Guest Dienbatn

ĐỀN THIÊNG CỬA SÓT. dienbatn .

1 bài viết trong chủ đề này

ĐỀN THIÊNG CỬA SÓT

BÀI 5

TỪ CỬA SÓT VỚI CHỬ ĐỒNG TỬ - TIÊN DUNG ĐẾN NGUỒN GỐC PHẬT GIÁO VIỆT NAM .

Trong phần này , dienbatn chỉ tổng hợp lại những ý kiến của các tác giả đã nêu ở phần trên và có những suy luận riêng của mình . Không dám cho là đúng , chỉ mong sao tìm lại những gì của ông cha từ ngàn xưa . Xin Tổ tiên anh linh chứng dám .

Phần này , những đoạn trích của Thiền sư Lê mạnh Thát có màu nâu , của Nguyễn Vũ Tuấn Anh có màu tím , nhận xét riêng của dienbatn có màu xanh quen thuộc vẫn hay dùng , những đề mục quan trọng có màu đỏ .



A / VỀ TRUYỀN THUYẾT CHỬ ĐỒNG TỬ - TIÊN DUNG .

1/Truyện Nhất Dạ trạch : ( Lĩnh Nam chích quái ).

Hùng Vương truyền tới đời thứ III (Truyền thuyết Hùng Vương – thần thoại Vĩnh Phú, sách đã dẫn và truyền thuyết còn lưu truyền trong dân gian nói: Vào đời Hùng Vương thứ XVIII) thì hạ sinh được con gái tên là Tiên Dung – Mỵ Nương đến tuổi 18 dung mạo đẹp đẽ, không muốn lấy chồng, chỉ mải vui chơi chu du khắp thiên hạ. Vua cũng không cấm. Mỗi năm vào khoảng tháng hai, tháng ba lại sắm sửa thuyền bè chèo chơi ở ngoài bể vui quên trở về.
Hồi đó, ở làng Chử Xá cạnh sông lớn có người dân tên là Chử Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử (có nghĩa là người con trai ở bến sông), cha từ con hiếu. Nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, còn một khố vải cha con ra vào thay nhau mà mặc. Kịp tới lúc cha già ốm, bảo con rằng: “Cha chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho con”. Con không nỡ làm theo, dùng khố mà liệm bố.
Đồng Tử thân thể trần truồng đói rét khổ sở, đứng ở bên sông, hễ nhìn thấy thuyền buôn qua lại thì đứng dưới nước mà ăn xin, rồi lại câu cá độ thân. Không ngờ thuyền Tiên Dung tới, chiêng trống đàn sáo, kẻ hầu người hạ rất đông. Đồng Tử rất kinh sợ.
Trên bãi cát có khóm lau sậy, lưa thưa dăm ba cây. Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ nằm xuống mà phủ cát lên mình. Thoắt sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên bãi cát, ra lệnh vây màn trướng ở khóm lau mà tắm. Tiên Dung vào màn cởi áo dội nước, cát trôi mất, trông thấy Đồng Tử. Tiên Dung kinh sợ hồi lâu, thấy con trai bèn nói: “Ta vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp người này, cùng ở trần với nhau trong một hố, đó chính là trời xui nên vậy. Người hãy đứng dậy tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc rồi cùng ta xuống thuyền mở tiệc ăn mừng”. Người trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa từng có. Đồng Tử nói là tại sao mà lại nấp ở đấy. Tiên Dung ta thán rồi ép làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ, Tiên Dung nói: “Đây là do trời chắp nối, sao cứ chối từ?”.
Người theo hầu vội về tâu lại với vua. Hùng Vương nói: “Tiên Dung không thiết danh tiết, không màng của cải của ta, ngao du bên ngoài, hạ mình lấy kẻ bần nhân, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa”.
Tiên Dung nghe thấy, sợ không dám về, bèn cùng Đồng Tử mở bến chợ, lập phố xá, cùng dân buôn bán, dần dần trở thành cái chợ lớn (nay là chợ Thám, còn gọi là chợ Hà Lương). Phú thương ngoại quốc tới buôn bán, thờ Tiên Dung, Đồng Tử làm chúa. Có người lái buôn giàu nói rằng: “Quí nhân bỏ một dật vàng ra ngoài biển mua vật quí, sang năm có thể thành mười dật”. Tiên Dung cả mừng bảo Đồng Tử: “Vợ chồng chúng ta do trời tác thành, đồ ăn thức mặc do trời phú cho, hãy đem vàng cùng phú thương ra hải ngoại buôn bán”.
Có núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, bọn lái buôn thường ghé thuyền ở đó lấy nước ngọt. Đồng Tử lên am chơi, có tiểu tăng tên gọi là Ngưỡng Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử lưu học ở đó, giao hàng cho lái buôn mua hàng. Sau lái buôn quay lại am chở Đồng Tử về. Sư tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc nón (Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam thì là “cây gậy và chiếc nón” - người viết.) mà nói rằng: “Linh thiêng ở những vật này đây”.
Đồng Tử trở về, giảng lại đạo Phật, Tiên Dung giác ngộ, bỏ phố phường, cơ nghiệp, rồi cả hai tìm thầy học đạo. Trên đường viễn hành, trời tối mà chưa thấy thôn xá, hai người tạm nghỉ ở giữa đường, cắm trượng, che nón mà trú thân. Đến canh ba thấy hiện ra thành quách, lầu ngọc, điện vàng, đền đài dinh thự, phủ kho miếu xã, vàng bạc châu báu, giường chiếu chăn màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt trước mắt. Sáng hôm sau ai trông cũng kinh lạ, đem hương hoa, thức ăn quý tới mà xin làm bầy tôi. Có văn võ bá quan chia túc quân vệ, lập thành nước riêng.
Hùng Vương nghe tin cho rằng con gái làm loạn, bèn sai quân tới đánh. Quần thần xin đem quân ra phân nhau chống giữ. Tiên Dung cười mà bảo: “Điều đó ta không muốn làm, do trời định đó thôi, sinh tử tại trời, há đâu dám chống lại cha, chỉ xin nhận theo lẽ chính, mặc cho đao kiếm chém giết”.
Lúc đó dân mới đến đều kinh sợ tản đi, chỉ có dân cũ ở lại. Quan quân tới, đóng trại ở châu Tự Nhiên, còn cách sông lớn thì trời tối không kịp tiến quân.
Nửa đêm gió thổi bay cát nhổ cây, quan quân hỗn loạn. Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút chốc bay tản lên trời, chỗ đất đó tuột xuống thành cái chằm lớn. Dân bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, gọi chằm là chằm Nhất Dạ Trạch (nghĩa là chằm một đêm), gọi bãi là bãi Mạn Trù (bãi Màn Trướng), gọi chợ là chợ Thám còn gọi là chợ Hà Lương.
Sau vua Hậu Lương là Diễn sai Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược phương Nam. Lý Nam Đế sai Triệu Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục sai quân nấp ở chằm. Chằm sâu mà rộng, lầy lội, tiến binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột xuất ra đánh cướp lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn năm không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: “Ngày xưa đây là chằm một đêm bay về trời, nay lại là chằm một đêm cướp một người”.
Nhân gặp loạn Hầu Cảnh vua nhà Lương bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tùy tướng là Dương Sằn thống lĩnh sĩ tốt. Quang Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương mà cầu đảo, bỗng thấy thần nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo Quang Phục rằng: “Hiển linh còn đó, người có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn”. Dứt lời, tháo vuốt rồng cho Quang Phục, bảo: “Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị diệt”. Đoạn bay lên trời mà đi.
Quang Phục được vật đó, reo mừng vang động, xông ra đột chiến, quân Lương thua to. Chém Dương Sằn trước trận, giặc Lương phải lùi. Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập làm Việt Vương, xây thành ở Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh. (Có chỗ viết là Châu Quỳnh Viên Sơn tức Kim Mộc Sơn ở cửa Nam Giới, huyện Thạch Hà).





2/“Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán kính thờ Tiên Dung (và) Đồng Tử làm chúa. Có một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng: “Quí nhân hãy bỏ ra một dật vàng năm nay cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí, đến sang năm được lãi mười dật”. Tiên Dung vui mừng bảo Đồng Tử: “Vợ chồng ta là bởi Trời mà nên. Nhưng cái ăn cái mặc là do người làm lấy. Nay nên đem một dật vàng cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí để sinh sống”. Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi buôn bán lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ. Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có một tiểu Tăng tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng Tử ở lại để nghe pháp, đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng. Đến lúc thương nhân trở về lại tới am đó chở Đồng Tử trở về nhà. Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón, vừa bảo: “Các việc linh thông đều ở đó rồi”. Đồng Tử trở về, đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đồng Tử du phương tìm thầy học đạo”.

3/“Thời Hùng Vương, núi Quỳnh Vĩ, có Đồng Tử lên thảo am. Trong am có nhà sư tên Phật Quang. Đó là người Thiên Trúc, tuổi hơn 40, truyền pháp cho Đồng Tử một cái nón và một cây gậy, nói rằng: “Linh dị và thần không có đây cả”. Đồng Tử đem đạo Phật truyền cho Tiên Dung. Vợ chồng Tiên Dung bèn học đạo. Đến buổi chiều ngày trở về, giữa đường cần làm nơi tá túc, bèn dựng gậy che nón, đến canh ba thì thành quách lâu đài, màn gấm màn the, kim đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ đầy cả sân chầu…”.

3/Chử Đồng Tử

Vũ Ngọc Phan kể


Thời xưa, ở làng Chử Xá (1), có hai cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử, nhà nghèo đến nỗi phải chung nhau một cái khố, hễ ai đi đâu thì đóng.

Cù Vân bị ốm nặng, khi sắp chết, dặn lại con rằng:

- Bố chết, con cứ táng trần cho bố, còn cái khố con giữ lấy mà dùng.

Cù Vân chết, Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng, lấy khố đóng cho cha, rồi mới chôn.

Ở một túp lều nhỏ ven sông, ngày ngày Chử Đồng Tử xuống đánh cá, rồi đổi lấy gạo ở các thuyền qua lại.

Thời bấy giờ vua Hùng Vương thứ mười tám có một nàng công chúa tên là Tiên Dung, nhan sắc tuyệt trần, tuổi đã mười bảy mười tám mà không chịu lấy chồng, chỉ thích chèo thuyền đi xem sông núi. Vua chiều con, cấp cho con thuyền và đủ mọi người hầu hạ, mặc cho con muốn đi chơi đâu thì đi.

Một hôm, Tiên Dung đi chơi thuyền trên sông, thuyền của Tiên Dung đi giữa, còn trước sau là thuyền của binh lính và thị nữ. Khi đến khúc sông thuộc làng Chử Xá, đám thuyền làm rợp cả mặt nước.

Chử Đồng Tử trông thấy, vội vứt vó vào bụi, chạy lên bãi, bới cát vùi mình xuống, rồi lấy cát phủ lên.

Thấy bãi sông rộng rãi, lại có lác đác từng bụi cây lớn tỏa bóng mát êm dịu, Tiên Dung lấy làm ưa thích, ra lệnh cho thuyền ghé vào bãi, rồi chọn một chỗ có bóng mát, sai thị nữ giăng màn tứ vi để tắm. Tiên Dung vào màn, cởi áo xiêm, dội thỏa thích. Không ngờ chỗ Tiên Dung giăng màn tắm lại chính là chỗ Chử Đồng Tử náu mình. Tiên Dung dội nước một lúc thì bỗng nhiên Chử Đồng Tử trồi lên. Tiên Dung trông thấy giật mình, hỏi duyên cớ thì Đồng Tử nói vì không có quần áo thấy thuyền quân quan thì sợ, nên phải vùi mình xuống cát để ẩn.

Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng:

- Tôi đã nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run rủi, lại gặp chàng ở chốn này, mới biết cưỡng không được với trời.

Nàng bảo Đồng Tử tắm sạch sẽ, lấy quần áo cho mặc, đưa xuống thuyền và sai thị nữ sửa soạn tiệc hoa. Thấy thế, Chử Đồng Tử ngỏ ý chối từ, Tiên Dung bảo chàng rằng:

- Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, việc gì mà từ chối!

Đồng Tử đành phải nghe theo.

Từ hôm ấy, hai người thành vợ chồng.

Vua được tin nổi giận, gọi hết binh lính và người hầu của Tiên Dung về. Tiên Dung sợ cha, đành cùng chồng ở lại với nhân dân, tìm kế sinh nhai. Nàng làm ăn ngày một thịnh vượng, dần dần lập thành một xóm. Sau có người khuyên nàng cho người ra biển tìm những vật lạ đem về đổi lấy các thứ khác. Nàng nghe theo, để chồng đi.

Đồng Tử đi qua một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, trông lên núi thấy có cái am nhỏ. Đồng Tử trèo lên núi gặp một nhà sư xưng tên là Phật Quang. Thấy Đồng Tử là người chân thật, Phật Quang muốn truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử không nghĩ đến việc ra biển nữa, liền ở luôn đó. Đồng Tử học được hơn một năm thì Phật Quang cho chàng một cái gậy và một cái nón, cho phép chàng xuống núi và dặn rằng:

- Phép biến hóa ở cả cái gậy và cái nón này.

Đồng Tử về nhà, đem phép mầu truyền lại cho Tiên Dung, rồi hai vợ chồng rời bỏ xóm làng, đi tìm nơi thanh vắng để ở. Một hôm đang đi đường, trời tối mà chưa đến chỗ dân cư, hai vợ chồng chống cái gậy xuống đất và lấy cái nón úp lên đầu gậy để che sương, rồi hai người ngồi tựa vào nhau dưới nón mà ngủ. Đến quá nửa đêm, hai vợ chồng tỉnh dậy thì thấy mình ở trong một cung điện lộng lẫy có đủ các thứ giường sập, màn trướng, lại có cả tiểu đồng, thị nữ và binh lính đi lại rộn rịp ngoài hành lang.

Sáng hôm sau, hai vợ chồng ra ngoài xem thì thấy có thành cao bao bọc cung điện và có tướng sĩ canh gác rất đông, chẳng khác nào một tòa thành lớn.

Tin lạ ấy đến tai vua. Vua cho là Đồng Tử và Tiên Dung làm loạn, liền sai quan quân đến đánh. Quân nhà vua đến gần nơi Tiên Dung và Đồng Tử ở thì trời vừa tối, không sang sông được. Đến nửa đêm, trời nổi cơn dông, cát bay, cây đổ, rồi toàn khu Đồng Tử và Tiên Dung ở bay cả lên trời, chỉ còn lại bãi đất không ở giữa đầm. Bãi ấy về sau gọi là bãi Tự nhiên (2), còn đầm ấy gọi là đầm Nhất Dạ (3). Thấy có sự lạ lùng như vậy, nhân dân lập miếu thờ ngay trên bãi.

Đời sau, Triệu Việt Vương đóng quân trong đầm để chống lại quân xâm lược nhà Lương. Lúc bị quân giặc vây nguy cấp, Triệu Việt Vương thiết đàn, cầu thần giúp mình tiêu diệt quân địch để cứu nạn nước, bỗng thấy một vị thần cưỡi rồng xuống đàn cho Triệu Việt Vương một cái vuốt rồng và dặn: "Ngươi cắm cái vuốt này lên chỏm mũ đầu mâu thì đi đến đâu, giặc sẽ tan đến đấy". Nói xong, thần cưỡi rồng bay vụt lên trời.

Theo lời thần dạy, Triệu Việt Vương cắm vuốt rồng lên chỏm mũ, thấy sức khỏe tăng lên bội phần, trí óc cũng sáng suốt, thanh thế ngày một lớn, mới đem quân phá vòng vây, chém được tướng giặc là Dương Sàn. Quân xâm lược nhà Lương bị tan vỡ, phải rút khỏi đất nước Việt Nam .


Vũ Ngọc Phan kể



4/Trên bờ ao có hai nên nhà . Tục truyền vào thời Hùng Vương , Chử Đồng Tử và Tiên Dung tu Đạo ở đấy , gọi là núi Quỳnh Viên . Lê Thánh Tông Hoàng Đế đi tuần du phương Nam có câu thơ :

" Danh Sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên " ( Kể về núi danh tiếng , còn nói đến núi Quỳnh Viên xưa " .

…Về phía Nam vài dặm có suối Hau Hau , nước rất ngon ngọt . Trong những tháng mùa hè , dân quanh vùng ghé thuyền vào chân núi bắc máng tre dẫn nước vào thuyền chở đi bán . Những người quanh vùng đều lấy làm quý .

Như vậy ta thấy rằng tuy có nhiều dị bản nhưng việc Chử Đồng Tử và Tiên dung được nhà sư Phật Quang truyền Đạo ( Ta chưa bàn đến Đạo gì ) là có sự thống nhất giữa các tài liệu . Việc nữa là tại Cửa Sót và núi Nam Giới vẫn còn di tích và truyền thuyết từ xưa về việc này . Thứ hai là núi Nam Giới chính là nơi biên ải ngày xưa của nước Việt (Cửa Sót ( Nam Giới) , tại nơi giáp giới hai Huyện Thiên Lộc và Thạch Hà , nước sông Hà Hoàng chảy ra . Nguồn sông gần và nông , nước triều mặn dâng ngược rất xa . Cửa biển sâu rộng . Ngày trước các thuyền buôn của người Tàu sang ta đều vào cửa ấy .) Nơi đây chính là một cửa khẩu quan trọng của nước ta vào thủa ấy để thông thương với bên ngoài , và rất có thể là nơi Phật giáo Ấn Độ được truyền vào nhờ nhà sư Phật Quang . Thứ 3 các dị bản đều nhắc đến việc thuyền buôn của Chử Đồng Tử vào núi Nam Giới lấy nước , chi tiết này có thật trong sử (Về phía Nam vài dặm có suối Hau Hau , nước rất ngon ngọt . Trong những tháng mùa hè , dân quanh vùng ghé thuyền vào chân núi bắc máng tre dẫn nước vào thuyền chở đi bán . Những người quanh vùng đều lấy làm quý .) Đây cũng là một bằng chứng quan trọng vì những ngọn núi ngoài biển không phải nơi đâu cũng có sẵn nước ngọt .

Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã viết .

Ông cho rằng núi Quỳnh Viên ở vùng biển trước cửa Sót của Việt Nam giáp giới Thanh Hoá – Nghệ An. Nhưng chính trong bản văn của truyện đã nói rõ Chử Đồng Tử lênh đênh hải ngoại thì không thể đi đến cửa Sót đã gặp ngay núi Quỳnh Viên.

Do đó, chỉ có thể núi Quỳnh Viên là một địa danh thần thoại; hoặc là phải ở rất xa bờ biển Việt Nam , chứ không thể ở ngay cửa Sót được. Hơn nữa, Quỳnh Viên nghĩa đen là vườn Quỳnh, một địa danh dễ liên hệ tới Quỳnh Dao là nơi ở của bà Tây Vương Mẫu, hơn là một địa danh có thật. Vả lại, câu “Danh sơn do tích cổ Quỳnh viên” chưa trực tiếp khẳng định hòn núi này có tên là Quỳnh viên trước khi ngài Chử Đồng Tử đến tu tập. Cho dù, trên thực tế từ thời Lê Thánh Tôn – sau thời điểm ngài Chử Đồng Tử thành đạo ngót 2000 năm – hoặc trước đó đã có núi Quỳnh Viên và có một am nhỏ trên đó, thì điều đó cũng khó có thể liên hệ với một hiện tượng đã xảy ra trước đó gần hai ngàn năm. Bởi vì, nếu giả thiết Chử Đồng Tử đã từng tu ở đây thật và phổ biến Phật giáo vào thời của ngài như một hiện tượng xã hội lớn, đến mức độ vua Hùng phải quan tâm đến. Như vậy, sẽ dẫn tới sự liên hệ tiếp tục với những vấn đề sau đây:

* Ngôi chùa (hoặc am) trên núi Quỳnh Viên có thật đó sẽ là di tích đầu tiên của lịch sử Phật giáo Việt Nam . Nhưng, không thể ngôi chùa đầu tiên tu hành của vị đứng đầu Phật giáo Việt Nam là Chử Đồng Tử – đồng thời là một danh nhân của dân Lạc Việt: Ngài là một trong bốn vị thần bất tử trong tín ngưỡng dân gian – mãi mãi chỉ là một cái am nhỏ trải hàng ngàn năm sau đó, mà không được chú ý đến. Trong khi Phật giáo là một tôn giáo lớn được hầu hết người Việt tôn trọng, dù theo hay không theo tôn giáo này. Hơn nữa, câu trên cũng có thể hiểu rằng: bắt đầu tự sự tích núi Quỳnh Viên mà đời sau lấy tên đó đặt cho hòn núi này. Hay nói một cách khác: địa danh núi Quỳnh Viên có sau sự tích này. Do đó, chỉ có thể nhận xét một cách hợp lý rằng: người đời sau đã sử dụng một hiện tượng thực tế để minh chứng cho một truyền thuyết. Cũng như đầm Nhất Dạ ở Hải Dương, được coi là di tích của ngài Chử Đồng Tử. Nhưng chưa chắc hẳn đã là nơi ngài Chử Đồng Tử qui tiên ở đấy. Tức là, không phải ngài Chử Đồng Tử đã hoá phép để biến một vùng đất thành một cái hồ ở Hải Dương bây giờ là một thực tế. Chỉ có thể coi đây là một hiện tượng thực tế được sử dụng để bảo chứng cho sự tồn tại của một truyền thuyết.




Từ sự thống nhất giữa các dị bản về Chử Đồng Tử - Tiên Dung tại Quỳnh Viên – Nam Giới , và cũng cần lưu ý đây chính là nơi biên ải ngày xưa thì vấn đề Chử Đồng Tử học Đạo tại đây là việc có thể tin cậy được . Còn nơi đây chỉ là nơi Chử Đồng Tử học Đạo , và là di tích đầu tiên về người Việt tu hành tại đó , do vậy không phải là nơi không được chú ý đến như Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã viết . Ta cũng cần nhớ là Đạo Phật còn có thêm một con đường vào Việt Nam nữa về sau này tại vùng Luy Lâu do Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci) (? - 594) (Tổ khai sáng dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở Việt Nam ) .

Và nếu ai có đi qua Chùa Tổ thờ Phật Mẫu man nương ở vùng Luy Lâu thì cũng thấy rằng , tuy là ngôi chùa Tổ , nhưng lại được công nhận sau cùng , sau cả chùa Dâu , chùa Keo và hầu như ít được chú ý của giới nghiên cứu nước nhà . dienbatn có viết bài giới thiệu về chùa Tổ trong bài Những chú Độc nhãn Long .

Đây là một tư liệu dienbatn tìm được từ nguồn http://www.thienlybuutoa.org cũng rất đáng quan tâm




Theo Thiền uyển truyền đăng tập lục, Pháp sư Đàm Thiên trong khi đàm đạo với vua nhà Tùy (thế kỷ VI-VII) đã cho biết Giao Châu có đường thông thương với Ấn Độ, nên khi ở Giang Đông (Trung Quốc) đạo Phật hãy còn xa lạ thì tại thủ đô Luy Lâu của Giao Châu đã có trên hai mươi chùa Phật, hơn năm trăm nhà sư, đã biết đến mười lăm bộ kinh.

Có bằng chứng cho thấy Phật giáo đã từ Việt Nam vào Trung Quốc trước khi Phật giáo từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam. Thế kỷ III, Ngô Tôn Quyền ở Giang Đông đã được sư Khương Tăng Hội từ Giao Châu sang truyền đạo, Tôn Quyền đã cho cất chùa Kiến Sơ vào dịp này.

Đại Việt sử ký toàn thư và Ngô chí (viết vào thế kỷ IV) chép lại lá thư của một người Hán là Viên Huy, gửi cho Thượng thư lịnh Tuân Úc năm 207. Thư kể rằng Thái thú Sĩ Tiếp (Sĩ Nhiếp) ở Giao Châu mỗi khi ra đường đều có các nhà sư Ấn Độ theo xe, xông trầm đốt hương, đánh chuông khánh, thổi kèn sáo.

Do miền Bắc sớm trực tiếp gặp Phật giáo Ấn Độ nên người miền Bắc có từ Bụt. (Tục ngữ: Gần chùa gọi Bụt bằng anh; Đi với Bụt mặc cà sa, đi với ma mặc áo giấy…) Bụt do gốc tiếng Ấn Buddha. Sau này tiếp xúc Phật giáo Trung Quốc nên có thêm từ Phật, mượn ở cách người Hoa phiên âm từ Buddha (tiếng Hán-Việt là Phật đà).

Về sau, việc truyền đạo trực tiếp từ Ấn sang giảm bớt dần, trong lúc theo đường bộ đạo Phật từ phương Bắc du nhập chiếm ưu thế hơn. Do ảnh hưởng từ phương Bắc xuống, hay Bắc tông, Phật giáo Việt Nam thuộc ngành đại thừa. Trái lại, do ảnh hưởng từ phương Nam lên, hay Nam tông, các lân bang như Lào, Cam-pu-chia, Thái thuộc ngành tiểu thừa. "

Share this post


Link to post
Share on other sites