Guest Dienbatn

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG .dienbatn.

1 bài viết trong chủ đề này

ĐIỆN BÀ TÂY NINH gọi là HUỲNH MÔN HUYỆT (Là Huyệt vị Trung ương của miền Nam ) - thuộc về Âm kết tụ ngươn khí tại Trung ương tạo nên ẤN ĐƯỜNG HUYỆT (Dương ) để khai mở luồng điển quang cho các Huyệt còn lại . Vẫn biết , trong cuộc đời này , ai cũng có một Thiên chức , một nhiệm vụ bất khả kháng của tạo hóa , để thực hiện cái quy luật biến dịch vô cùng , vô tận của Vũ trụ ; Nhưng cái bí ẩn tận cùng xô đẩy Quái nhân bước vào thì thật là hy hữu .Nguyên là khoảng hơn 100 năm trước - HUỲNH MÔN HUYỆT , tức huyệt vị Trung ương do CỬU LONG giang là một dòng Bảo giang oanh liệt,oai nghiêm,vừa tạo thành . Huyệt vị này được gọi là Trung ương Huyệt vì nó chi phối tất cả các Huyệt vị khác của miền Nam tươi trẻ . Vì là những huyệt vị mới được kết phát , nên oai lực của nó vô cùng mạnh mẽ . Cửu long còn gọi là Bửu giang hay Bảo giang.Con sông này được coi là con sông quý báu,vì đó là con sông lớn nhất và dài nhất trên toàn cầu (hơn 4.500 cây số ngàn ).Phát nguyên từ bên Tây tạng ,nơi mọc lên dãy núi Hy Mã Lạp sơn cao nhất toàn cầu (8.840 th );Và là nơi đức Phật Thích ca đã đắc quả chánh đẳng - chánh giác.Con sông này chảy qua Việt nam,qua Nam Việt (Nhất là tỉnh Châu đốc ),rồi tuôn ra biển Đại thanh với chín cửa biển (Cửa Tiểu,cửa Đại,cửa Bà Lai,cửa Hàm luông,cửa Cổ chiên,cửa Cung hầu,cửa Định an,cửa Bách Xắc,cửa Tranh đề ),vừa kết tụ ngươn khí,vừa phát hiện đủ thứ Địa hình. HUỲNH MÔN HUYỆT mang sức mạnh của của dòng sông Cửu Long lại được sự phù trợ của một vùng núi non trùng điệp của Tây Nguyên . Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800 m, cao nguyên M'Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 900-1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam). Cái Khí lực vô cùng vô tận đó , qua hàng ngàn năm đã ngưng tụ và kết thành những Địa Huyệt của miền Nam , đứng đầu là HUỲNH MÔN HUYỆT trên núi Bà - Tây Ninh .Chính nhờ những kỳ duyên đó , Quái nhân đã hấp thụ được một sinh lực vô cùng xung mãn , đủ cả Âm - Dương . Chỉ trong một thời gian rất ngắn , Lão đã có một thành công lực bằng nhiều người tu luyện cả đời . Cho tới một ngày , khi đang ngồi nhập định , điều tiết cho dòng Khí trong người tuần hoàn theo Đại - Tiểu Châu Thiên , Lão bỗng nghe một tiếng nói văng vẳng bên tai : " Con hãy đọc theo ta " . Ngạc nhiên , Lão ngó mông lung ra xung quanh xem ai nói , nhưng hang động vẫn tĩnh lặng không có một bóng người ngoài chính bản thân Lão . Ba ngày liên tiếp , vẫn giọng nói đó vang vọng bên tai : " Con hãy đọc theo ta - SI ỐP RÂY - MI CA MI MÍT , SI ỐP RÂY - MI CA MI MÍT , SI ỐP RÂY - MI CA MI MÍT , SI ỐP RÂY - MI CA MI MÍT ....." Lão gần như thụ động đọc theo , đọc mãi theo giọng nói kia : SI ỐP RÂY - MI CA MI MÍT , SI ỐP RÂY - MI CA MI MÍT , SI ỐP RÂY - MI CA MI MÍT ....Cho tới lúc đọc thật nhanh , lưỡi lão đã quíu cả lại và ngay lập tức , một tràng tiếng lạ tai từ miệng Lão cũng tuôn ra như nước chảy mây trôi : SI ỐP RÂY - MI CA MI MÍT - LA TI SAT - CAT ĐÔ NA - PA RA TI - CHI CHA RA - NA TA LI ......Lão cứ ngồi như vậy và miệng liên tục tuôn ra những câu chữ lạ mà bản thân Lão chẳng hiểu mô tê gì . Liên tục hơn mười ngày sau , giọng nói đó cứ khuyến khích , nhắc nhở Lão tiếp tục công việc đó . Những ngày cuối cùng , Lão đã dần dần hiểu được mình đang nói cái gì ??? Ngày một tiến bộ , Lão đã có thể nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ lạ tai đó với giọng nói vô hình kia . Thì ra , người đó là Thày Tổ nhiều đời , nhiều kiếp của Lão . Qua trao đổi với Thày Tổ , Lão biết rằng trong nhiều kiếp trước , Lão đã từng theo học rất nhiều Thày Tổ bằng nhiều loại ngôn ngữ khác nhau . Các Thày Tổ cũng nhiều người hiện về , nói chuyện và dạy Lão những điều mà kiếp trước Lão đang học dở dang , kiếp này Lão chỉ là tiếp tục những gì đang học dở . Một thời gian ngắn sau nữa , Lão cũng đã đọc thông viết thạo được rất nhiều loại chữ Vô Vi ( Loại chữ mà dienbatn đã Pót ở trên ) .

Chỉ sau một thời gian không lâu , Lão đã có một kho kiến thức mà những nhà nghiên cứu dành cả đời tâm huyết cũng không bằng một góc của Lão . Mỗi khi có vấn đề gì nam giải , Lão lại dùng các loại ngôn ngữ của Thày Tổ để hỏi và câu trả lời thường là những bài giảng hết sức chính xác và súc tích . Có một điều lạ Lão nhận ra là : Có những chuyên môn rất xa lạ với cuộc sống bên sân chim trước kia , nhưng khi được nghe Thày Tổ giảng giải , Lão hiểu và nhớ liền và lại cảm thấy rất thân thuộc . Lão cũng biết rằng Lão đang theo học các Thày Tổ Vô Vi Phật Pháp . Vô vi nghĩa là không phụ thuộc, không bị ảnh hưởng, không vì nhân duyên mà sinh ra, đối nghĩa với vô vi là Hữu vi (有爲, sa. saṃskṛta), cũng thường được hiểu là “Không làm”. Trong Phật giáo nguyên thuỷ thì chỉ có Niết-bàn được xếp vào hạng vô vi, tất cả các pháp còn lại đều là hữu vi. Quan niệm này được lưu lại trong Thượng toạ bộ (pi. theravādin) và Độc Tử bộ (sa. vātsīputrīya). Tất cả những bộ phái khác đều dần dần thay đổi cách sử dụng danh từ này.Đại chúng bộ chấp nhận 9 pháp vô vi, đó là hai cách Diệt độ (sa., pi. nirodha), trong đó một loại (1.) được đạt bằng sự phân tích phân biệt, gọi là Trạch diệt (sa. pratisaṃkhyā-nirodha), tương ưng với Niết-bàn. Loại Diệt thứ hai (2.) được đạt không qua sự phân tích, phân biệt (phi trạch), được gọi là Phi trạch diệt (sa. apratisaṃkhyā-nirodha), liên hệ đến những lậu hoặc (ô nhiễm) mà một A-la-hán không còn vướng mắc. Được xếp vào vô vi pháp nữa là Hư không (3.), Không vô biên xứ (4.), Thức vô biên xứ (5.), Vô sở hữu xứ, tức là cái “không có gì” (6.), Phi tưởng phi phi tưởng xứ (7.), nội dung của thuyết Duyên khởi (8.) và Bát chính đạo (9.).

Thuyết nhất thiết hữu bộ công nhận ba pháp vô vi là Hư không và hai loại Diệt trên. Duy thức tông liệt kê thêm vào ba vô vi pháp này một loại Diệt bằng một trạng thái thiền định an vui bất động, sự chấm dứt suy nghĩ và thụ cảm của một A-la-hán và Chân như (sa. tathatā). Pháp Tạng bộ (sa. dharmaguptaka) xếp vào loại vô vi pháp Chân như và sự “Trường tồn của mọi pháp.” Dưới “Trường tồn của mọi pháp” họ định nghĩa rằng cái đặc tính gì không biến đổi của nó (sự không biến đổi của nó chính là sự biến đổi) và định luật nhân quả (Nghiệp) cũng như một vài trạng thái Định. Khi học theo Vô Vi Pháp , Lão đã trực tiếp liên hệ được với Thày Tổ nhiều đời , nhiều kiếp mà Lão từng theo học và một điếu đặc biệt hơn nữa , Lão đã tiếp cận được kho kiến thức khổng lồ của Vũ trụ mà không một thư viện nào của con người sánh được . Lão cũng nhận thấy rằng , bản thân những kiến thức về Quy Luật Vũ Trụ , tương tác đến đời sống con người , tuân theo những quy luật đơn giản và tổng quát , nhưng vì con người không nắm được nên cứ càng ngày lại càng làm cho nó rối rắm thêm lên . Kết quả là đi sai và quá xa những cái nguyên lý ban đầu . Cũng có lẽ vì lý do đó mà những kiến thức từ hàng ngàn năm trước lại chính xác và tinh tế hơn những gì mà loài người đang hiểu biết trong thời đại gọi là KHOA HỌC này .

Share this post


Link to post
Share on other sites