Guest Dienbatn

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG .dienbatn.

1 bài viết trong chủ đề này

Bà Bảy rất tận tình chỉ bảo cho tôi trong những bước đầu chập chững vào Huyền môn . Những điều đối với tôi tưởng như rất dễ , hóa ra thật là khó . Những câu chú bằng tiếng PaLi tưởng như đơn giản lại cực kỳ khó thuộc , nhưng chữ Bùa trông loằng ngoằng thế mà khó ra phết . Phải vẽ những chữ Bùa như thế nào để chúng có hồn và gần như là chúng là một sinh vật sống thật vậy . Phải nói thật là nhiều lúc tôi phải nghi ngờ cái IQ của mình , sao mà dốt thế , học mãi mà không thuộc . Những hàng chữ PaLi luôn đeo đuổi , theo cả vào trong những giấc ngủ của tôi . Bắt chước người xưa học chữ Hán , ở đâu tôi cũng có thể vẽ Bùa được , trên đất , trên nước , trên không khí , ngay cả trên lòng bàn tay mình tôi cũng không tha . Một thời gian sau , tôi mới dần dần quen được với chúng . Khi đã quen rồi thì bắt đầu thấy mê , tôi luôn thúc dục bà Bảy cho thêm bài mới . Những lúc rảnh rỗi , ngồi một mình , tôi nhớ lại những lời của bà Bảy đã dạy và tự suy luận theo hiểu biết riêng của mình . Theo tôi , mọi thứ Bùa , Thư , Ếm , Lời nguyền đều có một bản chất chung là những sóng điện từ và là những vùng tập trung năng lượng . Năng lượng này tốt hay xấu , giết người hay cứu người đều do cái Tâm của người thực hiện . Thực ra , trong cuộc sống của chúng ta nhiều người vô tình làm chuyện thư , ếm người khác mà không biết . Tôi xin dẫn ra đây một vài ví dụ : Người đầu bếp , nhất là phụ nữ khi nấu cơm nước cho chồng con ăn , tinh thần phải thực là vui vẻ , sảng khoái , có như vậy thức ăn được nấu mới ngon và bổ . Ngược lại , khi đang lúc bực bội , không vừa ý trong lòng , hoặc đang thù ghét ai , vô tình khi nấu , tất cả các năng lượng xấu do những cơn tức giận , buồn chán nhập cả vào thức ăn . Lúc đó thức ăn sẽ trở thành thuốc độc . Hoặc có người thù hận người khác , không đủ sức để đánh lại người ta , suốt ngày ngồi nhà nguyền rủa kẻ thù của mình , một thời gian sau kẻ thù bị tai nạn hay chết thật . Tất cả những trường hợp đó là do bộ não con người vì lòng thù hận , bực tức phát ra những nguồn năng lượng xấu , có thể làm hại người khác .

Có một câu chuyện tôi đã nghe ở đâu đó về người thợ rèn . Câu chuyện như sau : " Có một chàng trai ở xa đến , làm quen và yêu cô con gái của bác thợ rèn . Sau một thời gian , cô gái con bác thợ rèn đó có thai . Thấy vậy , chàng kia liền tìm cách quất ngựa truy phong . Cô gái buồn lắm , khóc suốt ngày , bỏ cả ăn ngủ . Bác thợ rèn hận chàng trai kia lắm , trong lúc làm việc , bác ta quai búa mà cứ tưởng tượng ra cái đầu của chàng kia . Mỗi nhát búa gõ xuống , bác lại cộng thêm một câu rủa độc địa . Ở phương xa , chàng trai kia tự nhiên đau đầu như búa bổ , đau đến không chịu nổi . Bệnh của chàng ta mỗi ngày một nặng . Khi chàng trai sắp chết , người nhà mới đi coi bói và biết rõ nguyên nhân vì đâu . Cha mẹ chàng trai kia mới vội vàng sắm sửa lễ vật đến nhà bác thợ rèn xin ta lỗi và xin cưới cô gái . Từ đó , căn bệnh của chàng trai thuyên giảm dần rồi khỏi hẳn . " dienbatn chỉ nhớ đại khái như vậy , song sự thù hận của con người có thể biến cốc nước lạnh bình thường trở thành thuốc độc là hoàn toàn có thật . Do vậy , khuyên các bà nội trợ , khi thấy trong người không được thoải mái về tinh thần hay đang có chuyện buồn phiền , xin đừng làm cơm cho gia đình kẻo lợi lại bất cập hại .

Nhân chuyện về Thư , ếm là Pháp môn của bà Bảy , về sau này , dienbatn được Thày Sương Mãn Thiên có chỉ rõ như sau :

"Nói chung người Trung hoa,người Việt,Miên,Lào,Chàm,Thượng...và hầu hết các dân tộc trên Thế giới đều có thực hiện những việc này.Mục đích là chủ ý làm hại một người khác mà mình không ưa,cũng có một số người v́ì danh ,lợi mà đi hại người khác.

Người TQ thường sử dụng những h́ình nhân bằng gỗ hay vải,ghi tên người cần hại,dán vào đó một lá Bùa và đọc Thần chú để cho người bị hại đau bệnh hay chết.Có một số trường hợp người ta dùng cung dâu,bắn vào hình nhân,dùng kim đâm vào tim của hình nhân và nhỏ vào đó các giọt máu.

Một cách khác là họ chọn thời gian nửa đêm,các giờ Sát tử,giờ Trùng tang liên táng mà kêu tên tuổi của người cần hại,rồi đọc chú sai những Linh hồn vất vưởng mà họ đă luyện phép đi hại người.

Trong các nghề,có nghề thợ mộc cũng hay dùng cách ếm nhà của người ta.Khi gặp chủ nhà nào đối xử không tốt,họ dùng cách đẽo lộn đầu kèo nhà,vẽ hình nhân trên đầu cột cái,hoặc đóng đinh vào trên đấu cột cái.

Người Chàm thường dùng cách ếm là dùng một mảnh giấy đỏ,viết tên tuổi kẻ định hại và đặt dưới chân ông Táo sau đó đọc câu Thần chú nhất định.Người bị ếm sẽ cảm thấy nóng nảy,điên cuồng mà chết.Người Việt thí đơn giản hơn là dùng ngay hính ảnh của kẻ đó mà đọc chú và yểm dưới chân ông Táo.Ngoài ra người Chàm cọn dùng cách :Lấy hình của kẻ cần ếm,nhét vào bụng một con cá lóc và đọc chú rồi đem thả xuống sông.

Bất cứ Môn phái nào cũng có cách ếm đối, trù rủa của họ , chuyện thiện làm thì cần công sức nhọc thân chứ chuyện ác thì dễ lắm , cứu người thì khó mà hại người thí dễ quá cũng như xây cái nhà lên thí tốn thời gian chứ đập nó xuống thí chỉ tíc tắc thôi , vì Hung thần lúc nào cũng ở gần ta hơn Phúc , Hỷ thần ..

Phái Hời (Lâm ấp, Chiêm thành) ở Phan rang , Phan rí v.v...có môn ếm rất ghê rợn và linh nghiệm ,khi muốn giết hết nhà người nào đó thì họ đếm coi bao nhiêu người trong nhà tất cả ? sau đó chạng vạng tối họ ra rừng kiếm 1 nhánh cây có số lá tương xứng với số người nhà đó có , sau đó cầm nhành cây đó hướng về hướng nhà kẻ có thù cùng họ đó mà niệm chú nguyền rủa bằng những lời vô cùng độc địa , tàn khốc 7 lần hoặc 9 lần rồi nín thở dùng tay tuốt lá trên nhành cây đó , bao nhiêu cái lá rụng là bấy nhiêu người chết , nếu rụng hết là không c̣òn người nào sống sót .

Phái Lổ ban sát thần phù khi muốn ếm chết (tử sát ếm) th́i ông thầy đó phải cắt lấy máu mình vẽ bùa , rồi chôn trước nhà người đó hay ếm vô họng kèo ,đ̣on vông v.v... hoặc kiếm cách nhét trong nhà dấu kín .

"Về phần thư , thuốc đa số người Miên (khơ-me krom) và Chà châu giang ở miền tây và miệt 7 núi đều tinh thâm , ở miệt Thất sơn từ núi Bà (núi Sam) qua ông Cấm , ông Tô , núi Tượng , núi Dài v.v......Tri tôn , Xà tón và xuống cả miền Hà tiên , Lục sơn qua Miên đều có sử dụng.

Bùa phép của người Khơ-me dùng tiếng Nam phạn (pali) bắt nguồn từ miền Nam Ấn độ , do ảnh hưởng du nhập của Phật giáo nguyên thủy giống như các nước lân bang : Lào , Thái , Tích lan v.v...và cộng thêm tín ngưỡng balamôn giáo thời các vương quốc Phù nam , Chămpa nên huyền thuật của họ rất đa dạng , kỳ bí và lắm tông nhiều phái được người Miên gọi chung nôm na là BÀLÂY (pali) Những chuyện như : nuôi 1 cái râu cọp cắm vào mục măng trong khạp da bò chôn dưới đất thời gian sau vài tuần sẽ biến thành con sâu rồi lấy phân nó làm thuốc độc , hoặc lấy 3 con thằn lằn đục thân cây đu đủ bỏ vào đọc thần chú nhét lại thân cây sau 100 ngày đến lấy tán bột phơi khô dùng làm thuốc độc giết người trong vô sắc vô vị quả là có thật , và còn nhiều và rất nhiều cách thức trong thiên nhiên có thể giết người cũng như cứu người , có người còn sai được con ruồi , lằn xanh chân tẩm độc dược bay đến nhà kẻ mính muốn giết mà đậu vào đồ ăn mà đầu độc kẻ ấy v.v...

Cọn rất nhiều loại khác như :Bùa thương thí các phái đều như nhau Chà , Miên , Xiêm , Mẹ sanh , Lổ ban , Lào , Mọi , Hời (Chăm pa )đều có phép thương và bí phương tu luyện bản môn , ông thầy nào chịu khổ luyện thí sắc , ví dụ như bùa thương phái Chà luyện 100 ngày , sau đó dùng lưỡi họa bóng vô tay đến nắm tay cô nào thì cô đó say đắm mà theo , nếu luyện cao hơn nữa chỉ cần vẽ vô giấy vo lại liệng trúng nàng nào thì nàng đó cũng cuốn gói đi theo luôn , cọn bùa thương phái Mẹ sanh luyện 100 ngày đọc vuốt con gà mái đang ấp mê ổ cũng chạy theo mình (huống gí con gái )."

Tuy nhiên , theo bà Bảy , không phải ai cũng chịu ảnh hưởng của các việc Thư , Trù , Ếm . Những người có chân mạng là vĩ nhân , những người tu hành Đạo cao đức trọng , những người thật thà lương thiện có Phước báu lớn thì mọi việc Thư , Trù , Ếm đều không có kết quả . Người bình thường , vốn trong Nghiệp - Duyên đã có cái kết cục vay - trả thì việc bị trúng những cái đó cũng là một cách phải trả nghiệp . Còn những người tu hành Đạo cao đức trọng , những người thật thà lương thiện có Phước báu lớn , người có chân mạng là vĩ nhân ... thường là có Long Thần Hộ Pháp đi theo hộ trì . Lúc đó , tác hại độc ác của Thư , Trù , Ếm giống như ném một quả bóng vào bức tường , phản lực sẽ khiến quả bóng bật ngược trở lại , nếu ném mạnh phản lực càng sẽ mạnh . Lúc đó người lãnh hậu quả lại chính là người thực hiện các việc xấu trên .

Dù với ai đi cũng vậy , cái chữ Nghiệp - Duyên luôn luôn theo đuổi trong suốt cuộc đời và vô vàn kiếp về sau này . Gieo gió thì phải gặt bão . Người có tâm địa làm điều ác , trước sau cũng phải gánh chịu những hậu quả do mình gây ra . Và cái lãi suất phải chịu đựng khi vay để làm ác thật là kinh khủng . Có thể không chỉ riêng người đó , mà nhiều khi cả con cháu , dòng họ của người đó cũng phải chịu sự trả Quả một cách thê thảm . Lưới Trời thưa nhưng không thể thoát được . Có thể những việc làm ác của mình không ai biết được , nhưng có Trời - Đất và vô số các cảnh giới khác đều biết , làm sao chạy được đây ????

" Sống là động mà không xáo động .

Sống là thương mà lòng chẳng vấn vương .

Sống hiên ngang danh lợi chẳng màng ,

Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến ."

( Bảng thư pháp của TUỆ CHIẾU ).

Ngày giỗ Tổ của môn phái vào dịp sát Tết Nguyên đán . Cách ngày giỗ cả chục ngày , đám Đệ tử của ông bà Bảy đã lục tục kéo về . Người nào người ấy tay sách nách mang đủ thứ đồ lễ, chất gần kín cả một căn phòng . Những người hàm ơn cứu mạng của ông , bà Bảy từ khắp các tỉnh thành cũng kéo về đông như trảy hội . Lúc này , tất cả các cây cột trong nhà đều giăng kín những tấm võng dù , la liệt . Người ta phải chôn thêm ngoài vườn những cây cột để mắc thêm võng mà vẫn còn thiếu . Những người đến sau phải sang ở đậu những nhà kế bên . Gần Tết , lại đang vào mùa khô , nắng Tây Ninh chang chang như đổ lửa . Từng nhánh điều nặng trĩu những chùm quả đỏ chót lúc lỉu trên cành đung đưa theo những cơn gió . Người ta dựng một cán lán tạm bằng khung tre và lợp lên những tấm tăng để làm chỗ tiếp khách . Chỉ những dịp như thế này , người ta mới có thể đánh giá hết những công đức mà ông , bà Bảy hành thiện trong suốt những năm qua . Đang lui cui kê những chiếc bàn tròn trong lán để làm chỗ đãi tiệc , bỗng nghe thày Bảy cao giọng : Hòa ơi , lên đây Thày biểu . Tôi ngơ ngác một chút mới biết là thày Bảy gọi mình . Nhớ lại ngày đầu nhập môn , thày Bảy đặt cho tôi cái tên theo họ của Thày là : Lê Văn Hòa . Thày bảo tôi : Tao thấy ánh mắt của mày còn nhiều sát Khí lắm , mày gặp gì cũng hung hăng , nông nổi là dễ thất bại lắm con ơi . Ta đặt cho con tên Hòa là muốn con luôn lấy hòa hoãn làm đầu . Phải biết nhịn con ạ . Tôi nghe Thày kêu vội chạy lên nhà trên , thấy ông , bà Bảy và Thày Chàm , cùng vị trưởng tràng đang ngồi bàn tính . Thì ra họ đang lên kế hoạch mời khách trong dịp giỗ Tổ . Thấy tôi lên, Thày Bảy bảo tôi cùng ông và vị trưởng tràng đi mời các vị trưởng môn trong vùng về nhân ngày giỗ Tổ của ông .

Chúng tôi cùng lên chiếc Zeep lùn tôi chạy từ Công ty sang từ sớm . Ông Bảy và vị trưởng tràng xúng xính trong bộ quần áo vạt hò mới cáo, thấy cứ ngường ngượng thế nào ấy . Bình thường , tôi chỉ thấy ông bận có cái quần xà lỏn màu nâu muôn thủa , nay thấy ông bận đồ lớn tôi chợt bật cười . Ông Bảy cũng như hiểu ý tôi , chỉ lầm bầm trong miệng : Thằng mắc dịch , cười chi mà cười . Thế là tất cả cùng phá lên cười như nắc nẻ .

Nơi chúng tôi ghé đầu tiên là miếu thờ Quan lớn Trà Vong tại Suối Vàng , ngay chân của Núi Bà Tây Ninh . Tại Tây Ninh có nhiều nơi lập Miếu thờ Quan lớn Trà Vong . Tham khảo các sách viết về Tây Ninh thấy viết như sau : Ngôi mộ ông Huỳnh Công Giản (tức Quan Lớn Trà Vong) được nhân dân chôn cất tại ấp Trà Hiệp xã Trà Vong, Tân Biên. Đền thờ ông được nhân dân xây dựng ở nhiều nơi như: Tân Phong, Trà Vong (Tân Biên), Cầy Xiêng, Đồng Khởi (Châu Thành), Thái Vĩnh Đông, Phường I (Thị xã), Thạnh Tân (Hoà Thành). Huỳnh Công Giản là một vị quan võ có tài, quê ở làng Nhật Tảo. Năm 1749 (Kỷ Tỵ), triều đình Huế cử ba anh em nhà họ Huỳnh: Huỳnh Công Giản, Huỳnh Công Thắng, và Huỳnh Công Nghệ là các quan đại thần vào trấn nhậm vùng đất Tây Ninh. Ba ông cùng với đội binh mã của triều đình thực hiện việc di dân khai hoang lập ấp và giữ gìn an ninh ở vùng đất biên cương.

Vùng Tây Ninh vào thế kỉ 17 còn hoang vu, người Miên đến đây đầu tiên, sau người Việt đến. Cao Miên lúc đó còn là thuộc địa của Xiêm, họ không thích chung chạ với người Việt. Do đó, họ nổi dậy đánh nhau với người Việt nhiều lần giữa thế kỉ 17. Lúc đó, đền đài của vua Miên là Nặc Ông Chân đóng tại xã Thanh Điền (huyện Châu Thành), gần ngọn rạch Tây Ninh ngày nay, dân chúng địa phương quen gọi là Phủ Cũ. Sau nhiều lần đánh, quân Miên đã bị đẩy lui.

Huỳnh Công Giản đã cùng em trai là Huỳnh Công Nghệ lập căn cứ kháng Miên, đóng đồn tại Bến Thứ, gần ngọn rạch Sóc Om (xã Hảo Đước, huyện Châu Thành). Ông chiếm cứ một cánh đồng rộng gọi là đồn Trà Vong (xã Thái Bình). Bờ thành vô cùng kiên cố. Bấy giờ, những trận đụng độ giữa người Việt và Miên diễn ra kéo dài suốt mấy mươi năm với vũ khí rất thô sơ: gươm, đao, giáo mác, cung tên.

Một buổi sáng, quân Miên dùng chiến thuật biển người ồ ạt tấn công đồn Trà Vong. Bị tấn công bốn mặt nhưng quân của ông Huỳnh Công Giản cũng kịp thời phản công mãnh liệt. Tuy nhiên, vì quân địch quá đông, ông đã cho quân liên lạc với Huỳnh Công Nghệ kêu viện binh. Tướng Huỳnh Công Giản tả xung hữu đột dưới vòng vây của kẻ địch. Khi ông đã thấm mệt, nhìn lại thì số quân sĩ hi sinh quá nhiều, trong lúc viện binh chưa đến kịp. Ông vung gươm tử chiến cùng quân Miên đến lúc kiệt sức rồi quay gươm tự cắt đầu tuẩn tiết.

Đền ở Suối Vàng (huyện Hòa Thành)

Đây là khu lòng chảo nằm sát chân núi Bà Đen, tương truyền đây là nơi tập luyện tập binh mã ngày xưa của Quan Lớn Trà Vong.

Đền xây dựng khá lâu, đến năm 1995 do mở rộng lộ giới tỉnh lộ 4, nhân dân địa phương đã xây dựng ngôi đền mới khang trang tường gạch, cột bê tông, mái lợp ngói, kiến trúc theo chữ hình tam. Đây là ngôi đền ông lớn Trà Vong lớn nhất hiện nay so với các đền hiện hữu thờ ông lớn Trà Vong trên đất Tây Ninh.

Ngoài ra còn có các đền thờ ông Huỳnh Công Nghệ và ông Huỳnh Công Thắng ở những nơi khác.

Tại Vàm Bảo, Bến Thứ rạch Vịnh xã Hảo Đước,huyện Châu Thành có mộ và đền thờ ông Huỳnh Công Nghệ nằm cạnh khu dân cư thưa thớt hiện đang xuống cấp nặng. Tại thành Bảo Quang Hoá, xã Cẩm Giang, Gò Dầu có ngôi đền thờ ông Huỳnh Công Thắng. Ngôi đền kiến trúc hai lớp hình chữ nhị, tường gạch, mái lợp ngói có diện tích 8 m × 16 m. Trong đền thờ bài vị và tượng Huỳnh Công Thắng.

Trên vùng đất phía Tây Bắc Tây Ninh nhân dân xây dựng nhiều đền thờ Quan Lớn Trà Vong. Tuy nhiên, do chiến tranh kéo dài nên nhiều ngôi đền bị tàn phá mà nhân dân chưa có điều kiện xây dựng lại.

Hàng năm vào các ngày 16 và 17 tháng 3 âm lịch tại các đền nhân dân địa phương tổ chức cúng lễ tưởng nhớ đến ông lớn Trà Vong rất trang trọng. Nhiều nơi tổ chức cả hát bội và các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian phong phú mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.

Theo Thày Bảy cho biết , tại những nơi có đền thờ Quan lớn Trà Vong , các cao thủ của các môn phái hay về tụ tập rất đông , vừa là lấy chốn nương thân , vừa là nơi họ tu luyện và truyền Pháp cho nhau . Chúng tôi đến nơi đã thấy rất nhiều người đang hành lễ tại đây . Thày bảy biểu chúng tôi mang đồ lễ vào bày trên ban thờ và quỳ tại hàng cuối cùng hành lễ cùng mọi người . Mãi hơn một tiếng sau , việc hành lễ mới chấm dứt , tất cả ra ngoài hàng ba ngồi uống nước . Thấy cái mặt tôi lạ hoắc , mọi người nhao nhao hỏi ông Bảy. Bấy giờ ông Thày Bảy mới điềm nhiên bảo : Cái thằng đó là thằng con nuôi của bà nhà tôi . Chỉ mới nghe đến đó , tôi thấy mấy cậu thanh niên trạc tuổi tôi nhấm nháy nhau và một cậu bưng ra cho tôi một tô chè nấu bằng mè đen . Đang vừa đói vừa khát , thấy tô chè thơm phức , tôi điềm nhiên làm một cái đánh xoạt hết nhẵn . Chỉ sau khi tất cả tô chè vào tới dạ dày tôi mới chú ý cái nhìn cau có của Thày Bảy và cái ngón tay ngoắc ngoắc của anh trưởng tràng . Không hiểu mọi người muốn nói gì , vả lại không tiện hỏi trong đám đông , tôi ra xe , bật ghế nằm chờ . Chỉ độ 15 phút sau , bất thần tôi thấy người choáng váng và cha mẹ ơi , bụng thì đau quặn và sôi như một cái lẩu . Vớ một tờ báo trên xe , tôi phóng như bay vào một bụi cây gần đó và gần như tích tắc , xổ gần như hết tất cả những chất lỏng chứa dựng trong người . Miệng nôn , chôn tháo , tôi gần như muốn ngất xỉu đi . Cố lê về đến xe , tôi nằm thiếp đi giữa trời nắng chói chang . Khi đầu óc bắt đầu hoạt động lại , tôi mới hiểu thái độ của Thày Bảy và anh trưởng tràng . Thì ra , nghe tôi là con nuôi của bà Bảy , một cao thủ chuyên về hạ độc , mọi người đùa rỡn muốn thử tài tôi . Nhớ lại những gì bà Bảy đã dạy , tôi đoán chắc họ cho tôi ăn chè có pha nước của lá cây Dầu Bóng . Loại cây Dầu Bóng này mà ăn phải một chút nước vắt ra từ lá của nó sẽ bị Tào Tháo đuổi không kịp chạy . Lục tìm trong chiếc ba lô để trên xe , tôi lấy ra hai cái lọ nhỏ xíu mà bà Bảy đưa cho từ trước để phòng hờ . Một chiếc màu xanh lá cây , tôi trút cả vào miệng . Khi chất lỏng vừa qua khỏi cổ , một làn hơi ấm từ Huyệt Đan Điền bốc lên , nóng rực và ngay lập tức cơn đau biến mất . Ngồi điều Khí một lúc , thấy vòng Châu Thiên vẫn hoạt động chơn chu , tôi mới thở đánh phào một cái . Máy vẫn chạy tốt . Tuy nhiên , cái điều mà mấy cậu thanh niên gây ra cho tôi thì không thể tha thứ được , mặc dù biết họ chỉ đùa và muốn thử tài học trò của bà Bảy theo thói quen trên giang hồ . Lại khạp nước mưa múc một chén đầy nước, bưng ra bộ ván mấy cậu thanh niên ban nãy đang ngồi uống nước , tôi cố làm ra vẻ từ tốn và nói : Tôi mới nhập môn , chưa có học hành chi cả . Cảm ơn các anh đã mời tôi chén chè vừa rồi . Nay lấy nước thay rượu , xin uống với các anh một chén nước gọi là làm quen .

Từ ban nãy , tôi đã lấy móng ngón tay út nhúng vào lọ chất lỏng màu trong vắt mà bà Bảy đã đưa . Lúc để chén nước trước mặt mấy cậu thanh niên , tôi dùng móng tay ngón út đó vạch một đường ngang qua bát nước đó . Thật lạ kỳ , chén nước trong vắt là vậy , bây giờ một bên đỏ như máu , một bên vàng như mật ong . Tôi nâng chén nước mời lại câu thanh niên ban nãy đưa chén chè cho tôi . Lúc này mặt cậu ta tái dại và luống cuống cúi xuống . Các cậu khác nhìn vào chén nước hai màu người nào người đó sững sờ . Lúc này , đám người lớn mới để ý và lần lượt kéo sang xem chúng tôi tỷ thí . Tôi bảo cậu thanh niên , tôi mời cậu uống trước , cậu muốn uống nửa nào cũng được , còn lại bi nhiêu tôi xin cạn chén . Sở dĩ tôi dám làm vậy là tôi đã có uống trước thuốc giải mà bà Bảy đã cho . Lúc này thấy phần thắng đã nghiêng về mình tôi hết sức khoan khoái . Đám người già bên ngoài xì sầm về sự tuyệt độc của ngón nghề bà Bảy . Mọi người thấy vậy lo lắng ra mặt . Bình thường , nếu chỉ là đùa chơi thì không nói làm gì , nhưng ở đây là sự hơn thua , cao thấp giữa các môn phái nên tất cả đều phải cẩn trọng . Danh dự của môn phái là cao hơn hết , thậm chí có phải chết , người ta cũng phải bảo vệ danh dự của môn phái mình . Tuổi trẻ , ngông cuồng , vô tình tôi đã đẩy các môn phái khác phải vào thế mất mặt . Từ nãy , Thày Bảy vẫn giả tảng ngồi uống nước , bây giờ vội đến bên tôi vờ lả giả : Cái thằng nhóc này , bày đặt làm cái trò ảo thuật làm chi cho anh em sợ . Nói rồi , ông búng đánh tách một tiếng từ hai ngón tay , cái chén nước bể ra làm đôi , chất lỏng trong chén chảy ra ngoài đất bốc lên một làn khói xanh lét . Tôi nhìn thấy rất rõ những cái rùng mình của mọi người . Thật ra , động tác của Thày Bảy đơn giản nhưng một phát tên bắn trúng hai cái đích . Thứ nhất là tránh cho các môn phái khác khỏi cái thế mất mặt bầu cua , thứ hai là nâng cao uy tín của bà Bảy . Một thằng nhóc mới nhập môn như tôi đã thế , nếu gặp phải bà Bảy thì còn đến nước nào ....Tất cả gần như thở phào nhẹ nhõm và tôi thấy trong ánh mắt mọi người một sự trọng thị thấy rõ . Mọi người lại quay về chỗ của mình . Tôi ra ngoài xe nằm , để kệ cho Thày Bảy và anh trưởng tràng ở trong mời mọi người đến ăn giỗ Tổ . Ngồi ngoài xe , tôi lâng lâng như vừa mới uống rượu . Lần đầu ra quân toàn thắng , tôi đã tự khẳng định mình được trước cả đám quần hùng . Bây giờ mỗi khi ngồi nhớ lại , tôi thấy thật mắc cỡ cho cái tính hiếu thắng của mình ngày ấy .

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites