Guest Dienbatn

ĐỀN THIÊNG CỬA SÓT. dienbatn .

1 bài viết trong chủ đề này

ĐỀN THIÊNG CỬA SÓT

BÀI 3

dienbatn

Thực ra chuyến đi thăm Cửa Sót lần này của dienbatn là lần thứ hai , lần trước cũng đi cùng Lê Phong . Mục đích chính hai chuyến đi Cửa Sót của dienbatn là tìm lại những dấu vết của truyền thuyết Tiên Dung và Chử Đồng Tử đã thành Đạo tại đây, để nối liền mạch lịch sử về việc hình thành Đạo của Việt Nam . Theo tài liệu của Thiền sư Lê Mạnh Thát về truyền thuyết nhà sư Phật Quang như sau :

" Sư Phật Quang & di tích đầu tiên của Phật Giáo VN
Trả lời câu hỏi này, ta may mắn có một tài liệu viết gần cùng thời với Thiện Uyển Tập Anh là Lĩnh Nam Trích Quái. Truyện Nhất Dạ Trạch của Lĩnh Nam Trích Quái ghi lại việc Chữ Đồng Tử đã được nhà sư Phật Quang tại núi Quỳnh Viên (cũng có bản viết là Quỳnh Vi) truyền dạy giáo lý Phật giáo. Xưa nay Lĩnh Nam Trích Quái thường được xếp vào loại truyện thần thoại hay huyền sử. Thậm chí bộ Việt Nam Hán văn Tiểu Thuyết Tùng san_1, tập I, mới xuất bản gần đây cũng làm thế. Tuy nhiên, khi đi sâu vào nghiên cứu nội dung của Lĩnh Nam Trích Quái, ta mới thấy rõ Lĩnh Nam Trích Quái không chỉ đơn thuần là tập hợp những chuyện thần thoại, thậm chí những chuyện thần thoại hoang đường. Trái lại, nó chứa đựng nhiều sự kiện có thực, mà trường hợp núi Quỳnh Viên của chúng ta đây là một thí dụ cụ thể.
Núi Quỳnh Viên này, những người chủ biên Thơ văn Lý Trần đã chú thích là: "Một quả núi trong truyện thần thoại". Dẫu thế, nếu chịu khó đọc Minh lương cẩm tú do Lê Thánh Tông viết về 13 cửa biển của đất nước ta trong khi tiến quân chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1470, thì ta gặp bài thơ thứ 7, nói về Nam giới hải môn lữ thứ, trong đó có 2 câu: Di miếu man truyền kim Vũ Mục
Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên.
Dịch: Di miếu còn truyền nay Vũ Mục.
Danh sơn vẫn nhắc cổ Quỳnh Viên
Vũ Mục đây tức chỉ tướng Lê Khôi, cháu ruột của Lê Lợi. Năm Thái Hòa thứ 2 (1444) đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Bí Cai, khi trở về đến cửa biển Nam Giới thì mất. Dân thương nhớ, lập đền thờ tại cửa biển này. Cửa biển này còn được gọi nôm na là cửa Sót. Còn núi Quỳnh Viên thì nằm ở phía Nam cửa bể này và từ thời Lê Thánh Tôn đã được xác nhận là một danh sơn, tức một hòn núi có tiếng tăm của đất nước. Và tiếng tăm này là có từ xưa, chứ không phải đợi đến thời Lê Thánh Tôn, tức từ năm 1460 trở đi mới có. Ngay cả khi ta đồng ý với Lê Quí Tôn trong Toàn Việt thi lục và Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt thi tuyển và xếp các bài thơ về 13 cửa biển này vào loại "vô danh thị", thì việc nói "ông Vũ Mục ngày nay" (kim Vũ Mục) và "núi Quỳnh Viên thưở xưa" (cổ Quỳnh Viên) vẫn không đánh mất ý nghĩa thời điểm của bài thơ. Lý do nằm ở chỗ nếu đã nói Lê Khôi là ông Vũ Mục thời nay, và Lê Khôi mất vào năm 1444, thì rõ ràng tác giả nó cũng phải sống vào thời của Lê Khôi này, tức khoảng từ 1444 trở đi hay không lâu sau đó.
Nói thẳng ra, vào thế kỷ thứ XV, khi Kiều Phú và Vũ Quỳnh hiệu đính và cho ra đời hai bản Lĩnh Nam Trích Quái khác nhau, Quỳnh Viên đã thật sự là một danh sơn, một ngọn núi nổi tiếng đối với dân ta thời đó và trước kia. Nó dứt khoát không phải là một ngọn núi thần thoại, càng không phải là một ngọn núi không có địa điểm cụ thể tại đất nước ta. Nó quả là một ngọn núi nằm tại cửa Sót. Và trên núi Quỳnh Viên này còn có ngôi chùa cổ. Bản Lĩnh Nam Trích Quái mà ta có ngày nay thì hoặc do Kiều Phú kiểu chính lại vào năm 1490, hoặc do Vũ Quỳnh san định vài năm sau đó, vào năm 1493, từ một bản Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp đời Trần. Như vậy, nếu Lĩnh Nam Trích Quái mà ta có ngày nay nói tới núi Quỳnh Viên, thì dứt khoát núi Quỳnh Viên này phải có một địa chỉ cụ thể. Vì thế, khi Chữ Đồng Tử đã được nhà sư Phật Quang truyền dạy đạo Phật tại núi Quỳnh Viên, ta có thể chắc chắn sự việc này đã xảy ra tại cửa biển Nam Giới hay cửa Sót. Ta có thể đặt vấn đề là nếu quả có ngọn núi Quỳnh Viên tại cửa Sót, thì việc truyền dạy giáo lý của nhà sư Phật Quang cho Chữ Đồng Tử chắc gì đã xảy ra ở đó, bởi vì việc truyền dạy đó xảy ra quá xa cách thời điểm nó ghi lại trong Lĩnh Nam Trích Quái. Nói cụ thể ra, Lĩnh Nam Trích Quái đã ghi lại một sự việc xảy ra cách nó gần tới cả ngàn rưỡi năm. Tất nhiên, trừ phi ta thực hiện một cuộc khai quật khảo cổ học tại núi Quỳnh Viên ở cửa Sót và tìm thấy di vật liên hệ với Chữ Đồng Tử, thì vấn đề mới được giải quyết một cách dứt điểm. Nhưng trước mắt, nếu chưa làm được, song qua phân tích những truyện khác trong Lĩnh Nam Trích Quái, ta thấy dù Lĩnh Nam Trích Quái có được Trần Thế Pháp biên tập lại vào hậu bán thế kỷ thứ 14, thì những dữ kiện trong đó vẫn có một tính cổ sơ đáng muốn. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về truyền thuyết Trăm ứng trong truyện họ Hồng Bàng, ta thấy truyền thuyết này đã xuất hiện trong Lục độ tập kinh 3 ĐTK152 tờ 14a26-cl8 truỵện 23 do Khương Tăng Hội dịch ra chữ Hán vào khoảng những năm 220-250_1. Cũng một cách, truyện Tây Qua của Lĩnh Nam Trích Quái là một dị bản của truyện 7 trong Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, ĐTK206 tờ 512a16-b7, cũng do Khương Tăng Hội phiên dịch v.v... Nói khác đi, dù những truyện do Trần Thế Pháp tập hợp lại trong Lĩnh Nam Trích Quái xảy ra tương đối muộn, nhưng có những dữ kiện đã được chứng minh là xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học nước ta. Do thế, truyền thuyết về Chữ Đồng Tử được nhà sư Phật Quang dạy đạo Phật cũng có khả năng xảy ra rất sớm trong lịch sử dân tộc, chứ không phải vì sự xuất hiện muộn màng trong Lĩnh Nam Trích Quái mà mất đi tính chân thực và cổ sơ của nó. Vậy nhà sư Phật Quang này xuất hiện ở cửa Sót vào thời nào? Qua những chứng cớ ngoại tại, gián tiếp vừa kể trên, tối thiểu ta biết là những gì Lĩnh Nam Trích Quái ghi lại chưa hẳn là không xảy ra, hay không có từ xưa. Cụ thể là truyện về truyền thuyết Trăm Trứng. Không kể các dã sử hay những thông tin bên ngoài, cứ theo chính sử Trung Quốc cũng đã ghi là có các chính quyền phương nam đi thông qua nước ta để đến phương Bắc, đó là chính quyền nước Hoàng Chi. Bình Đế Ký trong Tiền Hán thư 12 tờ 3a3 ghi: "Nguyên thủy thứ 2 (năm thứ 2 sdl), mùa xuân, nước Hoàng Chi dâng tê giác và bò". Rồi đến quyển 28 hạ, Tiền Hán Thư tờ 32b2-3, nơi chuyện Vương Mãng, cũng ghi: "Trong khoảng Nguyên thủy (1-6sdl) của Bình đế, Vương Măng phụ chính, muốn làm rạng rỡ uy đức của mình đã gửi biếu hậu hỷ vua Hoànt Chi khiến cho gửi sứ cống tê giác và bò sống". Nước Hoàng Chi này, cứ Tiên Hán thư 28 hạ, tờ 32b5-5, còn ghi tiếp: "Từ Hoàng Chi đi thuyền có thể tám tháng đến Bì Tôn, rồi đi thuyền hai tháng có thể đến biên giới Tượng Lâm của Nhật Nam. Phía Nam Hoàng Chi có nước Dĩ Trình Phất. Dịch sứ của Hàn từ đó về" Thế rõ ràng Hoàng Chi là một nước rất xa nước Hán, đi thuyền đến mười tháng mới đến. Ghi nhận đầu tiên của chính sử Trung Quốc về sự liên hệ giữa chính quyền Trung Quốc và chính quyền Hoàng Chi là Hoàng Chi ở phía Tây nước ta và phải đi thông qua nước ta mới đến Trung Quốc được. Hoàng Chi là nước nào? Có khả năng Hoàng Chi đây là một trong những nước ở Ấn Độ. Cho nên, nói cách khác, từ những năm đầu Dương lịch, quan hệ chính thức giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã có vè đường biển và đã được chính sử Trung Quốc ghi lại. Sau đó, từ thế kỷ thứ hai trở đi thì quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã được ghi rất rõ, cho nên khả năng trước khi có quan hệ chính thức trên bình diện chính quyền thì phải có quan hệ nhân dân; tức quan hệ giữa hai dân tộc phải đi với nhau rồi hai chính quyền mới đi theo, hoặc để bảo trợ quyền lợi của dân tộc mình hoặc để thiết lập quan hệ liên lạc ngoại giao. Cho nên khả năng những thương thuyền buôn bán của người Ấn Dộ đã đến Trung Quốc trước thời Vương Mãng từ lâu là một sự thật. Thực tế thì ngay trong Sử ký ta đã tìm thấy những từ tiếng Phạn được phiên âm ra tiếng Trung Quốc, cụ thể là từ lưu ly, vaidurya. Tức là nước Trung Quốc đã biết nước Ấn Độ từ lâu. Nói cách khác, từ những thế kỷ đầu Dương lịch, quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã thiết lập và có quan hệ buôn bán giữa thương nhân hai nước. Tiền Hàn thứ 9, tờ 3a3-6 (truyện Tây nam di, lưỡng Việt Triều tiên đã nói tới việc thương nhân đất Thục đem vải và gậy trúc Thân độc về Trung Quốc bán vào năm Nguyên thú thứ nhất (120tdl). Và chuyện Vương Mãng ghi vì "Muốn làm rạng rỡ uy đức của mình, [ông] đã hậu hỹ vua nước Hoàng Chi và khiến dâng tê giác và bò sống", có nghĩa là hai chính quyền đã có quan hệ bang giao từ lâu. Mà trước khi Vương Mãng biết đến nước này thì người nước này đã có quan hệ với Trung Quốc rồi, cho nên Vương Mãng mới biết để khiến dâng vật cống với nhau. Nói cách khác là vào những thế kỷ trước và sau Dương Lịch, đã có những quan hệ giữa Trung Quốc và các nước khác về đường biển thông qua Việt Nam. Cho nên giả thiết sự tồn tại của nhà sư Phật Quang giữa thế kỷ thứ III hay thứ II tdl có thể chứng thực được. Về nhà sư Phật Quang [^] Truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam Trích Quái kể lại việc Chữ Đồng Tử học được đạo Phật như sau: "Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán kính thờ Tiên Dung (và) Đồng Tử làm chúa. Có một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng: "Quí nhân hãy bỏ ra một dật vàng năm nay cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí, đến sang năm được lãi mười dật". Tiên Dung vui mừng bảo Đồng Tử: "Vợ chồng ta là bởi Trời mà nên. Nhưng cái ăn cái mặc là do người làm lấy. Nay nên đem một dật vàng cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí để sinh sống". Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi buôn án lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ. Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có một tiểu Tăng tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng Tử ở lại để nghe pháp, đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng. Đến lúc thương nhân trở về lại tới am đó chở Đồng Tử trở về nhà. Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón, vừa bảo: "Các việc linh thông đều ở đó rồi!. Đồng Tử trở về, đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đồng Tử du phương tìm thấy học đạo". Việc Chữ Đồng Tử và Tiên Dung, những người Việt Nam đầu tiên mà ta biết tên tiếp thu đạo Phật là như thế. Có hai đặc điểm mà ta cần lưu ý. Thứ nhất, việc tiếp thu này đã xảy ra tại núi Quỳnh Viên. Núi Quỳnh Viên từ thời Lê Thánh Tôn ta đã biết là nằm tại cửa Nam Giới, hay cửa Sót. Ngày nay, tại bờ nam của cửa Sót, còn có một hòn núi gọi là Nam Giới sơn. Phải chăng đây là địa điểm cần tìm hiểu khảo cổ học để khai quật xem có vết tích gì của Chữ Đồng Tử và Phật Quang chăng? Trước mắt, ít nhất ta đã xác định được là Quỳnh Viên không phải là một ngọn núi thần thoại, mà thật sự là một hòn núi có tên tuổi tại cửa Sót. Do những dấu vết của Chiêm Thành còn tồn tại đến ngày nay, ta cũng hiểu thêm từ cửa Sót về nam là miền đất thuộc vương quốc Chiêm Thành. Như thế, đất nước Việt Nam thời Hùng Vương phải chăng đã lấy cửa Sót làm một địa điểm ở miền nam của tổ quốc ta? Cần lưu ý, từ vùng cửa Sót, trở ra miền Bắc, ta không tìm thấy có bất cứ di chỉ nào liên hệ với nền văn hóa của Chiêm Thành. Ngược lại, từ cửa Sót trở về nam, cụ thể là các vùng phía nam tỉnh Nghệ An, tức từ Vinh trở về Nam và các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Tĩnh, Quảng Trị và Thừa Thiên, cho đến ngày nay, vẫn còn những vết tích của nền văn hóa Chiêm Thành. Nói thế, tức là muốn nói Phật giáo truyền vào nước ta căn cứ vào Lĩnh Nam Trích Quái là từ phía Nam, qua trung gian nhà sư Phật Quang ở núi Quỳnh Viên, tại Nam Giới hay cửa Sót, giáp giới với Chiêm Thành. Nhà sư này chắc hẳn không phải là ngưòi Việt, vì rằng truyện Chữ Đồng Tử nói: "Đồng Tử linh đinh ra khắp nước ngoài (phù du xuất hải ngoại)". Vùng núi Quỳnh Viên này có khả năng vào thời Chữ Đồng Tử chưa thuộc vào bản đồ của nước ta. Nhà sư Phật Quang này có thể là một người Chiêm Thành, hoặc là người Ấn Độ, đang tìm cách truyền bá Phật giáo vào Việt Nam. Và Chữ Đồng Tử là ngưòi Việt Nam đầu tiên đã đến tiếp xúc với ông, để rồi sau đó, trở thành người Phật Sư Việt Nam đầu tiên có tên tuổi. Truyện Chữ Đồng Tử này sau đó được Thiên Nam Vân Lục của một tác giả vô danh chép lại. Thế thì Chữ Đồng Tử đã tiếp thu đạo Phật như thế nào? Đây là đặc điểm thứ hai mà ta cần lưu ý. Truyện Chữ Đồng Tử chỉ nói khi Đồng Tử trở về quê "Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón, vừa bảo: mọi việc linh thông đều đã ở đấy cả". Nói vậy, Lĩnh Nam Trích Quái báo cho ta biết là truyền thống Phật Giáo mà Chữ Đồng Tử tiếp thu là một truyền thống Phật giáo quyền năng, đề cập đến những vấn đề linh dị và thần thông (linh thông). Truyền thống Phật giáo này, như ta sẽ thấy, xuất hiện trong Mâu Tử cũng như trong Khương Tăng Hội, và tồn tại cho đến thời một truyền thống Phật giáo mới ra đời, đó là truyền thống Phật giáo Thiền của Pháp Vân. Cần nhấn mạnh truyền thống Phật giáo quyền năng này cho đến thế kỷ thứ VI được bổ sung bởi truyền hưởng cơ bản của nó. Nó vẫn tồn tại như một lớp truyền thống Phật giáo mới, bổ sung cho nó qua lịch sử phát triển của Phật giáo ở Việt Nam. Nhận thức điều này, ta sẽ dễ dàng hiểu được những hiện tượng đặc thù của những truyền thống khác nhau của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử.
http://quangduc.com/lichsu/03lspgvn1.html
Ta cùng xem lại sự tích của Chử đồng Tử như sau :

Chử Đồng Tử

Vũ Ngọc Phan kể


Thời xưa, ở làng Chử Xá (1), có hai cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử, nhà nghèo đến nỗi phải chung nhau một cái khố, hễ ai đi đâu thì đóng. Cù Vân bị ốm nặng, khi sắp chết, dặn lại con rằng: - Bố chết, con cứ táng trần cho bố, còn cái khố con giữ lấy mà dùng. Cù Vân chết, Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng, lấy khố đóng cho cha, rồi mới chôn. Ở một túp lều nhỏ ven sông, ngày ngày Chử Đồng Tử xuống đánh cá, rồi đổi lấy gạo ở các thuyền qua lại. Thời bấy giờ vua Hùng Vương thứ mười tám có một nàng công chúa tên là Tiên Dung, nhan sắc tuyệt trần, tuổi đã mười bảy mười tám mà không chịu lấy chồng, chỉ thích chèo thuyền đi xem sông núi. Vua chiều con, cấp cho con thuyền và đủ mọi người hầu hạ, mặc cho con muốn đi chơi đâu thì đi. Một hôm, Tiên Dung đi chơi thuyền trên sông, thuyền của Tiên Dung đi giữa, còn trước sau là thuyền của binh lính và thị nữ. Khi đến khúc sông thuộc làng Chử Xá, đám thuyền làm rợp cả mặt nước. Chử Đồng Tử trông thấy, vội vứt vó vào bụi, chạy lên bãi, bới cát vùi mình xuống, rồi lấy cát phủ lên. Thấy bãi sông rộng rãi, lại có lác đác từng bụi cây lớn tỏa bóng mát êm dịu, Tiên Dung lấy làm ưa thích, ra lệnh cho thuyền ghé vào bãi, rồi chọn một chỗ có bóng mát, sai thị nữ giăng màn tứ vi để tắm. Tiên Dung vào màn, cởi áo xiêm, dội thỏa thích. Không ngờ chỗ Tiên Dung giăng màn tắm lại chính là chỗ Chử Đồng Tử náu mình. Tiên Dung dội nước một lúc thì bỗng nhiên Chử Đồng Tử trồi lên. Tiên Dung trông thấy giật mình, hỏi duyên cớ thì Đồng Tử nói vì không có quần áo thấy thuyền quân quan thì sợ, nên phải vùi mình xuống cát để ẩn. Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng: - Tôi đã nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run rủi, lại gặp chàng ở chốn này, mới biết cưỡng không được với trời. Nàng bảo Đồng Tử tắm sạch sẽ, lấy quần áo cho mặc, đưa xuống thuyền và sai thị nữ sửa soạn tiệc hoa. Thấy thế, Chử Đồng Tử ngỏ ý chối từ, Tiên Dung bảo chàng rằng: - Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, việc gì mà từ chối! Đồng Tử đành phải nghe theo. Từ hôm ấy, hai người thành vợ chồng. Vua được tin nổi giận, gọi hết binh lính và người hầu của Tiên Dung về. Tiên Dung sợ cha, đành cùng chồng ở lại với nhân dân, tìm kế sinh nhai. Nàng làm ăn ngày một thịnh vượng, dần dần lập thành một xóm. Sau có người khuyên nàng cho người ra biển tìm những vật lạ đem về đổi lấy các thứ khác. Nàng nghe theo, để chồng đi. Đồng Tử đi qua một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, trông lên núi thấy có cái am nhỏ. Đồng Tử trèo lên núi gặp một nhà sư xưng tên là Phật Quang. Thấy Đồng Tử là người chân thật, Phật Quang muốn truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử không nghĩ đến việc ra biển nữa, liền ở luôn đó. Đồng Tử học được hơn một năm thì Phật Quang cho chàng một cái gậy và một cái nón, cho phép chàng xuống núi và dặn rằng: - Phép biến hóa ở cả cái gậy và cái nón này. Đồng Tử về nhà, đem phép mầu truyền lại cho Tiên Dung, rồi hai vợ chồng rời bỏ xóm làng, đi tìm nơi thanh vắng để ở. Một hôm đang đi đường, trời tối mà chưa đến chỗ dân cư, hai vợ chồng chống cái gậy xuống đất và lấy cái nón úp lên đầu gậy để che sương, rồi hai người ngồi tựa vào nhau dưới nón mà ngủ. Đến quá nửa đêm, hai vợ chồng tỉnh dậy thì thấy mình ở trong một cung điện lộng lẫy có đủ các thứ giường sập, màn trướng, lại có cả tiểu đồng, thị nữ và binh lính đi lại rộn rịp ngoài hành lang. Sáng hôm sau, hai vợ chồng ra ngoài xem thì thấy có thành cao bao bọc cung điện và có tướng sĩ canh gác rất đông, chẳng khác nào một tòa thành lớn. Tin lạ ấy đến tai vua. Vua cho là Đồng Tử và Tiên Dung làm loạn, liền sai quan quân đến đánh. Quân nhà vua đến gần nơi Tiên Dung và Đồng Tử ở thì trời vừa tối, không sang sông được. Đến nửa đêm, trời nổi cơn dông, cát bay, cây đổ, rồi toàn khu Đồng Tử và Tiên Dung ở bay cả lên trời, chỉ còn lại bãi đất không ở giữa đầm. Bãi ấy về sau gọi là bãi Tự nhiên (2), còn đầm ấy gọi là đầm Nhất Dạ (3). Thấy có sự lạ lùng như vậy, nhân dân lập miếu thờ ngay trên bãi. Đời sau, Triệu Việt Vương đóng quân trong đầm để chống lại quân xâm lược nhà Lương. Lúc bị quân giặc vây nguy cấp, Triệu Việt Vương thiết đàn, cầu thần giúp mình tiêu diệt quân địch để cứu nạn nước, bỗng thấy một vị thần cưỡi rồng xuống đàn cho Triệu Việt Vương một cái vuốt rồng và dặn: "Ngươi cắm cái vuốt này lên chỏm mũ đầu mâu thì đi đến đâu, giặc sẽ tan đến đấy". Nói xong, thần cưỡi rồng bay vụt lên trời. Theo lời thần dạy, Triệu Việt Vương cắm vuốt rồng lên chỏm mũ, thấy sức khỏe tăng lên bội phần, trí óc cũng sáng suốt, thanh thế ngày một lớn, mới đem quân phá vòng vây, chém được tướng giặc là Dương Sàn. Quân xâm lược nhà Lương bị tan vỡ, phải rút khỏi đất nước Việt Nam.
Vũ Ngọc Phan kể
(1). Bây giờ thuộc huyện Châu Giang (trước thuộc Bắc Ninh, nay thuộc Hưng Yên).
(2) Bây giờ thuộc huyện Khoái Châu, Hưng Yên.
(3). "Nhất dạ" nghĩa là một đêm.

LƯU Ý : Trong tất cả các truyền thuyết về thời Hùng Vương , đều luôn có niên đại của Vua Hùng Vương thứ .... ( dienbatn )

Đền Chử Đồng Tử

Posted Image

Vị trí: Đền Chử Đồng Tử bao gồm 2 đền: đền Đa Hòa thuộc thôn Đa Hoà, xã Bình Minh, và đền Dạ Trạch thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, Huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Đặc điểm: Cả hai ngôi đền đều thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân. Đền thờ Chử Đồng Tử có ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam. Tại huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên, cách Hà Nội chừng 25km theo đê sông Hồng, có hai ngôi đền thờ Đức thánh Chử Đồng Tử, một ngôi đền nằm ở địa phận thôn Đa Hoà, xã Bình Minh, bên dòng sông Hồng nhìn ra bãi Tự Nhiên nơi nàng công chúa Tiên Dung xinh đẹp, con gái vua Hùng thứ 18 kỳ ngộ và nên duyên với chàng Chử nghèo khó; ngôi đền thứ hai thuộc địa phận thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, nơi chàng Chử cùng nhị vị phu nhân hoá về trời.Tuy hai ngôi đền đều thờ đức thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân, kiểu dáng kiến trúc truyền thống nhưng có sự khác biệt đáng kể.Ngôi đền Ða Hoà (được nhà nước xếp hạng di tích văn hoá năm 1962) nằm trên một khu đất cao, rộng, bằng phẳng hình chữ nhật có diện tích 18.720m² , cảnh quan đẹp, mặt quay hướng chính tây nhìn thẳng sang bãi Tự Nhiên. Tổng thể kiến trúc có 18 ngôi nhà mái ngói cổ như 18 con thuyền mũi cong tượng trưng cho 18 đời vua Hùng. Posted Image Ngọ môn gồm 3 cửa. Cửa chính là toà nhà 3 gian cao rộng, trên đỉnh nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt (chỉ mở cửa vào đại lễ). Hai cửa bên để đón khách gần xa. Qua sân Ðại là đến Ðại tế, toà Thiêu hương, cung Ðệ Nhị, cung Ðệ Tam và cuối cùng là Hậu cung. Toà Thiêu hương có kiến trúc cao, thoáng, trang nghiêm. Các đầu đao, bờ nóc chạm trổ tinh vi, đắp gọt tỉ mỉ, màu sắc rực rỡ cùng nhiều hình trang trí khác như rồng, sư tử. Cửa võng ở cung Ðệ nhị đều được chạm hình chim phượng, hoa cúc mãn khai và các hoa quả được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Ðặc biệt các pho tượng đức thánh Chử Ðồng Tử và phu nhân được đúc bằng đồng rất đẹp.Hiện nay đền Ða Hoà còn bảo tồn được nhiều di vật quý hiếm, trong đó có đôi lọ Bách thọ (một trăm chữ thọ không chữ nào giống chữ nào, khắc trên thành lọ bằng gốm), một cổ vật vô giá của dân tộc. Đền Dạ Trạch nằm trong không gian thoáng đãng cạnh đầm Dạ Trạch (được nhà nước xếp hạng di tích năm 1989). Kết cấu chính từ ngoài vào trong gồm có lầu chuông, hồ bán nguyệt, qua sân là đến điện thờ gồm ba toà nhà. Toàn bộ nội, ngoại thất, kiến trúc ngôi đền toát lên nét cổ kính, linh thiêng.Lễ hội Chử Đồng Tử được tổ chức từ ngày 10 đến 12 tháng hai âm lịch hàng năm ở cả hai ngôi đền này. ( Sưu tầm ) . dienbatn xin chu thích câu : Cả hai ngôi đền đều thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân. Hai vi phu nhân của Chử Đồng Tử ở đây là : Tiên Dung và Nội Trạch Tây Cung ( Sự tích Chử Đồng Tử: Chử Đồng Tử quê ở Đa Hòa, H. Đông An, đạo Sơn Nam, sau là H. Khoái Châu, Hưng Yên, nhà nghèo, nhưng thông minh, tuấn tú, làm nghề câu cá ở bến Chử Gia. Công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng dạo thuyền đi chơi, qua bến Chử Gia, gặp Chử Đồng Tử, hai người lấy nhau. Đồng Tử lại lấy Tây Cung Tiên Nữ làm vợ hai. Hùng Vương được tin, sai quân đi bắt Tiên Dung và Chử Đồng Tử. Nhưng qua một đêm, khi đội quân đó tới nơi thì cả vợ chồng Chử Đồng tử cùng cung điện, lâu đài của họ đều đã biến mất. Chỗ đất cũ chỉ còn là một cái đầm, nay là đầm Dạ Trạch. - Trích từ Chử Đồng Tử cập Tiên Dung Tây cung nhị vị tiên Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính biên soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572). Sao lại năm Vĩnh Hựu 2 (1730) theo bản chính của Bộ Lễ. 1 bản viết, 26 tr., 27 x 16. A. 2468.
Paris. EFEO. MF. I/1/74. )
Theo Hưng Yên tỉnh nhất thống chí ( A.963, 14 :D DNNTC( A. 69/4 ), Bắc thành địa dư chi lục ( A.1565, 111a) , Đồng Khánh địa dư chí ( A. 537/8 ) , ĐẠI VIỆT ĐỊA CHÍ ( A.973/1, 25a ) có viết : "...Riêng ở đền Đa Hòa , có thêm huyền tích : ở làng Đông Minh Huyện Đông Yên có người con gái xinh đẹp, một hôm đi làm đồng gặp mưa to gió lớn , khi tạnh mưa thì biến mất . Chử Đồng Tử Đế Quân báo mộng cho biết đã đón người con gái ấy về Trời làm vợ thứ gọi là Hữu Hoàng hậu ". Theo sách vở cũ, các đời vua Hùng bắt đầu từ năm 2879 và kết thúc vào 258 TCN. Tổng cộng 2622 năm . Nếu theo Tây lich hiện nay là năm 2008 thì Thế đại các Vương Triều Vua Hùng từ khi kết thúc đến nay là 2266 năm . Còn theo Việt lich thì năm nay là năm 4887. GIỚI THIỆU VỀ NÚI NAM GIỚI . Núi Nam Giới ở trên bờ biển xã Dương Luật , Huyện Thạch Hà . Ngày trước phía Nam nước ta giáp giới nước Chiêm Thành , nên đặt núi là Núi Nam Giới ( Dân địa phương còn gọi là Núi Bể ) . Mạch đi từ núi Nhật Lệ lại , cao lớn , đẹp đẽ . Nơi cao nhất của núi phía Đông Bắc như trán Rồng . Liền ở dưới có một dải sống núi như mũi Rồng . Hai bên tả hữu có hai tảng đá tròn như mắt Rồng . Dưới mũi đột ngột nổi lên một ngọn núi tròn như hình mũi Rồng ( Long chuẩn ) . Dưới đầu mũi có một cái ao Trời rộng độ vài mẫu như miệng Rồng , sâu thăm thẳm . Bốn bên ao nước , cỏ lầy lội không thể vào được . Hai bên ao có hai ngọn nhánh ôm lại như râu Rồng Nước ao chảy quanh co trong đó ra phía Bắc , ra biển rồi đổ xuống . Nhánh núi bên trái thấp xuống chạy ra đến bể thì đột ngột nổi lên một ngọn chắn ngang , sóng gió đánh vào như muôn tiếng sấm , gọi là ngọn Long Ngâm ( Cũng gọi là Núi Sót hoặc mũi Sót . Lịch Triều hiến chương loại chí gọi là núi Thù Sơn ) . Trên bờ ao có hai nên nhà . Tục truyền vào thời Hùng Vương , Chử Đồng Tử và Tiên Dung tu Đạo ở đấy , gọi là núi Quỳnh Viên . Lê Thánh Tông Hoàng Đế đi tuần du phương Nam có câu thơ : " Danh Sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên " ( Kể về núi danh tiếng , còn nói đến núi Quỳnh Viên xưa " . Nhưng sự việc hoang đường ấy không đáng tin , nên nhà lại không phải là vật ngàn , vạn năm gì . Xét Sử Ký Toàn Thư : Năm Thuận Thiên thứ 6 [ 1025] Lý Thái Tổ xuống chiếu , lập ra trại Định Phiên ở biên giới phía Nam , lấy quản Giáp Lý Thai Giai làm trại chủ , thì hai nền nhà ấy có thể là nền trại . Ngọn núi phía Tây còn có miếu thờ Vũ Mục công Lê Khôi ( Lê Khôi , con người anh thứ hai của Lê Lợi , làm đến chức Kiểm hiệu tư không bình chương sự , đi đánh Chiêm Thành về , chết tại Nghệ An , tên thụy là Vũ Mục ) . Thám Hoa Nguyễn Như Đổ , người Huyện Thanh Đàm ( Thanh Trì - Hà Nội ) soạn bài ký khắc vào đá ở miếu . Về phía Nam vài dặm có suối Hau Hau , nước rất ngon ngọt . Trong những tháng mùa hè , dân quanh vùng ghé thuyền vào chân núi bắc máng tre dẫn nước vào thuyền chở đi bán . Những người quanh vùng đều lấy làm quý . Sách Ốc lâu Thoại có bài thơ vịnh núi Nam Giới :Phiên âm : Hồng Đức Nam tuần nhật . Linh trường ngự chế thi .Thùy chi Nam Giới hải .Diệc hữu thạch Long nhi .Tị bàng tình khai giáp ,Tu phân khẩu hối trì . Như Long nguyên bất thiểu ,Tao ngộ tự nam kỳ . Dịch nghĩa : Ngày Vua Hồng Đức đi tuần du ở phương Nam , Vua đề thơ ở Linh Trường .Mói biết biển Nam Giới , Cũng có con Rồng đá .Mũi ngăn đôi con người theo hiểm núi , Râu Rồng chia ra nơi miệng Rồng thành ao . Hình tượng đá giống Rồng không hiếm , Nhưng gặp gỡ như thế này cũng là khó . Dịch thơ : Thủa Vua Hồng Đức Nam chinh ,Ngự thi còn dấu tại Linh Trường này . Cửa Nam Giới chính là đây , Men theo cửa bể , núi xây hình Rồng . Kia là chiếc mũi cong cong ,Râu Rồng ôm lấy miệng Rồng là ao .Núi Rồng thiên hạ cũng nhiều ,Nhân duyên gặp gỡ là điều khó thay .( Mai Xuân hải dịch ) . ( Trích trong NGHỆ AN KÝ của BÙI DƯƠNG LỊCH ). Ghi chú : Mặc dù Bùi Dương Lịch cho truyền thuyết nền nhà của Chử Đồng Tử và Kim Dung là hoang đường , nhưng theo dienbatn , biết đâu trại của Lý Thái Giai cũng làm trên nền cũ nơi Chử Đồng Tử và Kim Dung học Đạo . Mặt khác chi tiết về thuyền của Chử Đồng tử khi đi buôn có ghé qua lấy nước , có khả năng là lấy nước tại suối Hau Hau chăng ??? GIỚI THIỆU VỀ CỬA SÓT . Cửa Sót ( Nam Giới) , tại nơi giáp giới hai Huyện Thiên Lộc và Thạch Hà , nước sông Hà Hoàng chảy ra . Nguồn sông gần và nông , nước triều mặn dâng ngược rất xa . Cửa biển sâu rông . Ngày trước các thuyền buôn của người tàu sang ta đều vào cửa ấy . Lê Thánh Tông tuần thú phương Nam , có thơ vịnh cửa Nam Giới rằng : Nam Giới triều đầu tuyết loạn phiên ,Đình châu bả lãm vận vân căn . Kiểu biên thương bạc Long Tê hỏa ,Châu ngoại nhân cao độc ty côn .Di miếu mạn truyền kim Vũ Mục ,Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên .Xạ lai ngẫu tỉnh giang hồ mộng Chuẩn nghĩ thùa xà khấu đế hôn . Dịch nghĩa :Sóng đầu Cửa Sót như ntuyết bay tán loạn ,Dừng thuyền và buộc dây vào mây .Bến cầu các thuyền buôn đốt lửa ở Long Tê .Ngoài bãi người dân phơi những chiếc quần cộc .Miếu còn lại ngày nay truyền rằng thờ Vũ Mục ,Kể núi có danh tiếng , còn gọi là Vườn Quỳnh xưa ,Vừa đến nơi thì chợt tỉnh mộng giang hồ ,Nghĩ mình đang cưỡi bè lên gõ cửa Thượng Đế . Dịch thơ : Nam Giới triều dâng , tuyết rộn bay,Dừng chèo , dây gấm buộc chân mây .Bên cầu , thuyền Khách " cao Rồng" thắp,Ngoài bãi ven rào " mũi nghé " phơi .Vũ Mục đời nay , tòa miếu dựng .Quỳnh Viên chuyện cũ núi Tiên ngồi .Mộng giang hồ bỗng tàn đâu hết ,Tưởng cưỡi bè lên gõ cửa Trời .( Ngô Ngọc Linh dịch ) [ Trích từ NGHỆ AN KÝ của Bùi Dương Lịch ] . Bài thơ Lê Thánh Tông khắc tại đền thờ Lê Khôi ( Ảnh dienbatn chụp ) Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites