Guest Dienbatn

Phong Thủy Luận - Bài 2

1 bài viết trong chủ đề này

" thiên lộc" là đại cát; cửa đi và cửa sổ từng phòng trong nhà rơi vào các chữ " tử tôn" , "hoạnh tài" , "tuấn nhã" , " yên ổn" là đại cát; cửa bếp, bệ bếp nếu rơi vào các chu " thanh quí" , "mỹ vị" là đại cát; cửa đi, cửa sổ thư phòng nếu rơi vào các chữ "trí tuệ", "thông minh" là đại cát. Do độ dài của thước thời xưa và thời nay khác nhau, cho nên khó xác định độ dài tổng cộng của thước Lỗ Ban là bao nhiêu. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì con số ấy là 29,7 cm.

Môn Quang xích: Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Trên mặt chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 4 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. (Xem hình vẽ ở trang 347 nguyên tác). Dùng để đo kích thước nhà cửa. Lấy chiều ngang, chiều dọc, nếu rơi vào chứ cát tường (tài, nghĩa, quan, bản) là cát, rơi vào chữ hung là hung. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì độ dài tổng cộng của thước Môn quang là 42, 76 cm.

Sơn tổ : Tổ tiên của các mạch núi. Còn gọi là Tổ Long, tức núi Côn

Nam long : Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền nam Trung Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt Hoàng Hà, đến núi Chung Nam thì tách khỏi Bắc Long mà chạy xuống phía nam, đến Thượng Lạc (nay là huyện Thường, tỉnh Thiểm Tây), vượt Hán Thủy, đến núi Kinh, men mạch núi Đại Ba chạy xuống phía đông nam, lại vượt Trường Giang, đến Hoành sơn, men phía đông Nam Lĩnh, tới Phúc Kiến, Chiết Giang mà ra biển. Thuật Phong thủy cho rằng mạch núi Nam Long phần nhiều kỳ vĩ, ở Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh) tạo thành địa thế hiểm trở, là đất đế vương phát tích.

Bắc long : Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền bắc Trung Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt Hoàng Hà, đến núi Chung Nam, Hoa sơn, lại vượt Hoàng Hà mà quành lên phía bắc, qua núi Vương ốc, núi Thái Hành, chạy sang phía đông, đến Liêu Đông thì dừng. Thuật Phong thủy cho rằng Bắc Long là đất kết tuyệt vời, với các đỉnh núi cao ngất trời, được Hoàng Hà và sông áp Lục ôm ấp trước sau, cùng với mạch núi Yên sơn tạo nên cơ nghiệp đế vương ngàn năm.

Trung long : Một trong 3 đại hành Long, chỉ mạch núi nằm ở khoảng giữa Nam Long và Bắc Long. Phần đầu nó đồng hành với Nam Long, đến Tần Lĩnh thì hướng sang phía đông, qua mạch núi Đại Biệt mà ra biển. Mạch núi này không có thế liên tục rõ rệt, chỉ là do vua cha của Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương được an táng tại Phụng Dương, tỉnh An Huy, nên người đời Minh thần bí hóa Trung Long một cách khiên cưỡng.

Khiếu lĩnh : Mạch núi. Thuật Phong thủy dùng để đặc chỉ mạch núi ở miền tây nam, thuộc Nam Long. .

Tái viên : Thời xưa gọi vùng biên giới phía bắc là Tái viên. Thuật Phong thủy dùng để chỉ mạch núi miền đông bắc, thuộc Bắc Long.

Toàn khu : Hình thế núi. Chỉ mạch núi khởi từ đường chân trời, có đầu có đuôi. Thái tổ ở nơi xuất phát cao lớn hùng vĩ, đoạn giữa liên tục, nhấp nhô, phần cuối kết huyệt có tình, triều sơn và án sơn phía đối diện ngay ngắn đoan chính. Chỉnh thể trông như toàn bộ thân mình đầy đủ của một con rồng, như vậy thì sinh khí tự nhiên thỉnh vượng, an táng sẽ đại cát.

Phân chi : Hình thế núi. Chỉ mạch núi chính tách ra mấy mạch nhánh, các ngọn núi nhô cao, xếp đặt có thứ tự lớp lang. Chỉ cần Tổ sơn cao lớn hùng tráng, thì sinh khí của các mạch nhánh cũng sẽ thịnh vượng, an táng sẽ đại cát.

Ẩn phục : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tuy có ngọn núi không cao to lắm, nhưng nhấp nhô chạy đến, liên tục không đứt, lúc ẩn lúc hiện, đến ngay trước mắt. Long ẩn phục có sức mạnh lâu dài, an táng sẽ cát. Thực tế tương đương ẩn Long. Xem mục ẩn Long.

Lĩnh quần long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở giữa, được các ngọn núi xung quanh tiền hô hậu ủng, nghiễm nhiên nó trở thành thủ lĩnh, an táng sẽ cát.

Sinh long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi cao đẹp, nhấp nhô lên xuống, uyển chuyển chạy đến một cách sinh động, đồng thời có khá nhiều mạch nhánh, giống như cành lá phân bố đồng đều, như con rết lắm chân, hoặc không có mạch nhánh, nhưng giống như chuỗi ngọc đẹp. Sinh Long có tương ngũ hành thuộc hỏa, an táng sẽ cát.

Phi long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi sinh động khoáng đạt, có 2 mạch nhánh như hình chim nhạn giang cánh, phượng hoàng sải cánh ôm ấp huyệt mộ; an táng sẽ cát.

Đằng long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tương đối thấp, nhưng dần dần đi cao lên, với các đỉnh núi đẹp, thân núi dày rộng. Phải chọn huyệt tại đỉnh núi, gọi là định Thiên huyệt; an táng sẽ cát.

Giáng long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát cao đẹp lạ thường, nhưng mỗi lúc đi một thấp dần, giống như con rồng từ trên trời mây đáp xuống biển xanh. Giáng Long có sinh khí cực vượng, an táng sẽ đại cát. Có câu ca rằng "Thế nhược giáng Long, thủy nhiễu vân tòng, tước lộc tam công" (Thế như rồng đáp, từ mây cuốn nước, tước lộc sánh ngang chức tam công) (theo sách Quản thị địa lý chỉ mông).

Hồi long : Hình thế núi. Như Phiên Long. Chỉ mạch núi uốn lượn trở lại, đầu đuôi tương ứng, giống như con rồng cuộn mình lại. Hồi Long có tượng ngũ hành là mộc, là đệ nhất Long; an táng sẽ đại cát.

Phiên long : Hình thế núi. Xem mục Hồi Long.

Ngọa long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi đường bệ sừng sững, dáng vững vàng, yên ổn, chân núi thu lại như con hổ dừng chân, con trâu nằm quì. Ngọa Long có sinh khí lâu bền; an táng sẽ cát, tuy phát tích hơi muộn.

Thụy long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi du dương mà đến, thản nhiên bình dị, khí độ ung dung, tinh thần bình tĩnh, giống như mắt rồng nhắm lại, mạch khí ẩn phục, tương tự Ngọa Long, có tượng ngũ hành là thổ; an táng sẽ cát.

Hoành long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tràn ngang qua, tiến thẳng không vòng lại. Nói chung không nên định huyệt; nhưng nếu sa, thủy có tình, có tả hữu hộ vệ, thì cũng có thể an táng gần sống núi, gọi là Phán Long định huyệt. Xem mục Phán Long định huyệt.

Xuất dương long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tứ chỗ đất bằng đột nhiên cao vút lên, siêu quần xuất chúng một mình đẹp đẽ, uốn lượn như rắn bò, giống ngư mãnh thú ra cửa rừng. Xuất dương Long có sinh khí thịnh vượng, sức mạnh rộng lớn, chớ thấy nó đơn độc mà bỏ qua; về tượng ngũ hành, Xuất dương Long là kim, an táng sẽ cát.

Ẩn long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi bàng bạc từ xa mà đến, mạch lạc không rõ, tông tích lừ mờ, như có như không, giống như rồng rắn ẩn hiện; thực ra nó uốn trườn liên tục, sinh khí không hề bị tiết thoát, cứ thế tiến đến thẳng huyệt vị. Ở chỗ tận cùng, địa thế tựa như bàn tay để ngửa; định huyệt ở nơi hai dòng nước hội tụ; an táng sẽ cát.

Can long: Hình thế núi. Chỉ một mạch núi chính trong một số mạch núi, cao lớn hùng vĩ, có nguồn gốc từ xa, giống như thiên mã hành không (ngựa trời phi trên không trung), khí tượng tôn quí, có vô số núi hai bên hộ vệ. Can Long có sính khí cực vượng, nếu triều và án sơn có tình, thì an táng đại cát, chủ con cháu đời đời làm quan to.

Chi long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tương đối nhỏ tách ra từ mạch núi chính, thấp và ngắn hơn núi chủ. Sinh khí của Chi Long không vượng, nếu an táng ở đó, con cháu chỉ bình thường mà thôi.

Bình nguyên long: Địa hình. Đồng bằng không có núi, lấy gò đống làm Long. Nếu không có cả gò đống, thì lấy chỗ đất hơi cao làm Long, như câu "Đất cao 1 tấc cũng là núi". Nhưng nếu dùng sức người đắp đất cao lên thành gò thì không Phải là Long. Hoặc lấy thủy đạo làm Long. Xem mục Thủy Long.

Giáp phụ long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi nhỏ hơn ở hai bên mạch núi chính, như cành lá tách ra tứ thân cây hình thế thâm thúy; an táng sẽ cát.

Ứng long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi đối diện với Lai Long; cần phải ngay ngắn có tình, hô ứng với Lai Long. Nếu Lai Long không có ứng, thì không phải là Chân Long; Ứng Long không có chủ thì cũng không phải là Chân ứng.

Sát long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hung dữ, đá cứng sần sùi, nhọn sắc như lưỡi dao, mũi tên, hiểm ác dị thường; an táng ở đó con cháu sẽ gặp nhiều tai họa, hung hiểm.

Kiếp long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tán loạn, không phân chính phụ, sinh khí không tụ; an táng sẽ đại hung.

Phúc long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn ốc thâm hậu, hình thế tổ tông hoàn hảo, có các núi hai bên hộ tống. Phúc Long có sinh khí thịnh vượng; an táng được phúc. Dù tình huống nơi kết huyệt không thật như ý, cũng có thể căn cứ địa hình cụ thể mà chọn huyệt mộ.

Bệnh long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi uể oải, lúc liền mạch lúc đứt quãng, sạt lở, nhiều hầm hố, do đó sinh khí bị thất thoát, không nên mai táng. Nếu miễn cưỡng kết huyệt, chủ con cháu cô hàn.

Tiến long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn gốc cao lớn, lần lượt thấp dần tổ tông cha mẹ phân minh, giống như ngựa trời phi xuống ráng mây. Nếu phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi tựa hồ cao dần lên, an táng sẽ khiến con cháu làm quan to; tương tự Giáng Long.

Thoái long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi sau khi xuất phát cứ từng bước cao dần. Nếu ở phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi cứ tựa hồ thấp xuống, như lúi lại, thì an táng sẽ hung. Dù được huyệt đẹp, con cháu cũng chỉ phát phúc một đời, khó tránh khỏi bần cùng.

Thuận long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trập trùng chạy đến, các mạch nhánh hai bên đối xứng, phía trước có dãy núi bao bọc hộ vệ, bản thân nó nhấp nhô rõ ràng với nhiều mạch nhánh. An táng sẽ cát.

Nghịch long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi chạy đến không thuận, chạy xéo đi không ngoảnh lại, các ngọn núi phía trước và hai bên huyệt quay đầu đi mỗi cái mốt hướng, như anh em chẳng buồn quan tâm đến nhau. Không nên mai táng.

Cường long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hùng tráng, linh hoạt khí khái, mạch nhánh hai bên có lực. Nếu an táng ở chỗ cuối của mạch núi, con cháu sẽ lập tức trở nên phú quí.

Nhược long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trơ trọi đơn bạc, cỏ cây lơ thơ, tựa như con trâu gày trơ xương, ngã quỵ xuống đất, như con hạc gày không có gì ăn, rụng hết cả lông. Nhược Long quá ít sình khí, không nên mai táng.

Tử long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi lở lói, hình thể lở loét, không thể gượng dậy nổi, không có mạch nhánh hộ vệ, như cá mắc cạn, như cây không cành lá, chẳng nên mai táng.

Thái tổ: Hình thế núi. Còn gọi là Tổ sơn, Thái tổ sơn, phát tướng. Chỉ đỉnh núi ở nơi mạch núi xuất phát, đột nhiên nổi lên cao sừng sững, trấn giữ một phương, là đỉnh núi cao to nhất trong vùng. Từ đây có một hoặc nhiều mạch nhánh xuất phát mà trườn đi như rắn bò. Thái tổ phải cao chọc trời, hùng vĩ trang nghiêm, đường bệ đáng kính. Thuật Phong thủy lấy quan hệ gia tộc thời cổ đại để ví với địa mạo. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ, tiếp đến Thái tông, Thiếu tổ, Thiếu tông, Phụ mẫu (cha mẹ), Tử tôn (con cháu), trong đó con cháu chỉ triều và án sơn. Xem các mục bên dưới.

Tổ sơn: Tức Thái tổ. Xem mục Thái tổ.

Phát tướng: Hình thế núi. Tức Tổ sơn. Xem mục Tổ sơn

Thái tông: Hình thế núi. Tức Thái tông sơn. Chỉ đỉnh núi tiếp sau chỗ xuất phát, thấp nhỏ hơn Tổ sơn một chút, là phần đầu của mạch núi.

Thiếu tổ: Hình thế núi. Tức Thiếu tổ sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau Thái tông trong mạch núi, là phần hệ trọng của Long. Nếu hai cánh mở ra, cao to đoan chính là cát; nếu thấp nhỏ cô đơn là ít sinh khí.

Thiếu tông: Hình thế núi. Tức Thiếu tông sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau thiếu tổ trong mạch núi, tiếp cận chỗ của mạch núi, nếu rõ ràng mạch lạc và liên tục là cát.

Phụ mẫu: Hình thế núi. Chỉ nơi nhập thủ của mạch núi, mạch núi tới đó thì dừng. Phải nguy nga cao đẹp, lại lại có thế đi xuống. Ca quyết nói : "Vấn quân hà giả vi phụ mẫu, huyệt hậu nga nga tủng nhất sơn" (Xin hỏi thế nào là núi cha mẹ, là sau huyệt có một ngọn núi cao vút nguy nga). (Theo sách Kham dư mạn hưng).

Tử tôn: Hình thế núi. Tức triều và án sơn. Chỉ dãy núi đối diện với Lai Long. Sau khi mạch núi đã tận cùng, cần có đất dung nạp huyệt mộ và sa ở hai bên tả hữu. Ngay phía trước huyệt mộ, phải có núi cao với diện mạo như chào đón, gọi là Tử tôn (con cháu) của Long.

Giáng thể : Hình thế núi. Chỉ nơi Lai Long nhập thủ phải có hình thế từ cao trải xuống thấp dần, để địa thế dần dần trở lại bằng phẳng, tiện lợi cho việc dựng nhà xây mộ.

Chẩm kháo: Hình thế núi. Chỉ đồi núi ở sau lưng nhà ở hoặc phần mộ, nói chung là nơi tận cùng của Lai Long, cũng chính là Huyền Vũ. Chẩm kháo có nghĩa là đối đầu dựa vào phía sau.

Tam thoa: Hình thế núi . Tam là 3 , thoa là giao nhau. Chỉ mạch núi ở chỗ nhập thủ giao nhau như hình chữ "cá" (của tiếng Hán), nên còn gọi là "Cá tự" . Hai mạch nhánh chạy ở hai bên phía trước là Long, Hổ, huyệt vị nằm ở giữa chỗ giao nhau, hai bên có dòng nước kèm theo, ví như cái trán trên mặt người.

SƠN HÌNH VÀ ĐỊA HÌNH

Long mạch núi (sơn mạch) : Vốn là tên một con vật mang lại may mắn, theo truyền thuyết cổ đại Trung Quốc. Thuật Phong thủy mượn để chỉ mạch núi có sinh khí, nhấp nhô uyển chuyển như hình con rồng, nên gọi mạch núi, thế núi là Long. Âm dương nhị trạch toàn thư : "Sự vận hành nhấp nhô của mạch đất (địa mạch) gọi là Long". Sinh khí vận hành trong lòng đất, không thể trực tiếp nhìn thấy, mà chỗ sinh khí thịnh vượng biểu hiện là mạch núi. Cho nên, Long là sinh khí sớ tại, Long đi thì khí đi, Long dừng thì khí dừng. Đất là mẹ của khí, khí dày ắt núi cao, khí dài ắt Long dài. Khí là mẹ của thủy, Long đi ất thủy tùy theo, thủy ngăn lại ắt Long dừng. Long gắn liền với sinh khí , dòng nước, chẳng thể tách riêng. Long dừng khí tụ, ắt là đất lành, có thể làm nhà xây mộ. Do mạch núi thiên hình vạn trạng, nên Long có hàng loạt tên gọi. Các bộ phận của mạch núi cũng có sự phân biệt thành các bộ vị khác nhau trên thân Long. Mạch núi có đất, đá, cỏ cây, trong đó đất là thịt của Long, đá là xương của Long, cây cỏ là da lông của Long. Ở vùng đồng bằng không có núi, thì chỗ hơi nhô cao lên là Long. Ở vùng đất thấp trũng, thì thủy đạo (đường nước) là Long, gọi là Thủy Long. Để phân biệt với mạch núi, thế núi của mạch núi gọi là Sơn Long. Thẩm Long hình, biện Long mạch, định vị trí của nhà cửa và huyệt mộ, là nội dung quan trọng hàng đầu của thuật Phong thủy.

Lấy mạch núi chỉ sinh khí, dùng cha Long cho thêm thần bí, là mặt hạn chế của thuật Phong thủy. Còn mượn cách tìm Long để lặn lội khảo sát hoàn cảnh địa hình thích hợp cho việc dựng nhà xây mộ, là mặt có giá trị của thuật Phong thủy.

Địa mạch : Tức mạch khí dưới lòng đất, sự vận hành lên xuống của nó biểu hiện ở mạch núi trên mặt đất, cũng là "Long" trong thuật Phong thủy vậy.

Long mạch Mạch núi. Nơi sinh khí vận hành. Thuật Phong thủy gọi mạch núi là Long. Long có mạch khí vận hành trong đó gọi là Long mạch.

Tầm long : Còn gọi là "mịch Long". Tức là khảo sát toàn diện và thăm dò đo đạc hoạt động của chủ sơn (núi chính), là bước thứ nhất trong nội dung của thuật Phong thủy. Phương pháp tiến hành cụ thể là : trước hết, phải xem mạch núi bắt nguồn tử xa hay gần, tổ tông của nó cao to chừng nào, cha mẹ của nó ở đâu, tiến thoái rõ ràng hay không; hai bên mạch núi có các chi nhánh nhấp nhô như hộ vệ hay không, nếu có nhiều thì đại (rất) quí; thứ đến trung quí (quí vừa), tiểu quí; cuối mạch núi cần có thế thoải xuống, đằng trước cần có thủy lưu uốn quanh, hai bên có dãy núi hộ vệ, như vậy thì sinh khí mới dừng tụ, gọi là Chân Long. Long chia ra âm dương, đại thể mạch núi chạy sang bên trái (hướng đông) là dương, chạy sang bên phải (hướng tây) là âm. Lại coi mạch núi thuộc phương vị dương chạy đến là dương, mạch núi thuộc phương vị âm là âm. Khi tầm Long, phải chú ý điều hòa phương vị âm dương. Nguyên tắc chung của tầm Long là nó phải tụ, nghĩa là mạch chính rõ ràng, uyển chuyển tiến về phía trước, không nên phân tán thành nhiều mạch nhánh khó tìm. Ở chỗ Long dừng lại, tức chỗ cuối mạch núi, cần có thủy ôm ấp sinh khí tụ tập; nếu không, sinh khí sẽ thoát đi nơi khác, là đất hung. Phương vị của nơi mạch núi nhập thủ cũng có qui định phức tạp, đại thể nếu từ phương bắc nhập thủ là cát Tầm Long là nội dung trọng yếu của thuật phong thủy. Những tổng kết về mạch núi và một số nguyên tắc là kết tinh vốn kinh nghiệm lâu dài.

Lai long : Tức núi chính (chủ sơn). Chỉ mạch núi chủ yếu ở giữa, cao lớn nhất. Lai Long đồng hành với mạch khí, là nơi sinh khí thịnh vượng, có thể dựng nhà xây mộ, tức là nhừ Lai Long mà đấc sinh khí. Bởi vậy, trước tiên phải khảo sát phương vị, hình dáng của Lai Long để định cát hung.

Chủ sơn: Địa hình, tức Lai Long. Chỉ mạch núi hoặc ngọn núi chủ yếu ở phía sau huyệt mộ hoặc nhà ở, là nơi có mạch khí, sinh khí theo đó mà đến. Xem mục Lai Long.

Tổ long : Mạch núi. Còn gọi là Sơn tổ. Chỉ nơi xuất phát của mọi mạch núi trong thiên hạ, tức núi Côn Luân. Côn Luân có hình thế cao lớn hùng vĩ, chúa tể thiên hạ. Tổ Long tách ra 2 đại hành Long là Nam Long và Bắc Long. Có thuyết nói chia ra 3 đại hành Long, nghĩa là có thêm Trung Long. Tổ Long và hành Long là nơi sinh khí tổng hội tụ, dựng nhà xây mộ tại đó thì đại cát.

HUYỆT MỘ, HUYỆT PHÁP VÀ TÁNG PHÁP

Huyệt : Địa hình. Chỉ huyệt mộ hoặc mảnh đất sở tại, nơi tận cùng của Lai Long, sinh khí hội tụ, có hai sa tả hữu bảo vệ, có thủy ngăn lại phía trước. Huyệt quan hệ mật thiết với mạch khí, hơi xê dịch, tức là thoát sinh khí. Phép định huyệt vô cùng phúc tạp. Trước tiên phái xác định vị trí hai bên cao thấp, tiếp đó nhận đúng tọa hướng, thứ ba là phải phối hợp với hình thế bốn phía; bốn là xác định độ nông sâu thích đáng. Nguyên tắc chung là vừa có được sinh khí nuôi dưỡng, vừa tránh ba cái hại là bị gió thổi, nước xối và kiến đục. Có rất nhiều yêu cầu cụ thể, ví dụ, huyệt ắt phải có môi, tức Táng khẩu, phải có trán, tức Cầu thiềm; phải có hai thủy giao hợp, tức thủy Hà tu và thủy Hợp khâm. Do Lai Long, hai sa Long Hổ và ứng án phía trước có hình dạng khác nhau, huyệt cũng phải có vị trí biến đổi tương ứng, nên có khi huyệt ở đỉnh núi, ở sườn núi, ở chân núi, lại khác nhau như trực thụ, trắc thụ, nghịch thụ. Huyệt cao không nên chênh vênh, huyệt thấp không nên lặn mất; huyệt nổi rõ không nên vội vã; huyệt tĩnh không nên huyên náo. Huyệt của núi cao, ắt phải ở chỗ hơi lõm; huyệt tại vùng đồng bằng, nên ở chỗ hơi nhô cao. Hình của huyệt hoặc hiền như hoa, căng như nỏ, hoặc như bàn tay để ngửa, như miệng hổ, hoặc như vú xệ, như lỗ rốn... Trong một vài trường hợp cũng có thể dùng sức người cải tạo địa hình cho phù hợp với yêu cầu kết huyệt. Mục đích cuối cùng của hàng loạt hoạt động Phong thủy âm trạch là tìm cho được huyệt địa lý tương, phương pháp vô cùng phức tạp, gắn liền với cát hung họa phúc. Ngoài nội dung mê tín, một số phương pháp rất chú trọng việc báo vệ thi thể và môi trường tự nhiên.

Thổ huyệt : Huyệt mộ trong đất. Còn có huyệt ở núi đất núi đá. Thổ huyệt trên núi đất, chọn chỗ chất đất mịn nhỏ, chắc chắn là cát (lành), nếu quá ẩm thấp, tơi tả thì hung; trên núi đá thì mở huyệt ở chỗ có đất màu hồng và màu vàng thì cát.

Thạch huyệt : Huyệt mộ trong đá. Còn có sự khác nhau ở núi đất, núi đá. Thạch huyệt trên núi đá, chọn chỗ đá mềm, ấm, dễ đào khoét là cát; trên núi đất thì mở thạch huyệt ở chỗ đá có màu tím và màu trắng, chất đá mềm ấm là cát, nếu chất đá cứng khô là hung.

Bối tù chi huyệt : Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ sườn núi u ám, ẩm thấp. Táng ở đó sẽ bị kiến đục và nước xối lở, không cát lành.

Đằng lậu chi huyệt : Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ mạch núi xung quanh huyệt bảo vệ không chu đáo, hoặc trên sống núi có chỗ khuyết. Táng ở đó sẽ bị gió thổi, không cát lành.

Bất cập chi huyệt : Chỉ huyệt mộ mà ở ngay phía trước không có án sơn, triều sơn, khiến Ao phong thổi thẳng vào, đời con cháu sẽ bị tuyệt tự, hung.

Bất súc Chi huyệt : Chỉ huyệt mộ nằm ở chỗ không có mạch núi bảo vệ, gió cứ thổi thốc vào, khiến xương cốt mau bị hủy hoại, hung.

Tứ trấn thập tọa: Huyệt pháp. Tức căn cứ hình thế của Lai Long để xác định chỗ đặt huyệt mộ. Trấn, nghĩa là trấn thủ; tọa, nghĩa là tọa lạc. Tứ trấn tức là trấn đầu Long, trấn gáy Long, trấn bụng Long, trấn chân Long (có khi nói là trấn lưng Long). Tức là căn cứ hình thế hướng đi của mạch núi mà lựa chọn bộ vị tọa lạc của huyệt mộ. Nói chung, Long chạy thẳng đến, trấn đầu Long, tức là huyệt ở chỗ tận cùng, còn gọi là Tông Long. Long nằm ngang, trấn gáy Long, tức là huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, nên gọi là huyệt bám vào sống núi, hoặc Phán Long. Long cuộn khúc, trấn bụng Long, tức là huyệt ở chỗ đầu ngoảnh nhìn lại phía trong sườn núi, còn gọi là Ky Long. Long cao to bàng bạc, trấn chân Long, tức là huyệt ở chân núi, còn gọi là Thửa Long. Do "tứ trấn" mà sinh "thập tọa". Trấn đầu Long ắt tọa tai Long, mũi Long, trán Long, bờm Long; mà tránh đuôi Long, sừng Long, răng Long, mắt Long. Trấn gáy Long, ắt tọa vai Long, gáy Long; mà tránh lưng Long, cổ Long. Trấn bụng Long ắt tọa rốn Long, vú Long; mà tránh ngang lưng Long, sườn Long. Trấn chân Long ắt tọa cổ tay Long , mắt cá chân Long; mà tránh khuỷu chân Long, móng chân Long. Có nhiều tiêu chuẩn nói về tứ trấn thập tọa khác nhau đôi chút, lại có thuyết nói thập nhị tọa, thực ra đều biểu thị một cách hình tượng sự lựa chọn bộ vị tốt nhất để định huyệt.

Tông long : Huyệt pháp. Mạch núi từ xa chạy thẳng tới định huyệt ở chỗ tận cùng của mạch, thì gọi là Tông Long, hoặc trấn đầu Long. Hình của nó như nhụy hoa, trông ngay ngắn. Ky phía trước Lai Long không có dãy núi che chở, bị ác phong thổi thẳng vào làm tiêu tán sinh khí. Xem mục Tứ trấn thập tọa.

Kỵ long : Huyệt pháp. Mạch núi quay đầu ngoảnh lại nhìn phía đuôi, trông như vòng tròn, định huyệt ở chỗ lõm núi mà đầu Long quay lại, lấy đuôi Long làm án sơn, thì gọi là Ky Long, hoặc trấn bụng Long. Hình của nó trông như gian chính của tòa nhà, phía trước huyệt có dãy núi chắn gió. Kỵ đối diện với sơn khẩu, gọi là "Kiềm lưu trực huyền", nghĩa là dãy núi hai bên dốc thẳng xuống, sinh khí theo đó mà thất thoát hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa.

Phán long : Huyệt pháp. Mạch núi chạy ngang, thẳng về phía trước, không quay đầu nhìn lại, định huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, thì gọi là Phán Long, hoặc trấn gáy Long. Hình của nó giống như huyệt Kiên tỉnh lúc thân người đang nằm. Tối kỵ không có huyệt Kiên tỉnh và Hạ sa không ôm vòng, thủy Bát tự (thủy hình chữ "bát") không tụ lại, không có sinh khí, hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa.

Thừa long : Huyệt pháp. Mạch núi cao to bàng bạc, nhấp nhô tiến tới; định huyệt ở khoảng giữa chân núi và vùng đồng bằng, thì gọi là Thừa Long, hoặc trấn chân Long.

Hình của nó như ánh mắt lờ đờ, ngụ ý thế núi đã hết, nhưng mạch khí vẫn còn, ở chỗ đất bằng tuy khó tìm dấu vết, song vẫn là đất lành. Ky mất thế mất mạch, cô đơn không chỗ dựa. Xem mục Tứ trấn thập tọa.

Tam đình : Huyệt pháp. Vốn là thuật ngữ khoa xem tướng, chỉ 3 phần trên mặt người : phần trán là thượng đình, phần mũi là trung đình, phần miệng là hạ đình; hoặc chi 3 phần trên thân thể người : phần đầu là thượng đình; phần từ vai đến eo lưng là trung đình; phần tử eo lưng xuống chân là hạ đình. Lý luận Phong thủy cho rằng tướng núi giống như tướng người, nên lập huyệt Tam đình, gọi là Thiên đình, Trung đinh, Địa đình. Huyệt thiên đình nằm ở nơi cao nhất, đòi hỏi Lai Long lớn và xa, thế xuống như mây vờn, hai bên phía trước có hộ vệ nghiêm mật, Minh đường ở phía dưới . Huyệt trung đình thì mạch núi uốn lượn, trong vuông ngoài tròn, rất chú trọng hình thế bốn phía xung quanh, đòi hỏi Minh đường phải rộng rãi sáng sủa. Huyệt hạ đình nằm ở vùng đất bằng, nhưng không được tách khỏi mạch khí, đòi hỏi Thủy thành phải như hình cầu vồng ôm ấp kín đáo.

Thập nhị trượng pháp : Huyệt pháp. Còn gọi là Thập nhị đảo trượng, là phép Thừa Long định huyệt do Dương Quân Tùng đởi Đường sáng lập. Phương pháp này căn cứ thế đến khác nhau của mạch núi mà qui định cách định huyệt khác nhau, như thuận trượng, nghịch trượng thúc trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên trượng, ly trượng, một trượng, đối trượng, phạm trượng, tiệt trượng, đốn trượng; tổng cộng 12 trượng. Ngoài 12 trượng, còn có hình thế núi đặc thù, tạo thành 17 phương pháp kết huyệt, như thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm thúc, nghịch trượng kiêm thuận, đại thể lấy thuận trượng và nghịch trượng làm phương pháp cơ bản, kiêm với phương pháp khác, rất cụ thể tường tận. Thập nhị trượng pháp có ánh hưởng rất lớn trong Phong thủy âm trạch, một số nguyên tắc trở thành tiêu chuẩn mà các Phong thủy sư đều tuân theo.

Thuận trượng : Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thuận theo mạch chính của Lai Long. Yêu cầu lực lượng của Lai Long phải hậu trọng, thế đến hơi hòa hoãn, hơi uốn lượn; định huyệt phải chính giữa mạch khí, dung 4 phép Cái huyệt, Chương huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt. Huyệt loại này cực quí, chủ con cháu làm vương hầu, trạng nguyên.

Nghịch trượng : Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ngược với mạch chính của Lai Long. Yêu cầu Tổ sơn phải cao vút, nhấp nhô chạy thẳng đến trước mặt.

Định huyệt thì lấy Tổ sơn làm Triều sơn, dùng 4 phép Niêm huyệt, Tịnh huyệt, Câu huyệt, Tà huyệt. Mạch núi phía trước không được chĩa thẳng vào huyệt, nên huyệt phải cách mạch khí vài thước, ngược đón mạch khí. Huyệt loại này phát phúc lâu dài.

Thúc trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long dài mà kết thế ngắn, khí tụ ở trên đỉnh, định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở chỗ sống núi co lại. Yêu cầu chỗ tận cùng của đỉnh núi phải hơi nhô, sinh khí tụ tại đó giống như huyệt Bách hội trên đỉnh đầu con người; dùng 2 phép Cái huyệt và Thôn huyệt. Do huyệt ở chỗ khá cao, rất sợ gió thổi, nên bốn phía phải cao tương ứng, Minh đường viễn tụ. Thúc trượng nên cao, không nên thấp; nếu thấp sẽ bị núi bốn phía lấn át.

Xuyết trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có thế đến hùng vĩ mà lục lượng nhỏ nhẹ, đến thẳng mà xuống gấp, cần thoát mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Mạch và huyệt lúc liền lúc rời, như thể dùng chỉ khâu áo, nên có tên như vậy (xuyết nghĩa là khâu). Yêu cầu huyệt phải ở cách mạch khí hoặc 1 - 2 thước, hoặc 3 -4 thước, không cao không thấp; thường dùng 2 phép Niêm huyệt và Trụy huyệt. Nếu huyệt cách mạch

quá gần, khó tránh bị xung sát, nếu cách quá xa, sinh khí không được tiếp nối.

Khai trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long xộc thẳng đến như kẻ xung sát đáng sợ, cần né sang hai bên mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thành 2 huyệt; dùng 3 phép Ỷ huyệt, Ai huyệt và Tịnh huyệt, để huyệt mộ tránh bị xung sát mà tiếp nhận sinh khí từ bên cạnh. Yêu cầu phải quan sát xem Minh đường, sa thủy, Triều sơn và án sơn qui tụ tại phương nào. Huyệt cách mạch 2 - 3 thước, gọi là mượn mạch lập huyệt, chủ phát đạt mau chóng.

Xuyên trượng : Huyệt pháp. Chỉ mạch núi đến ngang hoặc đến xéo, định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) tại chính diện, giống như dùng chỉ xỏ lỗ kim, tra cán búa, khí nhập vào eo lưng. Yêu cầu Lai Long từ xa đến thẳng, không tách thành các nhánh, tứ ứng đều tốt; dùng 3 phép Sáp huyệt, Chương huyệt, Cái huyệt. Mạch khí chỉ có thể đi vào từ eo lưng, không được xung não, sau khi mai táng chủ phát phúc lâu dài.

Ly trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có khí thế hùng vĩ, đang chạy đến thì bỗng nhiên sững lại, tụt xuống biến mất tại đồng bằng, cần tách khỏi mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Long mạch đang nhấp nhô chạy về phía trước, đến chỗ kết huyệt bỗng dàn trải thoáng rộng, tựa như con rắn con ve lột xác, sinh khí không tụ, cách mạch 2 - 3 thước ở phía trước tất có chỗ lõm đột ngột, sinh khí tụ lại ở đó; định huyệt tại đây rất tốt.

Dùng 3 phép Cái huyệt, Tịnh huyệt và Trụy huyệt. Huyệt không nén sâu.

Một trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long uốn lượn xuống gấp mà chỗ tận cùng lõm hãm sinh khí đến đó thì hết; định huyệt (kết huyệt thụ huyệt) chỗ lõm, chìm vào mạch khí. Yêu cầu Lai Long phải có hình thế cao lớn, đến trước huyệt thì uốn lượn sang hai bên rồi vòng lại, kết thành lõm núi, xung quanh cao, huyệt mộ tàng ẩn ở sâu bên trong. Dùng 5 phép Chương huyệt, Sáp huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt, Giá huyệt. Nếu chỗ lõm quá nhỏ, có thể dùng sức người đục đẽo để tạo huyệt.

Đối trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long cao thẳng to lớn, ở chỗ nhập thủ bỗng nhiên thấp xuống, trải ra bằng phẳng, không có chỗ lõm, chỗ kẹp, nên định huyệt ( kết huyệt, thụ huyệt) ở giữa mảnh đất đó, hoặc ở chỗ tiếp giáp giữa phần cao với phần thấp. Do mạch Đối trượng cao mà gấp, xung sát liên tục, nên nửa cát nửa hung, khó biết thành bại.

Tiệt trùng : Huyệt pháp. Chỉ mạch khí của Lai Long không mạnh mẽ, chưa đến chỗ tận cùng thì dừng thâu mạch khí mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Yêu cầu chân núi của Lai Long phải khá dài, lập huyệt ở chỗ mạch khí chưa tận cùng; huyệt cao ắt bị gió thổi, huyệt thấp ắt bị băng đè, nên cần ngăn chặn mạch khí, làm cho sinh khí không bị tiết thoát, đó là điểm cốt yếu của Tiệt trượng.

Phạm trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long ngắn nhỏ, hòa hoãn, nên định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở trên mạch; nếu lập huyệt ở chỗ tận cùng thì sinh khí quá yếu, kém tác dụng, cho nên phải phạm mạch tọa huyệt để lấy vượng khí; thường dùng 4 phép Chương huyệt, Thôn huyệt, Cái huyệt, Sáp huyệt; đồng thời yêu cầu Minh đường phải rộng, núi sông phải ở phía xa. Có thuyết nói mạch Phạm trượng nguy hiểm, lập huyệt kiều này rất hung.

Đốn (đột) trượng: Huyệt pháp. Chi Lai Long cao lớn hùng vĩ, Tứ ứng đều thấp, nên đắp đất thành gò ở chỗ tận cùng mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Do sinh khí của Lai Long quá vượng, gặp thủy thì dừng mà cuồn cuộn bốc lên, bởi vậy phải đắp đất tạo huyệt để tiếp nhận sinh khí mà không bị xung. Nếu không đắp đất thành gò, huyệt mộ sẽ bị mạch khí bắn thẳng tới, mai táng ở đó con cháu sẽ tán gia bại sản.

Oa kiềm nhũ đột: Địa hình. Thuật Phong thủy cho rằng lập huyệt mộ ở chỗ lõm tròn, là nơi sinh khí hội tụ. Nơi lõm tròn có hình dạng khác nhau, nên có tên gọi khác nhau, trên tròn dưới nhỏ là Oa kiềm, dưới tròn trên lớn là Nhũ, giữa tròn trên dưới nhỏ là Đột.

Bào đột : Địa hình. Ở trong chỗ lõm tròn của huyệt mộ có điểm nhỏ nhô lên, trông như cái bong bóng nước (bào : bong bóng, đột : nhô lên); Nếu trong Oa kiềm có Bào đột, gọi là La văn, đại quí.

Phù thổ: Chỉ thổ nhưỡng của mặt đất ở chỗ có huyệt mộ. Bên dưới nó là Thực thổ.

Thực thổ: Chỉ thổ nhưỡng ở sâu dưới mặt đất, chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Phù thổ, bên dưới nó là Huyệt thổ.

Huyệt thổ: Chỉ thổ nhưỡng ở rất sâu dưới mặt đất chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Thực thổ, trên nữa là Phu thổ. Huyệt thổ ở dưới cùng, như hạt châu dưới vực, như ngọc trong đá; khi đào huyệt mộ tất phải đào tới Huyệt thổ, không được đào xuyên sâu hơn. Vì huyệt thổ tàng chứa sinh khí, nếu chưa đào tới đo thì chưa đắc khí, nếu đào xuyên qua ắt làm tổn thương Long cốt. Phân biệt Huyệt thổ thì căn cứ vào màu sắc va đường vân của đất. Mà sắc của huyệt thố thì trong và nhuận ẩm, đường vân của huyệt thổ thì có nhiều dạng, hoặc như đồ hình Thái cực, hoặc như vỏ ốc, hoặc như lỗ vuông của đồng tiền cổ, vừa vặn dung nạp quan quách; hoặc bao quanh tảng đá, gỡ bỏ tảng đá đi thì thành huyệt. Còn có cách, khi đào tơi huyệt thổ thì dùng ngón tay vê thử, nếu đất thành viên tròn, đó chính là chân thổ (đất thực sự). Sâu dần xuống, đất cứng lại, không thể vê thành viên nhỏ, tức là chân thổ đã hết, nên san lấp lại dày chừng 2 ~ 3 tấc, rồi hãy đưa quan tài xuống.

Tam hại: Tức gió, nước, kiến. Phong thủy âm trạch cho rằng huyệt mộ bị gió thổi, nước xối, kiến đục là 3 cái hại, cho nên phải cẩn thận lựa chọn đất lành, tránh bị tam hại. Nếu chất đất tại huyệt mộ khô vụn, tơi, huyệt mộ không sâu, ắt khó tránh bị kiến đục. Nếu huyệt mộ ở chỗ đất ám ấm thấp, đào xuống quá sâu, thì khó tránh bị nước xói lở. Nếâu xung quanh huyệt mộ sông núi bao bọc không kín, ngay phía trước lõm khuyết, thì khó tránh bị gió thổi. Huyệt bị tam hại thì sinh khí không tụ, xương cốt khó được bảo tồøn nguyên vẹn, nguời chết không yên, người sống gặp họa, đại hung.

Tam cát lục hung: Tam cát nói về huyệt mộ, Lục hung nói về phép mai táng. Tam cát : một là tàng thần hợp sóc, thần đón quỷ tránh; hai là âm dương xung hòa, ngũ thổ tứ bị , ba là mục lực chi xảo (nhìn vừa mắt), công lực chi cụ (công lực có đủ ), chu toàn không khuyết, tăng cao ích hạ. Phải chọn đất mai táng sao cho có thể đón cát tránh hung, điều hòa ngũ hành, bốn phía bảo vệ, dùng sức người tu bổ được, là cát. Lục hung : một, âm dương sai biệt; hai, ngày tháng sai lạc; ba, sức nhỏ đòi làm lớn; trông chờ phúc đức lớn; năm, đội trên đạp dưới; sáu, ứng biến quái dị. Nghĩa là khi mai tang, nếu phạm hung sát, chọn sai ngày giờ cuồng vọng hưởng phúc, đối xử không đúng với người trên kẻ dưới, phá hoại đất lành, nhiều lần gặp chuyện kinh dị, đều là hung. Thuật Phong thúy cho rằng huyệt cát mà táng hung thì chẳng khác gì đem thi thể vứt bỏ đi, rất xấu.

Phong thi : Phép mai táng. phong tục thời cổ, trước khi chôn người chết bèn dùng thủy ngân rót vào các lỗ trên thi thể để bít kín "thất khiếu", đề phòng thi thể khỏi bị thối rữa. Thuật Phong thủy cho răng nếu làm như vậy, thi thể sẽ không thể hóa, sinh khí khó bề nhập vào, chẳng khác gì thủy táng (đem vứt xác xuống sông), đại hung.

Đạo táng : Phép mai táng. Thuật Phong thủy qui định : trước khi đào mộ chôn người chết, phải đem rượu cúng Thổ thần, rồi cắt cỏ ở khoảnh đất ấy thành 3 đoạn, rồi mới đào huyệt mai táng, nếu không sẽ là Đạo táng (chôn trộm), thì hung.

Ái khoảng: Phép mai táng. Khoảng, nghĩa là huyệt mộ. Phong tục ngày xưa, sau khi đào mộ, dùng than hoặc củi đốt nóng để sưởi ẩm trong lòng huyệt, gọi là ái khoảng. Thuật Phong thủy cho rằng, sinh khí gặp lửa sẽ không đến, việc ái khoảng sẽ diệt hết sinh khí, chẳng khác gì hỏa táng, đại hung. Đồng thời phản đối việc dùng gạch nung xây quanh huyệt mộ, vì gạch nung đều được chế tạo qua lò lửa, bên trong vẫn còn khí hỏa; thứ khí hỏa ấy sẽ tấn công sinh khỉ trong đất, tiêu diệt ngũ hành, hung.

Hóa huyệt: Phép mai táng. Tức ái khoảng. Xem mục ái khoảng.

Quan thượng gia quan : Phép mai táng. Phong tục xưa đem người chết sau chôn chung vào huyệt mộ của người đã chết trước, gọi là "quan thượng gia quan", ngụ ý để lấy phúc. Thuật Phong thủy nghiêm cấm việc đó, vì cho rằng huyệt mộ được mai táng lần thứ nhất là đất mới, sinh khí thịnh vượng, nếu đào lần thứ hai để mai táng thì không còn là đất tự nhiên, sinh khí bị tiết thoát, sẽ làm cho cả hai cùng hỏng. Một mảnh đất cát lành đã có một huyệt đắc khí thì huyệt thứ hai không có sinh khí; cho nên trong gia tộc đem chôn người chết sau chung huyệt với người chết trước là hung. Những ngôi mộ danh nhân cũng vậy.

Share this post


Link to post
Share on other sites