Guest Dienbatn

TRUY TÌM VỀ MỘT GIAI THOẠI ĐẶT MỘ . dienbatn.

1 bài viết trong chủ đề này

Giả Thuyết Cổ Truyền Về Họ Vũ

(Dòng Vũ Hồn Tại Việt Nam)

Tác giả: Đặng Tư Khiêm

Tổ họ Vũ phát tích tự làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay đổi thành phủ Bình Giang thuộc tỉnh Hải Dương (Bắc Việt).

Tục truyền: Hồi Bắc thuộc, khu đất làng Mộ Trạch cạnh đường, có một quán hàng bán nước và quà bánh cho khách qua lại của một bà quả phụ trạc ngoại tứ tuần cùng đưá con trai độ 14,15 tuổi. Những người trong vùng cũ không ai rõ lai lịch người đàn bà này, chỉ biết gọi là bà quán nước và đứa con trai là Vũ Hồn mà thôi. Sinh kế của hai mẹ con bằng quán nuớc thường thiếu thốn, nên Vũ hồn phải đi câu cá tôm và bắt cua ốc bán lấy tiền thêm giúp mẹ.

Một ngày mùa hạ nóng nực, một người Tàu lữ du qua đó, ghé quán hàng nghỉ ngơi, uống nước, rồi lân la hỏi thăm khách ngồi cùng trong quán về thanh danh, đạo đức của ông Vũ Hồn ở vùng nàỵ Mọi người ngơ ngác nhìn nhau và trả lời rằng nơi này không có ai là ông Vũ Hồn cả, chỉ có thằng nhỏ con bà chủ quán này tên là Vũ Hồn.

Lúc đó người Tàu mới bắt đầu dể ý ngắm nghía bà này, nhận thấy tướng mạo đoan trang, phúc hậu; và một lúc sau lại thấy một thằng nhỏ, xách chiếc lọ sành, bước vào, kêu mẹ và nói, "hôm nay không kiếm được tôm cá, chỉ có ốc". Nó không bán mớ ốc đó, nhưng đem về luôc để mẹ ăn vì mẹ nó thường thích ốc luộc. Người Tàu chăm chú nhìn cậu bé, áo quần lam lũ nhưng mặt mày hớn hở; phúc tướng hiện rõ trên án đường. Ông ta bèn làm quen, hỏi chuyện cậu bé, ngỏ lời khen ngợi lòng hiếu thảo và sự ngoan ngoãn của cậu; nhưng cậu bé chỉ đáp lại bàng những nụ cườị

Thấy vậy, người Tàu ngỏ ý với bà chủ quán rằng ông muốn cho cậu bé theo làm học trò ông để ông dạy dỗ; ông hy vọng là sẽ có thể giúp gầy dựng tương lai cho cậụ. Ý kiến đó được những người cùng ngồi trong quán hưởng ứng và đốc thúc thêm vào; bà chủ quán và cậu con nghe suôi ta, nên đã chấp thuận ngaỵ Người tàu vui vẻ mở gói, lấy ra một số tiền , tặng cho người mẹ để bà có thêm vốn làm ăn để đời sống được sung túc hơn.

Đoạn người Tàu cáo biệt bà và mọi người, dắt cậu bé ra đi, hẹn ba năm sau sẽ trỏ lại. Mới được hơn môt năm đã thấy hai thầy trò trở về, nói thật mọi chuyện với bà chủ quán. Từ đó người ta mới biết người Tàu là một thày địa lý.

Nhân khi đi tìm những ngôi đất qúy, ông đã tới làng Mộ Trạch và nhận thấy nơi đây có ngôi đất đại phát vinh hoa, khoa hoạn kế thế, vĩnh cửụ Ông thày địa lý liền nảy ra ý định đem hài cốt thân phụ đến an táng vào nơi này. Chủ tâm như vậy rồi, ông quay về nhà trọ nghỉ ngơi, ngủ sớm để hôm sau quy hồi cố hương để thực hiện ý định của mình. Vừa chợp mắt ngủ, ông thày địa lý đã mộng thấy một vị long thần đến báo cho biết rằng ngôi mộ đó đã dành cho Vũ Hồn rồi vì nhà hắn đã tích được nhièu âm phúc, rằng không ai có thể chiếm đoạt được; nếu ai đó cứ cố ý làm sai lòng Trời, thì sẽ phải chịu những hậu quả chẳng lành.

Giật mình tỉnh giấc, thày địa lý sợ hãi, băn khoăn nghĩ ngợi về lời của vị thần trong mộng, rồi đình chỉ việc hồi hương. Từ đó ông bắt đầu lưu tâm dò hỏi tông tích Vũ Hồn với mưu đồ riêng tư là ràng buộc cá nhân mình với các thế hệ con cháu tương lai của Vũ Hồn.

Sau khi tính độn về long mạch địa cơ, ông biết rằng huyệt này cứ 300 năm mới mở một lần, mà ngày đó lại đã tới sát nơi rồi, nên hai thày trò ông phải vội vã trở về để Vũ Hồn đem hài cốt cha cất táng vào nơi đó đúng với sự sắp đặt về phần kim theo phương pháp của khoa huyền bí địa lý học. Công việc xong xuôi, hai thày trò đến từ biệt bà chủ quán để ra đi, không hẹn ngày tái ngộ.

Hai năm sau, Vũ Hồn, lúc này đã 18 tuổi, về lại cố hương cùng ông thày. Lần này ông thày bỏ tiền ra mua một ngôi nhà gần chợ để ở và đồng thời vừa buôn bán, vừa dạy chữ Hán, vừa hành nghề đông ỵ Nhờ đã cư lâu ngày tại đây, nên thày đã quen thuộc với tất cả mọi người trong vùng.

Một ngày kia, thày ngỏ ý với một người địa phương để nhờ họ làm mối cho một cô gái nhà nghèo, nhưng nết na và có nhan sắc. Ý muốn đã đạt, thày cho mở tiệc linh đình rồi mời tất cả nhưng người quen thân đến dự và chứng kiến việc hôn nhân. Tiệc gần tàn vào khoảng quá ngọ, thày đứng dậy nói, dáng vẻ hoảng hốt: Vì tôi có việc bận tại quê nhà, đáng lẽ phải ra về từ ba hôm trước, nhưng vì quên lãng, sáng nay mới nhớ ra; bởi lẽ đã chót hẹn làm đám cưới, nên phải nán lại cho xong việc. Bây giờ tôi phải lên đường; tôi xin mọi người trông nom và giúp đõ gia đình tôi trong thời gian tôi vắng mặt, rồì quay lại nói cùng cô dâu những lời an ủi: vì hoàn cảnh, tôi phải tạm biệt ít ngày, ước mong sẽ có thể trở về sớm khi đã thu xếp xong công việc. Sau hết ông giao chìa khóa và tất cả cơ nghiệp cho cô dâu và Vũ Hồn với những lời dặn dò cần thiết trước khi từ biệt.

Từ đó, chỉ có cô vợ và Vũ Hồn cùng đảm trách tất cả mọi công việc trong gia đình. Ngày qua, tháng lại, thấm thóat đã ba năm mong chờ mà chẳng thấy ông thày trở qua và cũng không nhận được tìn tức gì về ông cả. Lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy; hai người cùng lứa tuổi, lại luôn luôn sát cánh bên nhau, và đã quên những lời ông thày dặn, nên đã cùng nhau trao đổi tình yêu; chẳng bao lâu cô vợ đã mang thai và sinh hạ được hai con trai.

Ngày đầy tháng hai đứa trẻ vừa qua được mấy ngày, thì đột nhiên ông thày xuất hiện trở về. Trong lúc Vũ Hồn bận việc vắng nhà, còn cô vợ (bây giờ là vợ Vũ Hồn) lúc đó đang ẵm một đứa con; cô nhớn nhác sợ sệt, chỉ kịp chào ông thày một tiếng, rồ bỏ trốn mất. Ông thày lúc đó nổi giận, lớn tiếng la mắng om sòm. Hàng xóm nghe tiếng, tất tả đên hỏi thăm, tìm lời can gián, an ủi, tìm dùm cách giải quyết. Một lúc lâu sau, họ dẫn vợ chồng Vũ Hồn về tạ tội cùng ông thày, và để nhận lãnh những lời mắng nhiếc.

Đứng trước việc đã rồi, ông thày chỉ còn biết thở dài, uể oải nói với vợ chồng Vũ Hồn: Chúng mày bất nghĩa; chẳng lẽ tao cũng lại bất nhân nữa sao? Thôi, tao cho chúng mày tất cả cơ nghiệp này vì tao không còn mặt mũi nào mà tiếp tục ở lại đây nữa. Có điều là tao cần bắt lại của chúng mày một đứa con để nuôi dưỡng cho vui cảnh gìa vì tao không có vợ con gì cả. Ý kiến đó được mọi người có mặt tán đồng; vợ chồng Vũ Hồn cũng phải chấp nhận để mọi việc được êm xuôi. Thế rồi ông thày bế ẵm, cân nhắc hai đứa nhỏ, chọn đứa nặng cân hơn để mang theo ông về Trung quốc, và để dứa nhẹ cân lại đất Việt.

Đó là đầu mối gây cho họ Vũ, dòng Vũ Hồn, những thế hệ nối tiếp mỗi ngày thêm đông đảo; đa số hậu duệ Của Vũ Hồn thông minh, xuất sắc, đã trở nên nổi danh về khoa hoạn qua các triều đại xưa trong lịch sử nước nhà.

----------

Chú thích:

Câu truyện trên đây có lẽ cũng giống như nhiều câu truyện thần thoại khác đã được đặt rạ Mục đích là để thu hút sự hiếu kỳ của mọi người, và ngẫu nhiên được truyền tụng mãi tới ngày naỵ

Trích trong Đặng vũ phả Ký của Tiến sĩ Đặng Phương-Nghi

(Centre International d'Etudes Vietnamiennes, 6 Rue Augustin Thierry, Paris 75019, France, 1989) CÁC VỊ “TIẾN SĨ VÕ”

Tức TẠO SĨ họ VŨ đời Hậu Lê(Từ năm Đinh Mùi 1727 đến năm Ất Tị 1785)

VŨ HIỆP sưu khảo-

Người nghiên cứu về gia - tộc - học Việt Nam

Biên soạn năm 1998

Tạo sĩ là học vị cao nhất về Võ khoa đời xưa. Nó là Tiến sĩ Võ và cũng phải trải qua các khoa thi võ nghệ từ thấp lên cao, thường phải đậu Sơ cử (tức là Cử nhân Võ) xong mới được vào thi Bác cử để lấy Tạo sĩ. Kỳ thi Sơ cử (Cử Võ) và Bác cử cũng phải thi viết lý thuyết khá gay go qua các kỳ thi. Do đó Tạo sĩ phải khá giỏi về chữ nghĩa văn hóa mới đọc được binh thư, kinh điển và làm được văn bài sát hạch trong khoa thi Tiến sĩ Võ. Vì thế, Tạo sĩ tuy rất giỏi thập bát ban võ nghệ và trải qua nhiều pha thi đấu các loại binh khí và coi như được xếp vào hàng võ nghệ cao cường rồi. Triều đình và Binh Bộ còn bắt các thí sinh phải lầu thông kinh sử, binh pháp và sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bắc Sử, Nam Sử nữa, bằng cách trả lời qua văn bài các câu hỏi rất chi tiết về chính trị, quân sự thời xưa và hiệntại khá ngoắt ngoéo để thử tài kiến thức, văn hóa của thí sinh võ. Ai có giỏi chữ nghĩa, thông hiểu các sách Tôn Ngô binh pháp, Hổ Trướng xu cơ, Binh thư yếu lược, Kinh, Sử, Tử, Tập,… mới viết được các bài văn nghị luận có cơ sở võ lược, chính trị quân sự xuất sắc. Như thế Tạo sĩ đời Hậu Lê cũngnhư triều Nguyễn (thế kỷ 18 và 19) là các bậc văn võ kiêm toàn cả. Đậu Tạo sĩ xong thường trở thành các tướng lĩnh và giữ chức vụ quan trọng ngoài biên ải, các Trấn, Doanh hoặc Võ quan cao cấp trong triều đình. Do đó, Tạo sĩ cũng được rước vinh quy bái tổ long trọng không kém gì Tiến sĩ. Tên tuổi cũng được ghi vào sử sách, tạc vào bia đá ở Võ miếu để lưu danh muôn đời sau. Nhưng xưa khia, trong xã hội Nho học, thường có quan niệm và thành kiến “Trọng văn khinh võ” nên đã có câu ca dao như sau :

“Văn thì ngũ phẩm đã sang

Võ thì tam phẩm còn mang gươm hầu”

Vì thế sách vở xưa để lại thường ít quân tâm đến các võ khoa và ít chép lại những danh sách Võ cử, Tạo sĩ, như các bảng sĩ tử trúng cách Hương cống, Cử nhân, Tiến sĩ trong các khoa thi văn (Hương thí, Hội thí, Đình thí). Vì vậy, sưu tầm được danh sách các vị đậu Võ khoa đời xưa cũng rất khó khăn.

May sao, trong các cổ thư chữ Hán để lại còn có một bản nhan đề : “Lê Triều Tạo sĩ Đăng Khoa Lục”, không đề tên tác giả. Nay ở trong kho sách Hán Nôm còn có bản ký hiệu A. 1176, đã cung cấp cho đời sau chúng ta một danh sách gồm hơn 200 vị Tạo sĩ, Đồng Tạo sĩ thuộc đời Hậu Lê, từ năm Thái Bảo thứ 5, khoa Giáp Thìn – 1724 đến khoa Ất Tỵ - 1785 (61 năm) đời vua Cảnh Hưng (Hiển Tông) thứ 46. Sách này ra đời triều Gia Long.

Trong số này chúng tôi đếm được 21 vị Tạo sĩ và Đồng Tạo sĩ họ Vũ. Đặc biệt, dòng họ Vũ (Võ) ở làng Hà Hoàng thuộc huyện Thạch Hà (Nghệ Tĩnh) vốn tổ tiêngốc ở làng Hoa Đường, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, Hải Dương đã đậu Tạo sĩ, Đồng Tạo sĩ tới 16 người. Vì thế mà ở vùng Thanh, Nghệ thời xưa đã ca ngợi họ Vũ (Võ) của làng Hà Hoàng rằng : “NGƯỜI NGHỆ AN, GAN HÀ HOÀNG” và “TRẢO NHA CHI NGÔ, THẠCH HÀ CHI VŨ” (Họ Ngô ở Trảo Nha, họ Vũ ở Thạch Hà có nhiều người tài giỏi) và tônvinh dòng họ Vũ (Võ) đó là “THẠCH HÀ THẾ TƯỚNG” có nghĩa là : “đời đời nối tiếp nhau làm tướng là dân ở xã Hà Hoàng huyện Thạch Hà”. Theo lời truyền tụng và gia phả của họ “VÕ TÁ” xã Hà Hoàng thì đã sản sinh ra hơn 36 võ tướng có công nghiệp hiển hách, trong đó có tới 20 vị là Quận công thời Hậu Lê. Chi họ VÕ TÁ đó có nguồn gốc từ họ “VŨ TÁ” ở xã Hoa Đường và cũng từ ở Mộ Trạch (Hải Dương) mà ra.

Sau đây là danh sách 21 vị đậu Tiến sĩ Võ = Tạo sĩ họ Vũ trong khoảng 58 năm (1729 – 1785) mà sử sách còn chép để lại, đánh dấu một giai đoạn lịch sử huy hoàng võ nghiệp của các vị Tạo sĩ, Đồng Tạo sĩ họ VŨ. Đây là chưa thể thống kê nổi trong mấy trăm năm khoa cử về võ nghệ của nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê, thời Lê Trịnh và Hậu Lê. Nhà Nguyễn (1225 – 1919) có bao nhiêu danh tướng mạng họ Vũ (Võ). Chúng ta lần lượt thống kê các Tạo sĩ họ Vũ, chỉ trong 60 năm theo thứ tự niên đại như sau :

1. VŨ KHÚC LÂM : Đậu Tạo sĩ khoa năm Đinh Mùi 1727, niên hiệu Bảo Thái thứ 8 (đời Vua Lê Dụ Tông 1706 – 1729) thời chúa An Đô Vương Trịnh Cương cầm quyền. Ông Khúc Lâm quê ở xã Vương Xá, huyện Cẩm Giàng, trấn Hải Dương (phủ Thượng Hồng). Chưa rõ sự nghiệp của Ông.

2. VŨ TÁ ĐỨC và VŨ TÁ TỔNG : Thuộc dòng họ Vũ Tá ở xã Hà Hoàng, tổng Thượng Thất, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An (nay thuộc về tỉnh Hà Tĩnh, gần thị xã). Ông Tá Đức đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” (thứ ba” khoa thi Võ Tiến sĩ năm Vĩnh Khánh thứ ba (đời vua Lê Duy Phương) tức khoa Tạo sĩ năm Tân Hợi (1731) thời chúa Trịnh Giang. Còn ông Tá Tổng đậu Tạo sĩ bậc “thứ Trúng” (thứ tư” cùng khoa với ông Tá Đức. Sự nghiệp của 2 ông này cũng như tất cả các Tạo sĩ họ “Vũ tá” dưới đây (tiếp theo) phải xem trong “THẠCH HÀ, HÀ HOÀNG VÕ TÁ TỘC PHẢ” mới rõ vậy. Nếu có cơ hội thuận tiện nào, sẽ sưu tầm và nghiên cứu sau?

3. VŨ TÁ TRUNG : Cùng dòng họ Vũ Tá nổi danh như đã chép rõ nguyên quán ở trên. Ông Tá Trung cũng đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” (hạng ba) trong khoa thi Tạo sĩ năm Vĩnh Khánh thứ 5, Quý Sửu (1733) đời vua Lê (Duy Tường) Thuần Phong (1732 – 1735) thời chúa Trịnh Giang. Chưa rõ sự nghiệp của ông ra sao?

4. VŨ TÁ TÍN : Đậu Tạo sĩ khoa thi Bính Thìn (1736) đời vua Lê (Duy Thìn) Ý TÔNG (1735 – 1740) niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 thời chúa Trịnh Giang. Chưa rõ sự nghiệp của ông thế nào?

5. VŨ TÁ THỤY và VŨ TÁ CƠ : cả hai ông cùng một dòng họ Vũ xã Hà Hoàng, đậu Tạo sĩ cùng một khoa thi năm Vĩnh Hựu thứ 5 đời vua Lê Ý Tông và Trịnh Giang; Đó là năm Kỷ Mùi (1739). Chưa rõ sự nghiệp của 2 ông Tạo sĩ này.

6. VŨ QUỐC CAN : Nguyên quán làng Đôn Thư, tổng Thì Trung, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng (sau thuộc Hà Đi6ng, Hà Tây) trong một gia đình họ Vũ có truyền thống khoa bảng văn học nổi tiếng. Ông Can đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” (thứ ba) khoa thi Tạo sĩ năm Nhâm Thân (1752) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 13 (đời vua Lê Huy Diêu, Hiển Tông) thời chúa Trịnh Doanh cầm quyền (1740 – 1767). Không rõ sự nghiệp của ông Quốc Can ra sao? Có thể tra cứu trong Vũ Tộc phả xã Đôn Thư (Thanh Oai) sẽ biết.

7. VŨ TÁ KIÊN : Đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” ở kỳ thi năm Giáp Tuất (1754) đời vua Lê Cảnh Hưng (Hiển Tông – Duy Diêu) năm thứ 15. Ông Tá Kiên đậu thủ khoa kỳ thi này. Sự nghiệp của ông ra sao chưa rõ.

8. VŨ ĐĂNG KHOA : Cũng cùng đậu tạo sĩ đồng hạng 3 (trúng Hạng) với ông Tạo sĩ Tá Kiên, nhưng đứng thứ nhì. Quê của ông Đăng Khoa ở xã Kim Lan, tức xã Kim Quan cũ, thuộc huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương. Chưa rõ sự nghiệp của ông.

9. VŨ TÁ THẠC : Đậu Tạo sĩ hàng nhì bậc thứ tư (thứ Trúng) khoa thi năm Cảnh Hưng thứ 18, Đinh Sửu (1757) đời vua Lê Hiển Tông, thời chúa Trịnh Doanh cầm quyền. Chưa rõ sự nghiệp của ông.

10. VŨ TÁ BẬT : Đây là vị Tạo sĩ họ “Vũ Tá” thứ 9 làng Hà Hoàng. Ông đậu khoa Qúy Mùi (1763) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24 đời vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786), lúc Trịnh Doanh vẫn cầm quyền. Chưa rõ sự nghiệp của ông, chỉ biết ông đậu tạo sĩ thư 4 bậc bốn (thứ Trúng)

11. VŨ TẤT NHÂM : Cùng đậu một khoa thi với ông Tạo sĩ Tá Bật năm 1763. Nhưng ông Tất Nhậm đậu hạng Đồng tạo sĩ hạng ưu Trúng. Quê quán ở xã My Thử, tổng Tông Tranh, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương. Ông là dòng dõi họ Vũ Tất của vợ chúa Trịnh Cương (Vũ Thái Phi)

12. VŨ TÁ THÌ : Cũng là dòng họ Vũ (Võ) ở Hà Hoàng, ông Tá thì đậu Tạo sĩ loại thư 3 trúng Hạng, khoa Bính Tuất (1766) niên hiệu Cảnh Hưng 27 (đời vua Lê Hiển Tông – chúa Trịnh Doanh).

13. VŨ TÁ KIÊU, VŨ TÁ DAO và VŨ TÁ DỰ : Ba ônghọ Vũ Tá cùng đậu Tạo sĩ một khoa Nhâm Thìn (1772) đời vua Cảnh Hưng – chúa Trịnh Sâm. Khoa này có 23 vị Tạo sĩ đậu thì chi họ Vũ Tá chiếm 3 vị.

14. VŨ ĐÌNH KHANH : Đậu tạo sĩ thư 5 khoa Bính Thân (1776), quê quán làng Tiên Cầu, huyện Kim động, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam Thượng (nay là tỉnh Hưng Yên) năm 1977 ôngbị xóa tên trong bảng đậu Tạo sĩ vì mang sách vào trường thi trong ngày phúc hạch.

15. VŨ TÁ CANH : Đậu Đồng Tạo sĩ khoa Kỷ Hợi (1779) gọi là “Thịnh Khoa” đời vua Lê Cảnh Hưng thứ 40 – chúa Trịnh Sâm. Quê ông Tá Canh ở xã Hoa Đường, huyện Đường An,phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là làng Lương Ngọc, huyện Bình Giang, Hải Dương). Vốn là gốc tích của họ Vũ Tá ở làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An, nay thuộc Hà Tĩnh. Đấy là nét son cho họ Vũ Tá nói chung, đã hiển danh về võ nghiệp và có truyền thống rất thượng võ, nhiều đời.

16. VŨ TÁ SIÊU và VŨ TÁ VIÊM : Cùng chi họ ở xã Hà Hoàng tại huyện Thạch Hà (Nghệ An). Cả 2 ông Tạo sĩ họ Vũ Tá này đều đậu Tạo sĩ hạng tư khoa thi năm tân Sửu (1781), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 42 (đời vua Lê Hiển Tông : Duy Diêu và chúa Trịnh Sâm.

Xem như thế , đủ thấy họ Vũ (Võ) chẳng những phát về khoa bảng văn học mà còn phát triển cả về võ nghiệp. Đây là chúng ta mới tìm ra tên các vị tạo sĩ họ Vũ trong khoảng 55 năm / đời Hậu Lê (từ năm 1727 – 1781), chỉ trong phạm vi “xứ Đàng Ngoài” trong hơn nửa thế kỷ. Trong cả một quá trình hơn 500 năm trước đó (từ đời Trần, Hồ, Lê, Mạc) và sau đó là nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn hơn 100 năm nữa, có các kỳ thi võ nghệ, đã phải có đến hàng trăm ông đỗ tương đương Tạo sĩ, Cử võ họ Vũ tham gia việc quốc phòng, an ninh cho các triều đại mà rất tiếc đến nay chưa thể thống kê được đầy đủ! Có lẽ đây là một đề tài nghiên cứu cho một công trình khoa học lịch sử quốc phòng đời xưa ở nước ta nói chung và cho tộc đoàn họ Vũ (Võ) cả nước nói riêng. Hy vọng lớp trẻ tài năng sau này sẽ làm được đề tài trên.

http://www.hovuvo.com/readarticle.php?article_id=404 PHƯƠNG PHÁP HUYỀN BÍ : DẪN LONG HAY DỤ LONG .

Các bạn nghiên cứu môn Phong thủy Âm phần , thường đọc những tài liệu từ xưa để lại qua Hán văn rất nhiều . Nhưng dienbatn cam đoan phép DẪN LONG hay DỤ LONG này chưa hề có trên các loại sách đó . Đây là một phép của PHONG THỦY HUYỀN THUẬT có xuất xứ từ thời rất xa xưa , mà những người được sở hữu cuối cùng lại xuất phát từ thời nhà Hồ và được truyền đến nay . dienbatn may mắn được Ân sư truyền lại cho sở đắc này . Nay xin phép mạo muội nói sơ qua để các bạn có thêm ý niệm . Xin hồi hướng công đức này cho Tổ , cho Ân sư và các Huynh đệ đồng môn .

Thường từ trước đến nay , chúng ta chỉ nghe đến việc tầm Long - Tróc mạch , nghĩa là dưa theo Địa hình có sẵn mà chúng ta tìm nơi Huyệt vị kết phát và Táng hài cốt vào đó .

Đó chính là chiều Dương của Phong Thuỷ Âm Trạch . Chiều Âm của nó tức là làm ngược lại . Chúng ta đã có Âm phần được xây cất lâu đời rất tốt rồi . Nhưng vì một lẽ nào đó , Long khí không chạy qua vùng đất đặt Âm phần . Không lẻ chúng ta phải Cải táng để đưa Âm phần về đúng nơi mà dòng Long khí kết Huyệt ??? Đây chính là nhiệm vụ của phép DẪN LONG hay DỤ LONG , nhằm lái đường Long Khí đi về đúng nơi Âm phần có sẵn . Việc này có thể hiểu nôm na như chúng ta đã có mạng lưới điện Quốc gia đi qua , nhưng chúng ta phải có hệ thống dẫn điện từ mạng lưới đó về nhà để sử dụng vậy . Người ta có thể dẫn Long khí đi xa khoảng vài trăm mét , hoặc mạnh hơn có thể lên tới cả cây số . Tuy nhiên , càng quá xa thì Cường độ của Long khí càng giảm , giống như hiện tượng sụt áp khi ta dẫn điện từ mạng vào nơi quá xa vậy .

Bản chất của phương pháp DẪN LONG hay DỤ LONG là tương tự như vậy . Một điều kỳ diệu của phương pháp này là lúc đầu , mới dẫn được Long khí về thì dòng Long khí cực nhỏ , nhưng qua một thời gian , dòng Long khí tự động được tăng cường lên , giống như một con kênh đào , lúc đầu con nhỏ , nhưng khi có nước chẩy qua , áp lực nước sẽ biến kênh đào thành một con sông .

Việc chuẩn bị và biện pháp DẪN LONG hay DỤ LONG rất phức tạp , phức tạp về tính toán thời điểm , vị trí , Phúc đức dòng họ . Phức tạp từ việc nguồn của Long khí như thế nào ? Tính chất của Long khí ra sao ? có hợp với Âm phần có sẵn không ???

Công việc và cách tính toán cụ thể , người viết không được phép trình bày ở đây , chỉ dám tiết lộ một điều quan trọng là : Việc DẪN LONG hay DỤ LONG phải theo một quy trình nghiêm ngặt , phải có đủ thuốc Dẫn Long , Phù , Sớ ....

Phép DẪN LONG này có cái lợi là không phải di chuyển Mồ mả có sẵn , hiệu quả rất nhanh và chính xác . Tuy nhiên , người Thày Phong thủy làm việc này cũng hao tổn rất nhiều chân khí . Do vậy mà cũng không nên thực hiện nhiều .

dienbatn .

Share this post


Link to post
Share on other sites