Guest Dienbatn

Đền Thiêng Cửa Sót - Bài 8

1 bài viết trong chủ đề này

ĐỀN THIÊNG CỬA SÓT

BÀI 7

NHÀ SƯ PHẬT QUANG TRUYỀN CHO CHỬ ĐỒNG TỬ PHẬT GIÁO HAY ĐẠO GIÁO CỦA LÃO TỬ .

Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã viết :

Chử Đồng Tử là một trong bốn vị thần hộ quốc thuộc hàng bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, đương nhiên không phải vì lấy công chúa Tiên Dung và làm phò mã của vua. Ông xuất thân từ địa vị một người nghèo và đạt đến đỉnh cao của sự phú quý, nhưng vẫn sẵn sàng bỏ hết để tầm sư học đạo. Chỉ cần như vậy, cũng đủ để ông có sự tín nhiệm của người đương thời với những giá trị tinh thần mà ông hướng tới.

Qua cuộc đời của ông cho thấy ít nhất căn bản quan niệm nhân sinh quan của Chử Đồng Tử là: của cải thế nhân và sự thăng trầm của cuộc đời chỉ là phù du. Trong truyền thuyết Đầm Nhất Dạ nói tới sự kiện Chử Đồng Tử, Tiên Dung đắc đạo và tạo dựng một vương quốc hư ảo cho mình bằng quyền năng của thần thánh. Đây là hình ảnh của một thế giới tâm linh tạo nên tín ngưỡng của người dân Lạc Việt thời Hùng.
Hình ảnh cuối cùng của truyền thuyết này là lâu đài, cung điện nguy nga biến mất chỉ trong một đêm, để lại cho thế nhân một đầm nước long lanh, phản chiếu những hình ảnh hư ảo của cuộc đời qua hàng thiên niên kỷ.
Như những chương trên đã trình bày: thuyết Âm Dương Ngũ hành là hệ tư tưởng vũ trụ quan chính thống của thời Hùng Vương, giải thích từ bản nguyên vũ trụ là Thái Cực đến sự vận động của nó là Âm Dương Ngũ hành. Tính bao trùm về mọi mặt và sự ứng dụng rộng rãi trên thực tế đã chứng tỏ sự thuyết phục của học thuyết này. Do đó, không thể có cơ sở từ ngay trong tâm lý để phát sinh và tồn tại một hệ tư tưởng tôn giáo vượt ra ngoài giá trị của nó. Nhưng về nhân sinh quan, xuất phát từ những giá trị đạo lý đề cao tình người và tính nhân bản, cộng với tri thức sâu sắc trong thiên văn qua sự vận động của những tinh tú ảnh hưởng đến chu kỳ sinh học của con người – tức là sự chi phối của sức mạnh thiên nhiên. Đồng thời nền văn minh đó cũng thừa nhận khả năng của con người trong sự tương tác giữa con người với thiên nhiên (Sự tích Dưa Hấu). Do đó, tín ngưỡng mà ngài Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung tạo dựng, chỉ có thể hướng con người vươn tới sự hòa nhập với thiên nhiên hoặc đạt tới những quyền năng của thiên nhiên trong sự vận động của Âm Dương Ngũ hành. Trên thực tế, truyền thuyết về các thánh thần ở Việt Nam cho thấy: mỗi thần đều có chức năng riêng trong việc chi phối vận động của tự nhiên. Như: Thiên Lôi làm sấm sét, Long vương làm mưa…Sự khác biệt so sánh với hệ thống đa thần của các nền văn minh cổ đại khác như Ai Cập, Hy Lạp là:
@ Các thần của hệ thống đa thần trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian Việt Nam không có quyền, hoặc quyền năng rất hạn chế, trong việc quyết định thay đổi định mệnh con người. Ngược lại, trong thần thoại Ai Cập , Hy Lạp hầu như mỗi vị thần đều có quyền năng thay đổi số phận con người.
@ Tổ chức trong hệ thống bách thần ở Việt Nam rất chặt chẽ, có thứ bậc; trong đó Ngọc Hoàng Thượng đế có quyền năng tối cao. Ngược lại, trong thần thoại Hy Lạp quyền năng của thần Dớt rất hạn chế với các vị thần dưới quyền. Hoặc trong thần thoại Ai Cập, quyền năng của các vi thần thượng đẳng như : thần Rê, thần Tho… gần ngang nhau.


Điều này là cơ sở để chứng tỏ hệ thống thần thoại Việt Nam đã ra đời rất lâu sau khi hình thành một quốc gia có tổ chức chặt chẽ. Từ đó, trên cơ sở của những giá trị tư tưởng chính thống chi phối toàn bộ xã hội Văn Lang là thuyết Âm dương Ngũ hành và cuộc đời của ngài Chử Đồng Tử, thì hoàn toàn có cơ sở để đặt giả thuyết về khả năng hình thành một tín ngưỡng đa thần vào cuối thời Hùng Vương mà vị khởi xướng là ngài Chử Đồng Tử. Tín ngưỡng này phản ảnh thực trạng xã hội Văn Lang ở tính tổ chức và quyền năng hạn chế của các vị thần, hướng giá trị tâm linh con người trở về với Thái Cực, hoặc đạt tới Thái Cực để thoát ly khỏi cuộc sống đầy vướng bận trần gian.
Hình tượng vua Hùng đem quân tới mà không có sự trấn áp, đã chứng tỏ vua Hùng không thừa nhận những giá trị tín ngưỡng được hình thành từ chính những giá trị tư tưởng chính thống của Văn Lang, nhưng cũng không phản ứng mạnh mẽ. Mặc dù như vậy, nhưng sự hiện diện của công chúa Tiên Dung - con vua Hùng - bên cạnh Chử Đồng Tử, vị sáng lập ra một hệ thống tín ngưỡng của người Lạc Việt cũng chứng tỏ khả năng phát triển sâu rộng của nó trong xã hội Văn Lang .




....Vào đầu thời Hùng Vương thứ XVIII về thời gian tương đương với sự xuất hiện “Đạo Đức Kinh” của Lão tử, đồng thời có sự tương đồng về tư tưởng của Lão – Chử với những hiện tượng liên quan đến văn minh Văn Lang đã trình bày ở trên. Trong truyền thuyết Việt Nam, Chử Đồng tử và công chúa Tiên Dung biến mất khi kết thúc câu chuyện và sự xuất hiện huyền ảo của Lão tư, ở cùng một khoảng thời gian và trong không gian của hai quốc gia láng giềng với những giá trị tư tưởng gần như hoàn toàn trùng hợp. Do đó, hoàn toàn có cơ sở để đặt vấn đề về tác giả của Đạo Đức Kinh – nếu do Lão tử viết – thì Lão tử và Chử Đồng tử chỉ là một người duy nhất. Đây cũng là một vấn đề đã được nhiều học giả nghi vấn.
Đoạn dưới đây được trích lại trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam nhận xét của giáo sư Trần Văn Giàu để bạn đọc tham khảo:
Giáo sư Trần Văn Giàu có viết: “Tư tưởng tín ngưỡng Đạo giáo ... sẵn có từng phần lớn trong nhân dân Việt Nam từ nguyên thủy và trong cả quá trình lịch sử, người Việt chưa có lúc nào chế tạo được cái tên chung để đặt cho loại tín ngưỡng đó, riêng những người nghiên cứu nhận thấy tư tưởng tín ngưỡng đó cùng bản chất với Đạo giáo nên xếp vào một loại vậy thôi”.

Những luận điểm này giải thích vì sao Chử Đồng tử được coi là một trong bốn vị thần hộ quốc của người Lạc Việt.

Thiền sư Lê mạnh Thát đã viết :

" Thế thì Chử Đồng Tử đã tiếp thu đạo Phật như thế nào? Đây là đặc điểm thứ hai mà ta cần lưu ý. Truyện Chử Đồng Tử chỉ nói khi Đồng Tử trở về quê “nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón, vừa bảo: “Mọi việc linh thông đều đã ở đây cả”. Nói vậy, Lĩnh Nam trích quái báo ta biết là truyền thống Phật giáo mà Chử Đồng Tử tiếp thu là một truyền thống Phật giáo quyền năng, đề cập đến những vấn đề linh dị và thần thông (linh thông). Truyền thống Phật giáo này như ta sẽ thấy, xuất hiện trong Mâu Tử cũng như trong Khương Tăng Hội, và tồn tại cho đến một thời truyền thống Phật giáo mới ra đời, đó là truyền thống Phật giáo Thiền của Pháp Vân. Cần nhấn mạnh Phật giáo quyền năng này cho đến thế kỷ thứ VI được bổ sung bởi truyền thống Phật giáo Thiền, nhưng không vì thế mà mất đi ảnh hưởng cơ bản của nó. Nó vẫn tồn tại như một lớp truyền thống Phật giáo đầu tiên của Phật giáo Việt Nam, một lớp cơ bản để từ đó xây dựng nên những truyền thống Phật giáo mới, bổ sung cho nó qua lịch sử phát triển của Phật giáo ở Việt Nam. Nhận thức điều này, ta sẽ dễ dàng hiểu được những hiện tượng đặc thù của những truyền thống khác nhau của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử. Ta sẽ đi sâu về vấn đề này dưới đây."

Nhận xét riêng của dienbatn : các bạn xem thử những hình ảnh dưới đây :

Posted Image

Posted Image
Có một hình ảnh nhất quán mà trong Phật giáo Việt Nam luôn xuất hiện , nhất là trong các ngày lễ hội , trong các chùa là hình ảnh của Đại Bạch Tán Cái ( Sitatapatra ).


Đây là một tư liệu dienbatn tìm được từ nguồn http://www.thienlybuutoa.org cũng rất đáng quan tâm “ Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt", từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được rút gọn thành "Phật".
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 17, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu .
....Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực hiện hai điều đó là khế lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo nữa. Duy trì và phát triển hai yếu tố này, Phật giáo được truyền vào Việt Nam và các nước khác.
Khế lý là nói về mặt tư tưởng nhờ khế lý nên dù ở thời gian và không gian nào, giáo lý Phật-đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được bản chất của mình và chỉ có một vị đó là vị giải thoát.
Khế cơ thiên trọng về mặt lịch sử nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ nào thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng[12]. Tùy theo phong tục tập quán của mỗi quốc gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo). Nói một cách khác thì có thể tùy nghi phương tiện theo từng vùng miền để truyền bá giáo lý Phật-đà nhưng không làm mất đi bản sắc của Phật giáo là ứng hợp với mọi tầng lớp và căn cơ chúng sanh.
Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một nên gọi là khế lý, dù một mà không phải một, nên có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Thái Lan, v.v. tất cả đều có tên chung là Phật giáo, bảo rằng giống cũng được nhưng bảo rằng không thì là sai. Đây gọi là khế cơ là bản địa hóa, hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị thiền sư có vị trí quan trọng trong các triều đại đó. Dù được bản địa hóa để quyện mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam vẫn được truyền thừa trong suốt hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam. "
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẽ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn, và khuôn mặt đầy lòng từ mẫn v.v. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất....


...Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc có vô cùng phong phú các loại tượng Phật, bồ tát, la hán của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng kết hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng còn có áo nâu, áo lam.


.....Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà nhà Phật thường gọi là "tùy duyên bất biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản của nhà Phật. Ví dụ: Các vị bồ tát, các vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan Âm (vốn là bồ tát), Phật Di Lặc (vốn là hòa thượng),... Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca Tuyết Sơn),... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt Nam. "

Theo dienbatn , những nhận xét trên của Thienlybuutoa vô cùng chính xác . Phật giáo do nhà sư Phật Quang truyền cho Chử Đồng Tử , là một Phật giáo chính thống đã được các nhà sư Việt Nam bản địa hóa , trải qua các thăng trầm của thời gian Phật giáo đã thấm nhuần vào cách suy tư và sinh hoạt của người Việt nên dấu vết Phật giáo trong văn hóa Việt khá đậm nét.

Ta có thể thấy Phật giáo Việt Nam hòa trộn với Đạo giáo qua việc tại Xã Đa Hòa - Huyện Đông Yên ( nay thuộc Xã Bình Minh - Huyện Khoái Châu- Tỉnh Hưng Yên ) có đền thờ Chử Đồng Tử với bài vị là : Chử Đồng Tử Đế Quân và Tiên Dung tả Hoàng Hậu . Riêng tình tiết Chử Đồng Tử lấy vợ hai là Hữu Hoàng Hậu thì trong Phật giáo không có được . Đây chính là người dân đã Phong Thánh hóa nhà sư Chử Đồng Tử mà thôi .

Một câu chuyện khác về Phật mẫu Man Nương cũng có những chi tiết tương tự : " Truyền thuyết kể rằng Phật Mẫu Man Nương là người con gái rất sùng đạo, năm 12 tuổi đến theo học đạo ở chùa Linh Quang, Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tại chùa có thiền sư Khâu Đà La là một vị cao tăng đầu tiên sang Việt Nam truyền đạo tại đây.

Một hôm Man Nương ngủ ở thềm, Khâu Đà La bước qua người, sau đó bà thụ thai. Cha mẹ Man Nương trách cứ thì Khâu Đà La dặn rằng đó là con Phật, không phải lo phiền.

Mười bốn tháng sau, Man Nương sinh hạ một người con vào ngày 8 tháng 4, đem đến chùa trả lại Thiền sư, ông gõ gậy tích trượng vào cây dung thụ (cây đa) ở cạnh chùa, cây đa tách ra, thiền sư để đứa trẻ vào trong, cây lại khép lại. Khâu Đà La trao cho Man Nương cây gậy và dặn khi nào hạn hán thì đem gậy cắm xuống đất để cứu nhân dân. Khi vùng Dâu bị hạn hán ba năm liền, nhớ đến lời dặn của ông, Man Nương đã đem cây gậy thần cắm xuống đất. Ngay lập tức nước phun lên, cây cối, ruộng đồng lại tươi tốt và chúng sinh thoát nạn hạn hán.

Tiếp đó có trận mưa to, cây dung thụ bị gió bão quật đổ xuống sông Thiên Đức - sông Dâu rồi trôi về Luy Lâu. Khi đó, Thái thú Sĩ Nhiếp cho quân lính vớt lên đã để làm nóc điện Kính Thiên, nhưng không ai lay chuyển nổi. Man Nương đi qua liền xuống sông, buộc dải yếm vào thì kéo cây lên dễ dàng. Sĩ Nhiếp thấy thế kính sợ, tuyển mười người họ Đào tạc tượng Tứ pháp là Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi - Pháp Điện tượng trưng cho Mây, Mưa, Sấm, Chớp để thờ. Khi thợ tạc tượng gặp trong thân cây một khối đá bèn vứt xuống sông. Đến đêm thấy lòng sông rực sáng, Sĩ Nhiếp cho người vớt nhưng không tài nào vớt được. Man Nương liền đi thuyền ra giữa sông thì khì khối đá tự nhiên nhảy vào lòng. Khối đá ấy được gọi là Thạch Quang Phật (Phật đá tỏa sáng).

Bốn pho tượng Tứ Pháp được thờ ở bốn chùa Dâu, Đậu, Tướng, Dàn ở Thuận Thành, Bắc Ninh. Làng Mãn Xá lập chùa Phúc Nghiêm thờ Man Nương, gọi là Phật Mẫu, nên gọi chùa này là chùa Tổ. Hàng năm vào ngày hội chùa Dâu, thì ba làng Đậu, Tướng, Dàn rước tượng Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện về chùa Dâu gặp Pháp Vân rồi bốn chị em về chùa Tổ thăm Mẹ. Thời Pháp, chùa Đậu bị phá nên tượng Pháp Vũ để ở chùa Dâu. Thạch Quang Phật cũng được thờ ở đây. " Trong câu chuyện này ta cũng thấy xuất hiện cây gậy và việc hóa phép Thần thông của Phật Mẫu Man nương cứu dân khỏi bị khô hạn .

PHẬT MẪU MAN NƯƠNG .

Posted Image



( Còn đang viết tiếp - dienbatn ) .


Share this post


Link to post
Share on other sites