Posted 19 Tháng 6, 2009 ĐỀN THIÊNG CỬA SÓT BÀI 6 THỜI ĐIỂM PHẬT GIÁO TRUYỀN VÀO VIỆT NAM . Thiền sư Lê Mạnh Thát đã viết : " Vậy nhà sư Phật Quang này xuất hiện ở cửa Sót vào thời nào? Qua những chứng cớ ngoại tại, gián tiếp vừa kể trên, tối thiểu ta biết là những gì Lĩnh Nam trích quái ghi lại chưa hẵn là không xảy ra, hay không có từ xưa. Cụ thể là truyện về truyền thuyết Trăm Trứng. Không kể các dã sử hay những thông tin bên ngoài, cứ theo chính sử Trung Quốc cũng đã ghi là có các chính quyền phương nam đi thông qua nước ta để đến phương bắc, đó là chính quyền nước Hoàng Chi. Bình Đế Kỷ trong Tiền Hán thư 12 tờ 4a 3 ghi: “Nguyên thuỷ thứ 2 (năm thứ 2 sdl), mùa xuân, nước Hoàng Chi dâng tê giác và bò”. Rồi đến quyển 28 hạ, Tiền Hán thư tờ 32b 2 – 3, nơi chuyện Vương Mãng, cũng ghi: “Trong khoảng Nguyên thuỷ (1 – 6 sdl) của Bình đế, Vương Mãng phụ chính, muốn làm rạng rỡ uy đức của mình đã gửi biếu hậu hỹ vua Hoàng Chi khiến cho gửi sứ cống tê giác và bò sống”. Nước Hoàng Chi này, cứ Tiền Hán thư 28 hạ, tờ 32b 3 – 5, còn ghi tiếp: “Từ Hoàng Chi đi thuyền có thể tám tháng đến Bì Tôn, rồi đi thuyền hai tháng có thể đến biên giới Tượng Lâm của Nhật Nam. Phía nam Hoàng Chi có nước Dĩ Trình Phất. Dịch sứ của Hán từ đó về”. Thế rõ ràng Hoàng Chi là một nước rất xa nước Hán, đi thuyền đến mười tháng mới đến. Ghi nhận đầu tiên của chính sử Trung Quốc về sự liên hệ giữa chính quyền Trung Quốc và chính quyền Hoàng Chi là Hoàng Chi ở phía tây nước ta và phải đi thông qua nước ta mới đến Trung Quốc được. Hoàng Chi là nước nào? Có khả năng Hoàng Chi đây là một trong những nước ở Ấn Độ. Cho nên, nói cách khác, từ những năm đầu Dương lịch, quan hệ chính thức giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã có về đường biển và đã được chính sử Trung Quốc ghi lại. Sau đó, từ thế kỷ thứ hai trở đi thì quan hệ giữa An Độ và Trung Quốc đã được ghi rất rõ, cho nên khả năng trước khi có quan hệ chímh thức trên bình diện chính quyền thì phải có quan hệ nhân dân; tức quan hệ giữa hai dân tộc phải đi với nhau rồi hai chímh quyền mới đi theo, hoặc để bảo trợ quyền lợi của dân tộc mình hoặc để thiết lập quan hệ ngoại giao. Cho nên khả năng những thương thuyền buôn bán của người Ấn Độ đã đến Trung Quốc trước thời Vương Mãng từ lâu là một sự thật.Thực tế thì ngay trong Sử ký ta đã tìm thấy những từ tiếng Phạn được phiên âm ra tiếng Trung Quốc, cụ thể là từ lưu ly, vaidurya. Tức là nước Trung Quốc đã biết nước Ấn Độ từ lâu. Nói cách khác, từ những thế kỷ đầu dương lịch, quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã thiết lập và có quan hệ buôn bán giữa thương nhân hai nước (*). Tiền Hán thư 9, tờ 3a 3 – 6 (truyện Tây nam di lưỡng Việt Triều Tiên đã nói việc thương nhân nước Thục đem vải và gậy trúc Thân độc về Trung Quốc bán vào năm Nguyên thú thứ nhất (120 tdl). Và truyện Vương Mãng ghi vì “ muốn làm rạng rỡ uy đức của mình, (ông) đã hậu hĩ vua nuớc Hoàng Chi và khiến dâng tê giác và bò sống”, có nghĩa hai chính quyền đã có mối quan hệ bang giao từ lâu. Mà trước khi Vương Mãng biết đến nước nay thì người nước này đã có quan hệ với Trung Quốc rồi, cho nên Vương Mãng mới biết để khiến dâng vật cống với mục đích làm cho hai nước quan hệ chính quyền với nhau. Nói cách khác vào những thế kỷ trước và sau dương lịch, đã có những quan hệ giữa Trung Quốc và các nước khác về đường biển thơng qua Việt Nam. Cho nên giả thiết sự tồn tại của nhà sư Phật Quang giữa thế kỷ thứ III hay thứ II tdl có thể chứng thực được.(*) Chú thích: Sầm Trọng Miễn, Nha phiến chiến tranh dĩ tiền Hán ngữ trung đích tá từ, Trung Sơn Đại học học báo 4 (1959) 146 – 154.Về nhà Sư Phật QuangTruyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam trích quái kể lại việc Chử Đồng Tử họ được đạo Phật như sau:“Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán kính thờ Tiên Dung (và) Đồng Tử làm chúa. Có một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng: “Quí nhân hãy bỏ ra một dật vàng năm nay cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí, đến sang năm được lãi mười dật”. Tiên Dung vui mừng bảo Đồng Tử: “Vợ chồng ta là bởi Trời mà nên. Nhưng cái ăn cái mặc là do người làm lấy. Nay nên đem một dật vàng cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí để sinh sống”. Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi buôn bán lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ. Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có một tiểu Tăng tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng Tử ở lại để nghe pháp, đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng. Đến lúc thương nhân trở về lại tới am đó chở Đồng Tử trở về nhà. Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón, vừa bảo: “Các việc linh thông đều ở đó rồi”. Đồng Tử trở về, đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đồng Tử du phương tìm thầy học đạo”.Việc Chử Đồng Tử và Tiên Dung, những người Việt Nam đầu tiên mà ta biết tên tiếp thu đạo Phật là như thế. Có hai đặc điểm mà ta cần lưu ý. Thứ nhất, việc tiếp thu này đã xảy ra tại núi Quỳnh Viên. Núi Quỳnh Viên từ thời Lê Thánh Tôn ta đã biết là nằm tại của Nam Giới, hay cửa Sót. Ngày nay, tại bờ nam của cửa Sót, còn có một hòn núi gọi là Nam Giới sơn (1). Phải chăng đây là địa điểm cần tìm hiểu khảo cổ học để khai quật xem có vết tích gì của Chử Đồng Tử và Phật Quang chăng? Trước mắt, ít nhất ta đã xác định được là Quỳnh Viên không phải là một ngọn núi thần thoại, mà thật sự là một hòn núi có tên tuổi tại cửa Sót. Do những dấu vết của Chiêm Thành còn tồn tại đến ngày nay, ta cũng hiểu thêm từ cửa Sót về nam là miền đất thuộc vương quốc Chiêm Thành. Như thế, đất nước Việt Nam thời Hùng Vương phải chăng đã lấy cửa Sót làm một địa điểm của miền cực nam của tổ quốc ta?Cần lưu ý, từ vùng cửa Sót trở ra miền bắc, ta không tìm thấy có bất cứ di chỉ nào liên hệ với nền văn hóa của Chiêm Thành. Ngược lại, từ cửa Sót trở về nam, cụ thể là các vùng phía nam tỉnh Nghệ An, tức từ Vinh trở về nam và các tỉnh Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, cho đến ngày nay, vẫn còn những vết tích của nền văn hóa Chiêm Thành. Nói thế, tức là muốn nói Phật giáo truyền vào nước ta căn cứ vào Lĩnh Nam trích quái là từ phía nam, qua trung gian nhà sư Phật Quang ở núi Quỳnh Viên, tại Nam Giới hay cửa Sót, giáp với Chiêm Thành. Nhà sư này chắc hẳn không phải là người Việt, vì rằng truyện Chử Đồng Tử nói “Đồng Tử linh đinh ra khắp nước ngoài (phù du xuất hải ngoại)”. Vùng núi Quỳnh Viên này có khả năng vào thời Chử Đồng Tử chưa thuộc bản đồ nước ta. Như nhà sư Phật Quang này có thể là một người Chiêm Thành, hoặc là người Ấn Độ, đang tìm cách truyền bá Phật giáo vào Việt Nam. Và Chử Đồng Tử là người Việt Nam đầu tiên đã tiếp xúc với ông, để rồi sau đó, trở thành người Phật tử Việt Nam đầu tiên có tên tuổi. Truyện Chử Đồng Tử này sau đó được Thiên Nam Vân Lục (2) của một tác giả vô danh chép lại.Thế thì Chử Đồng Tử đã tiếp thu đạo Phật như thế nào? Đây là đặc điểm thứ hai mà ta cần lưu ý. Truyện Chử Đồng Tử chỉ nói khi Đồng Tử trở về quê “nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón, vừa bảo: “Mọi việc linh thông đều đã ở đây cả”. Nói vậy, Lĩnh Nam trích quái báo ta biết là truyền thống Phật giáo mà Chử Đồng Tử tiếp thu là một truyền thống Phật giáo quyền năng, đề cập đến những vấn đề linh dị và thần thông (linh thông). Truyền thống Phật giáo này như ta sẽ thấy, xuất hiện trong Mâu Tử cũng như trong Khương Tăng Hội, và tồn tại cho đến một thời truyền thống Phật giáo mới ra đời, đó là truyền thống Phật giáo Thiền của Pháp Vân. Cần nhấn mạnh Phật giáo quyền năng này cho đến thế kỷ thứ VI được bổ sung bởi truyền thống Phật giáo Thiền, nhưng không vì thế mà mất đi ảnh hưởng cơ bản của nó. Nó vẫn tồn tại như một lớp truyền thống Phật giáo đầu tiên của Phật giáo Việt Nam, một lớp cơ bản để từ đó xây dựng nên những truyền thống Phật giáo mới, bổ sung cho nó qua lịch sử phát triển của Phật giáo ở Việt Nam. Nhận thức điều này, ta sẽ dễ dàng hiểu được những hiện tượng đặc thù của những truyền thống khác nhau của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử. Ta sẽ đi sâu về vấn đề này dưới đây.Chử Đồng TửNgười Phật tử Việt Nam đầu tiênTrước mắt, nếu Chử Đồng Tử là người Phật tử Việt Nam đầu tiên, thì vấn đề người Phật tử đầu tiên này đã sống vào lúc nào? Truyện Nhất Dạ Trạch chỉ viết một câu hết sức mơ hồ, là: “Vua Hùng truyền đến cháu đời thứ 3” (Hùng Vương truyền chí tam thế tôn). Ta biết lịch sử nước ta, tên hiệu Hùng Vương được dùng để gọi cho nhiều đời vua thời cổ đại. Đại Việt sử ký toàn thư ngoại kỷ I, tờ 2b9 – 5b, ghi nhận Hùng Vương là triệu đại đầu tiên của họ Hồng Bàng, và bảo: “Họ Hồng Bàng từ Kinh Dương Vương năm Nhâm Tuất thụ phong cùng với Đế Nghi cùng thời, truyền đến đời Hùng Vương cuối cùng gặp năm 257 tdl của Noãn Vương nhà Chu, là năm Quí Mão thì chấm dứt, gồm 2622 năm”. Nhưng trong phần phàm lệ, tờ 2a1 – 2, Ngô Sĩ Liên đã nhận xét: “hoặc có người nói (Hùng Vương) có 18 đời, sợ chưa phải là thế”.Đi sâu vào vấn đề này, ta biết hiện có 3 bản ngọc phả khác nhau liên hệ đến triều đại Hùng Vương. Bản thứ nhất là một bản chép của thời Lê Hồng Đức bắt đầu từ năm 1470, rồi được chép lại vào thời Lê Kính Tôn (ở ngôi 1600 – 1618), niên đại Hoằng Định. Bản thứ hai là bản chép tay đời Khải Định được bảo là chép lại từ một bản thuộc niên đại Thiên Phúc (980 – 988) của Lê Đại Hành (ở ngôi 980 – 1005). Cả hai bản này hiện tàng trữ tại đền Hùng ở Vĩnh Phú, Phú Thọ. Bản thứ ba hiện tàng trự tại chùa Tây Thiên trên núi Tam Đảo, không có ghi ngày tháng. Vấn đề văn bản học của các ngọc phả này ta chưa cần đề cập tới ở đây. Chỉ cứ vào chúng, ta biết tối thiểu mỗi triều đại Hùng Vương có cùng mang một tên hiệu. Chẳng hạn, đời Hùng Vương cuối cùng là Hùng Duệ Vương thì ta có Duệ Vương thứ nhất, thứ hai, thứ ba, v.v… Vì thế, mười tám đời Hùng Vương trải dài trên hai ngàn năm là có thể hiểu được. Riêng đối với vấn đề quan tâm của chúng ta ở đây là cháu đời thứ ba của Hùng Vương là cháu của Hùng Vương đời nào?Nếu Phật giáo xuất hiện vào năm 528 (hoặc 529?) tdl ở Ấn Độ và bắt đầu truyền bá qua các nước xung quanh vào những năm 247 – 232 tdl vào thời của vua A Dục khi vua này lịnh cho các phải đoàn Tăng lữ đi khắp nơi để truyền bá đạo Phật, trong đó đặc biệt là phái đoàn của Sona đi về vùng Đất vàng (Suvanabhumi). Vùng Đất này có phải là vùng Đông Nam Á hay không, có phải là vùng Đông Dương hay không? Đây là một vấn đề đang còn tranh cãi. Tuy nhiên cứ vào những sử liệu cổ sơ của Trung Quốc, cụ thể là Sử Ký và Tiền Hán thư cùng Hậu Hán thư cũng như các di liệu khảo cổ học, như di liệu khảo cổ học Óc Eo, thì vào những thế kỷ đầu dl, vùng biển phía nam nước ta đã rộn rịp những thương thuyền không những của các quốc gia thuộc nền văn minh Ấn Độ, mà cả những quốc gia xa xôi của nền văn minh La – mã. Cho nên, truyền bá Phật giáo vào những vùng đất này là một sự kiện chắc chắn đã xảy ra.Hơn nữa, vùng đất miền nam nước ta từ phía nam cửa Sót trở vào đã mang nặng những vết tích của nền văn hóa Ấn Độ. Chiếc bia Võ cảnh tìm thấy tại làng Võ Cảnh ở Nha Trang, thường được các nhà nghiên cứu xác định là xuất hiện vào thế kỷ II sdl viết bằng Phạn văn. Để cho Phạn văn trở thành một ngôn ngữ được khắc trên đá vào thế kỷ ấy, nền văn minh Ấn Độ vào thời điểm ấy chủ đạo là Phật giáo, phải truyền bá tại vùng đất này qua một thơi gian tương đối dài, tối thiểu cũng phải mất một vài ba trăm năm. Nói thẳng ra, văn minh Ấn Độ phải tồn tại ở phía nam nước ta vào những thế kỷ trước và sau Dương lịch. Cho nên, vị Hùng Vương của thời Chử Đồng Tử ta cũng có thể xác định vào những thế kỷ tdl, có khả năng là Hùng Nghị Vương thứ nhất hoặc thứ hai, tức khoảng thế kỷ II –III tdl.Đoán định này của ta về niên đại của việc Chử Đồng Tử tiếp thu Phật giáo là hoàn toàn phù hợp với quan điểm của thiền sư Chân Nguyên (1647 – 1728) trong Thiên Nam Ngữ Lục (1). Sau khi kể chuyện Lữ Gia bị quân của Hán Vũ Đế đánh bại, Chân Nguyên viết:(1) Lê Mạnh Thát, Chân Nguyên thiền sư toàn tập III, Thiên Nam Ngữ Lục Tu thư Phật học Vạn Hạnh, 1983.“Gia bỏ cửa mốc nhà rêuHang thần trật lối, hồn phiêu đường nàoNước nên thấy những đồng daoCõi bờ tất đất vào chầu Hán giaNon Sài tuyệt chẳng vào raThấy còn một dấu vườn là Trúc ViênĐìu hiu ngoài cảnh thiền thiênThuở trưa quyên khóc, thuở đêm hạc sầu” Viết thế, Chân Nguyên muốn nói rằng ngôi chùa Trúc Viên đã có từ\ thời Lữ Gia, tức khoảng năm 110 tdl tại núi Thầy (Sài Sơn), ở Sơn Tây. Điều này cũng có nghĩa Phật giáo đã tồn tại ở nước ta vào thế kỷ thứ II tdl. Đây là một điểm khá lôi cuốn. Bởi vì nó cho thấy đã từ lâu lưu hành quan điểm cho rằng Phật giáo đã du nhập vào nước ta từ rất sớm. Đến thời An Thiền viết Đạo Giáo Nguyên Lưu (1) vào năm 1845, ở quyển thượng, tờ 9a11 – b5 dưới mục Đại Nam thiền học sơ khởi, ông đã kể lại truyện tích Chử Đồng Tử như đã ghi lại trong Lĩnh Nam trích quái:(1) Lê Mạnh Thát, An Thiền thiền sư toàn tập: Đạo giáo nguyên lưu, 3 quyển. Cảo bản.“Thời Hùng Vương, núi Quỳnh Vĩ, có Đồng Tử lên thảo am. Trong am có nhà sư tên Phật Quang. Đó là người Thiên Trúc, tuổi hơn 40, truyền pháp cho Đồng Tử một cái nón và một cây gậy, nói rằng: “Linh dị và thần không có đây cả”. Đồng Tử đem đạo Phật truyền cho Tiên Dung. Vợ chồng Tiên Dung bèn học đạo. Đến buổi chiều ngày trở về, giữa đường cần làm nơi tá túc, bèn dựng gậy che nón, đến canh ba thì thành quách lâu đài, màn gấm màn the, kim đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ đầy cả sân chầu…”.An Thiền cũng đề ra mục Hùng Vương Phạn Tăng, tức các nhà sư Ấn Độ thời Hùng Vương, ở tờ 9b6 – 9, và kể tên nhà sư Khâu Đà La đến thành Luy Lâu của Sĩ Nhiếp vào thời cuối của Hán Linh đế (168 – 189 sdl). Xác định Khâu Đà La vào thời Hán Linh đế, dĩ nhiên không thể xếp Khâu Đà La vào loại các nhà sư vào thời Hùng Vương được.Ngoài ra, trong các loai thần tích của các xã, ta biết trong số các tướng tá của Hai Bà Trưng, sau khi bị Mã Viện đánh bại, một số đã mai danh ẩn tích trong các giáo đoàn Phật giáo. Một trong những vị này được biết tên là Bát Nàn phu nhơn đã xuất gia. Như sẽ thấy, chính những vị này cùng người kế nghiệp họ đã tập họp những văn bản kinh điển Phật giáo lưu hành lúc ấy, những bộ kinh đầu tiên hiện còn và được biết mà sau này Khương Tăng Hội đã dịch thành Hán văn dưới nhan đề Lục độ tập kinh và Cựu Tạp Thí Dụ Kinh.Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã viết : Chính trong đoạn trích dẫn trên đã nói rõ rằng:“…vào những năm 247 – 232 tdl vào thời của vua A Dục, khi vua này lệnh cho các phái đoàn Tăng lữ đi khắp nơi để truyền bá đạo Phật, trong đó đặc biệt là phái đoàn của Sona đi về vùng Đất vàng (Suvanabhumi). Vùng đất vàng này có phải là vùng Đông Nam Á không, có phải vùng Đông Dương không? Đây là một vấn đề còn đang tranh cãi…”Người viết đặt một giả thiết thuận lợi nhất cho nhận định của ông Lê Mạnh Thát là vùng đất vàng chính là Việt Nam. Và giả thiết thuận lợi nhất cho niên đại chấm dứt thời đại Hùng Vương – theo quan điểm mới – là 208 tr.CN thì nó chỉ cách thời điểm xa nhất của việc truyền bá đạo Phật của tăng đoàn Sonna là 39 năm, gần nhất là 24 năm. Với những điều kiện trên và cho rằng ngài Chử Đồng Tử đã tiếp xúc ngay được với giáo lý của Phật vào thời điểm này ( thuận lợi nhất là 39 năm trước khi kết thúc thời đại Hùng Vương) thì:Theo như truyền thuyết thì ngài Chử Đồng Tử đã tạo được một khối lượng tín đồ đông đảo và đứng đầu giáo hội này trở thành một hiện tượng xã hội, khiến vua Hùng phải quan tâm tới. Nhưng chính tư liệu của ông Lê Mạnh Thác lại chứng tỏ: “bấy giờ Tôn Quyền xưng đế Giang Tả (năm 222 sdl) mà Phật giáo chưa lưu hành”. Điều này một sự phủ định gián tiếp cho nhận định của ông Lê Mạnh Thác. Bởi vì:Nếu Phật giáo được truyền vào Việt Nam qua ngài Chử Đồng Tử vào thời điểm cuối cùng của thời Hùng Vương (208 tr.CN theo quan điểm lịch sử mới, tức là điều kiện thuận lợi nhất cho nhận định trên), kéo dài đến 400 năm sau đó đến thời Tôn Quyền nhà Ngô (tức Giang Đông); không lẽ Phật giáo không thể phát triển trong vòng 400 năm đó, trong phạm vi một quốc gia và sau này là chính Giang Đông? Hay nói một cách khác: không lẽ trong vòng 400 năm không có sự giao lưu văn hoá trong một quốc gia; để rồi đến đời Đường, Phật giáo lại từ Trung Quốc qua chính vùng Giang Đông trở lại vào Giao Châu? Do đó, sự không phổ biến của Phật giáo ở Giang Đông vào thời điểm 200 năm sau CN, đã chứng minh sự mâu thuẫn trong nhận định của ông Lê Mạnh Thác.Chưa nói đến việc theo quan điểm lịch sử cũ thì thời Hùng Vương kết thúc vào năm 257 tr.CN; tức là trước khi phái đoàn của Sona xuất hành truyền bá đạo Phật 8 năm và vấn đề Đất Vàng có phải là Việt Nam không. Bởi vậy, có thể khẳng định rằng: Phật giáo chưa thể truyền vào Việt Nam vào thời điểm ngài Chử Đồng Tử hành đạo. Còn một vấn đề đặc biệt quan trọng nữa là: Thời điểm hành đạo của ngài Chử Đồng tử vào đầu thời Hùng Vương thứ 18. Nếu theo quan niệm mới thì đó là một đời vua và ngài Chử Đồng Tử chỉ hành đạo vào khoảng 230 năm tr.CN. Nhưng với quan niệm cho rằng thời Hùng Vương tồn tại 2622 năm và căn cứ vào Hùng triều Ngọc phả ( trong sách đã dẫn, ông Lê Manh Thác cũng nói đến điều này và không phản bác) thì đầu thời Hùng Vương thứ 18 sẽ vào thời điểm từ năm 408 tr.CN. Lúc này Phật giáo chưa thể truyền vào Việt Nam. Vấn đề này sẽ được trình bầy ngay sau đây.@ Thời điểm hành đạo của ngài Chử Đồng TửVới cách nói và cái nhìn quen thuộc về 18 “đời” Hùng Vương. Đã dẫn đến cái nhìn cho là thời Hùng Vương chỉ có 18 vị vua. Và đời Hùng Vương thứ 18 chỉ là một vị, đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn không thể lý giải. Một trong những mâu thuẫn khó hiểu nhất chính là việc chia 2622 năm tồn tại của thời Hùng Vương cho 18 vị vua (theo quan niệm mới) ra con số khoảng gần 150 năm cho tuổi thọ của một con người và khẳng định tính phi lý về niên đại gần 3000 văn hiến Văn Lang. Bởi vì, truyền thuyết Con Rồng – Cháu Tiên mang nội dung huyền thoại: Rồng lấy Tiên, đẻ ra một trăm trứng nở thành 100 người con … Do đó, con số 18 cũng chỉ mang tính biểu tượng. Cho nên không thể lấy một đại lượng cụ thể (2622 năm được ghi trong chính sử cũ) chia cho một đại lượng trừu tượng. Đây là một sai lầm sơ đẳng về toán học. Nó giống như việc lấy tri thức trong một cuốn sách chia cho số học sinh, để tìm xem trung bình một học sinh tiếp thu được bao nhiêu phần của cuốn sách.Nếu không căn cứ vào Hùng triều Ngọc phả, thì ngay truyền thuyết thời Hùng Vương cũng đủ chứng tỏ “18 đời Hùng Vương” mà truyền thuyết nói tới không thể là 18 vị vua, bởi vì:Vào thời Hùng Vương thứ 18 có đến 3 truyền thuyết mà nội dung không liên quan đến nhau. Đó là: truyền thuyết về ngài Chử Đồng Tử, vào đầu thời Hùng Vương thứ 18; truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh, vào cuối thời Hùng Vương thứ 18; truyền thuyết về ngài Tản viên Sơn Thánh cũng vào cuối thời Hùng Vương thứ 18. Trong đó: Truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh khẳng định vua Hùng cuối đời thứ 18 chỉ có một người con gái duy nhất là Mỵ Nương. Với truyền thuyết Đầm Nhất Dạ – vào đầu thời Hùng Vương thứ 18 – lại có công chúa Tiên Dung? Rồi truyền thuyết về ngài Tản Viên Sơn Thánh, cũng cuối đời Hùng Vương thứ 18 lại có công chúa Ngọc Hoa. Để giải quyết mâu thuẫn này, với quan điểm mới chỉ còn cách ghép hai vị công chúa này thành hai chị em ruột và bắt buộc phải sửa lại truyền thuyết Sơn tinh – Thủy tinh là “Vua Hùng thứ 18 có hai công chúa, một người gả cho Chử Đồng Tử, còn lại chỉ có một người là Mỵ Nương, tên là Ngọc Hoa”; cuối cùng là ghép ngài Tản Viên Sơn Thánh – Nguyễn Tuấn – chính là Sơn Tinh? Sự gán ghép này tất nhiên là rất phi lý! Trước hết là nội dung các truyền thuyết này không liên quan đến nhau.Nội dung trực tiếp của truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh đầy màu sắc huyền thoại trong suốt nội dung của nó. Sự liên hệ duy nhất với các truyền thuyết khác chỉ có ở câu mở đầu: “Vào cuối đời Hùng Vương thứ 18”.Nội dung trực tiếp của “Sự tích Đầm Nhất Dạ” cũng mang màu sắc huyền thoại về một con người là ngài Chử Đồng Tử. Sự liên hệ duy nhất với 3 truyền thuyết cùng thời là câu: “Vào đầu đời Hùng Vương thứ 18”.Nội dung trực tiếp của truyền thuyết về ngài Tản Viên Sơn Thánh cũng mang ít nhiều màu sắc huyền thoại về một con người. Sự liên hệ với các truyền thuyết khác là “Vào cuối đời Hùng Vương thứ 18” và cũng là con rể vua Hùng. Đây là một truyền thuyết lịch sử về một danh nhân được khẳng định tính thực tế tồn tại vào cuối thời Hùng Vương thứ 18, mặc dù có chất huyền thoại về con người được xưng tụng.Do đó, khi ghép ngài Tản Viên được khẳng định sự tồn tại trên thực tế theo nội dung truyền thuyết với nhân vật Sơn Tinh huyền thoại mang tính hư cấu hoàn toàn sẽ mang tính khiên cưỡng, phi lý hoàn toàn. Bởi vì nội dung hai truyền thuyết này không hề liên quan với hau. Như vậy, sự phân tích với tính hợp lý nhất – tính hợp lý là một ếu tố cần của một giả thuyết nhân danh khoa học – phải là sự khẳng ịnh tính độc lập giữa hai truyền thuyết này. Hệ quả của tính hợp lý iếp theo là: Khi giữa ngài Tản Viên Sơn Thánh với hình tượng Sơn inh không liên quan đến nhau thì sẽ phải khẳng định rằng: truyền huyết này nhằm chuyển tải một nội dung lịch sử khác (sẽ được trình bày ở chương VIII trong sách này). Khi khẳng định tính độc lập của truyền thuyết này thì sự hợp lý tiếp theo là truyền thuyết “Đầm Nhất Dạ” cũng độc lập với nội dung của nó. Tức là: Đầu thời Hùng Vương thứ 18 của “Sự tích đầm Nhất Dạ” và cuối đời Hùng Vương thứ 18 của truyền thuyết ngài Tản Viên Sơn Thánh và Sơn tinh – Thuỷ tinh, không thể là khoảng thời gian của một vị vua. Hay nói một cách khác: đầu thời Hùng Vương thứ 18 với công chúa Tiên Dung và Chử Đồng Tử; cuối thời Hùng Vương thứ 18 với công chúa Ngọc Hoa và ngài Tản Viên Sơn Thánh Nguyễn Tuấn ít nhất là hai đời vua trong thời Hùng Vương thứ 18. Như vậy tính chặt chẽ nhất của lập luận tiếp theo sẽ là phải coi cái nhìn quen thuộc về cụm từ “18 đời Hùng Vương” là sự sailệch; mà phải là “18 thời Hùng Vương”. Như vậy, việc tồn tại 2622 năm mà cổ sử Đại Việt nhắc tới hoàn toàn có cơ sở. Còn nếu như coi các truyền thuyết về thời Hùng Vương là mơ hồ, thì có thể khẳng định rằng: sẽ không thể có một lập luận nào, nhân danh bất cứ một giá trị tri thức nào của nhân loại – từ tri thức siêu hình nhất cho đến tri thức khoa học nhất – được toàn thể nhân loại tích luỹ trong quá trình lịch sử của loài người, giải thích được hiện tượng ăn trầu phổ biến hàng ngàn năm ở miền nam sông Dương Tử, cho đến tận ngày nay ở Đài Loan và ở Việt nam, cũng như sự hiện diện của chiếc bánh chưng, bánh dầy trong truyền thống văn hoá của người Việt còn đến tận bây giờ.Hơn nữa và cũng là điều quan trọng là: sự xuất hiện với danh xưng “sư Phật Quang” trong truyền thuyết “Đầm Nhất Dạ” ở “Lĩnh Nam chích quái” chỉ là một hiện tượng không có sự liên hệ nhất quán và hợp lý trong toàn bộ nội dung câu truyện. Bạn đọc có thể nhận thấy điều này trong suốt cuộc đời hành đạo của ngài Chử Đồng Tử. Ngài hoàn toàn sử dụng thần thông để tác động vào cuộc đời. Hay nói một cách khác – theo ngôn ngữ Phật giáo – là Ngài vẫn tác nghiệp dưới một hình thức khác và việc này không phải là mục đích tu tập theo giáo lý Phật là không tác nghiệp dưới bất cứ hình thức nào, để tránh nghiệp quả và đạt đến sự giải thoát hoàn toàn. Hình tượng thể hiện rõ nét nhất chính là khi đắc đạo, ngài đã tạo dựng vương quốc riêng với lối sống của bậc đế vương nơi trần thế. Bạn đọc xem lại đoạn trích dẫn sau đây, trong truyền thuyết Đầm Nhất Dạ thể hiện điều này:“Trên đường viễn hành, trời tối mà chưa thấy thôn xá, hai người tạm nghỉ giữa đường, cắm trượng, che nón mà trú thân. Đến canh ba thấy hiện ra thành quách, lầu ngọc, điện vàng, đền đài dinh thự, phủ kho miếu xã, vàng bạc châu báu, giường chiếu chăn màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt trước mắt. Sáng hôm sau ai trông cũng kinh lạ, đem hương hoa, thức ăn quí tới mà xin làm bầy tôi. Có văn võ bá quan chia quân túc vệ lập thành nước riêng.”Cho dù đây chỉ là hình ảnh biểu tượng phản ánh một vương quốc tâm linh của một tín ngưỡng được tạo dựng trong nền văn minh Lạc Việt, thì đó cũng không phải là lối sống và sự tu tập theo Phật pháp. Điều này chứng tỏ rằng ngài Chử Đồng Tử là một chân nhân – đẳng cấp cao nhất của sự tu tập theo Đạo giáo – chứ không phải là một Phật tử theo đạo Phật; đồng thời cũng chứng tỏ rằng ngài là người đã sáng lập ra Đạo giáo thuộc về nền văn minh Lạc Việt. Điều này đã giải thích vì sao ngài là một trong bốn vị thần bất tử hộ quốc của người Lạc Việt.Từ những tiền đề phân tích ở trên về tính hợp lý và sự chặt chẽ trong cấu trúc của hệ thống truyền thuyết và huyền thoại thời Hùng Vương – ngoài việc chứng minh một trí tuệ siêu đẳng của tổ tiên người Lạc Việt – còn chứng tỏ thời điểm hành đạo của ngài Chử Đồng Tử vào đầu thời Hùng Vương thứ 18 tức là khoảng 400 năm trước CN. Tất nhiên, vào thời điểm này Phật giáo mới vào giai đoạn kiết tập để hoàn chỉnh kinh sách qua những lời giảng của Đức Thích Ca, chưa thể truyền đến Việt Nam. Do đó, tôn giáo mà ngài Chử Đồng Tử sáng lập không thể là Phật giáo, mà chính là Đạo giáo như đã trình bày ở trên. Những lập luận trong sách này, nhằm chứng tỏ ngài Chử Đồng Tử là người sáng lập Đạo giáo của nền văn minh Lạc Việt, không phủ nhận việc Phật giáo du nhập vào nền văn minh này vào cuối thời Hùng Vương thứ 18, trên cơ sở thời Hùng Vương thứ 18 kéo dài gần 400 năm.Theo sách vở cũ, các đời vua Hùng bắt đầu từ năm 2879 và kết thúc vào 258 TCN. Tổng cộng 2622 năm . Nếu theo Tây lich hiện nay là năm 2008 thì Thế đại các Vương Triều Vua Hùng từ khi kết thúc đến nay là 2266 năm . Còn theo Việt lich thì năm nay là năm 4887. dienbatn đồng ý với những lập luận của Nguyễn Vũ Tuấn Anh về các Thế Đại Vương Triều Hùng Vương . Cụ thể trong 2622 năm tồn tại của các Thế Đại Vương Triều Hùng Vương , không phải chỉ tồn tại 18 ông Vua có tên là Hùng Vương mà thực ra là 18 giai đoạn trị vì của các Vương triều . Chỉ như vậy ta mới có thể lý giải được những mâu thuẫn về 3 truyền thuyết quan trọng về thời Hùng Vương thứ 18 :"Vào thời Hùng Vương thứ 18 có đến 3 truyền thuyết mà nội dung không liên quan đến nhau. Đó là: truyền thuyết về ngài Chử Đồng Tử, vào đầu thời Hùng Vương thứ 18; truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh, vào cuối thời Hùng Vương thứ 18; truyền thuyết về ngài Tản viên Sơn Thánh cũng vào cuối thời Hùng Vương thứ 18. Trong đó: Truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh khẳng định vua Hùng cuối đời thứ 18 chỉ có một người con gái duy nhất là Mỵ Nương. Với truyền thuyết Đầm Nhất Dạ – vào đầu thời Hùng Vương thứ 18 – lại có công chúa Tiên Dung? Rồi truyền thuyết về ngài Tản Viên Sơn Thánh, cũng cuối đời Hùng Vương thứ 18 lại có công chúa Ngọc Hoa. " Đây chính là một việc chứng tỏ trong Thời của các Vua Hùng Vương thứ 18 có nhiều vị Vua tương ứng với các truyền thuyết nêu trên . Như vậy , nếu muộn nhất thì sự tích của nhà sư Phật Quang truyền Đạo cho Chử Đồng Tử cũng phải vào những năm cuối của thời Hùng Vương thứ 18 , cụ thể là phải trước năm 258 TCN .Thiền sư Lê Mạnh Thát đã viết : " Nếu Phật giáo xuất hiện vào năm 528 (hoặc 529?) tdl ở Ấn Độ và bắt đầu truyền bá qua các nước xung quanh vào những năm 247 – 232 tdl vào thời của vua A Dục khi vua này lịnh cho các phải đoàn Tăng lữ đi khắp nơi để truyền bá đạo Phật, trong đó đặc biệt là phái đoàn của Sona đi về vùng Đất vàng (Suvanabhumi). Vùng Đất này có phải là vùng Đông Nam Á hay không, có phải là vùng Đông Dương hay không? Đây là một vấn đề đang còn tranh cãi. Tuy nhiên cứ vào những sử liệu cổ sơ của Trung Quốc, cụ thể là Sử Ký và Tiền Hán thư cùng Hậu Hán thư cũng như các di liệu khảo cổ học, như di liệu khảo cổ học Óc Eo, thì vào những thế kỷ đầu dl, vùng biển phía nam nước ta đã rộn rịp những thương thuyền không những của các quốc gia thuộc nền văn minh Ấn Độ, mà cả những quốc gia xa xôi của nền văn minh La – mã. Cho nên, truyền bá Phật giáo vào những vùng đất này là một sự kiện chắc chắn đã xảy ra.Hơn nữa, vùng đất miền nam nước ta từ phía nam cửa Sót trở vào đã mang nặng những vết tích của nền văn hóa Ấn Độ. Chiếc bia Võ cảnh tìm thấy tại làng Võ Cảnh ở Nha Trang, thường được các nhà nghiên cứu xác định là xuất hiện vào thế kỷ II sdl viết bằng Phạn văn. Để cho Phạn văn trở thành một ngôn ngữ được khắc trên đá vào thế kỷ ấy, nền văn minh Ấn Độ vào thời điểm ấy chủ đạo là Phật giáo, phải truyền bá tại vùng đất này qua một thơi gian tương đối dài, tối thiểu cũng phải mất một vài ba trăm năm. Nói thẳng ra, văn minh Ấn Độ phải tồn tại ở phía nam nước ta vào những thế kỷ trước và sau Dương lịch. Cho nên, vị Hùng Vương của thời Chử Đồng Tử ta cũng có thể xác định vào những thế kỷ tdl, có khả năng là Hùng Nghị Vương thứ nhất hoặc thứ hai, tức khoảng thế kỷ II –III tdl.Đoán định này của ta về niên đại của việc Chử Đồng Tử tiếp thu Phật giáo là hoàn toàn phù hợp với quan điểm của thiền sư Chân Nguyên (1647 – 1728) trong Thiên Nam Ngữ Lục (1). Sau khi kể chuyện Lữ Gia bị quân của Hán Vũ Đế đánh bại, Chân Nguyên viết: (1) Lê Mạnh Thát, Chân Nguyên thiền sư toàn tập III, Thiên Nam Ngữ Lục Tu thư Phật học Vạn Hạnh, 1983.“Gia bỏ cửa mốc nhà rêuHang thần trật lối, hồn phiêu đường nàoNước nên thấy những đồng daoCõi bờ tất đất vào chầu Hán giaNon Sài tuyệt chẳng vào raThấy còn một dấu vườn là Trúc ViênĐìu hiu ngoài cảnh thiền thiênThuở trưa quyên khóc, thuở đêm hạc sầu” Viết thế, Chân Nguyên muốn nói rằng ngôi chùa Trúc Viên đã có từ\ thời Lữ Gia, tức khoảng năm 110 tdl tại núi Thầy (Sài Sơn), ở Sơn Tây. Điều này cũng có nghĩa Phật giáo đã tồn tại ở nước ta vào thế kỷ thứ II tdl. Đây là một điểm khá lôi cuốn. Bởi vì nó cho thấy đã từ lâu lưu hành quan điểm cho rằng Phật giáo đã du nhập vào nước ta từ rất sớm. Đến thời An Thiền viết Đạo Giáo Nguyên Lưu (1) vào năm 1845, ở quyển thượng, tờ 9a11 – b5 dưới mục Đại Nam thiền học sơ khởi, ông đã kể lại truyện tích Chử Đồng Tử như đã ghi lại trong Lĩnh Nam trích quái:(1) Lê Mạnh Thát, An Thiền thiền sư toàn tập: Đạo giáo nguyên lưu, 3 quyển. Cảo bản.“Thời Hùng Vương, núi Quỳnh Vĩ, có Đồng Tử lên thảo am. Trong am có nhà sư tên Phật Quang. Đó là người Thiên Trúc, tuổi hơn 40, truyền pháp cho Đồng Tử một cái nón và một cây gậy, nói rằng: “Linh dị và thần không có đây cả”. Đồng Tử đem đạo Phật truyền cho Tiên Dung. Vợ chồng Tiên Dung bèn học đạo. Đến buổi chiều ngày trở về, giữa đường cần làm nơi tá túc, bèn dựng gậy che nón, đến canh ba thì thành quách lâu đài, màn gấm màn the, kim đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ đầy cả sân chầu…”.An Thiền cũng đề ra mục Hùng Vương Phạn Tăng, tức các nhà sư Ấn Độ thời Hùng Vương, ở tờ 9b6 – 9, và kể tên nhà sư Khâu Đà La đến thành Luy Lâu của Sĩ Nhiếp vào thời cuối của Hán Linh đế (168 – 189 sdl). Xác định Khâu Đà La vào thời Hán Linh đế, dĩ nhiên không thể xếp Khâu Đà La vào loại các nhà sư vào thời Hùng Vương được.Ngoài ra, trong các loai thần tích của các xã, ta biết trong số các tướng tá của Hai Bà Trưng, sau khi bị Mã Viện đánh bại, một số đã mai danh ẩn tích trong các giáo đoàn Phật giáo. Một trong những vị này được biết tên là Bát Nàn phu nhơn đã xuất gia. Như sẽ thấy, chính những vị này cùng người kế nghiệp họ đã tập họp những văn bản kinh điển Phật giáo lưu hành lúc ấy, những bộ kinh đầu tiên hiện còn và được biết mà sau này Khương Tăng Hội đã dịch thành Hán văn dưới nhan đề Lục độ tập kinh và Cựu Tạp Thí Dụ Kinh. Như vậy , Phật giáo xuất hiện vào năm 528- 529 TCN và nếu có phái đoàn truyền Đạo của Phật giáo ( 247-232 TCN ) , thì thời điểm này cũng gần như trùng lặp với thời của Chử Đồng Tử ( nếu lấy giả thiết lúc đó là những năm cuối thời Đại Hùng Vương thứ 18 - trước những năm 258 TCN ). Đây chính là lần đầu tiên Phật giáo được truyền vào Việt Nam và cũng là một bằng chứng Chử Đồng Tử là một Phật tử đầu tiên của Việt Nam . Lần truyền Đạo thứ hai vào Việt Nam lại do nhà sư Tỳ ni Đa Lưu Chi truyền vào vùng Luy Lâu khoảng năm 580 , tức là sau khoảng gần 900 năm . Share this post Link to post Share on other sites