Guest Dienbatn

VỀ THĂM CỤ TRẠNG TRÌNH - NGUYỄN BỈNH KHIÊM . dienbatn .

1 bài viết trong chủ đề này

Bài Chiêm Lịch soạn cho năm 2010-2011

Phạm Vũ Hội- KTS

Xưởng Kiến Trúc Tạo hình Hải Phòng

Thân gửi: ông Bùi Quốc Hùng- Bút danh DIENBATN

Trung Tâm Nghiên cứu lý học Đông Phương

Bài Chiêm để đăng tải về nghiệm lý Sấm Ký Trạng Trình

(tiếp tục với Hư thực muôn đời…)

(E-mail:dienbatn@yahoo.com)

Canh dần diễn nghĩa – 2010


I/ Thiên tượng
Dịch trời đảo lộn tứ phương,


Bóng đen lấp ló nẻo đường trận vong

Sơn lôi di chuyển đùng đùng.

Ai hay khói lửa bập bùng biển khơi

Rừng sâu hùm thức dậy rồi.

Đông A một dải đứng ngồi chửa yên

Trước thu trăng rọt lên thềm,

Một cơ “lục thất” sức bền trăm năm

Lại tìm hai chữ Ngũ Luân,

Lại xem Núi Tản Non Nùng hiển linh

Sự nuôi sự lớn sự thành,

Sự đi hợp lẽ chính danh đúng mùa

Cầu trời “bất chiến-bất thua”,

Bắc nam vô sự gió mưa thuận hòa.

II / Nhân sự
Mã phù Kiếp địa khởi ra,


Thói quen dương tẩu lẻn qua cửa rồng

Tháng giêng thấy động ầm ầm,

Ba tư khói bụi xém gần tới lưng

Bốn năm phong hỏa gia nhân,

Người thua kẻ thắng đôi phần tách chia

Than ôi quốc sự dầm dề,

“Mã ngưu chi tuế” xua dê lạc đàn

Đạo càn nãi thống dương gian,

Đạo khôn nãi thuận còn đang nửa vời...

Trước thời thiên hạ xẻ đôi,

Sau thời nhân quả ông tôi nhỡn tiền.

III/ Thiên tặc

“Cát bình nhất nhật sơn niên”, đất trời nóng nực suốt đêm suốt ngày


Khô khan rã cánh cò bay, giữa năm động đất gió xoay tối mù

Cơ trời đói kém mất mùa, lại khi dịch khí a dua a tòng

Triều dâng bão dội tây đông, làm cho thiên hạ hãi hùng nhiều phen

Nghĩa nhân mà lắm ưu phiền, bởi chưng quyền lực bon chen bộn bừa

Tượng trời gia đấy mà chưa? vị nhân vị cập vẫn đùa thế gian..!

Phạm-Vũ-Hội. 7-4-2009

(13/3 Kỷ Sửu)

“ * ” Lấy ý từ Sấm Trạng Trình

Chiêm lịch 2010- Canh Dần
Stt
Ngày tháng


Dương lịch
Biến cố


Binh cách Biến cố

Ngũ tặc
Phương vị


(+ -3ngày)

1
21 -2


23-3

30-4
Binh cách


căng thẳng
Mưa lũ


Động đất –khí lạnh
Đông-Nam


Đông-Bắc

Tây

2
26-5


19-6


Bùng nổ – binh lửa


Xung đột
Khô hạn- nóng


Gió lốc cuồng phong

---
Bắc


Đông bắc

Đông Nam

3
15-7


08-8


Binh cách


----------Chiến sự
Nóng hạn


Gió lốc cuồng phong
Bắc ...


Tây-Nam

Đông bắc

4
04-9


28-9


Binh lửa


Hội họp...chiến sự

-
Dịch bệnh khí
Lốc – Mưa lũ….
Tây Nam


Đông nam



5
24-10


18-11


Căng thẳng. hội họp


------------

-----------Chiến sự
Lũ lụt-----


Mưa lụt ---

----------
Tây Bắc


Đông-Đông bắc

6
27-12


02-2-2011


Chiến sự


------------


Động đất


Dịch-----lũ
Tây – Bắc


Đông-nam

Nam ------


PVH- ( 12/4/2009 DL)

(18/3 Kỷ Sửu )

Tân Mão diễn nghĩa – 2011


I/ Thiên tượng


Vận trời cháy sự tràn lan, mặc nhiên quỷ quái làm càn khiếp kinh

Vẫn theo bá đạo vi hình, lùa cơn sóng cả nghê kình ngoài khơi

Tốn cung cam phận dập vùi, “kiền khôn phù tái” ngược xuôi trống kèn

Chấn cung hơi vạc bùng lên, thủy lôi thăng giáng khắp miền giang đông

Khôn cung tí tách đì đùng, “độc- tôn” hai chữ nạ dòng cắt chia

Khí trời nhân nghĩa ra rìa, quan quyền lừa đảo ăn chia kiếm tiền

Đông tây chưa thể là duyên, “cửu trùng” còn đợi tiên thiên đảo đồng

II / Nhân sự


Tính thời toan thế thượng phong, giơ tay xoạc cẳng anh hùng kém ai

Nhìn lên thấp thoáng sen nhài, cúi xuống lộ rõ hình hài quỷ ma

“Cơ nhị ngũ” thế cũng là... “cửu châu” tiếp cảnh chiến qua “do hùng”

Giêng hai hiểm hóc tầm ngầm, ba tưw tịt mịt tay cầm bàn chông

Năm sáu lửa bén phía đông, cuối năm hội họp chạy rông chạy dài

“Ốc tru” đáo vận giằng giai, quyền nhân bước một bước hai nửa vời...

III/ Thiên tặc

Cả mưa cả nắng thì sôi, cả sóng cả gió thì lôi sập thành


Ốm đau ôn đạo dịch hành, âm dương đôi ngả rõ rành tác hung

Đoài phương lạnh nóng chưwa từng, thì phen núi lở địa lầm cuốn trôi

Chấn phương đấy lụt đây bồi, đồng quê thẳng cánh dập vùi thủy phân

Chữ rằng thiên địa chi tân, bình yên một khúc bất thần một khi...

Bao giờ “thập quốc” lâm thì, mới yên ngũ tặc mới vi nhân quyền...

Phạm-Vũ-Hội. 14-4-2009

________________________ (20/3 Kỷ Sửu)

“ * ” Lấy ý từ Sấm Trạng Trình

Chiêm lịch 2011- Tân Mão
Stt
Ngày tháng


Dương lịch
Biến cố


Binh cách Biến cố

Ngũ tặc
Phương vị


(+ -3ngày)

1
03-2


24-2

19-3
Binh cách


Chiến sự-

- Bùng nổ
Động đất – Bệnh dịch khí
Đông-Nam


Nam

2
21-4


24-5


binh lửa


Xung đột
Lũ lụt


Gió lốc cuồng phong


Đông bắc


Đông Nam

3
27-6


30-7


Binh cách


----------Chiến sự
Bão lụt


Gió lốc cuồng phong
Tây Bắc ...


Đông-

4
01-9


03-10


Binh lửa


Hội họp-----------


Dịch bệnh khí
Lốc – Mưa lũ.
Tây Nam


Đông nam

.

5
27-10


17-11


------------


-----------Chiến sự
Lũ lụt sụt lở


Động đất sóng thần

----------
Bắc-Tây Bắc


Đông bắc

6
20-12


22-1-2012


Chiến sự


------------

------------
Động đất


Dịch bệnh-----
Tây – Bắc


Đông Nam-


PVH- ( 15/4/2009 DL)

(21/3 Kỷ Sửu )



Phạm Vũ Hội - Có thơ Chiêm rằng:

Lâu nay gắng lấy sự nhàn, mở quyển sách vàng nhiệm nhặp ngồi xem

Có câu Sấm ký bí truyền. Tuổi thơ nghe lỏm đôi phen hỏi dò

Lão phu các cụ bơ phờ , luận giải hàng giờ cũng chỉ chừng ra

“Mười phần mấy bảy còn ba, mất hai còn một...” thực là khó thay

Trẻ con chạy dọc luống cày, chấp chân sai vặt cả ngày mà vui

Cái thời điếu đóm ông tôi. Cái thời sâu nặng tình người nghĩa cha

Đồng xanh ruộng lúa bao la, lũy tre vi vút tiếng gà gáy trưa

Mái tranh sông nước hững hờ, lưng trâu ngồi đọc i-tờ ê a...

Sấm Trạng Trình đã viết ra, mỗi câu mỗi chữ đều là thần tiên

Gắng công học chữ thánh hiền, hoạ may hiểu được lời truyền Trạng cho

Hoạ may hiểu được biến cơ, tài trai thông luận cơ hồ dọc ngang

Sấm gieo muôn ngọc nghìn vàng, thỉnh xin từng chữ rõ ràng nhớ ghi

Kể từ tuổi nhỏ qua đi, gặp thời loạn lạc khốn nguy bời bời

Chiến tranh rần rật khắp nơi, hiền giang một lẻo cắt đôi sơn hà

Phân chia bên địch bên ta, thắt lưng buộc bụng mà ra chiến trường

Mẹ già một nắng hai sương, tuổi xuân hăng hái lên đường lập công

Thân trai nhẹ tựa lông hồng, bom rơi đạn nổ tứ tung ngũ hành

Thửa là phải thuở “hung hoang”, thửa là binh hoả chiến trường khốn thay

Thửa là cá phái ẩn cây, thửa là còn mấy chim bay một làng

Khăng khăng sắc đỏ sắc vàng, nhà máy thôn làng khẩu sung khoác vai

Thửa là thiên hạ xẻ hai, thửa là kẻ sở người đoài chạm nhau

Muôn dân chịu cảnh âu sầu, kể dư đôi ngũ quả hầu mới yên

Thương cho hai chữ thánh hiền, bảy nổi ba chìm mới được hồi sinh

Những năm giáp ất bính đinh, Sấm ký Trạng Trình đều phải đốt đi

Sự lòng dân nhớ dân ghi, năm trăm năm ấy người đi lại về

Thủy sinh cành lá xum xuê, càn khôn thái vận bốn bề cảo thơm

Đẽo vuông rồi mới đẽo tròn, công cha nghĩa mẹ nhới ơn muôn đời

*

Hai tay nâng quyển sấm trời, ấm áp từng lời Trạng đã dạy cho

Huyền thông là chuyện thiên cơ, nói ra không thể tóc tơ tỏ tường

Thực hư để lại nhân gian, đúng sai để lại nghiệm bàn hậu sinh...

Nay xem thời nghiệm lộ trình, “phục nguyên chu ngũ” tài tình xiết bao

Nhớ câu Trạng viết thuở nào, “một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa”

Những điều báo chí đăng qua, ứng vào thời thế thật là thần minh

Có câu “long vĩ chiến tranh, can qua thân dậu thái bình niên lai...”

Ấy là đại chiến thứ hai, thời gian sự thế chẳng sai tí nào

Đồ thư một quyển Trạng trao, năm trăm năm ấy trải bao nhiêu đời?

Có câu “Tiên lãng chia đôi, sông Hàn nối lại thì tôi lại về”

Lần theo mảnh đất đồng quê, vẫn còn Đền Trạng bốn bề cỏ hoang

Vẫn còn dải đất Trung Am, bến đò Tăng Thịnh sông Hàn nước xuôi

Bao năm đất lở cát bồi, bờ đê Nam tử chân người gió theo...

Quê cha quê mẹ còn nghèo, chỉ mong có được cầu kiều bắc sang

Cánh buồm nhẹ lướt Hàn giang, bể Đông mây trắng từng làn trắng mây

Chuông chùa Thạch Khánh khô gầy, Thiên Hương nẻo khuất thuyền đầy khách thăm,

Tràng Xuân Kiều lặng bâng khuâng, Thái Bình choi chói một vùng Trấn Dương

Ngao du Đông Hải- Đồ Sơn, lại về Kính Chủ- Động Tiên sớm chiều

Sự già vui bạn theo theo, văn chương tri ngộ điều điều tự tâm

Mặc ai xua đuổi hươu Tần, trăng lên lầu Hán ngồi thăm mệnh trời

Dở hay thôi tự lòng người, bút hoa soi chép những lời thần tiên

Chữ đề Sấm ký- bí truyền! Chữ Tâm thực sáng, chữ Thiền thực cao

Chữ Tài, chữ Tuệ siêu sao, Trung Thiên Như Nhật vọng vào ngàn năm..!

Mát trong theo mạch nước ngầm, mát vào hoa cỏ tưới nhuần khắp nơi

Rằng đầu thế kỷ hai mươi, “phân thân tòng bắc khởi” ngòi chiến tranh

Ấy là Đức Pháp ý Anh, áo-Hung Nga Nhật Mỹ tranh giành đất đai

Ấy là tám nước cường tài, làm “tám chúng quỷ” tính bài hại nhân

Nổi cơn binh lửa ầm ầm, hùm già lạc dấu khôn lần lối ra

Versails quyền lợi bất hoà, thắng thua thù hận cho là cách tân

“Đoài phương ong khởi lần lần. Muông sinh ba cốc cầm quân dấy loàn”

Ấy là Đức ý Nhật Hoàng, thành trục phát xít tính toan phục thù

Đua tranh quân lực quân nhu, gây nên đại chiến mịt mù bốn phương

Địa cầu ra bãi chiến trường, thủy chiến bộ chiến trăm đường gớm ghê

Mùi Thân Đức ý thua to, Mỹ Anh Nga Pháp kết lò đồng minh

Bấy giờ “nhiễu nhiễu đông chinh” khắp nơi chĩa súng vào anh Nhật Hoàng

Đồng minh đòi Nhật đầu hàng, ngẩn ngơ thì nỗi kinh hoàng xảy ra

Hoa Kỳ dùng đến bom "A", một Hi-rô-sị một Nà-zà gaki

Châu thành tan tác như ri, đúng năm Ât Dậu thôi thì thảm thương

“Gà đâu gáy sớm bên tưwờng, chẳng yêu thì cũng bất tương rằng không

Quốc trung kinh dụng cao không, giữa năm vả lại hiểm hung mùa màng”

Thế là Nhật phải đầu hàng, Đồng Minh thắng trận khải hoàn khắp nơi...

Lạ thay khi viết Sấm trời, Trạng đà biết rõ chuyện đời chẳng ngoa

Bom nguyên tử đã nổ ra, giữa năm con gà- quả đúng giữa năm

Đoài phương thực có chân nhân, kêu gọi xa gần lập hội quốc liên

Chủ trương bênh vực nhân quyền, lớn nhỏ mọi miền tôn trọng tự do...

Sau khi Đức Nhật hạ cờ, thế giới bấy giờ đó khát thiên tai

Đồng Minh thắng trận nơi nơi, lợi dụng cơ trời nhiều nước đứng lên

Phá điền thiên tử xuất niên, đúng là bất chiến tự nhiên sinh thành

Việt Nam cướp được chính quyền, lật đổ bù nhìn Bảo Đại thoái lui

Á Đông mấy nước cùng thời, Nam dương Phi luật phát lời tuyên ngôn

Đấu tranh dận tộc dập dồn, tới nay thế giới vẫn còn đấu tranh

Gặp thời một tốt công thành, không thời tướng sỹ cũng đành bó tay.

***

Nhân xem xét lại lich sử vai trò nhà Nguyễn 20-10-2008 mà có thơ rằng:

Tiện đây xin phép nghiệm bàn, vì đâu đất nước đôi đường phân ly

Cứ theo địa lý mà suy, Đại Việt biên thùy chỉ quá Đèo Ngang?

Nam phần do Chúa Nguyễn Hoàng, Chiêm thành Chân Lạp quy hàng mà nên

Nghiệp vương học lối Hán Đường, chữ đề “lưỡng quốc nam vương” rành rành

Giới biên chọn khúc sông Gianh, ngoài- trong là cuộc mạnh tranh thư hùng

Kỳ này chia cắt núi sông, ghép vào Sấm ký là không đúng thời

Thần cơ đã khéo trêu ngươi, sử thi lại khéo do người làm nên

Nay xin chí sĩ mọi miền, lập trang quốc sử phải nhìn cho tinh

Gia Long chính thực phụ nguyên, thần châu thu cả mọi miền về tay

Kinh Đô là Huế đặt bày, Việt Nam là chữ bấy nay bảo toàn

Hà Tiên tới Mục Nam Quan, tỉnh thành- lục lộ- mở mang Bản đồ

Âu là thiên sự biến cơ, lại thêm chinh chiến mù mờ khó suy

Pháp xâm quốc sỉ lâm nguy, ngược xuôi sĩ khí hết đi lại về

“Phá điền than đến đàn dê, hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng

Dê đi dê lại tuồn luồn, đàn đi nó cũng một muôn phù trì”

Cho hay quái khí lâm thì, âm dưwơng trắc dịch vị chi lạc lầm...

Cũng là thú vị tình thâm, đáo tầm sử địa lượng tuần kiến hưng...

(kinh thư16-6-2009-PVH)
dienbatn giới thiệu .

Share this post


Link to post
Share on other sites