thư thiên Vũ-cống chia Thiên-hạ thành 9 châu : Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Lại dùng khoảng cách, chia làm nãm cõi, gọi là Ngũ-phục, mỗi cõi cách nhau năm trăm dặm (250 km). Ngũ-phục là Điện-phục, Hầu-phục, Tuy-phục, Yêu-phục, Hoang-phục. Trung-ương là kinh ðô của nhà vua.

- Ðiện-phục ở ngoài kinh ðô nãm trãm dặm.

- Hầu-phục ở ngoài cõi Điện-phục năm trăm dăm : trong năm trăm dặm cõi Hầu thì khoảng cách một trăm dặm để phong thái ấp cho các quan khanh, đại phu. Hai trăm dặm nữa phong cho các tước Nam. Hai trăm dặm nữa phong cho các chư Hầu.

- Kế tiếp Hầu-phục là Tuy-phục. Trong năm trăm dặm cõi Tuy thì ba trăm dặm là nơi truyền bá vãn chương, giáo hóa quần chúng ; còn hai trăm dặm để hưng thịnh võ bị, bảo vệ quốc gia.

- Sau cõi Tuy là cõi Yêu. Trong ba trăm dặm cõi Yêu là nơi cho rợ phương Ðông ở. Hai trãm dặm còn lại là nơi ðể ðầy tội nhân.

- Cõi cuối cùng là cõi Hoang, năm trăm dặm. trong ba trăm dặm gần dành cho mọi phương Nam ở, hai trãm dặm cuối cùng ðể ðầy người có tội nặng.

- Ra khỏi cõi Hoang là... biển.

Với lối phân chia lẫm cẩm, hài hước ấy, nãm nghìn năm qua, dân Trung-quốc coi là Kinh, tức những gì không thể thay đổi, rồi trở thành chủ đạo của tộc Hoa.

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ghi chú của Tăng Hồng Minh

Giáo-sư khoa Chính-trị học J.Fr Longanacre (USA) hỏi :

- Thế cái chủ đạo mà người Trung-quốc tự thị là con trời phát xuất từ ðâu ? Vào thời nào ?

Ðáp :

- Thưa Giáo-sư, cũng phát xuất từ Kinh-thư, thiên Thái-thệ : Trời sinh ra dân, Ðặt ra vua, ra thầy, Ðều ðể giúp Thượng-ðế, Vỗ về dân bốn phương.

Giáo-sư Mohamed Khalid (Nhân chủng học Iran) hỏi:

- Tôi nghiên cứu hầu hết các thuyết nói về nguồn gốc tộc Hoa. Tôi thấy dường như người ta ðều cho rằng tộc Hoa tự sinh ra, rồi di chuyển ði các nõi: Ra biển thành người Nhật, Nam-dương, Phi-luật-tân. Xuống Nam thành người Việt, Miên, Lào, Thái, Miến. Lên Bắc thành Ðại-hàn, Mông-cổ, sang phía Ðông-Bắc thành người Trung Ðông. Có ðúng thế không?

Ðáp:

- Thưa Giáo-sư họ suy nghĩ như vậy là sai hoàn toàn. Họ cãn cứ vào truyền thuyết mà nói như vậy. Truyền thuyết cãn cứ vào thư tịch cổ, nên sai, hoàn toàn sai. Vì thư tịch cổ do những vãn nhân không ði ra ngoài, ngồi ở vùng lưu vực Hoàng-hà, tưởng tượng mà viết ra. Cả hội trường cùng im lặng.

- Nếu nói rằng người Trung-hoa nhờ có tinh thần thực dụng, nhờ có chữ viết, nhờ vãn hóa Nho-giáo, rồi trở thành hùng mạnh, rồi ðem quân ðánh chiếm các nước nhỏ xung quanh, tạo thành một nước vĩ ðại như ngày nay là ðúng. Còn như bảo rằng họ là con trời hoặc họ tự sinh ra, rồi di chuyển ðinh sinh sống các nơi... thì sai. Tôi sẽ dẫn chứng ở dưới bằng ADN: tộc Hoa, do giống người từ Ðông Nam-á ði lên. Mà những người Ðông Nam-á có gốc từ Phi-châu. Họ ðến Nam-á từ lâu. Rồi tộc ðó lại kết hợp với những người cũng từ châu Phi ði lên châu Âu, vào Bắc Trung-quốc khoảng 15.000 nãm trước.

Chúng ta trở lại với ðầu ðề.

Tiếp theo Kinh Thư, sách Tả-truyện, Tả Khâu Minh cũng viết : Trời làm chủ Thiên-hạ, Vua nối trời mà cai trị. Kẻ chịu mệnh trời mà cai trị là Thiên-tử.

Ðến Mạnh-tử, thiên Ly-lâu viết: Thiên hạ là quốc gia, Gốc của thiên hạ là quốc, Gốc ở quốc là gia. Vì ảnh hưởng của sách cổ nên người Hoa mới nảy sinh ra tư tưởng « Nội Hoa hạ, ngoại Di, Ðịch ». Nghĩa là trong Ngũ-phục thì là chốn văn minh, còn ngoài ra thì là mọi rợ.

11

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Kinh-lễ, thiên Vương-chế nói : Ðông phương viết Di, Tây phương viết Nhung, Nam phương viết Man, Bắc phương viết Ðịch.

Nghĩa là : Người ở Ðông phương gọi là Di, Tây-phương là Nhung, Nam phương là Man, Bắc phương là Ðịch. Di, Nhung, Man, Ðịch là những từ ðể chỉ mọi rợ. Bốn chữ ðó khi viết thì có bộ trùng, bộ thú, bộ khuyển ở cạnh. Có nghĩa các sắc dân đó là cầm thú, côn trùng, chó mèo ! Ngay đối với người Âu, Mỹ hồi thế kỷ thứ 20 về trước, người Hoa gọi là Bạch-quỷ ! (Thính giả cười ồ lên !) . Họ còn phân ra người Âu là Tây-dương Quỷ. Người Mỹ là Mỹ-lan-tây Quỷ. Người Anh là Hồng-mao Quỷ . Nguời Nga là La-sát Quỷ. Ghi chú của Tãng Hồng Minh Sinh viên Marta Maria Fernandes hỏi :

« Thưa Giáo-sư, về Trung-quốc, tiếng Pháp gọi là La Chine, người Trung-quốc là Chinois. Còn sách của Chinois ở lục địa thì họ xưng là Trung-quốc ; của người ở Hương-cảng, Ðài-loan thì họ xưng là Trung-hoa. Ðôi khi họ xưng là Trung-nguyên, rồi Hoa-hạ. Tôi ðọc một số sách bằng Việt ngữ thì người Việt gọi là chữ Hán chứ không gọi là chữ Hoa, hay chữ Trung-quốc; và người Việt khi thì gọi Chinois là người Hoa, khi thì gọi là người Tầu. Như trên Giáo-sư ðã giải thích từ Trung-quốc. Còn từ Hoa ở đâu mà có ? Tại sao lại có những từ phức tạp như vậy ? »

Ðáp :

« Như tôi ðã trình bầy : Với lối phân chia Cửu-châu, Ngũ-phục ; trong năm cõi trên thì cõi Điện là vùng bao quanh Thiên-hạ. Phía trong cõi Điện là Giao. Trong Giao một trăm dặm là Quốc. Trong Quốc có thành gọi là Đô. Đô là nõi vua ở. Vì vậy họ mới xưng là Trung-quốc, tức nước ở giữa Thiên-hạ. Chữ Trung-quốc ở ðây có tính chất chính trị, và ðịa lý. Còn từ Trung-nguyên có nghĩa là vùng đất ở giữa. Trung-nguyên chỉ có nghĩa địa lý mà thôi. Sau cuộc cách mạng Tân-Hợi (1911), Bác-sĩ Tôn Văn và Quốc-dân đảng lên nắm quyền, lấy quốc danh là Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc, gọi tắt là Trung-Hoa Dân-quốc từ ngày 1-1-1912. Hiện chính phủ Đài-loan vẫn duy trì quốc danh này. Hồng-quân tiến chiếm được Bắc-kinh, lập nền cai trị Trung-nguyên, họ xưng là Cộng-hòa nhân dân Trung-quốc gọi tắt là Trung-quốc kể từ ngày 1-10-1949.

12

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Còn nguồn gốc từ Hoa thì lúc đầu Trung-quốc chỉ là mấy bộ tộc ở vùng Ung-châu, Lương-châu (Ghi chú xin ðừng lầm Ung này với Ung-châu thời Tống, nay là Nam-ninh thuộc Quảng Tây). Phía Ðông Nam là Hoa-âm, Ðông Bắc là Hoa-dương, giới hạn bởi Hoa-sơn. Vì vậy họ mới xưng nước là Hoa. Sau vì có văn minh, họ chiếm, đồng hóa các vùng xung quanh, mà có 9 châu như trong Kinh-thư. Hoa là tên nước chứ không phải là tên chủng tộc. Còn từ Hoa Hạ thì do con sông Hạ-thủy khởi nguồn từ Ung-Lương, nên lấy từ Hạ-thủy làm tên tộc. Hạ là tên tộc, không phải là tên nước. Sau này người ta ghép chữ Hoa là nước với chữ Hạ là tộc thành từ Hoa-Hạ vừa ðể biểu tượng cho nước, vừa biểu tượng cho tộc. Cao-tổ nhà Hán là Lưu Bang, khởi nghiệp từ sông Hán-thủy, nên xưng là triều Hán (207 trước Tây-lịch). Nãm 179 trước Tây-lịch, Triệu Ðà chiếm Âu-lạc (tên cũ của Việt-Nam). Y là thần tử triều Hán, cấm dân Việt học chữ Khoa-ðẩu của tộc Việt, bắt học chữ Hoa. Do vậy người Việt gọi chữ Hoa là chữ Hán. Người Việt gọi người Chinois là người Hoa, người Trung-quốc là lẽ thường. Còn danh tự người Tầu thì bắt nguồn từ những triều đại Trung-quốc bị sụp đổ, các di thần dùng tầu vượt biển sang Việt Nam xin kiều ngụ, nên người Việt gọi họ là người Tầu ».

Chúng ta trở lại với ðầu ðề.

Từ nguồn gốc kinh ðiển cổ, người Hoa tự cho mình là con trời (Thiên-tử), cho nên hầu hết các tiểu thuyết của họ thì vua luôn có tướng tinh là con rồng vàng, là Thanh-y ðồng tử trên thượng giớí giáng sinh. Các quan võ thì luôn là Vũ-khúc tinh quân, các quan văn là Văn-khúc tinh quân. Quần thần thì là Nhị-thập bát tú giáng hạ. Với chủ đạo này, họ đã đánh chiếm mấy trăm nước tạo thành một Trung-quốc vĩ đại.

2.- Chủ đạo của Việt-Nam.

Như trên đã trình bầy, với nguồn gốc lập quốc, ngýời Việt có niềm tin mình là con của Rồng, cháu của Tiên, cho nên người Việt có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Truyền thống sang thế kỷ thứ 2 trước Tây-lịch lại thêm vào tinh thần của vua An-Dương. Sang ðầu thế kỷ thứ nhất, nổ ra cuộc khởi nghĩa của một phụ nữ, và 162 anh hùng, trong ðó có hơn trãm là nữ. Cuộc khởi nghĩa ðuổi ngoại xâm Trung-hoa, lập lên triều ðại Lĩnh-Nam. Phụ nữ ðó là vua Trưng. Nối tiếp mỗi thời ðại ðều có tinh thần riêng, tạo thành niềm tin vững chắc. Tộc Việt ðã chiến đấu không ngừng để chống lại cuộc Nam tiến liên miên trong hai nghìn năm của người Hoa. Bất cứ thời nào, người Việt dù bị phân hóa ðến ðâu, nhưng khi bị ngoại xâm, họ lập tức ngồi lại với nhau ðể bảo vệ quốc gia. Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt, hễ ai dựa theo chủ ðạo tộc Việt, ðều thành công trong việc giữ ðược quyền cai trị dân. Gần ðây nhất, người Việt bị các thế lực Quốc-tế, gây ra cuộc chiến tranh tương tàn khủng khiếp (1945-1975). Nhưng nay, Việt-Nam ðang trên ðà phục hưng chủ ðạo. Ý tôi muốn nói sự cố gắng phi thường

13

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

của hơn hai triệu ngýời Việt ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam, đã là bó đước sáng chuyển chủ đạo trở về nước mình. Trong thời gian 1954-1975, miền Bắc theo chế độ Cộng-sản, theo chủ thuyết Quốc-tế. Nhưng họ biết khai thác cái chủ đạo của Việt-Nam, họ huy động được tinh thần yêu nước của dân tộc, nên cuối cùng họ chiến thắng. Cũng tiếc thay, những người cầm quyền miền Nam từ 1963-1975, không biết khai thác lòng yêu nước của dân tộc, lại chấp nhận cho quân ðội Hoa-kỳ và ðồng minh nhảy vào vòng chiến, việc này có khác gì quỳ gối, trao ngọn cờ chính nghĩa cho miền Bắc! Tôi nghĩ những người lãnh đạo miền Nam như ông Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, cho đến giờ này (1992) chưa từng biết gì về kho tàng lòng yêu nước của người Việt, lại cũng chưa từng nghe, từng nói ðến chữ chủ ðạo tộc Việt bao giờ. Trước họ, cố Tổng-thống Ngô Ðình Diệm (1954-1963), vì biết rõ chủ đạo tộc Việt. Ngài từ chối không cho Hoa-kỳ đổ quân vào Việt Nam, mà đang là một đồng minh của Hoa-kỳ, Ngài đã trở thành kẻ thù của Hoa-kỳ, bị Hoa-kỳ giết hết sức thảm khốc.

III. ĐI TÌM LẠI NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT.

Năm trước đồng nghiệp của tôi đã giảng cho các bạn sinh viên hiện diện các giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, bao gồm :

1.- Thuyết của giáo sư Léonard Aurousseau về cuộc di cư của người Ý-Việt hay Ngô-Việt sang Âu-Lạc.

2.- Thuyết của Claude Madroll về cuộc di cư của người Mân-Việt sang Âu-Lạc.

3.- Thuyết của học giả Ðào Duy-Anh, Hồ Hữu-Tường về cuộc di cư do thời tiết của người Việt từ Bắc xuống Nam.

Tất cả các thuyết này ðều cãn cứ vào những thư tịch cổ Trung-quốc, Việt-Nam. Mà những thư tịch này không có một biện chứng khoa học nào cả. Cuối cùng các giáo sư ðồng nghiệp ðã nhận định rằng : Nhờ vào khoa khảo cổ, nhờ¨¨ vào hệ thống khoa học DNA, từ nay không còn những giả thuyết về nguồn gốc tộc Việt nữa, mà chỉ còn lại công cuộc nghiên cứu của tôi, rồi kết luận :

14

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

« Thoạt kỳ thủy, trên vùng ðất thuộc lãnh thổ Trung-quốc, Việt-Nam hiện tại: Giống người ðã từ châu Phi đến bằng hai đường. Một là đường Nam-á, đến Đông Nam-á, ngược lên vùng Hoa Nam. Hai là từ châu Phi, tới châu Âu, rồi sang Bắc Trung-quốc. Cuối cùng cả hai giống người hòa lẫn với nhau trên lãnh thổ Trung-quốc. Còn trong vòng 5000 năm trước Tây lịch cho đến nay, thì tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía nam sông Trường-giang, Đông tới biển, Tây tới Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-lan. Ngýời Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam. Ngýời Mân-Việt ði xuống Giao-chỉ. Ngýời Việt di cư từ nam sông Trường-giang tránh lạnh xuống Bắc-Việt ðều ðúng. Ðó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lãnh thổ của họ, như cuộc di cư từ Bắc vào Nam nãm 1954 ; chứ không phải họ là người Trung-quốc di cư xuống Nam, lập ra nước Việt. »

Chính vì lý do dùng hệ thống ADN biện biệt tộc Hoa, tộc Việt, nên tôi được mời đến đây đọc bài diễn văn khai mạc niên khóa này. Sau đây tôi trình bầy sơ lược về công trình nghiên cứu đó. Tôi xin nhắc lại, tôi chỉ là một bác sĩ y-khoa, cho nên những nghiên cứu của tôi đặt trên lý luận thực nghiệm, cùng lý luận y-khoa, nó hơi khác với những gì mà các bạn đã học.

Ghi chú của Tăng Hồng Minh

Sinh viên Vũ-thị Thu-Dung hỏi:

- Thưa Thầy, con có ðọc một bộ sách của nhà vãn Bình Nguyên Lộc nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trong bộ sách đó, ông khẳng định rằng người Việt gốc từ Mã-lai. Xin Thầy cho biết ý kiến?

- Tôi chưa ðọc bộ sách ðó, vả có ðọc tôi cũng không thể ðem ra bàn luận ở ðây.

Giáo-sư Viện-trưởng:

- Tôi xin bổ túc lời diễn giả. Ban tu thư của IFA sưu tầm tất cả những thư tịch nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trước sau có 34 nguười ðã trình bầy. Nhưng chỉ những tác giả sau ðây ðược ghi vào album nghiên cứu:

- Edouard Chavannes trong bản dịch bộ Sử-ký của Tý Mã Thiên.

- Leonard Aurousseau trong bài nghiên cứu "La première conquête chinoise des pays anamites" đăng trong tạp chí của trường Viễn-đông bác cổ của chúng tôi tại Hà-nội (ý chỉ nước Pháp), ký hiệu BEFEO XXIII. 138-244.

- Claude Madrolle, trong bài Le Tonkin Ancien đăng trong BEFEO XXXVII 264-332.

- Lê Chí Thiệp, trong Văn-hóa nguyệt san (VNCH) số tháng 3-4 năm 1959.

- Đào Duy Anh, trong Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, được ông Hồ Hữu Tường cổ võ trong bộ Tương lai vãn hóa Việt-Nam.

- Gần ðây, giáo sý Nguyễn Khắc Ngữ trong bộ Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, xb nãm 1985 ở Canada.

15

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

- Một số các bài của giáo sý Lương Kim Ðịnh, Nguyễn Ðãng-Thục và Tiến-sĩ Thái Vãn Kiểm, hội viên Hàn-lâm-viện Hải-ngoại của Pháp-quốc.. Một số tác giả viết chỉ với mục ðích khoa trương, lập dị, hoặc không có cãn cứ, hoặc thiếu kiến thức, chúng tôi không ghi vào thư mục nghiên cứu, nên Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ không tham khảo, và dĩ nhiên không ðem ra bàn ở ðây:

- Paul Francastel trong Origine du Việt-Nam, France Asie xb.

- Nguyễn Phương trong Tiến trình hình thành dân tộc Việt-Nam, tạp chí Đại-học Huế tháng 4 năm 1963.

- Bình Nguyên Lộc trong tác phẩm mà em đã đọc.

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong việc đi tìm nguồn gốc tộc Việt, tôi đã dùng phýõng pháp y-khoa nhiều nhất, và phương pháp khoa học mới ðây. Tôi ðã được giáo sư Tarentino về khoa Anatomie của Ý và giáo sư sinh vật Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp ðỡ. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng trong khoảng 5000 trước Tây-lịch, lãnh thổ tộc Việt nằm từ phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan. Phía Tây tới tỉnh Tứ-xuyên Trung-quốc , phía Ðông tới biển Nam-hải. Nghĩa là bao gồm toàn bộ Hoa-Nam, và Ðông-dương.

1. Dùng biện chứng y-khoa vào khảo cổ.

Biện chứng cãn bản của người nghiên cứu y-khoa là :

« Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do »

Biện chứng này ðã giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng. Như tôi ðã trình bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân ðều theo ðó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những ðền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn phổ kể sự tích các ngài. Vì theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học giả đi tiên phong, nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ qua.

Tôi lại suy nghĩ khác :

« Không có nguyên do , sao có chứng trạng ? ».

Vì vậy tôi đã tìm ra rất nhiều điều lý thú. Tỷ dụ : Bất cứ một nhà nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An-Dương cũng cho rằng chuyện thần Kim-quy do vua móng làm nỏ bắn một lúc hàng nghìn mũi tên khiến Triệu-Đà bị bại là hoang đường, là ma trâu đầu rắn. Nhưng tôi lại tin và cuối cùng tôi tìm ra sự thật. Hồi ấy Cao Cảnh hầu Cao Nỗ đã chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày nay. Tôi cũng tìm ra kích thước của ba mũi tên ðồng của nỏ này.(4)

16

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Trước tôi ðã có các nhà khảo cổ căn cứ vào xương sọ tìm được tại Trung và Bắc-phần (70 cái). Trong đó có 38 cái do người Pháp sưu tầm thuộc thời đại Đồ-đá, thì 29/38 cái được kết luận là thuộc chủng loại Malanésien, Indonésien, Australoide hay Nam-á. Với 29 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể. Gần đây các học giả Việt-Nam lại tìm ra 32 xương sọ, thuộc thời ðại Ðồ-sắt (1000 nãm trýớc Tây-lịch ðến 300 sau Tây-lịch), thì 22/27 thuộc chủng loại Mongoide. Với 32 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể tộc Việt thuộc chủng loại Mongoide.

Những tác giả trên đã căn cứ vào chỉ số xương sọ mà kết luận. Nhưng y học ðã tiến bộ, căn cứ vào chỉ số xương sọ ðể ðịnh nguồn gốc ðã bị đánh đổ. Nguyên do : Khi con ngýời di cư ðến vùng khác, bị khí hậu, bị nước uống, bị thực phẩm làm thay ðổi xương sọ. Chúng tôi dùng hệ thống ADN, hệ thống sinh học mới nhất thử nghiệm ngay những ngýời ðang sống của 35 dòng họ tại Hoa Nam với Việt-Nam, rồi với những dòng họ khác tại Hoa Bắc. Lại cũng thử nghiệm những bộ xương của ba vùng trên, không phân biệt thời gian. Cuối cùng chúng tôi tìm ra sự khác biệt của những tộc Hoa Nam, Việt Nam với những tộc Hoa Bắc, và đi đến kết luận : lãnh thổ Văn-lang, tới hồ Động-đình. (5)

Ghi chú của Tăng Hồng Minh

Một quan khách, nữ giáo sư khoa Thiên-văn học tên Madeleine Chevalier hỏi:

- ADN là gì? Tôi nghe nói, cũng như ðọc trên báo hoài, mà không biết rõ chi tiết cái hệ thống này?

Trần Đại-Sỹ:

- Tôi xin nhường lời cho Giáo-sư Vareilla Pascale chuyên khoa về vấn đề này trả lời. Vareilla Pascale:

- Cảm ơn Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ ðã cho tôi danh dự trả lời Giáo-sư Chevalier. ADN viết tắt của từ Acide désoxyribonucléique, tiếng Anh là Deoxyribosenucleic acide, viết tắt là DNA. ( Phần này khá dài, khoảng 20 trang A4, chúng tôi không dịch hết, vì quá chuyên môn, chỉ dành cho sinh viên y khoa.)

2. Những vấn đề.

Ranh giới phía Nam của nước Văn-lang tới nước Hồ-tôn đã quá rõ ràng. Ranh giới phía Tây với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới phía Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc qủa tới hồ Ðộng-ðình, thì ranh giới phía Tây chắc phải giáp Ba-thục và phía Đông phải giáp Đông-hải. Có thực như thế không? Vì vậy tôi đi tìm ranh giới phía Bắc. Dưới ðây là huyền thọai, huyền sử mà tôi ðã bấu víu vào để đi nghiên cứu. Tôi cần tra cứu cho ra:

17

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Vấn ðề thứ nhất,

Cổ sử Việt ðều nói rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Ðộng-ðình. Có thực nhý vậy không? Truyền thuyết nói Ðế-Minh lập ðàn tế cáo trời ðất, rồi chia thiên hạ làm hai. Từ Ngũ-lĩnh về Bắc cho Ðế-Nghi, sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam truyền cho vua Kinh-Dương sau thành Văn-lang. Núi Ngũ-lĩnh, hồ Ðộng-ðình nay vẫn còn. Nhýng liệu có di tích gì chứng minh chăng? Tôi phải đi tìm Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình.

Vấn đề thứ nhì,

Truyền thuyết nói : Sau khi vua Kinh-Dương, vua Lạc-Long kết hôn, ðều lên núi Tam-sơn trên hồ Ðộng-ðình hưởng thanh phúc ba nãm. Lúc ngài lên núi có chín vạn hoa tầm xuân nở. Tôi phải ði tìm núi Tam-sơn ở hồ Ðộng-ðình. Liệu trên núi này có di tích gì về cuộc tình năm nghìn năm trước chăng?

Vấn đề thứ ba,

Truyền sử nói : Sau khi Quốc-tổ Lạc-Long, Quốc-mẫu Âu-Cơ cho các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, dặn rằng : Mỗi năm về Tương-đài chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần. Cổ sử nói : Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, hẹn mỗi năm một lần gặp nhau ở cánh đồng Tương. Cánh đồng Tương ở đâu? Nếu có cánh đồng Tương thì cũng có thể kết luận rằng biên giới nước Vãn-lang tới hồ Ðộng-ðình. Tôi phải đi tìm.

Vấn đề thứ tư, chứng tích thứ nhất xác định:

Bộ Sử-ký của Tư-mã, Nam-Việt liệt truyện có thuật việc: vua nước Nam-Việt là Triệu-Ðà thường ðem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán là Nam-quận, Trường-sa (Mậu-Ngọ 183 trước Tây-lịch). Như vậy biên giới Nam-Việt (Tức Việt-Nam) với Hán ( Tức Trung-quốc) ở vùng này. Ngày nay Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam, nằm ngay Nam ngạn sông Trường-giang.

Vấn ðề thứ nãm,

Huyền sử nói rằng : trong cuộc khởi nghĩa của vua Trưng:

- Khi Trưng Nhị, Trần Nãng, Phật Nguyệt, Lại Thế-Cường, Trần Thiếu-Lan ðem quân ðánh Trường-sa (39 sau Tây-lịch), thì nữ týớng Trần Thiếu-Lan tử trận, mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang (sự thật ðó là Tương-giang thông với hồ Ðộng-ðình).

- Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam và Hán (42 sau Tây-lịch). Tướng Lĩnh-Nam tổng trấn hồ Ðộng-ðình là Phật Nguyệt, tướng Hán là Mã Viện, Lýu Long (40 sau Tây-lịch).

18

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Có thực thế không? Có hai trận Trường-sa, hồ Ðộng-ðình không? Nếu có thì ranh giới thời Lĩnh-Nam (40-43 sau Tây-lịch) quả tới hồ Động-đình.

Vấn đề thứ sáu,

Năm 42, sau Tây-lịch, ba tướng thống lĩnh Kỵ-binh thời vua Trưng là Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang, đánh nhau với quân Hán tại Bồ-lăng thuộc Tượng-quận, vì quân ít, thế cô, ba ông tự tử. Vậy Bồ-lăng ở đâu? Có trận này không? Nếu có trận này thì ranh giới Lĩnh-Nam phía Tây quả tới Ba-thục (Tứ-xuyên.)

Thưa Quý-vị,

Nhưng các sử gia gần ðây (1900-1975) ðều ðặt nghi vấn rằng : Làm gì biên giới thời Văn-Lang rộng như vậy? Nếu có chỉ ở vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện nay trăm cây số là cùng. Lại cũng có những người dốt nát (1975-1991), không ðủ sách ðọc, không theo kịp sự tiến triển của y học, họ chỉ ðọc những tài liệu sai lầm, rồi họ như con ngựa kéo xe, chỉ biết có vậy, chúng tôi thấy họ ngu dốt quá, nên không trả lời, cũng nhuư giải thích. Tôi cãn cứ vào những chứng trạng trên mà ði tìm nguồn gốc.

V. ĐI TÌM BIÊN GIỚI NÝỚC VÃN-LANG

1. Núi Ngũ-lĩnh.

Cuối nãm Canh-Thân (1980) tôi lấy máy bay ði Bắc-kinh, rồi ðổi máy bay ở Bắc-kinh ði Trường-sa. Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam. Tất cả di tích của tộc Việt như hồ Ðộng-ðình, núi Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương, Thiên-ðài, Tương-ðài, cánh ðồng Tương ðều nằm ở tỉnh này. Tôi ði nghiên cứu với một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học Pháp-Hoa (CMFC). Có một sự hiểu lầm lớn, vì trong thư giới thiệu các giới chức y-khoa chỉ xin ðược giúp ðỡ cho tôi, nên khi tôi muốn tiếp xúc với sở du-lịch, ty vãn hóa ðịa phưõng, họ ðều tưởng tôi tới Trường-sa ðể nghiên cứu sự cấu tạo hình thể cùng bệnh tật dân chúng tại đây. Thành ra tôi bị mất khá nhiều thì giờ nghe thuyết trình của các đồng nghiệp về vấn đề này. Tôi cư ngụ trong khách sạn Trường-sa tân ðiếm nằm trên ðại lộ Nhân-dân. Tôi mua cuốn ðịa phương chí mới nhất của tỉnh, rồi mò vào thư viện ty vãn hóa, sở bảo vệ cổ-tích, ðại-học vãn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà ngay những sinh viên vãn khoa cũng ít ai ghé mắt tới. Ðầu tiên tôi ði tìm núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay đó là năm dãy núi gần như ngãn ðôi Nam, Bắc Trung-quốc :

19

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

- Một là Ðại-dữu lĩnh.

- Hai là Quế-dương, Kỳ-ðiền lĩnh.

- Ba là Cửu-chân, Ðô-lung lĩnh.

- Bốn là Lâm gia, Minh-chữ lĩnh.

- Nãm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh.

Về vị trí :

- Ngọn Thủy-an, Việt-thành chạy từ tỉnh Phúc-kiến, ðến huyện Tuần-mai tỉnh Quảng-ðông.

- Ngọn Ðại-dữu chạy từ huyện Ðại-dữu (Nam-an), tỉnh Giang-Tây ðến huyện Nam-hùng tỉnh Quảng-ðông.

- Ngọn Cửu-chân, Ðô-lung chạy từ Ðạo-huyện tỉnh Hồ-nam tới Gia- huyện tỉnh Quảng-tây.

- Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam ðến Liên-huyện tỉnh Quảng-Ðông.

- Ngọn Quế-dương từ Toàn-huyện tỉnh Hồ-nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-tây .

Lập tức tôi thuê xe ði một vòng thăm các núi này. Tôi đi mất mười ngày, trải gần 15.000 cây số. Như vậy là Ngũ-lĩnh có thật, nay có núi ðã đổi tên, có núi vẫn giữ tên cũ. Một câu hỏi đặt ra : Tại sao khi vua Minh phân chia từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Lộc-Tục mà lĩnh địa Việt tới hồ Động-đình, mà hồ ở phía Bắc núi đến mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này :

- Một là vua Minh tế trời ở trên núi Ngũ-lĩnh là nơi người gặp tiên rồi chia ðịa giới. Nhưng bấy giờ dân chưa ðông, mà sông Trường-giang rộng mênh mông, sóng lớn quanh nãm nên vua Nghi chỉ giữ từ Bắc ngạn mà thôi. Còn vua Kinh-Dương thì sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Ðộng-ðình (một tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc gia.

- Hai là dân chúng Nam-ngạn Trýờng-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một khí hậu, phong tục, nên họ theo về Nam không theo về Bắc, thành thử hồ Ðộng-ðình mới thuộc lãnh địa Việt.

Kết luận : « Quả có núi Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể núi này đúng là nõi phân chia lãnh thổ Văn-Lang và Trung-Quốc khi xưa ».

Ánh sáng ðã soi vào nghi vấn huyền thọai.

Share this post


Link to post
Share on other sites

2. Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh.

Tương truyền vua Minh lập ðàn tế cáo trời ðất trên núi Quế-dương, phân chia lãnh thổ Lĩnh-Bắc tức Trung-Quốc, Lĩnh-Nam tức Đại-Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên-đài. Nhưng dãy núi Quế-dương có mấy chục ngọn núi nhỏ không biết ngọn Thiên-ðài là ngọn nào ? Trên bản ðồ không ghi. Sau tôi hỏi thãm dân chúng thì họ chỉ cho tôi thấy núi Thiên-đài nằm gần bên bờ Tương-giang. Ðiều này dễ hiểu, tỷ nhý ngày nay, du khách nhìn bản đồ sẽ không thấy địa điểm Sài-gòn. Nhưng trong dân chúng, họ vẫn nhớ tên cũ. Tôi ði thãm Thiên-ðài. Thiên-ðài là ngọn ðồi nhỏ, cao 179m, ðỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn nhưng không có người trụ trì. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói. Lâu ngày chùa không được tu bổ, nhiều chỗ ngói bị lở, bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị mòn nhiều chỗ gần như lún sâu. Duy nền với cổng bằng ðá là còn nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong ra. Bên trong cột kèo bằng gỗ đã nứt nẻ khá nhiều. Những câu đối , chữ còn, chữ mất. Tại thư viện Hồ-nam tôi tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Ðầu ðề ghi :

Thiên-ðài di sự lục Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Vãn sọan. Trinh-quán là niên hiệu của vua Ðường Thái-Tông, từ nãm Ðinh-Hợi (627) ðến Ðinh-Mùi (647) nhưng không biết Chu ðỗ tiến-sĩ nãm nào ? Tuy sách do Chu Minh-Vãn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này do người sau sao chép lại vào ðời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh-Vãn sọan, phần chép tiếp theo Chu Minh-Vãn, của một sư ni tên Ðàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy (1662-1772). Chu Minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loaị văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố cùng thành ngữ lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh cùng kinh Phật. Nhân viên quản thủ thý viện thấy tôi ðọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông ấy biết rằng, tôi chỉ ðược học lọai vãn ðó vào hồi sáu, bảy tuổi thì ông sẽ hết phục. Tài liệu Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc-Tục.Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, vì vậy đài cũng mang tên Thiên-đài núi cũng mang tên Thiên-đài sơn, Minh-Vãn còn kể thêm : « Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Đương. Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-dương ông cùng nghìn quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữ ðền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất ðịnh tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm ðược núi. Về ðời Ðường ðể xóa vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan ðược sai sang ðô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây chùa tại ðây ».

21

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Tôi biết vua Bà là vua Trưng, còn tướng Ðào Hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-bình vương Ðào Kỳ. Ngài Ðào Kỳ lĩnh chức Ðại Tý-mã thời vua Trưng. Còn týớng Ðào Hiển-Hiệu tước phong quốc công, giữ chức Hổ-nha ðại tướng quân. Nữ tướng Hoàng Thiều-Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi Trường-sa, hồ Ðộng-ðình, đã sai Hiển-Hiệu đi cản hậu, đóng nút chặn ở Thiên-đài, đợi quân Lĩnh-Nam rút hết, sẽ rút sau. Nhưng Hiển-Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thời Quốc-tổ, Quốc-mẫu, ðã không chịu lui quân, tử chiến, khiến quân Hán chết không biết bao nhiêu mà kể tại đây. Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối :

Thoát thân Nam thành xưng sư tổ,

Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật- kinh.

Hai câu này ngụ ý ca tụng Thái-tử Tất-Đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi tìm lẽ giải thoát sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh.

Tam bảo linh ứng, phong điều vũ thuận,

Phật công hiển hách quốc thái an dân

Hai câu này là ngụ ý nói : Tam bảo linh thiêng, khiến cho mưa thuận, gió hòa đó là công lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an . Nơi có dấu vết Thiên- ðài, còn đôi câu đối khắc vào đá :

Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc.

Lĩnh địa niên niên dữ Việt-thường.

Nghĩa là: Từ sau vụ vua Minh tế cáo ở ðây, ðài thành Thiên-ðài, biết bao ðời phân ra Nam, Bắc. Núi Ngũ-lĩnh nãm này qua nãm khác với giòng giống Việt-thường.

Chỗ miếu thờ của Ðào Hiển-Hiệu có ðôi câu ðối :

Nhất kiếm Nam-hồ kinh Vũ-ðế,

Thiên ðao Bắc-lĩnh trấn Lýu Long.

Nghĩa là : Một kiếm ðánh trận ở phía Nam hồ Ðộng-ðình làm kinh tâm vua Quang-Vũ nhà Hán. Ý chỉ nữ tướng Phật-Nguyệt ðánh bại Mã Viện ở phía Nam hồ Động-đình. Một nghìn tay đao do Hiển-Hiệu thủ ở Bắc núi Ngũ-lĩnh trấn Lưu Long.

22

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Kết luận : « Như vậy việc vua Minh tế cáo trời ðất là có thật. Vì có Thiên-đài nên thời Lĩnh-Nam mới có trận hồ Động-đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ lãnh địa thời vua Trưng cũng như Văn-Lang xưa qủa tới Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình ».

3. Cánh đồng Tương,

Nhắc lại: Có hai huyền sử nói về cánh đồng Tương :

- Một là Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, mỗi năm tái hội nhau trên cánh đồng Tương một lần.

- Hai là Quốc-tổ, Quốc-mẫu truyền các hoàng tử đi khắp bốn phương quy dân lập ấp,mỗi năm hội tại cánh đồng Tương một lần.

Tôi đoán :

Cả hai vị Quốc-tổ Kinh-Dương, Lạc-Long sau khi kết hôn đều đem Quốc-mẫu lên núi Tam-sơn trên hồ Ðộng-ðình hưởng thanh phúc ba nãm.Vậy thì cánh đồng Tương sẽ gần đâu đó trên hồ Động-đình.

Phía Nam hồ Động-đình là sông Tương-giang, chảy theo hýớng Nam-Bắc dài 811 km, lưu vực tới 92500km2, chẻ ðôi tỉnh Hồ-nam với Quảng-tây. Vậy cánh ðồng Tương sẽ nằm trong lưu vực Tương giang.

Tôi thuê thuyền ði từ cảng Dương-lâm nơi xuất phát ra Tương-giang là hồ Ðộng-ðình, xuống Nam, qua Tương-âm, tôi dừng lại, nghiên cứu ðịa thế cùng thãm chùa Bạch-mã. Đây là địa phận quận Ích-dương.Vô tình tôi tìm ra một nhánh sông Âu-giang và một cái hồ rất lớn, vào mùa nước lớn rộng tới 4-5 mẫu, vào mùa nước cạn chỉ còn 2-3 mẫu mà thôi. Suốt lộ trình từ hồ Động-đình trở xuống, trên cửa sông Tương cũng như hai bên bờ chim Âu bay lượn khắp nơi. Ðặc biệt trên Âu-giang, Âu-hồ, giống chim này càng nhiều vô kể. Từ Âu-giang, tôi trở lại sông Tương, xuôi tới Trường-sa thủ phủ của Hồ-nam rồi tới các quận lỵ Tương-ðàm, Chu-châu, Hành-dương, Quế-dương.

Không khó nhọc tôi tìm ra : « Cánh đồng Tương, tức là vùng trũng phía Tây-ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động-đình, Nguyên-giang. Phía Nam là Linh-lăng, Hành-giang. Phía Tây là vùng Chiêu-dương, Lãnh-thủy. Như nay cánh ðồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác : Tương-giang, Nguyên-giang, Liên-thủy, Thạch-khê-thủy ».

Sau khi tìm ra cánh đồng Tương, Thiên-đài, cùng những đàn chim âu , tôi giải đoán như thế này :

23

Yên-tử cưĩ Trần Ðại-Sỹ

« Quốc-tổ Lạc Long kết hôn với công chúa con Ðế-Lai, hẳn công chúa cũng có tên. Như vì lâu ngày người ta không nhớ ðýợc tên ngài, nên ðã lấy con chim Âu, rất hiền hòa, xinh đẹp ở vùng hồ Động-đình, Tương-giang mà gọi là Âu-Cơ (Cơ là vợ vua). Vì người ta gọi Quốc-mẫu là Âu-Cơ, thì họ nghĩ ngay đến Quốc-mẫu sinh đẻ. Khi chim Âu đẻ thì phải đẻ ra trứng. Còn con số một trăm, là con số triết học Việt-Hoa dùng để chỉ tất cả. Như trăm bệnh là tất cả các bệnh, trăm họ là toàn dân. Trăm con có nghĩa là tất cả dân trong nước ðều là con Quốc-mẫu »

Kết luận : « Ðã có cánh đồng Tương, thì chuyện Quốc-tổ, Quốc-mẫu hẹn mỗi năm hội tại đây một lần là có. Khi sự kiện có núi Ngũ-lĩnh, có Thiên-đài. Nay chứng cớ được kiểm điểm, thì lãnh địa của tộc Việt xưa quả tới hồ Động-đình ».

4. Hồ Động-đình và Tam-sơn

Hồ Ðộng-ðình nằm ở phía Nam sông Trường-giang. Hồ ðýợc coi nhý nõi phát tích ra tộc Việt. Ðịa khu Bắc sông Trường-giang ðược gọi là tỉnh Hồ-bắc, tức ðất Kinh-châu thuở xưa. Ðịa khu phía Nam sông Trường-giang ðược gọi là tỉnh Hồ-nam. Hồ Ðộng-ðình nằm trong tỉnh Hồ-nam. Hồ thông với sông Trường-giang bằng hai con sông. Cho nên người ta coi hồ như nơi chứa nước sông Trường-giang, rồi ðổ vào Tương-giang. Trên Bắc-ngạn hồ có núi Tam-sơn. Tôi ðã lên đây ba lần. Tương truyền các các nữ tướng thời vua Trưng như Trưng-Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan đánh chiếm Trường-sa vào ngày đầu năm, vì vậy tôi cũng tới đây vào dịp này để thấy rõ phong cảnh, rồi tả trận đánh trong bộ Cẩm-khê-di-hận(6). Hồ rộng 3915 cây số vuông, độ sâu về mùa cạn là 38,5 mét, về mùa nước lớn là 39,20 mét. Tra trong chính sử thì quả hồ Động-đình thuộc lãnh địa Văn-Lang. Như trên đã nói, triều đại Thần-Nông Bắc đến đời vua Du-Võng thì mất vào năm 2696 trước Tây-lịch, chuyển sang thời đại Hoàng-Đế. Sử gia Trung-Quốc cho rằng Hoàng-Đế là tổ lập quốc. Nói theo triết học Tây phương thì vua Du-Võng gốc từ Thần-Nông thuộc nông nghiệp cư trú trong vùng ðồng bằng ở phương Nam lấy hỏa làm biểu hiệu nên còn gọi là Viêm-đế. Còn vua Hoàng-đế gốc ở dân du mục, săn bắn, từ phương Bắc xuống. Dân du mục nghèo, nhưng giỏi chinh chiến. Dân nông nhiệp giàu nhưng không giỏi võ bị nên bị thua. Bộ Sử-ký của Tư-mã-Thiên, quyển 1, Ngũ-đế bản kỷ chép rằng : «...Thời vua Hoàng-đế, họ Thần-Nông (Bắc) đã suy, chư hầu chém giết lẫn nhau, khiến trăm họ khốn khổ vô cùng. Triều Thần-Nông không ðủ khả nãng chinh phục. Vua Hiên-Viên Hoàng-Ðế thao luyện can qua, chinh phục những chư hầu hung ác. Vì vậy các nõi theo về rất ðông. Trong các chư hầu thì Suy-Vưu mạnh nhất. Vua Du-Võng triều Thần-Nông định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu chỉ tuân lệnh Hoàng-Đế. Vua Hoàng-Đế tu sửa đức độ, luyện tập binh mã, vỗ về trăm họ, giúp đỡ bốn phương, luyện tập thú dữ rồi đại chiến với vua Du-Võng ở Bản-tuyền, thành công.

24

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Suy-Vưu làm lọan, không tuân ðế hiệu. Hoàng-Ðế triệu tập chư hầu cùng Suy-Vưu ðại chiến ở Trác-lộc, bắt sống Suy Vưu. Chư hầu tôn ngài làm Thiên-tử thay họ Thần-Nông. Trong thiên hạ nơi nào không thuận vua Hoàng-Ðế ðem quân chinh phục. Lãnh thổ của Hoàng-Đế, Đông tới biển, vùng núi Hoàn-sơn, Ðại-tông. Phía Tây tới núi Không-ðộng, Kê-ðầu. Nam tới Giang, Hùng, Tương... »(7)

Sông Giang ðây tức là sông Trường-giang, Hùng ðây tức là Hùng-nhĩ-sơn, Tương là Tương-sơn. Bùi Nhân ðời Tống lập giải Sử-ký nói rằng Tương-sơn thuộc Trường-sa.

Kết luận : « Từ chính sử, huyền-sử ðều cho biết lĩnh ðịa Vãn-lang tới hồ Ðộng-ðình. Khi vua Hoàng-Đế dứt triều Thần-Nông Bắc, thì triều Thần-Nông Nam tức họ Hồng-bàng còn kéo dài đến 2439 năm nữa. Lãnh thổ Trung-quốc thời Hoàng-Đế cũng chỉ tới sông Trường-giang. Phía Nam bao gồm Trường-sa, hồ Động-đình vẫn thuộc Văn-lang. Khi chính sử ghi chép như vậy thì việc Quốc-tổ, Quốc-mẫu với hồ Động-đình, núi Tam-sơn không còn là huyền thoại nữa. Vậy chuyện các ngài lên núi hưởng thanh phúc nên ghi vào chính sử.

5. Biên giới lĩnh ðịa tộc Việt thế kỷ 2 trước Tây lịch.

Sử Hán là bộ Sử-ký của Tý-mã Thiên. Sử Việt như bộ Ðại-Việt sử ký toàn thư, Khâm-ðịnh Việt-sử thông giám cương mục, ðều ghi rằng vào thế kỷ thứ nhì trước Tây-lịch, thời Triệu Ðà cai trị lĩnh ðịa tộc Việt, biên giới vẫn còn ở vùng Truwờng-sa, hồ Ðộng-ðình. Sử Hán, sử Việt đều chép chi tiết giống nhau về vụ Triệu Đà lập quốc ở lãnh thổ Lĩnh-Nam. Tần Thủy- Hoàng sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu-lạc, chiếm được vùng đất phía Bắc, lập làm ba quận :

- Nam-hải (Quảng-đông và một phần Phúc-kiến),

- Quế-lâm (Quảng-tây, Hồ-nam và một phần Quí châu),

- Tuwợng-quận (Vân-nam và một phần Quý-châu).

Vua An-Dương sai Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung và Cao-cảnh hầu Cao Nỗ ðem quân chống, giết ðược Ðồ Thuw và tiêu diệt nữa triệu quân Tần. Tuy vậy vua An-Dương cũng không chiếm lại vùng ðất ðã mất. Sau nhân thời thế loạn lạc, một viên quan Tần là Triệu Đà trấn vùng Nam-hải, đem quân chiếm vùng Tượng-quận, Quế-lâm, rồi dùng gián ðiệp trong vụ án Mỵ-Châu, Trọng-Thủy mà chiếm ðược Âu-lạc lập ra nước Nam-Việt. Lãnh thổ nước Nam-Việt bao gồm những vùng nào ? Không một sử gia nào chép rõ ràng. Nhưng cứ những sự kiện lẻ tẻ, ta cũng có thể biết rằng lãnh địa Nam-Việt là lãnh địa thời Văn-lang.

25

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Trong khi Triệu Ðà lập nghiệp ở phương Nam, thì cuộc nội chiến ở phương Bắc chấm dứt. Hạng Vũ, Lưu Bang diệt Tần, rồi Lýu Bang thắng Hạng Vũ lập ra nhà Hán. Lýu Bang lên ngôi vua sai Lục Giả sang phong chức tước cho Triệu Ðà. Ðúng ra Triệu Ðà cũng không chịu thần phục nhà Hán, nhýng họ hàng thân thuộc, mồ mả của Triệu Ðà ðều ở vùng Chân-ðịnh. Ðà sợ nhà Hán tru diệt họ hàng, cùng ðào mồ cuốc mả tổ tiên lên mà phải lùi bước. Nãm 183 trước Tây-lịch, Cao-tổ nhà hán là Lưu Bang chết, Lã-hậu chuyên quyền cấm bán hạt giống, thú vật cái, kim khí sang Nam-Việt. Triệu Đà không thần phục nhà Hán, rồi đem quân đánh Trường-sa, Nam-quận.

Kết luận : « Trường-sa là quận biên cương của Hán. Vậy ít nhất lãnh thổ Nam-Việt, Bắc tới Trường-sa. Nam quận là quận ở phía Bắc sông Trường-giang. Mà Nam-quận là quận biên cương Hán, thì biên giới Nam-Việt ít nhất tới Nam-ngạn sông Trường-giang ».

6. Lĩnh ðịa thời vua Trưng

6.1. Vua Bà của Trung-quốc là vua Trưng,

Trong những nãm 1978-1979 khi dẫn phái ðoàn Ủy-ban y học Pháp-Hoa (CMFC) ði trao ðổi tại các tỉnh cực Nam Trung-Quốc nhý Quảng-ðông, Quảng-tây, Vân-nam, Quý-châu và Tứ-xuyên... tôi thấy khắp các tỉnh này, không ít thì nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp nãm tỉnh, tôi ghi chú ðýợc hõn trãm ðền, miếu thờ những týớng lĩnh thời vua Bà. Bấy giờ tôi lại tìm thấy ở Hồ-nam, nhiều di tích về đạo thơ vua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ, tôi tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật Nguyệt như sau : « Ngày xưa, Ngọc-hoàng Thượng-ðế ngự trên ðiện Linh-tiêu, có hai công chúa ðứng hầu.Vì sơ ý hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-hoàng Thượng-ðế nổi giận ðầy hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa ði ðầu thai ðược mấy ngày thì Tiên-lại giữ sổ tiên-giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa. Ngọc-hoàng Thượng-ðế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-y ðồng tử ðầu thai ðể theo dẹp loạn. Thanh-y ðồng tử sợ ðịch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đi. Ngọc-hoàng Thượng-ðế truyền Nhị thập bát tú ðầu thai theo. Thanh-y ðồng tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán. Nhị thập bát tú ðầu thai thành hai mươi tám vị vãn thần võ tướng ðời Ðông-Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm ðầy nhà, thông minh quán chúng, có sức mạnh bạt sơn cử ðỉnh, ðược gả cho Ðặng Thi-Sách.

26

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Thi-Sách làm phản, bị Thái-thú Tô Ðịnh giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, ðược 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung-quốc ở phía Nam sông Trýờng-giang : Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải. Chý tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà. Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mã Viện. Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu Long ðem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng-ðình. Mã Viện, Lýu Long bị bại.Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, ðánh quân Hán chết, xác lấp sông Trýờng-giang, hồ Ðộng-ðình, oán khí bốc lên tới trời. Ngọc-hoàng Thượng-ðế sai thiên-binh, thiên-tướng trợ chiến cũng bị bại. Ngài phải sai thần Du Liệt sang Tây phương cầu cứu Phật Nhý Lai. Ðức Phật sai muười tám vị Kim-cương, ba ngàn La-hán trợ chiến cũng bị bại. Cuối cùng ngài truyền Quán Thế Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Âm ðấu phép ba ngày ba ðêm, bất phân thắng bại. Sau Quán Thế Âm thuyết pháp nữ výõng Phật Nguyệt giác ngộ, bỏ ði tu. Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng ðôi câu ðối :

Tích trù Ðộng-ðình uy trấn Hán,

Phương lưu thanh sử lực phù Trưng

(Một trận Ðộng-ðình uy trấn Hán

Tên còn trong sử sức phù Trưng).

Bỏ ra ngoài những huyền hoặc về Nữ-vương Phật-Nguyệt, tài liệu chứng minh : Ðạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của lòng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lãnh thổ cũ của người Việt còn sót lại. Vua Bà mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng.

Kết luận : « Khi ðã có nữ tướng Phật Nguyệt ðánh trận Trường-sa, hồ Ðộng-ðình. Mà có trận hồ Động-đình thì lãnh thổ thời Lĩnh-Nam, phía Bắc quả tới phía Nam sông Trường-giang ».

6.2. Quả có trận Truường-sa, hồ Ðộng-ðình năm 39 sau Tây-lịch,

Huyền sử (những cuốn phổ) nói rằng : Khi bà Trưng Nhị cùng các týớng Trần Nãng, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường ðánh Trường-sa vào ðầu nãm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch). Trong trận ðánh này, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, ðược mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang(8). Thẩm-giang chính là ðọan sông ngắn ở Bắc, tiếp nối với hồ Ðộng-ðình. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng : Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu-Lan. Năm 1980 tôi đến đây tìm hiểu. Không khó nhọc tôi tìm ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cấp, một đọan chép :

27

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

« Miếu thờ liệt nữ Trần Thiếu-Lan ở ðầu sông Tương. Hồi cách mạng vãn hóa bị phá hủy. Tượng ðồng bị nấu ra. Vệ binh ðỏ phá luôn cả bia ðá ». Tôi tìm tới nơi, thì miếu chỉ còn lại cái nền bằng đá ong, mộ vẫn còn.(9).

Kết luận : « Thời Lĩnh-Nam qủa có việc Trýng Nhị, Trần Nãng, Hồ Ðề, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường ðánh trận Trường-sa. Trong trận, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tuẫn quốc. Khi có trận ðánh này, thì lãnh địa thời Lĩnh-Nam quả gồm có hồ Trường-sa , hồ Động- đình ».

6.3. Quả có trận Bồ-lăng, năm 42 sau Tây-lịch,

Huyền sử kể rằng: ba tướng họ Đào là Chiêu-Hiển, Đô Thống và Tam-Lang được vua Trưng trao cho trấn tại Tượng-quận (Vân-nam) . Nhưng vì quân ít, thế cô, ba ông không chống lại với quân Hán, do Vương Bá chỉ huy. Ba ông ðã tự tận. Hiện tại đền thờ của ba ông có đôi câu đối:

Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược,

Bồ-lãng tuẫn tiết tận thần trung.

Nghĩa là: trận Tượng-quận dương oai, rõ tài tướng giỏi. Bến Bồ-lãng tuẫn tiết, tỏ ra thần trung. Hầu hết các sử gia ðều cho rằng: Bồ-lãng tức là bến Bồ-ðề, ngoại ô Thãng-long. Vả lãnh thổ Việt-Nam hồi đó đâu có rộng vậy? Tôi không tin lý luận này. Tôi quyết có trận Tượng-quận. Vì sao? Vì ba ngài chiến đấu tại Tượng-quận, khi Tượng-quận thất thủ, tuẫn tiết thì tuẫn tiết tại chỗ, có đâu rút từ Tượng-quận về tới Long-biên (Hà-nội) trải mấy nghìn cây số, rồi mới tự tử? Vả cái tên bến Bồ-đề mới xuất hiện vào năm 1427-1428 khi vua Lê Thái-tổ vây Đông-đô (Thăng-long). Vì vậy, trong dịp hè năm 1982, tôi cầm đầu phái đoàn CMFC sang Vân-Nam, Trung-quốc, để nghiên cứu về một giống trà có khả năng trị tuyệt chứng Cholestérol, Triglycéride... Lợi dụng dịp nầy, tôi quyết tìm cho ra sự thực.

Ghi chú của Tăng Hồng Minh

Phái đoàn gồm: Trưởng-ðoàn: Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ, Thành viên: Bác-sĩ Pascale Vareilla (Biologie), Claude Tarentino (Anatomie), Antonio Fernandes (Cardiologie.) Các dýợc sĩ: Valérie Cordinante, Jean Marie Limager. Kỹ sý canh nông Antoine Reynault, và một diễn viên ðiện ảnh Hương-cảng.

28

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Trong chương trình phái đoàn chỉ công tác tại các vùng thuộc Vân-Nam nhý: Chiêu-dương, Ðông-xuyên, Khâu-bắc, Nguyên-dương, Bảo-sơn, Ðiền-Bắc, Côn-minh; rồi dùng phi cơ từ Côn-minh trở về Paris. Nhýng khi tới Ðông-xuyên, giáo sý Trần Ðại-Sỹ tìm ra dấu vết cuộc chiến giữa quân vua Trưng và quân Hán, mà không rõ ràng cho lắm. Ông dẫn phái đoàn trở lại Côn-minh, sau khi thảo luận với giáo-sý sử học Ðoàn Dương của ðại học Vãn-sử, ðược giáo sư Ðoàn cho biết: "Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi ðầu thế kỷ thứ nhất có trận ðánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ-lãng. Nay Bồ-lãng nằm trên lãnh thổ Tứ-xuyên, chỗ ngã ba sông Trýờng-giang và Ô-giang." Thế là giáo sư Trần Ðại-Sỹ ðề nghị phái ðoàn dùng ðường thủy về Hồ-Nam, sau ðó ðáp phi cõ từ Hồ-Nam ra Hương-cảng, rồi ði Paris. Trên ðường từ Ðộ-khẩu (Vân-Nam) ði Hồ-Nam, sẽ qua... Bồ-lãng. Ðýợc ði chơi, dĩ nhiên phái ðoàn mừng không sao tả siết!!!. Dĩ nhiên túi tiền của CMFC või ði 53.074 dollars nữa ðể chi cho phái ðoàn. Theo tôi, với số tiền ấy, mà kết quả tìm được Tây-biên của Lĩnh-Nam, cũng rẻ chán. Thế nhưng khi trở về Paris, vụ này ðồn ðại ra ngoài, một Bác-sĩ Việt-Nam tên Trần L.(từng là bộ trưởng Y-tế hồi VNCH), viết thuư cho ông bộ trưởng Vãn-hóa Pháp, tố cáo Giáo-sý Trần Ðại-Sỹ lợi dụng chức vụ trưởng ðoàn công tác y khoa, ðể tìm di tích cổ sử viết sách. Ông Bộ-trưởng trả lời ðại ý: "Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ không dùng một xu (centimes) nào của chính phủ Pháp, nên bộ không có thẩm quyền." Cuối thư ông Bộ-trưởng hạ một câu: " Ví dù Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ có lợi dụng chức vụ, có dùng tiền của bộ Vãn-hóa, mà tìm tư liệu làm giầu cho thư viện Pháp thì là điều đáng khuyến khích. Hơn nữa tài liệu đó làm lợi cho Việt-Nam, Ông (Trần L.) phải vui mừng mới phải chứ."

Tăng Hồng Minh tôi là người Việt gốc Hoa, tôi xin tiết lộ một chi tiết này, ðể các vị ðộc giả Việt-Nam suy nghĩ!!!

Thế là phái ðoàn dùng tầu ði từ Ðộ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang) qua Nam-khê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngã ba sông Ô-giang, Trường-giang thì gặp bến Bồ-lăng. Tại đây tôi được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba vị thần, tướng của vua Bà. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị tướng. Cả vùng này có ðạo thờ vua Bà (lên ðồng). Hồi trước 1949 rất thịnh. Sau cách mạng Vãn-hóa (1965-1967) miếu ðược cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là nguười nổi lên chống tham quan thời Hán. Tôi ðến thãm miếu. Miếu khá lớn, chủ hộ ở trong miếu trước ðây là cán bộ Vãn-hóa Bồ-lãng. Trước miếu có nhiều câu ðối, nay chỉ còn lại có ba. Ông chủ hộ khoe rằng để bảo tồn di tích văn hóa, hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất:

Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,

Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết …can vân.

Nghĩa là: Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu. Ðuổi ðược Tô Ðịnh, nhưng ðau lòng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây.

29

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Tôi xin vào trong miếu xem, thì bệ thờ nay là nõi vợ chồng ông nằm ngủ. Hai bên bệ cũng có ðôi câu ðối.

Giang-thượng tam anh phù nữ chúa,

Bồ-lãng bách tộc khốc thần trung.

Nghĩa là: Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa. Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành. Ông chủ hộ thì cho rằng bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Vì vậy chữ bách tộc đây để chỉ người Việt. Ông thích lắm. Ông chỉ vào khoảng trống của hai cái cột thuật rằng trước kia cũng có ðôi câu ðối, nhuưng bị vạc mất. Ông ðề nghị tôi làm một ðôi khác thay thế. Tôi nhờ hướng dẫn viên du lịch mua giùm hai hộp sõn. Một hộp sơn ðỏ loại láng và một hộp loại thiếp vàng. Ông với tôi sơn cột mầu ðỏ. Chiều hôm ðó sơn ðỏ khô, tôi trở lại viết bằng sõn thiếp vàng ðôi câu ðối có sẵn tại ðền thờ ba ngài ở thôn Ngọc-ðộng, huyện Gia-lâm, Hà-nội:

Tái Bắc tức chinh trần, công cao trục Ðịnh,

Bồ-lãng dương nộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng.

Nghĩa là: Ải Bắc yêu gió bụi can qua, công cao ðuổi Tô Ðịnh. Bồ-lãng nổi bao ðào, nghĩa nặng phù vua Trưng.

Kết luận: «Như vậy thì quả có trận Tượng-quận. Mà có trận Tượng-quận thì biên giới Lĩnh-Nam hồi ấy giáp Ba-Thục, tức Tứ-xuyên ngày nay».

7. Nghiên cứu những khai quật

Vào những năm 1964-1965, giáo sư luật khoa Vũ Văn Mẫu đang sọan thảo tài liệu về cổ luật Việt-Nam. Người giúp giáo sý Mẫu ðọc sách cổ là Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh ðiển, thuư tịch cổ, nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo suư Mẫu. Tôi ðã giúp giáo sư Mẫu ðọc, soạn các thư tịch liên quan ðến cổ luật. Chính vì vậy tập tài liệu « Cổ-luật Việt Nam và tư pháp sử » có chương mở ðầu «Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ luật Việt-Nam » (10).

Bấy giờ tôi còn trẻ, không đủ tài liệu khai quật của Trung-Quốc, của Bắc Việt-Nam, và bấy giờ những lý thuyết về ADN chưa có hệ thống, nên có nhiều chi tiết sai lầm. Hôm nay ðây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác, anh linh giáo sý Vũ Vãn-Mẫu. Tôi xin lỗi các vị ðồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các sinh-viên về những sai lầm ðó.

30

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Triều ðại Hồng-Bàng thành lập từ nãm 2879 nãm trước Tây-lịch, tương ðương với thời ðại ðồ ðá mài (le néolithique), tức cuối thời ðại vãn-hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời ðại này tại Bắc-Việt, Ðông Vân-Nam, Quảng-Ðông, Hồ-Nam, người ta ðều tìm được những chiếc rìu thiết diện hình trái soan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang chỉ tìm được lọai rìu thiết diện hình chữ nhật, chứng tỏ vào thời đó có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau. Sang thời đại văn-hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (âge de bronze). Trong thời gian này đã tìm được trống đồng Đông-sơn trên bờ sông Mã (Thanh hóa). Sự thật trống đồng đã tìm thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-nam, Quý-châu,Vân-nam, Quảng-đông, Quảng-tây, Nam-dương, Lào (13) , Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-dương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc-Việt, rồi tới Vân-nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần gần như giống nhau.

Ðồng 53%,

Thíếc 15-16%,

Chì 17-19%,

Sắt 4%.

Một ít vàng bạc.

Khảo về y-phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường giang cho ðến Trung Bắc-Việt, cùng Lào, Thái ðều giống nhau. Bây giờ dùng hệ thống ADN kiểm những bộ xương, kiểm máu người sống, chúng tôi ðã biện biệt được sự khác biệt vào thời Việt, Hoa lập quốc.

Kết luận:,« Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động-đình, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói ».

8. Tổng kết,

Sáu vấn ðề tôi nêu ra ở trên, rồi ði tìm, tất cả đều còn đầy đủ di tích. Như vậy: Biên giới cổ của nýớc Việt-Nam, với các triều ðại Hồng-bàng, Âu-lạc, Lĩnh-Nam phía Bắc quả tới hồ Ðộng-ðình, phía Tây giáp Tứ-xuyên.

Share this post


Link to post
Share on other sites

V. KẾT LUẬN

Thưa Quý-vị

Quý-vị đã cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, cho tới tin học, y học để tìm về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, về biên giới cổ của tộc Việt. Trong chính sử Trung-quốc, Việt-Nam đều ghi rõ ràng nguồn gốc tộc Việt, nhưng cái nguồn gốc ðó cãn cứ vào cổ thý của người Trung-hoa, nên hoàn toàn sai lạc. Bởi cổ thư cho rằng ngýời Trung-hoa tự sinh ra, rằng ngýời Việt chẳng qua do những ngýời Trung-hoa di chuyển xuống lưu ngụ. Sự thực nhờ hệ thống ADN, chúng ta biết rằng chính những người ở châu Phi ðến Ðông Nam-á trước, rồi di chuyển lên Hoa-Nam. Tại Hoa-Nam giống người này lại hợp với giống ngýời từ châu Phi sang châu Âu, rồi từ châu Âu vào Trung-á, hợp với người ở Hoa-Nam mà thành tộc Hán. Nhưng ngược lại, do cổ thư Trung, Việt, hay do ADN, chúng ta cũng biết rất rõ biên cương nước Việt thời mới lập quốc. Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà Nho, chỉ ðọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này ðều chép rằng tộc Việt gồm có trãm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên Âu-Việt, Lạc-Việt, Ðông-Việt, Nam-Việt, Việt-Thường ðều thuộc Bách-Việt cả. Cái tên trãm họ hay trãm Việt (Bách-Việt) phát xuất từ huyền thọai vua Lạc-Long sinh ra trãm con. Trãm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14).

Các vị cổ học, học cổ sử, rồi coi lĩnh ðịa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trường-giang lấy mốc là hồ Ðộng-ðình với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là ðưõng nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 13-14 tuổi, tôi chỉ ðược học vài trang ngắn ngủi về nguồn gốc tộc Việt, trong khi ðó gia ðình cho tôi đọc mấy bộ sử dài hàng mấy chục nghìn trang của Hoa, của Việt (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn số trang gấp năm sáu). Chính tôi cũng nhìn nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học. Nay tôi mới chứng minh ðược. Phải chờ cho ðến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ Vãn-Mẫu thạc-sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến-sỹ Nguyễn Sỹ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học theo lối cổ, không biết những phương pháp quy nạp, tổng hợp nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôi. Ngay từ lần ðầu gặp nhau, mà một già, một trẻ ðã có hai cái nhìn khác biệt. Giáo sý Mẫu trên 50 tuổi mà lại có một cái nhìn rất trẻ, tôi mới có 25 tuổi lại có cái nhìn rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa-Việt đưa ra. Vì vậy tôi đã sưu tầm tất cả những gì trong thý tịch cổ, giúp giáo sý Mẫu ðem viết thành tài liệu giảng dạy.

32

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Nhưng sự sưu tầm ðó không ðầy ðủ, vì chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay tôi mới biết có quá nhiều sai lầm, tôi xin lỗi các ðồng nghiệp hiện diện, xin lỗi Quý-vị. Hồi bấy giờ tôi sống ở Sài-gòn, thuộc Việt-Nam cộng-hòa đang là nước chống Cộng, nên tôi không thể sang Trung-Quốc, cũng như về Bắc tìm kiếm thêm tài liệu. Phải chờ đến năm 1976 làm việc cho CMFC, hàng năm dẫn các đồng nghiệp sang Trung-Quốc nghiên cứu, trao đổi y học, tôi mới có dịp tìm kiếm lại di tích xưa trong thư viện, trong bảo tàng viện, trên bia ðá cùng miếu mạo, ðền chùa và nhất là ðến tại chỗ nghiên cứu. Gần ðây nhờ các ðồng nghiệp dùng hệ thống ADN, tôi mới biện biệt ðược nguồn gốc tộc Việt, biên cương thời lập quốc của tộc Việt.

Hôm nay tôi xin kết luận với các bạn rằng :

- Người Trung-hoa không phải là con trời như những vãn gia cổ của họ viết, dù ngày nay họ còn nghĩ như vậy.

- Họ cũng không tự sinh ra, rồi tản ði tứ phương.

- Không hề có việc người Trung-hoa trốn lạnh hay vì lý do chính trị di cư xuống vùng ðất hoang, tạo thành nước Việt. Trong lịch sử quả có một số người Trung-hoa di cư sang Việt-Nam sau những biến cố chính trị. Như ngày nay ngýời Việt di cư ði sống khắp thế giới.

- Lại càng không có việc người Việt gốc từ dòng giống Mã-lai như một vài người ngố ngếch ðưa ra.

- Theo sự nghiên cứu bắng hệ thống ADN, từ cổ, giống ngời Trung-hoa, do giống người từ Ðông Nam-á di lên. Những ngýời Ðông Nam-á lại ðến từ châu Phi qua ngả Nam-á vào thời gian hõn 20.000 nãm trước.

- Người châu Phi ðến Bắc Trung-hoa do ngả Âu-châu rồi vào Trung-á, khoảng 15.000 nãm. Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoa.

- Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống mãi vịnh Thái-lan.

- Biên giới nước Việt thủa lập quốc gồm từ Nam sông Trường giang ðến vịnh Thái-lan, Ðông tới biển. Tây tới Tứ-xuyên của Trung-quốc ngày nay.

Ðến ðây tôi xin phép các vị giáo sư, quý khách, các sinh viên cho tôi ngừng lời. Xin hẹn lại quý vị đến tháng 11-92 tôi sẽ trình bày trước qúy vị về nguồn gốc triết Việt.

Trân trọng kính chào quý vị.

Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ,

33

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Chú giải của Tãng Hồng Minh,

(1) Tiêu biểu mới nhất là một nhóm thức giả do nhà vãn Vương Kỳ Sơn ðứng chủ biên, ðã xuất bản cuốn Việt-Nam đệ ngũ thiên niên kỷ vào năm 1994 tại Hoa-kỳ.

(2) Sau này được tôn thụy hiệu là Lục-Dương.

(3). Như vậy vua Lạc-Long lấy con gái của anh con bác.

(4) Ðộc giả có thể tìm đọc tài liệu nghiên cứu này bạt quyển 1. Anh- hùng Lĩnh-nam do Nam-Á Paris xuất bản 1987 mang tên « bản phụ chú nghiên cứu về nỏ thần ».

(5). Phương pháp mà các giáo sý Tarentino, Vareilla Pascale dùng ðể biện biệt những bộ xương khai quật trong cổ mộ vùng Hồ-nam, Vân-nam, Quảng-châu, Quý-châu không khác các chuyên viên Hoa-kỳ trong ủy ban tìm kiếm tử sĩ Hoa-kỳ tại Việt-nam đã xử dụng. Có điều, các chuyên viên Hoa-kỳ gặp nhiều khó khăn hơn, vì phải đi vào chi tiết từng cá nhân, còn IFA chỉ phân chủng loại.

(6). Xin xem Cẩm-khê-di-hận do Nam-Á Paris xuất bản 1992, để biết hai trận hồ Động-đình.

Một trận do Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Phật-Nguyệt, Đinh Bạch- Nương, Đinh Tĩnh-Nương, Quách-Lãng đánh với Lưu-Long, Mã-Viện. Một trận do Hoàng Thiều-Hoa cùng với các tướng trên ðánh với mười hai ðại tướng quân Hán .

(7) Tý-mã Thiên, Sử-ký, quyển 1, Ngũ-đế bản-kỷ, Trung-hoa thư cục xuất bản 1959 trang 3-6.

(8) Độc giả muốn biết chi tiết trận đánh lịch sử này, xin đọc Động-đình hồ ngoại-sử, cùng tác giả, do Nam-Á Paris xuất bản (1990).

(9) Xin đọc « Mùa xuân trên hồ Động-đình tưởng nhớ Trưng-Vương » trong phần bạt Anh-hùng Lĩnh-nam, do Nam-Á xuất bản 1987.

(10) Vũ Vãn- Mẫu, Cổ luật Việt-nam và tư- pháp sử, quyển thứ nhất, tập thứ nhất, trang 9-51.

(11) Chữ vãn hóa Bắc-sơn ở ðây chỉ có ý nghĩa rằng cuộc khai quật ở núi Bắc-sơn (Lạng-sơn), ðã tìm thấy những cổ vật đồ đá.(thời kỳ đồ đá)

(12) Chữ văn hóa Đông-sơn chỉ cuộc khai quật ở Đông-sơn, đã tìm thấy đồ đồng (thời đồ đồng).

(13) Hè 1992 sau khi cùng phái đoàn IFA du khảo về loại cây trị cholestérol ở Vân-nam, thời gian còn lại, Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ ði khảo cứu xương người cùng các khai quật ở Vân-nam, Quảng Ðông (Trung-quốc), các tỉnh Bắc-thái như Nùng-khai, Thanon, U-bon, U-don Tha-ni.

34

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ ðã tìm lại được hai trống đồng thời vua Trưng, ở Quảng-đông, để trong bảo tàng viện địa phương. Ông đã mất rất nhiều tiền, cùng trăm ngàn khó khăn mới mua và đưa lọt về Paris.

(14) Chữ trăm trong ngôn ngữ Việt có nhiều nghĩa.

- Có nghĩa là đời người như :

Trăm năm trong cõi người.ta.

Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau

(Kiều)

Trãm nãm xe sợi chỉ hồng,

Bắt người tài sắc buộc trong khung trời.

Trãm nãm, trãm tuổi ,trãm chồng,

Hễ ai có bạc tôi bồng trên tay.

(ca dao)

- Có nghĩa là chết:

Khi nào cụ tôi trãm nãm ði rồi.

Nhân sinh bách tuế vi kỳ ( Người ta sinh ra lấy trãm nãm làm hẹn)

Trãm nãm như cõi trời chung,

Có nghề cũng phải có công mới thành.

(ca dao)

- Có nghĩa là tất cả :

Trăm họ, hay trăm bệnh,

Trăm hoa đua nở mùa xuân,

Cớ sao cúc lại muộn buồn thế kia ?

(ca dao)

Trăm dâu đổ đầu tằm.

(Tục ngữ)

Trăm con trong huyền sử Việt hay Bách-Việt có nghĩa này.

35

Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ

Tài liệu nghiên cứu chính

SÁCH CHỮ HÁN

Tư Mã-Thiên, Sử ký, Trung-hoa thư cục Thượng-hải xuất bản 1959 Ban-Cố, Tiền Hán thư, Trung- hoa thư cục xuất bản 1959.

Phạm Việp, Hậu Hán thư, Trung hoa thư cục xuất bản 1959.

Hoài Nam Tử, quyển 18, Trung Hoa thư cục Ðài Bắc xuất bản, 1959.

Cố Dã-Vương, Ðịa- dư chí, Cẩm-chương thư cục xuất bản 1920.

Trần Luân-Quýnh, Hải quốc kiến văn lục, cổ bản , thư viện Paris.

Lê Quý-Đôn, Phu-biên tạp lục, cổ bản của thư viện Paris.

Lê Quý-Đôn, Đại-Việt thông sử, cổ bản của thư viện Paris.

Phan huy-Ích, Lịch triều biến chương lọai chí, cổ bản của thư viện Paris.

Quốc - sử quán, Hoàng-Việt địa dư chí, bản của thư viện Paris.

Quốc-sử quán, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản của thư viện Paris.

Địa đồ xuất bản xã, Trung-hoa nhân dân cộng hòa quốc phân tỉnh địa đồ tập, Bắc-kinh 1974.

Đại học văn khoa Hồ-nam, Hồ-nam lịch đại khảo chứng 1980.

Cùng rất nhiều tài liệu không tác giả, lưu trữ tại thư viện, bảo tàng viện Hồ-nam, Quý-châu, Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-Nam.

SÁCH CHỮ PHÁP

Léonard Aurouseau, La première conquête chinoise des pays anamites, BEFEO XXIII.

Claude Madrolle, Le Tonkin Ancien, BEFEO, XXXVII.

SÁCH CHỮ VIỆT

Đào Duy-Anh, Nguồn gốc dân tộc Việt-nam, Hà-nội 1946.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cảm ơn Thanhdc.

Những cứ liệu của ông Trần Đại Sỹ là rất quan trọng. Thí dụ như vấn đề ADN của người Việt ở Nam Dương Tử....vv...Tuy nhiên, tôi chỉ chưa nhất trí với ông Trần Đại Sỹ là người Việt di cư từ Đông Nam Á lên Nam Dương Tử. Hoặc cho rằng Kinh Thư là của Trung Quốc, thực ra Ngũ Kinh đều của Việt tộc, bị Hán hóa và người Hán nhận là của mình.

Câu từ Kinh-thư, thiên Thái-thệ : "Trời sinh ra dân, Ðặt ra vua, ra thầy, Ðều ðể giúp Thượng-ðế, Vỗ về dân bốn phương" - Thực ra là cách giải thích đơn giản về một quy luật thống nhất - lý thuyết thống nhất - mà những người có trách nhiệm, ứng dụng nó để điều hành thiên hạ.

Một lần nữa cảm ơn Thanhdc - trước đây tôi cũng sưu tầm được tài liệu này, nhưng ko biết lưu trong máy ở đâu, nên mất.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa Thầy!

Đây là một công trình nghiên cứu rất đáng quan tâm và đáng trân trọng của một người Việt ở xa xứ nhưng điều này có vẻ như không mang lại một điều gì cho "hầu hết các nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học thế giới" .

Kính.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa Thầy!

Đây là một công trình nghiên cứu rất đáng quan tâm và đáng trân trọng của một người Việt ở xa xứ nhưng điều này có vẻ như không mang lại một điều gì cho "hầu hết các nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học thế giới" .

Kính.

Những luận chứng của ông Trần Đại Sỹ và của một vài nhà khoa học nước ngoài có thể nói là một sự phản biện rất sắc sảo cho quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt. Nhưng - cả cái thế giới này đang đi gam ...lờ.

Bởi vậy thế giới còn nhiều phức tạp. Âu cũng là định mệnh đã an bài.

Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay lại với nhân loại. Nhưng chỉ khi dân tộc Xyri bị tiêu diệt.

Bà Vanga đã nói vậy (Nguồn: Nxb CAND- Vanga Nhà tiên tri vĩ đại. Tôi ko nhớ chính xác tên sách.)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những cứ liệu của ông Trần Đại Sỹ là rất quan trọng. Thí dụ như vấn đề ADN của người Việt ở Nam Dương Tử....vv...

Tôi nhớ là trên trang chủ cũng đã từng đăng bài viết này.

Thực ra vấn đề ADN của các sắc tộc ở Đông Nam Á là một hướng mà các nhà nghiên cứu đã quan tâm lâu rồi, cho thấy một sự tương đồng về nguồn gốc chủng tộc. Nhưng ngoài việc cần xác định niên đại các di chỉ khảo cổ, như một điều kiện để minh chứng đời sống văn hóa xã hội của từng thời kỳ lịch sử, còn một yếu tố logic khác nữa để những người có quan điểm công nhận thời điểm lập quốc của nước ta chỉ vào khoảng thế kỷ thứ 7 TCN và là một quốc gia lạc hậu "ở trần đóng khố" như anh Thiên Sứ vẫn nhắc đến. Tôi sẽ lần lượt chỉ ra những logic ấy trong Topic về các hang động mới phát hiện ở Quảng Bình. Những mong được anh Thiên Sứ cùng quý vị quan tâm nhé !

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi nhớ là trên trang chủ cũng đã từng đăng bài viết này.

Thực ra vấn đề ADN của các sắc tộc ở Đông Nam Á là một hướng mà các nhà nghiên cứu đã quan tâm lâu rồi, cho thấy một sự tương đồng về nguồn gốc chủng tộc. Nhưng ngoài việc cần xác định niên đại các di chỉ khảo cổ, như một điều kiện để minh chứng đời sống văn hóa xã hội của từng thời kỳ lịch sử, còn một yếu tố logic khác nữa để những người có quan điểm công nhận thời điểm lập quốc của nước ta chỉ vào khoảng thế kỷ thứ 7 TCN và là một quốc gia lạc hậu "ở trần đóng khố" như anh Thiên Sứ vẫn nhắc đến. Tôi sẽ lần lượt chỉ ra những logic ấy trong Topic về các hang động mới phát hiện ở Quảng Bình. Những mong được anh Thiên Sứ cùng quý vị quan tâm nhé !

Vâng! Nếu vậy thì tốt quá. Ít nhất chúng ta cũng biết những lập luận của họ là gì. Cần phải chứng minh rằng: Tất cả lập luận cốt tử của họ đều chú quan và sai. Điều này tôi đã làm với những lập luận của họ mà tôi biết. Có thể còn một số luận cứ của họ mà tôi chưa biết và họ cố thủ ở đấy. Nếu được anh Trần Phương đưa ra, tôi sẽ chứng minh họ sai như thế nào. Cho dù họ cố tình không công nhận thì điều đó cũng không còn quan trọng nữa. Về phần tôi, tôi sẵn sàng công nhận sai nếu họ chứng minh một cách hợp lý là tôi sai.

Nhưng tôi rất tự tin. Vì không thể một luận điểm chủ quan nào có thể giải thích một cách hợp lý trên hầu hết mọi lĩnh vực như của tôi.

Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu phát biểu:

Tính hợp lý không từ trên trời rơi xuống. Nó phải chứa đựng trong đó một chân lý.

Bởi vậy, mong anh Trần Phương cứ đưa lên.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Trần Phương thân mến.

Thường thì một luận cứ nhưng có thể có nhiều người viết. Nếu những bài viết có nội dung và phương pháp giống nhau thì anh cứ chọn bài của những người có học vị cao nhất.

Tôi tin chắc họ sai và tôi sẽ đủ khả năng chỉ ra cái sai của họ - và tôi nói trước điều này, một cách tự tin và không hề kiêu ngạo, dù chưa hề biết họ viết cái gì - Tôi chỉ dựa trên một tiêu chuẩn của khoa học: Chân lý chỉ có một mà thôi - không thể cả hai đều đúng. Nếu tôi đúng thì họ phải sai, Vấn đề là có đủ khả năng để chỉ ra cái sai của họ hay không mà thôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Trần Phương thân mến.

Thường thì một luận cứ nhưng có thể có nhiều người viết. Nếu những bài viết có nội dung và phương pháp giống nhau thì anh cứ chọn bài của những người có học vị cao nhất.

Tôi tin chắc họ sai và tôi sẽ đủ khả năng chỉ ra cái sai của họ - và tôi nói trước điều này, một cách tự tin và không hề kiêu ngạo, dù chưa hề biết họ viết cái gì - Tôi chỉ dựa trên một tiêu chuẩn của khoa học: Chân lý chỉ có một mà thôi - không thể cả hai đều đúng. Nếu tôi đúng thì họ phải sai, Vấn đề là có đủ khả năng để chỉ ra cái sai của họ hay không mà thôi.

Kính anh Thiên Sứ,

Những luận cứ của quan niệm cho rằng "Thời Hùng Vương thực chất chỉ là một nhà nước sơ khai" và "chỉ thành lập vào khoảng thế kỷ thứ 7 TCN" là họ dựa trên một chuỗi hệ thống luận liên quan đến nhiều khía cạnh văn hóa khác nhau để xác định thời kỳ lập quốc của dân tộc. Tôi sẽ không đi vào từng chi tiết các bài luận cứ của từng cá nhân nào nữa, càng không quan trọng học vị hay chức vị dù tôi tôn trọng tất cả (bởi nếu quan trọng thì có lẽ tới giờ này tôi cũng chẳng biết đến có những diễn đàn như thế này). Tôi chỉ xin mạn phép mổ xẻ thẳng vào vấn đề : do đâu mà có những logic của những suy luận đó ? Phải chăng là vẫn còn sự nhập nhằng gì đó trong chuỗi diễn tiến văn hóa sử của các dân tộc mà các sử gia - dù theo quan điểm nào - cũng đều cho rằng mình là hợp lý ?

Cảm ơn anh Thiên Sứ và quý vị quan tâm !

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính anh Thiên Sứ,

Những luận cứ của quan niệm cho rằng "Thời Hùng Vương thực chất chỉ là một nhà nước sơ khai" và "chỉ thành lập vào khoảng thế kỷ thứ 7 TCN" là họ dựa trên một chuỗi hệ thống luận liên quan đến nhiều khía cạnh văn hóa khác nhau để xác định thời kỳ lập quốc của dân tộc. Tôi sẽ không đi vào từng chi tiết các bài luận cứ của từng cá nhân nào nữa, càng không quan trọng học vị hay chức vị dù tôi tôn trọng tất cả (bởi nếu quan trọng thì có lẽ tới giờ này tôi cũng chẳng biết đến có những diễn đàn như thế này). Tôi chỉ xin mạn phép mổ xẻ thẳng vào vấn đề : do đâu mà có những logic của những suy luận đó ? Phải chăng là vẫn còn sự nhập nhằng gì đó trong chuỗi diễn tiến văn hóa sử của các dân tộc mà các sử gia - dù theo quan điểm nào - cũng đều cho rằng mình là hợp lý ?

Cảm ơn anh Thiên Sứ và quý vị quan tâm !

Anh Trần Phương thân mến.

Chắc chắn họ sai từ phương pháp nghiên cứu và cách đặt vấn đề. Lập luận của họ chỉ có tính logic hình thức và cục bộ, không có mối liên hệ với các vấn đề liên quan.

Tôi xin kể anh một chuyện tương tự - ko biết tối đã nói chưa - như sau:

Lúc ấy vào cuối năm 99, tôi viết xong căn bản cuốn "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp". Bạn tôi - Tiến sĩ Vũ Quang Hà - sau này anh ta là biên tập chính cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch" của tôi, nói:

- Anh không lẽ đúng hơn cả Đào Duy Anh? Ông Đào Duy Anh cũng có quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt.

Chắc anh cũng biết ông Đào Duy Anh là một nhà nghiên cứu Việt sử thuộc hàng gạo cội, bậc thày của Trần Quốc Vượng. Khi Đào Duy Anh đã nổi tiếng thì Trần Quốc Vượng chỉ là học sinh.

Tôi đã trả lời tương tự như bài viết trên:

- Tôi đúng thì ông Đào Duy Anh phải sai. Ông Đào Duy Anh viết điều ấy trong cuốn sách nào, anh cho tôi mượn. Tôi hứa với anh trong vòng ba mươi phút tôi sẽ chỉu ra cái sai của ông ta.

Ngày ấy, tôi nghèo lắm, tiền ăn còn không có lấy đâu ra tiền mua sách. Chiều hôm ấy, ban tôi đem lại cho tôi cuốn sách của ông Đào Duy Anh. Nếu tôi nhớ không nhầm thì đó là cuốn "Việt Nam qua các triều đại". Đúng 15 phút tôi xem xong phần cổ sử và 30 phút sau tôi chỉ ra cái sai của ông Đào Duy Anh. Bởi vậy cuốn :Thời Hùng Vương và bí ẩn lục thập hoa giáp" có thêm chương V.

Tôi chẳng nói dối khoe khoang làm gì. Nhưng sự thật là như vậy. Họ sai lầm rất cơ bản, nên tôi có thể chỉ ra rất nhanh cái sai của họ ở đâu.

Tôi rất tự tin - chân lý chỉ có một. Rất hy vọng anh cho biết nguyên nhân nào để có quan điểm phủ nhân giá trị văn hóa sử truyền thống Việt như vậy.

Tôi sẽ chí ngay cái sai của nó.

Cảm ơn sự quan tâm của anh.

Share this post


Link to post
Share on other sites

... Lập luận của họ chỉ có tính logic hình thức và cục bộ, không có mối liên hệ với các vấn đề liên quan.

Vâng, đây chính là điểm mấu chốt mà tôi đang muốn nói đến. Xin lần lượt post các bài liên quan bên topic các hang động mới phát hiện ở Quảng Bình, có lẽ sẽ hơi dài dòng, nhưng tôi sẽ post hết và không cắt xén.

Cũng xin nhắc lại quan điểm của mình là : tôi tham gia diễn đàn cũng vì tôi ủng hộ quan điểm văn hiến Việt trải gần 5000 năm văn hiến từ khi tôi được đọc cuốn "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại" của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, điều này được ghi trong chính sử - phần Ngoại kỷ, dù trước đó tôi có hỏi thăm nhiều người về tác giả nhưng chẳng ai biết và cũng chẳng ai ủng hộ quan điểm này, chỉ vì người ta chỉ quan tâm đến những nhân vật có tên tuổi.

Cảm ơn sự quan tâm của anh Thiên Sứ !

Share this post


Link to post
Share on other sites

(...) Nếu tôi nhớ không nhầm thì đó là cuốn "Việt Nam qua các triều đại". Đúng 15 phút tôi xem xong phần cổ sử và 30 phút sau tôi chỉ ra cái sai của ông Đào Duy Anh. Bởi vậy cuốn :Thời Hùng Vương và bí ẩn lục thập hoa giáp" có thêm chương V.

Tôi chẳng nói dối khoe khoang làm gì. Nhưng sự thật là như vậy. Họ sai lầm rất cơ bản, nên tôi có thể chỉ ra rất nhanh cái sai của họ ở đâu.

Tôi rất tự tin - chân lý chỉ có một. Rất hy vọng anh cho biết nguyên nhân nào để có quan điểm phủ nhân giá trị văn hóa sử truyền thống Việt như vậy.

Tôi sẽ chí ngay cái sai của nó.

....

Trên kệ sách con có cuốn này...hic... :lol: . Chú TS có cần con trích dẫn gì không?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trên kệ sách con có cuốn này...hic... :lol: . Chú TS có cần con trích dẫn gì không?

Cảm ơn Crescent. Sau đó - 1999 - vài năm chú cũng dành dụm mua được cuốn sách này và vài cuốn sách khác của ông Đào Duy Anh. Trong đó có cuốn "Việt Nam văn hóa sử cương". Ở đấy, ông Đào Duy Anh có định nghĩa "văn hóa là sinh hoạt". Híc! Thảo nào! Với một bậc thày như vậy, nên sản xuất ra cái đám "hầu hết" phủ nhận văn hóa truyền thống Việt.

Chú thì chẳng cần tiếng tăm, danh vọng, địa vị quái gì cả. Bởi vậy, cách hành văn của chú đôi lúc ảnh hưởng văn phong làng Vũ Đại. Cái chú cần là chân lý phải được sáng tỏ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ghi chú của Tăng Hồng Minh

Giáo-sư Mohamed Khalid (Nhân chủng học Iran) hỏi:

- Tôi nghiên cứu hầu hết các thuyết nói về nguồn gốc tộc Hoa. Tôi thấy dường như người ta ðều cho rằng tộc Hoa tự sinh ra, rồi di chuyển ði các nõi: Ra biển thành người Nhật, Nam-dương, Phi-luật-tân. Xuống Nam thành người Việt, Miên, Lào, Thái, Miến. Lên Bắc thành Ðại-hàn, Mông-cổ, sang phía Ðông-Bắc thành người Trung Ðông. Có ðúng thế không?

Lạ hoắc !.

Có lẽ thế này thì đúng hơn.

Tộc Hoa tự sinh ra - như Tôn ngộ Không ấy. Rồi di chuyển ra các nơi - đi ăn cướp. Ra biển thì làm mồi cho Cá. Xuống Nam thì bại trận. Lên Bắc để xây vạn lý trường thành, hy vọng cái bức tường vô tri che chở cho loại "con trời". Sang phía tây thỉnh Kinh - đi học !. Lên rừng thì thành Khỉ. Xuống dưới đất thì thành Giun. Lên trời thì thành ruồi, nhặng ?. Có đúng thế không ?.

Chưa biết đúng hay không ?. Nhưng lịch sử TQ thì đã chứng minh !.

Hi hi ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vâng, đây chính là điểm mấu chốt mà tôi đang muốn nói đến. Xin lần lượt post các bài liên quan bên topic các hang động mới phát hiện ở Quảng Bình, có lẽ sẽ hơi dài dòng, nhưng tôi sẽ post hết và không cắt xén.

Anh Trần Phương thân mến.

Mặc dù anh chưa chính thức đưa các bài viết của những nhà nghiên cứu cổ sử vào đây. Nhưng qua vài bài viết mà anh đăng trong topic "Phát hiện thêm 3 hang động..." có liên quan đến ngôn ngữ Việt cổ, tôi đã mường tượng ra phương pháp luận của họ.

Tôi rất mong anh đưa bài lên sớm.

Share this post


Link to post
Share on other sites