Guest Dienbatn

SỰ HỒI SINH CỦA MỘT VÙNG ÐẤT BỊ TRẤN YỂM. dienbatn

1 bài viết trong chủ đề này

GIẢ THIẾT TỨ NHẤT: ĐÂY LÀ ĐẠO BÙA TRẤN YỂM CỦA TẢ AO.

Tả ao là một Phong thủy sư rất tài giỏi vào đầu thời Hậu Lê- Thế kỷ 15.Theo truyền thuyết còn truyền lại, thủa nhỏ, mẹ của Tả Ao bị bệnh đau mắt nặng, Tả Ao đến xin làm công cho một Thày thuốc người Tầu để được chữa bệnh đau mắt cho mẹ mà không phải trả tiền. Người Thầy thuốc người Tầu này là một người rất đức độ, không những giỏi về Y thuật mà đồng thời cũng rất giỏi về Phong thủy.Người Thầy thuốc này đã chữa cho mẹ Tả Ao khỏi bệnh đau mắt và nhận thấy những tố chất tốt đẹp trong con người Tả Ao, nên đã nhận Tả Ao làm Đệ tử và truyền cả hai nghề Y và Phong thủy cho Tả Ao.

Theo tư liệu của ĐOÀN VĂN THÔNG trong cuốn BÍ ẨN VỀ PHONG THỦY, dienbatn xin chép lại tư liệu về cụ Tả ao như sau:" Nhà Phong Thủy nổi tiếng của Việt nam Tả ao tên thật là NGUYỄN ĐỨC HUYỀN, người làng Tả ao thuộc tỉnh Hà tĩnh. Cụ sống vào đời Chúa Trịnh , gia đình quá nghèo, cha lại mất sớm, mẹ bị mù nên phải tìm đủ mọi việc để giúp đỡ mẹ già. Lúc bấy giờ có một ông thầy thuốc người Tầu nổi tiếng về khoa chữa mắt, nên cụ tìm đến xin được hầu hạ thầy để thầy ra tay tế độ chữa mắt cho mẹ mình. Ông thày Tầu thấy cụ siêng năng, chăm chỉ lại thông minh nên đã truyền cho cụ một số phương cách chữa mắt. Như vậy mà cụ chữa được mắt cho mẹ. Khi nghe tin ông thày Tầu sắp về nước, cụ vội vã đến xin phép thầy đi theo hầu hạ và học hỏi thêm về khoa chữa mắt. Ông Thầy bằng lòng. Thế là cụ được truyền dạy tất cả những gì mà ông thày Tầu có được về nghề chữa mắt, nhất là khi ông thày Tầu đã quá già.Từ đó cụ tự chữa cho nhiều người lành bệnh mắt, danh cụ vang khắp vùng.Có một thày Địa lý nổi danh trong vùng bị đau mắt, nghe danh cụ , liền cho người dẫn đến gặp cụ. Chỉ trong một thời gian ngắn ,cụ đã chữa khỏi bệnh mắt cho ông thầy Địa lý. Thầy Địa lý mừng quá, đem vàng hậu tạ, nhưng cụ không nhận mà chỉ xin được làm đệ tử môn Địa lý Phong thủy mà thôi. Thấy người có tài đức lại có chí ham học hỏi, nên thầy Địa lý không ngần ngại đồng ý truyền hết những gì về Phong thủy mà mình có được. Chẳng bao lâu, cụ đã thành thạo tất cả những gì mà vị thày Địa lý đã truyền cho mình.

Qua bao phen thử thách trắc nghiệm tài năng,ông thày Địa lý công nhận cụ là người sáng trí, tài cao, đức trọng, nên không tiếc rẻ công sức mình truyền dạy cho.

Khi dời nước Tầu về nước, cụ đã chữa mắt cho rất nhiều người, ngoài ra cụ còn đi tìm những vùng đất tốt và nghiên cứu các Long mạch, các Địa linh ở quanh vùng. Cụ không vì tiền bạc, danh vọng mà đi tìm các cuộc đất tốt cho những kẻ không xứng đáng được hưởng. Dù cụ giới hạn về khoa địa lý, nhưng nhiều người đã tìm đến cụ để nhờ cụ giúp tìm đất tốt cho nhà cửa, mồ mả, phương hướng thuận lợi cho họ.

Dân chúng thời bấy giờ đã gọi cụ là cụ Tả ao ( Làng Tả ao ), danh tiếng của cụ vang đi khắp nơi và người đương thời truyền tụng cho nhau nhiều giai thoại của cụ Tả ao ngay còn lúc cụ còn sống. Trong cuốn TRẠNG DỪA tuyền lục do một người hiệu là Mộng Quế biên soạn vào khoảng tháng 9 năm Canh Thân ( đời Vua Khải Định- 1920 ), co nhắc đến một cách trịnh trọng con người tài ba, nhân hậu Tả ao. Theo các tư liệu thì tập truyện này, tác giả Mộng Quế đã dựa vào một tập truyện cổ trước đó.

Dưới đây là một đoạn nói về thày Địa lý Tả ao nổi tiếng (bản tiếng Việt do Kim Mã- Vũ Hoàng dịch từ bản chữ Nôm- Cuốn Trạng Lợn- Hội Văn học nghệ thuật Hà nam Ninh- 1987).

...." Có một thầy Phong thủy, người về làng Tả ao, Trấn Nghệ an, đương đêm ngồi ngó lên Trời, trông thấy các vì Sao hội tụ về phương Nam, sáng tỏ rời rợi, vỗ tay cười ầm lên. Người ngồi bên cạnh không hiểu như thế nào hỏi:

- Ngài có điều gì thích chí mà cười lắm thế.

Thầy Phong thủy nói:Kỳ qúa, ta vừa trông lên Trời, thấy các vì sao hiện về phân dã nước ta, bóng sáng vằng vặc. Kìa như ngôi sao sáng nhất chình là một Đế tinh, còn những vì sao xung quanh toàn là Tá tinh cả. Sau 20 năm, Rồng- Mây gặp hội, cá nước phải duyên, làm nên một hội, thịnh trị. Chỉ vì thấy một vị về bên tả ngôi Đế tòa, trông ra không phải hình tượng Văn tinh mà chủ trương về việc Văn, và tài ứng đối lanh lợi, vì thế nên thích mà cười. Chỉ trong một hai năm, các vị ấy giáng sinh xuống Trần đầu thai mà thôi. Phen này ta quyết đi chu du thiên hạ, thử xem giáng sinh về phương nào.

Từ đó ông ấy đeo La bàn đi chơi, nay đây , mai đó, không đâu mà không đến.Một hôm , đi qua Sơn Nam thượng Trấn, đến làng Mạnh Chư, tục gọi là làng Dừa, Huyện Bình lục, Tỉnh Hà nam ninh bây giờ thì thấy vượng Khí trong làng phất lên đùn đùn, biết ở đó có một ngôi đất hay. Lần vào xem, quà nhiên thấy một Huyệt: Sơn cùng, Thủy triều, Long bàn Hổ phục, đôi bên Thần đồng phụ nhĩ, xung quanh cờ biển ứng vào, trước mắt đột lên một con Hỏa, trông như một con dao bầu, suốt từ phương Mão đến phương Tốn, thực là Huyệt kỳ dị. Bụng bảo dạ rằng:" Ngôi đất này chính là ngôi đất ứng sinh ra tá tinh đấy hẳn, thế mà chưa có nhà nào táng được là làm sao? Âu là ta vào trong làng xem ngôi đất này Trời để cho nhà nào thời ta làm ơn làm giúp, thay quyền Tạo hóa xem sao. Nghĩ rồi đi, vai đeo túi, tay chống gậy, làm ra dáng lù khù đi vào. Khi bấy giờ Trời đã tối, đi đến đâu cũng không ai cho trọ. Tự nhiên gặp một người say rượu gật gù bảo rằng:Thưa cụ, cụ đi đấu mà tối thế? Không ai dám chứa cụ thời xin cụ về nhà cháu. Nhà chau dù nghèo thực, nhưng cũng dư thết cụ được dăm ba ngày. Xin cụ đừng ngại. Cụ thấy nói tử tế lắm. Đi theo về nhà. Vào đến nơi, ông ấy bắt người nhà dọn chỗ nghỉ, rồi làm rượu mời cụ xơi, bắt vợ con ra chào hỏi trọng hậu.Cụ nhác trông người vợ có phúc tướng, mừng lắm hỏi:Ông bà đây làm nghề gì?

Ông ấy đáp: Thưa cụ, nhà cháu nghèo lắm. Ở đây gần chợ nhà cháu thường làm nghề hàng thịt kiếm ăn.

Cụ mừng thầm rằng: Ai ngờ nhà hàng thịt mà có người Phúc hậu như vậy. Hoặc giả vượng Khí ở đây chung tú vào nhà này chăng. Hay ta cứ ở đây xem.

Sáng mai, thức dậy, cụ đã thấy một mâm tiết canh lòng cật sẵn đó mời cụ xơi. Từ đấy trở đi, cụ đến ở ba bốn tháng, sớm đi tối về, vợ chồng hầu hạ cơm nước, bữa nào cũng như bữa nào, không hề một lời tiếng nặng tiếng nhẹ, cứ một niềm chiêu đãi như vậy. Hoặc có khi cụ ốm, chồng thời chạy thuốc, vợ thời quét bẩn , giặt dơ, dẫu thế nào cũng không quản ngại chi cả. Cụ thấy thành tâm lắm mới bảo thực rằng: Nguyên tôi là một ông thày Địa lý đi qua đến đây, gặp ông bà thết đãi quá hậu, không biết lấy gì mà trả ơn được. Nhân tìm được một ngôi Âm phần, thôi thì để lão làm một cái lễ tạ." Vợ chồng thấy nói mừng lắm, thụp xuống lạy, xin đem hài cốt ông Thân phụ để cụ táng. Táng xong cụ dặn lại rằng: Ngôi đất này mạch cực kỳ quý, sau này tất sinh Trạng. Cậu bất tất phải học mà tài trí hơn người, đối ứng cực giỏi. Trong thời Vua yêu, Chúa dùng> Ra ngoài thời tùy cơ ứng đối. Sự nghiệp cực kỳ ngộ. Chỉ hiềm ông chưa được trông thấy. Nói rồi từ đi.Vợ chồng ông ấy cố nèo như thế nào cũng không chịu ở nữa.Từ đấy, chân mây dấu Hạc, đi tróc Long- Tầm Hổ về phương nào không biết. Sau có thơ khen rằng:

Tả ao Phong thủy nhất trên đời

Họa phúc cầm cân định chẳng sai.

Mắt Thánh trồng xuyên ba thước đất,

Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời.

Chân đi Long Hổ luồn qua gót,

Miệng gọi Trâu Dê ứng trả lời.

Ai muốn cầu sao cho được vậy

Ấy ai Địa lý được như ngài.

Từ khi cụ Tả ao táng mả cho, vợ chồng hàng thịt buôn bán phát đạt vô cùng.

Theo tư liệu của Cao Trung thì cụ Tả ao không truyền nghề cho ai về nghề cụ đã học.( Có lẽ trước khi truyền bí quyết cho cụ, ông thày Địa lý người Tầu đã dặn cụ như vậy hoặc vì Thiên cơ bất khả lậu, hoặc là vì khó đoán định được ai là kẻ đáng được hưởng sự truyền dạy). Khi mất cụ Tả ao để lại cho hậu thế hai bộ sách quý giá về Địa lý. Dĩ nhiên qua hai bộ sách này chưa hẳn có người đã hiểu thấu đáo về những gì gọi là vi diệu thâm sâu của khoa Phong thủy- Địa lý, nếu không có thầy chỉ vẽ và giải thích những tàng ần trong câu chữ viết..

Dù sao , hai bộ sách ấy cũng đã mở mang thêm kiến thức cho các nhà Phong thủy Việt nam sau đó và đã phần nào nói lên được sự quan trọng của một môn học quý giá mà hậu thế dễ làm thất truyền. Để lại hai bộ sách Địa lý đó, có lẽ cụ Tả ao đã có chủ đích, nếu không cụ đã hủy trước khi cụ qua đời.

(BÍ ẨN VỀ PHONG THỦY- ĐOÀN VĂN THÔNG). Chào anh Dienbatn,

Như anh đã nói ai có tư liệu gì về cụ Tả Ao trấn yếm thì đăng lên để tham khảo. Chúng ta có thể xem đây là truyền thuyết hay là một phần sự thật thì tùy người lãnh hội.

CHẮC NHƯ ĐÓNG ĐINH

(Truyện Ông Tả Ao của Đồ Nam)

Một làng nọ thuộc tỉnh... ở trung châu Bắc bộ, là một làng rộng lớn và giàu có, nhưng phải cái xấu là trai làng, anh nào cũng “vắt cổ chầy ra nước”, chơi với ai cũng muốn nắm phần lợi về mình, không chịu bỏ ra một xu nhỏ. Còn gái làng thì tinh nghịch, cô nào cũng chua ngoa, đanh đá, lại có tính lẳng lơ. Vậy cho nên ca dao có câu:

Làng kia có biển xà cừ,

Bao nhiêu con gái theo sư mất rồi...

Một hôm, ông Tả Ao đi chơi qua làng đó, ngắm thấy kiểu đất quý: trước miếu Bà, có cái thế đất hình nhân đàn bà nằm nghiêng, giữa huyệt có một cái giếng, nên con gái làng này rất đẹp. Chẳng những thế, ông lại còn thấy mấy kiểu đất trông như cái biển, cái chiên, chỉ hiềm vì miếu Bà lệch hướng nên trong làng không có mấy người làm nên to tát.

Thấy làng có nhiều đất đẹp như vậy, ông liền dừng chân vào nghỉ tại một quán hàng, vừa uống nước, ăn bánh, vừa ngắm địa thế.

Bỗng, có một bọn gái làng đi chợ về, cũng vào quán nghỉ chân uống nước, ăn trầu, cô nào cũng trắng trẻo, xinh xắn, nói năng cười cợt chẳng cần giữ ý tứ gì. Thấy ông Tả Ao ngồi đó, họ cũng chen vào ngồi, đùa cười như nắc nẻ, chẳng biết kính trọng người già cả là gì.

Hôm đó là ngày phiên chợ, nên quán nước luôn luôn tấp nập kẻ ra người vào: thôi thì hết bọn gái này, đến bọn gái khác ghé vào nghỉ chân, ăn trầu, uống nước hoặc hút thuốc.

Ông Tả Ao ngồi suốt buổi trưa, ngắm hết bọn này đến bọn khác. Ông xét thấy: gái thì lẳng lơ, vô lễ, trai thì kiêu ngạo, keo bẩn. Tất cả trai gái làng này đều có những cử chỉ lố lăng, ăn nói vô ý vô tứ.

Chừng đã xế chiều, quán nước thưa người, ông mới lần theo đường nhỏ vào làng. Hết ngắm hướng đình rồi đến hướng chùa, lang thang nhìn xem phong cảnh, ông dừng lại trước miếu Bà, lẩm bẩm:

-Gía họ biết điều, mình quay hộ hướng kia, ắt là trong làng được làm quan to, tha hồ mà giàu sang vinh hiển.

Chợt một dân làng đi qua đó nghe thấy, đoán chắc đây là thầy địa lý không sai, bèn chạy về phi báo cho các ông kỳ mục trong làng ra đón mời ông.

Thoạt đầu, ông chối từ; về sau thấy họ cố nằn nì, ông phải theo về đình làng. Thôi thì họ kêu nài đủ thứ, nào là xin ông làm phúc giúp cho một hai kiểu đất để làng làm ăn khá giả, nào là xin ông cho làng được nhiều người đỗ đạt, làm quan để làng nhờ cậy, dân làng sẽ ghi ơn ông muôn đời...

Ông Tả Ao chỉ gật gù, bảo:

-Để tôi còn phải ngắm các kiểu đất xem sao đã.

Thực ra, chính ông muốn thử bụng các bô lão trong làng xem cách ăn ở, đối xử với ông ra sao.

Cơm nước chín mười hôm, ngày nào ông cũng xách tay nải đi quanh quẩn trong làng từ sáng đến chiều, nhưng hôm nào về ông cũng bảo với các ông kỳ mục rằng chưa tìm được hướng, phải đợi lâu lâu mới được.

Kỳ thực, trong ngần ấy hôm, các ông kỳ mục đối đãi nói năng những lời gì ông đều dò la rõ cả. Ông biết bọn họ không tốt, chỉ hời hợt ngoài mặt, mong sao cho công việc chóng xong để rồi tống tiền ông đi, chứ trong tâm không thành thực, niềm nở tiếp đãi ông.

Một hôm, cơm nước vừa xong, ông vờ say rượu, nôn ọe, ngủ thiếp đi ra vẻ mê mệt lắm. Thấy ông như vậy, các ông huynh thứ thì thầm bảo nhau:

-Không biết đó đúng là Tả Ao không? Hay chúng ta bị thằng này đến lừa làng mình, rượu chè no say ít lâu rồi chuồn thẳng, thì thật là bẽ với dân làng.

Một cụ khác nói:

-Tôi cũng nghi lắm, trông lão này không có vẻ gì tài giỏi. Đời thuở gì mà gần nửa tháng nay rồi cũng chưa đả động gì đến việc Địa lý...

-Ta phải thúc dục hắn mới được, không thể để tuỳ hắn như trước nữa. Nếu hắn cứ chùng chình, khất lần khất lừa thì đuổi ngay đi cho xong chuyện, chẳng cần kết phát gì cả. Làng ta như vậy cũng đã danh gía chán rồi.

Ông Tả Ao nằm gần đó, ai nói câu gì ông đều nghe rõ cả. Sáng sớm hôm sau, tỉnh dậy, ông vờ đi xem đất một lúc, rồi lại trở về đình.

Vừa thấy bóng ông, mấy ông kỳ mục đã vội nói:

-Thế nào, xin ông giúp ngay cho, kẻo lâu ngày quá rồi.

Để mọi người nói xong, ông đáp:

-Tôi cũng định về nói chuyện với các ông rằng hôm nay tốt ngày lắm, xin cho phân kim, làm lễ ở miếu Bà, xoay hướng miếu lại đôi chút là xong.

Đoạn, ông lấy tróc long và la bàn trong tay nải ra, nói với các ông kỳ mục cho mõ rao mời dân làng ra miếu Bà xem cắm hướng, rồi làm lễ một thể.

Nghe ông Tả Ao nói xong, các ông kỳ mục mừng rỡ, đánh ngay ba hồi trống triệu tập dân làng ra miếu xem cắm hướng.

Cắm hướng xong, có mấy cụ nhà nho trong làng, ý chừng cũng biết tý chút về khoa Địa lý, kháo nhau khen mãi là giỏi, hết lời khâm phục Tả Ao.

Một ông huynh thứ trong làng hỏi:

-Ông cắm thế này thì làng chúng tôi phát đến gì?

Ông Tả Ao trả lời:

-Phát đến nhất phẩm triều đình, làm quan tứ trụ không sai. Đây này, các ông trông xem, có phải chỗ kia trông như sơn, như hải cả không, hai bên toàn là “trống cái”, “chiêng đồng”, và biển xà cừ chầu cả về miếu Bà này. Lại còn cái giếng kia là chính huyệt, đàn bà, con gái làng này tha hồ mà trắng trẻo, xinh đẹp, sẽ có người phát đến cung phi, hoàng hậu...

-Thế cụ có chắc như vậy không?

-Chắc, chứ sao lại không!

Một, anh đứng gần đấy, ra vẻ giễu cợt, nói:

-Chắc hơn cua gạch hay chắc hơn gắn sơn?

-Hơn cả cua gạch và hơn cả gắn sơn. Chắc như đinh đóng cột vậy. Kiểu đất này muôn đời cũng không thay đổi.

Công việc xong, ông Tả Ao thu xếp tai nải, đi ngay. Mấy ông kỳ mục lấy ra năm chục quan tiền tạ ông. Ông không lấy mà bảo đem phát cho kẻ khó.

Xoay hướng miếu xong, làng nghe ngóng mãi mà cũng không thấy phát, chẳng có ai đỗ đạt, giàu có sang trọng gì.

Mãi vài năm sau, chỉ thấy gái làng cứ không chồng mà chửa, trước còn ít, sau càng ngày càng nhiều, tiếng đồn lan ra khắp huyện. Trai làng thì cũng đổi nghề, trước kia cày cấy, buôn bán, nay lại xoay ra học nghề chạm, nghề sơn.

Thấy vậy, các cụ trong làng lo quýnh, biết là ông Tả Ao phản, liền đi tìm các thầy địa lý giỏi để xem lại hướng. Hơn chục danh sư danh sư được mời về đều trả lời: “Kiểu đất này rất đẹp, nhưng đã bị xoay lại cả rồi, cái chiêng đồng, cái biển xà cừ đã hoá thành cái chậu sơn, hai cái gò đống kia đã hóa thành cái chàng, cái đục; còn cái trống kia đã biến thành cái họa cho gái làng, vì cái giếng trước miếu Bà bị cắm một cái cọc, nên gái chưa chồng hay bị chửa hoang...Những gò đống, hồ ao thì không thể xoay lại được, chỉ còn một cách sai người lội xuống giếng, nhổ cái cọc tre đi để cứu vãn cho gái làng khỏi bị chửa hoang mà thôi.

Mười năm sau, khắp làng này trở thành thợ chạm, thợ sơn; gái làng thì thỉnh thoảng lại bị một thời kỳ chửa hoang vô kể. Về sau khám phá ra thì là vì mỗi các trai làng lân cận sang hỏi gái làng này không được, hay vì gái làng này có tính chua ngoa, cãi cọ với gái làng bên, đã bị trả thù. Kẻ thù đã ngầm sai người chờ lúc vắng vẻ lội xuống giếng, cắm cọc để gieo họa cho gái làng này. Về sau, các cụ bô lão trong làng phải cử người canh gác cẩn mật và cứ ít lâu, lại phải xuống giếng mò cọc một lần, để tránh cho gái làng khỏi cái nạn “hoảng chưa”

Nguyên Trí thư sinh

Viết lại bài trên nói về ngài Nguyễn Đức Huyên tức là ngài Tả Ao nên cũng thương mến tài hoa của ngài và của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nên Nguyên Trí viết mấy câu thơ khen các ông đã viết sách để lại cho đời sau.

Nam quốc sơn hà đất Việt ta.

Long ngầm hổ phục linh khí tựu.

Địa linh sông núi xuất nhân tài.

Xưa có thánh địa lý Tả Ao.

Tướng hình dung mạo cũng thanh tao.

Vai mang một nãi đựng càn khôn.

Những thấy ai đau thì hốt thuốc.

Bằng như ai tốt tặng đất cho.

Tay nắm la-bàn khiển tróc long.

Tầm long tróc mạch mấy ai bằng.

Điểm huyệt, phân kim phép tuyệt vời.

Trấn trạch, yếm đất quỷ thần kinh.

Mắt thần nhìn qua ngôi đất kết.

Biết ngay tốt xấu đến mấy đời.

Bắc bang nghe tiếng liền than thở.

Chân truyền địa lý đã sang Nam.

Tả Ao lưu truyền hai bộ sách.

Dã Đàm, Địa Đạo Tả Ao thư.

Sách quý lưu truyền nên ghi nhớ.

Câu: “Tiên tích đức, hậu tầm long”.

Thế sự hôm nay đã khác xưa.

Minh triều xưa trước sợ biến loạn

Đã tạo man thư địa lý môn.

Khiến truyền rộng rãi khắp thế gian.

Những ai muốn được chân địa lý.

Mau tìm đọc lại Tả Ao thư.

Còn như muốn muôn phần vững chắc.

Cũng nên vấn kế Trình Quốc Công.

Người ấy xa gần đều biết tiếng.

Mưu sâu trí rộng như biển cả.

Đoán việc như thần chẳng khi sai.

Bắc bang biết tài nên khen tặng.

An Nam lý học hữu Trình Tuyền.

Bạch Vân cư sĩ xuất tài hoa.

Thượng thiên, hạ địa thấu huyền cơ.

Quá khứ, vị lai đều biết rõ.

Đặc biệt lưu trong ngành Phong Thủy.

Trạng Trình viết Bí Thư Đại Toàn.

Những sách lưu truyền nơi đất Việt.

Tinh hoa địa lý vẫn còn nguyên.

Sách báu đến tay người tài đức.

Lưu truyền rộng rãi khắp nước Nam.

Nguyên Trí thư sinh

Xin cảm ơn Nguyên Trí đã cung cấp tài liệu rất thú vị về Tả Ao. Dienban và quí vị quan tâm thân mến!

Những tư liệu về Ngài Tả Ảo tôi dược xem cách đây khoảng 45 năm; trong một tờ báo ra vào khoảng những năm 30 của thế kỷ trước; tên là báo "LOA". Những bài viết có tựa là (Không chính xác)"Thánh Địa lý Tả Ao". Bởi vậy; tất cả chỉ còn là trí nhớ.

Tôi chỉ nhớ đại ý như sau:

Từ lâu Ngài Tả Ao đã chuẩn bị cho mình một cuộc đất để con cháu sẽ phát công hầu. Nhưng đến lúc hấp hối; khi người nhà khiêng Ngài đi thì thấy mình ko thể tồn tại lâu d8ược bèn chỉ một cộc đất khác nói sẽ được phong Thành Hoàng và chôn ở đấy. Theo tư liệu này thì có ghi rõ cả làng; tổng mà cụ Tả Ao được tôn vinh Thành Hoàng làng.

Các bạn cần chi tiết có thể tìm kiếm trong kho tư liệu nào đó có lưu trữ tờ báo trên(báo ra từng kỳ và mỗi kỳ có vài trang về chuyện này).Tôi hy vọng rằng trong kho lưu trữ về văn hoá Đông Dương của chính phủ Pháp sẽ còn những tờ báo này.

Vài lời tường sở ngộ.

Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.

Thiên Sứ Trong cuốn CAO BIỀN TẤU THƯ CỬU LONG KINH nói về ba chi của Đại huyết mạch kết phát lớn tới Đế Vương có nhắc đến địa danh Phù lỗ có 1 Huyệt chính và 4 Huyệt Bàng. Bạn nào có tư liệu xin Post lên giúp dienbatn. Xin cảm ơn.

Thân ái.dienbatn

dienbatn xin tiếp tục bài viết của mình.

Như vậy chúng ta thấy rằng : " Cụ Tả ao được coi là Thánh Địa lý Tả ao, là người Việt nam thứ nhất học được khoa Địa lý Chánh tông ở Trung quốc, và là người thầy Địa lý giỏi nhất Việt nam xưa kia " ( Trích trong Địa lý Tả Ao- ĐỊA ĐẠO DIỄN CA- của Cao Trung ).

" Cụ từ chối rất nhiều việc để đất. Cụ chỉ làm những việc để đất rất hạn chế, trong những trường họp đặc biệt mà thôi. Tuy thế, danh làm Địa lý của cụ cũng nổi và được tôn làm Thánh Địa lý.

Người đời sau không gọi tên tục của Cụ nữa mà chỉ gọi là cụ Tả Ao ( Tên làng Tả Ao của cụ ở Huyện Nghi xuân).

Hình như cụ Tả Ao không truyền nghề cho ai, xong cụ có để lại cho đời hai bộ sách quý giá:

1/BỘ ĐỊA ĐẠO DIỄN CA có 120 cấu văn vần.

2/BỘ DÃ ĐÀM TẢ AO bằng văn xuôi."

CAO TRUNG.

Với một sở học như vậy, với một con người đức độ như vậy, dienbatn không thấy có lý do gì cụ lại đi Trấn yểm phá Long mạch, ;làm tuyệt nhiều đời không cho Phát đạt cả một vùng đất rộng lớn, có liên quan đến nhiều Địa Linh như khu vục PHÙ LỖ.

Bây giờ ta xem xét kỹ lại những gì Cao Biền đã làm trên đất Việt chúng ta. Theo cuốn ĐỊA LÝ TẢ AO BÍ TRUYỀN - ĐỊA ĐẠO DIỄN CA của Cao Trung như sau :

"Xưa kia,về đời nhà Đường Trung Tôn bên Tầu có Cao Biền, được phong làm AN NAM TIẾT ĐỘ SỨ, sang đô hộ nước ta, là một người rất giỏi Địa lý, được Vua Tầu ủy cho sứ mạng trình về Vua biết các kiểu đất bên Việt nam và yểm phá các đất kết lớn nào khả dĩ có ảnh hưởng cho Trung quốc.

Sau khi nhậm chức và khảo sát Địa lý bên Việt nam, Cao biền thấy nước ta có nhiều đất phát rất lớn, có thể tạo ra những bậc tài giỏi, mà sự nghiệp khả dĩ ảnh hưởng cho Trung quốc trong vấn đề Nam tiến, bèn soạn ra tập " CAO BIỀN TẤU THƯ ĐỊA LÝ KIỂU TỰ" này trình về Vua Đường, đồng thời dùng phép yểm phá một số Long mạch có đất kết lớn.

Truyền thuyết có nói, trước khi Trấn yểm một kiểu đất nào , Cao Biền thường phụ đồng để kêu các vị Thần cai quản khu vực đó nhập vào đồng Nam, đồng Nữ rồi trừ đi, sau đó mới Trấn yểm đất. Cũng theo Truyền thuyết,Cao Biền có yểm một số ít đất lớn, xong cũng thất bại trước nhiều vị Thần linh, trong đó đáng kể nhất là TẢN VIÊN SƠN THẦN và TÔ LỊCH GIANG THẦN ( núi Tản viên, thuộc Huyện Bát bạt - Tỉnh Sơn tây và sông Tô lịch chảy qua Hà Nội, Ô Cầu giấy gần làng Láng). Đền Bạch Mã ở hàng Lược- Hà nội cũng là đền thờ Tô lịch."

Nhân đây dienbatn cũng xin trích đăng nguyên văn phần đầu của CAO BIỀN TẤU THƯ ĐỊA LÝ KIỂU TỰ - Bản dịch của Cao Trung , để các bạn có thể hình dung rõ về con người này. ( Xin nhớ là CAO BIỀN TẤU THƯ ĐỊA LÝ KIỂU TỰ, được bảo quản trong Tàng Thư của Trung quốc, được tướng Hoàng phúc thời nhà Minh mang sang nước ta nhằm tiếp tục công việc của Cao Biền, sau đó nhờ công của LÊ LỢI, NGUYỄN TRÃI..tiêu diệt quân xâm lược và tịch thu được).Tài liệu hiện thực này đã có tuổi trên một ngàn năm.

CAO BIỀN TẤU THƯ ĐỊA LÝ KIỂU TỰ.

Việt tự tích Đường Trung Tôn thời, Cao Biền vi Thái sử, chi ý tôn thời, tính hữu Giao châu chi Quận Huyện, đế tư cập Uý Đà sưng thần cự hán chi cố sự, nãi bái Cao Biền vi An Nam Đô hộ sứ. Biền tương vãng, chi thời , đế triệu nhập ngự điện vị viết: Công học Địa lý tối vi diệu, trẫm văn An Nam đa hữu Thiên tử quý địa, công đương dụng lực ngụ mục, hoặc hữu áp chi, triển bình sinh kinh luân, thuật Thánh hiền chi quy củ, đoạt Thần công nhi cải Thiên mệnh, nhiên ví tiễn thảo trừ căn, chi đồ thứ cơ vô hậu tệ, tường suy Phong thủy, biến lãm xuyên sơn, nhất nhất diễn ca lập kiểu, Trẫm đắc tiện văn giả. Cao Biền thụ mệnh nhi khứ, trực để An Nam, kế giữ Mộc chi vi phi diên chi pháp, tự thừa kỳ thượng, an muông trung nhi du quan, tầm Long nhận mạch, sở kiến Nam Quốc hình thể đại cán hành Long, lưỡng chi thiều thiều tịnh tiến; Nhất hữu chi Long, khởi tự ải quan, phân mao sơn, hựu biệt sinh tả, hữu, trung tam chi nhi giáng, Long mạch phân chi, chi các hữu phái, tĩnh âm, tĩnh dương, Long Hổ khí chung, Càn Khôn Đạo hợp, nãi thi Địa linh Nhâ kiệt, nguy nhiên Thánh hiền, Thần võ chi hồng lượng mỹ hỷ. Biền tự trầm ngâm khẩu quyết, mặc thức tâm cơ, huyết mạch u huyền, cường lực dũ gia chi bất đắc, cố` bất cảm động. Đông tự Nam hải, Đằng giang, Tây tự Tiểu khê lão cực Nam Việt, Quảng hà, Nam xiêm Thành, Bắc tự Quảng hà, Đông Xá. Hệ đại huyết mạch các cục, vi ngũ ngôn ca, kỳ thứ huyết mạch các cục, vi tứ ngôn ca, tha như tiểu mạch giả bất túc lập cô sĩ hậu lai,sảo tâm minh mục, quảng thị chỉ lực, vi khởi thủ chi diệu đoan mỹ túc.

Gia châu Đô hộ sứ, Thần Cao Biền cẩn tấu vi bản châu địa mạch hình thế sự, Thần hạnh phát dư sinh thao ty hà những, thượng tự thâm sơn, hạ chi Đại hải, ngưỡng quan phủ sát, phát tận chân cơ, kỳ tự thiên hữu, cảm bất khánh kiệt sở kiến văn, Thượng tự Đế vương, Vương công, Vương hầu, Vương phi, thứ THần đồng, Tú tài, Khoa đệ, phú quý phát vinh các cục.Trạch ca trần tấu, vị chi thị phủ, phục khất phủ lãm giao quan chi khi, kiến văn cụ lục"

Thời Vua Đường trung Tôn đổi tên nước ta thành An Nam đô hộ phủ và phong cho Cao Biền làm An Nam đô hộ sứ sang cai trị. Trước khi Cao Biền đi nhận chức, nhà Vua cho triệu vào Ngự điện và nói : Khanh học Địa lý tối vi linh diệu, Trẫm nghe An Nam có nhiều quý địa kết phát lớn tới Thiên tử, sản xuất nhiều nhân tài, anh kiệt, luôn luôn nổi lên chống đối. Qua đó Khanh nên tường suy Phong thủy, kiến lãn sơn xuyên, và làm tờ biểu tấu kèm lời Diễn ca các kiểu đất bên An Nam gửi về ngay cho Trẫm xem trước. Rồi ở bên đó Khanh đem tài Kinh luân, đoạt Thần công, cải Thiên mệnh, trấn áp các kiểu đất lớn đó đi. Đó là cách nhổ cỏ tận gốc, để tránh hậu họa về sau này.

Cao Biền phụng mệnh, khi tới nước ta, liền dùng gỗ chế ra một con diều, ngồi lên, bay lên Trời, đi quan sát địa thế, tầm Long nhận Mạch, thì thấy Long mạch rất lớn, thuộc Đại cán Long từ Côn Lôn sơn bên Tầu qua. Long mạch tới nước ta liền phân làm ba chi là Trung chi, Tả chi và Hữu chi.Ba chi này tạo nên nhiều đất kết phát lớn tới 27 ngôi Đế Vương, lại còn thêm mấy ngàn ngôi đất nhỏ kết phát Anh tài thông minh tuấn kiệt, Tiến sĩ, Thần đồng, Anh hùng hào kiệt không sao kể xiết, đáng để cho nước Tầu phải nể sợ. ( Xin lưu ý là trong cuốn CAO BIỀN TẤU THƯ CỬU LONG KINH thì Phù Lỗ là một trong 27 kiểu đất phát Đế Vương ).

Một mặt Cao Biền làm biểu tấu ghi rõ các đất kết của nước ta gửi về Vua Đường và mặt khác tìm cách Trấn yểm các Long mạch.

Thưa các bạn.

Từ trước đến nay, chúng ta mới chỉ nghe nói đến Cao Biền qua tác phẩm: CAO BIỀN TẤU THƯ ĐỊA LÝ KIỂU TỰ.dienbatn mới được biết rằng: ngoài cuốn đó còn có thêm cuốn : CAO VƯƠNG CHÂN TRUYỀN ĐỊA LÝ ĐỒ,tục truyền là của chính Cao biền viết.

Mặt khác theo tác giả Cao Trung thì cho rằng: Cụ Tả ao chỉ để lại cho đời hai cuốn Posted Imageà ĐÀM TẢ AO và Tả Ao Địa đạo diển ca.dienbatn cũng mới được biết rằng: ngoài hai cuốn trên còn có một số cuốn tục truyền là của Ta Ao như sau:

1/TẢ AO CHÂN TRUYỀN ĐỊA LÝ.

2/ĐỊA LÝ TẢ AO DI THƯ CHÂN CHÍNH PHÁP.

3/TẢ AO CHÂN TRUYỀN DI THƯ.

4/TẢ AO CHÂN TRUYỀN TẬP.

5/TẢ AO TIÊN SINH BÍ TRUYỀN GIA BẢO TÀNG.

6/TẢ AO TIÊN SINH ĐỊA LÝ.

7/TẢ AO TIÊN SINH THƯ TRUYỀN BÍ MẬT CÁCH CỤC.

8/BẢN QUỐC TẢ AO TIÊN SINH ĐỊA LÝ LẬP THÀNH CA.

Về các Địa mạch tại Việt nam còn có một số cuốn có giá trị như:

* VẤN ĐÁP SẢN THỦY PHỤ AN NAM CỬU LONG KINH CA.

* AN NAM PHONG THỦY.

* AN NAM ĐỊA CẢO.

* AN NAM CỬU LONG CA.

* THIÊN NAM ĐỊA THẾ CHÍNH ĐỊA LÝ QUỐC NGỮ.

* THIÊN NAM ĐỊA THẾ CHÍNH PHÁP. Chào Bác Dienbatn và Các Bạn.

Kiểu đất Phù Lỗ: Đệ thập Trung chi Phù-Lỗ giáng tai Kim-Hoa huyên. (Chính 1 bàng 4) Kim-Hoa trung chi long. Quư duy Lỗ sơn thị. Đảo son dũng dược linh. Lỗ hà lưu triêt khi. Cao sơn trấn thuỷ thâm. Tiền ủng chiếu hậu trĩ. Tả hữu lưỡng bài nha. H́nh thế song ngang chỉ. Án ngoại liệt tam thai. Cuc hôi toàn tứ mỹ. Đại đại xuất vương công. Thế thế liên quốc tế. Nhược thiên chiếm hoa tâm. Chân vi Thiên-tử dia. Mach cánh hữu hư hoa. Phản long khiêu phản thuỷ. Nhược nhận suyễn bât chân. Khủng sinh da tiếm nguy. ( Thần dỹ trúc lộ yểm chi). Hy vọng các bác xem có đung khong?

dienbatn xin trả lời như sau : Nếu các bạn chú ý đến cách lập trận pháp trong binh pháp thì thấy rất rõ ràng rằng: Binh pháp của người Hoa,ta lấy đại diện là Khổng Minh Gia cát lượng rất khác với binh pháp lập trận của người Việt.Các bạn có thể tham khảo cách lập trận đồ của Khổng Minh gia cát Lượng trong cuốn Binh thư mang tên ông và so sánh với các cuốn binh thư của người Việt như: Vạn kiếp binh thư, Binh thư yếu lược, Hổ Trướng khu cơ...Tuy là học tập những kinh nghiệm bày trận của Trung quốc như của Tôn Vũ và Ngô Khởi, nhưng những cuốn binh thư của người Việt, đã áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh của chiến trường Việt nam.Trong trường hợp bày TRẬN ĐỒ TRẤN YỂM tại Phù lỗ, không thể có lý do gì, có thể gán cho người Việt làm ra cả.Cách bày Thiên Đồ trận như vậy , chúng ta chỉ có thể thấy được dấu ấn sắc nét của Cao biền mà thôi.Là một người đã bỏ công tìm hiểu về các Trận đồ Trấn yểm của Cao Biền và hình như cũng "Rất có duyên với Cao biền",dienbatn có thể khẳng định lại rằng: Trận đồ Trấn yểm tại làng Liên Lý- Phù lỗ chính là một tác phẩm của Cao biền.

Ở đây ,dienbatn cũng xin nói thêm rằng:Cao biền chỉ làm Tiết độ sứ tại đất Việt có hơn ba năm.Trong ba năm đó, ngoài việc về Phong thủy ra, Cao biền còn là một vị Tướng cầm quân, một vị quản lý chính quyền, một nhà xây dựng giỏi...Như vậy mà trong CAO BIỀN ĐỊA LÝ TẤU THƯ KIỂU TỰ, có trên 1.500 Huyệt, được khảo sát kỹ lưỡng và ghi chú cẩn thận. Mặt khác trên 1.500 Huyệt vị đó lại nằm trên một lãnh thổ vô cùng rộng lớn, trải dài khắp nước Việt.Lấy một phép chia đơn giản,chúng ta thấy rằng: Trung bình một ngày, Cao biền phải khảo sát xong một Huyệt.Điều này, với khả năng hiện nay, dùng máy bay, chúng ta cũng không thể thực hiện được.Như vậy, chúng ta thấy rằng:Cao Biền chỉ là "tổng công trình sư ", tập hợp rất nhiều nhà Phong thủy tài ba trong công cuộc khảo sát Phong thủy đại quy mô này mà thôi. Anh Dienbatn thân kính,

"Cao Biền chỉ là "tổng công tŕnh sư ", tập hợp rất nhiều nhà Phong thủy tài ba trong công cuộc khảo sát Phong thủy đại quy mô này mà thôi." <=> PV thấy anh nhận xét vậy thật chính xác !

PV cũng xin dẫn chứng thêm:

Theo giáo sư Nguyễn Đoàn Tuân: Lịch sử đă nói về sự mất đất qua các đời:

- Thế kỷ 25 T.C: Đời Hoàng Đế đánh Xi Vưu - mất các đất Trác Lộc, Bản Tuyền - tức là các đồ cục: Sơn Tây và Tam Xuyên. Gồm đất của của ít bộ Cửu Chân, Hoài Nam.

- Thế kỷ 21 T.C: Đời Nghiêu, Thuấn, Đại Vũ: mất thêm vùng Tứ Xuyên và một phần bắc Tam Đảo tới Động Đ́nh Hồ.

- Thế kỷ 2 T.C: Đời Tần Thủy Hoàng: mất thêm vùng Tứ Xuyên tới Trường Giang - tức là bắt đầu lấy đất Ngũ Lĩnh.

- Năm 206 T.C: Đời Hán mất một phần đất Quảng Tây và một phần Quảng Đông – phân ranh bằng cột Đồng trụ.

- Năm 705 : Đời Đường mất trọn Quảng Tây và Quảng Đông.

- Năm 1594 : Đời Minh mất thêm đất Cao Bằng, Lạng Sơn do Mạc Đăng Dung cắt 6 động phía bắc Cao Bắc Lạng để cầu sống.

Và cũng theo giáo sư Đoàn Tuân giải thích về chữ GIAO CHỈ - “Tên chữ Giao-Chỉ nghĩa là các đại cục vượng khí, do tìm thấy long mạch (mạch máu sinh khí của đất nước) giao tụ lúc sơn long mạch chìm xuống, đến giao với mạch nước, bởi câu “SƠN CHỈ THỦY GIAO” mà gọi lược tắt đi còn hai tiếng GIAO CHỈ.”

“Đất Giao Chỉ thấy xuất hiện tiểu cục hồi thủ long phi nghĩa là đầu Rồng ngóc lên xoay đầu thở hơi. Đó là xuất hiện ứng đối những danh lam thắng cảnh tạo nên phép lạ, ảnh hưởng đến các danh nhân có đủ tài tam lược lục thao, cầm kỳ thi họa và phát những ngôi Đế Vương”

PV xin suy nghĩ thêm: Biết đâu những 1.500 huyệt đấy mà được ghi trong CAO BIỀN ĐỊA LÝ TẤU THƯ KIỂU TỰ chỉ là sao chép lại sách của người Việt trong thời gian đô hộ ông ta tịch thu hoặc sưu tầm được trong dân gian.(có thể có sự kiểm chứng thực tế của Cao Biền một số huyệt chính)

Vài dòng mạnh dạn suy nghĩ

Thân

Pháp Vân

Có lẽ Pháp Vân có lý khi viết rằng:"Biết đâu những 1.500 huyệt đấy mà được ghi trong CAO BIỀN ĐỊA LƯ TẤU THƯ KIỂU TỰ chỉ là sao chép lại sách của người Việt trong thời gian đô hộ ông ta tịch thu hoặc sưu tầm được trong dân gian.(có thể có sự kiểm chứng thực tế của Cao Biền một số huyệt chính) ".

Để thêm sự khẳng định, Trận đồ Trấn yểm tại làng Liên lý- Phù lỗ là do Cao biền thực hiện, chúng ta thử quan sát hai đồ hình sau:

Đồ hình ở trên là do Cao biền thực hiện trên sông Tô lịch ( Các bạn có thể tham khảo trong bài PHONG THỦY- HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH- PHÍA CỬA TÂY LA THÀNH).

Đồ hình dưới là Trận đồ Trấn yểm của Cao biền tại làng Liên lý -Phù lỗ.

Posted ImageThis image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 648x480 and weights 26KB.Posted Image

Chúng ta thấy rằng ở đây có sự trùng hợp gần như hoàn toàn về bài bản xây dựng một trận đồ Trấn yểm của Cao biền.Từ xưa cho tới nay, chúng ta không gặp một Trận đồ nào có dạng khác do Cao biền thực hiện cả. Bác Thiên Sứ Kính mến,

Năm 602 nhằm năm Nhâm Tuất.

Việt Nam triều Vua Lý Hậu Đế năm thứ 32 (tiền Lý Nam Đế từ năm 544 nhằm năm Giáp Tý.)

Trung Quốc Tuỳ Văn Đế, Nhân Thọ, năm 2 sai Lưu Phương sang xâm-lăng, Hậu Đế đầu hàng.Việt Nam bị Nội thuộc lần thứ 3.

Thực chất các quan cai trị nước ta như Thái thú chỉ lập được bộ máy chính quyền TW, còn xuống dưới đều là quan lại người Việt và được quyền tự trị.Theo PV nghĩ những phần đất coi như mất hẳn vì đă bị Hán hoá cơ bản, phần còn lại không thể Hán hóa được nên vẫn còn quyền Tự Trị là nước Việt ta ngày nay.

Cảm ơn Bác Thiên Sứ và các bạn quan tâm !

Kính

Pháp Vân

Pháp Vân thân mến!

Hay là có thể giải thích thế này:

Thời Bắc thuộc nước Văn Lang đă mất hết. Nhưng khi Lý Nam đế xưng Vương thì nước Việt không có các vùng mà Thầy Đoàn Tuân cho rằng mất vào năm 702?

Vài lời tường sở ngộ.

Cảm ơn sự quan tâm của Pháp Vân và các bạn.

Thiên Sứ

Bác Thiên Sứ Kính mến

PV nghĩ: Sau khi xâm lược đất nước Vua Hùng, Vua Trưng - nước Việt bị chia lại theo địa giới Hành chính cai trị của Trung hoa. Những quận huyện nào đồng hóa được là đồng hóa ngay. Những Quận huyện càng về phương Nam thì tinh thần Việt tộc càng mạnh, đồng thời những người không chịu khuất phục Hán tộc thì đều di cư xuống phía Nam. Địa giới hành chính không phải bất di bất dịch mà được thay đổi tùy Triều đại, do vậy mỗi lần chia lại địa giới hành chính là một lần mất đất. Phương pháp “Ngặm nhấm” dần đất đai. Chính vì vậy Quận Giao chỉ càng ngày càng thu hẹp còn lại như ngày nay.

Cảm ơn Bác Thiên Sứ và các bạn quan tâm !

Kính

Pháp Vân Mục này bác dienbatn viết rất hay. Tôi cũng xem qua cái mục bác viết về việc trấn yểm trên sông tô lịch nữa. Tuy nhiên có một điều tôi băn khoăn không biết bác có đi đúng hướng không. Trong những môn khoa học khó kiểm chứng vì phải đợi một thời gian dài mới biết kết quả như các môn thuộc về phong thuỷ thì việc định hướng ngay từ đầu nếu sai lệch đôi khi dẫn đến những sai lệch lớn trong suy luận.

Theo huyền sử thì nước Nam ta từ thời Kinh dương vương có biên giới ở vùng núi Ngũ lĩnh và động đình hồ nằm ở khoảng giữa nước Trung quốc hiện nay. Đến cuối đời vua Hùng thì chỉ còn lại là vài bộ lạc nhỏ và bị An Duong Vuong xâm chiếm để thành lập nước Âu lạc. An Duong vương để xây thành Cổ loa đã phải dùng móng rùa vàng để trấn yểm thì mới có thể xây được thành và bị mất nước là do bị mất móng rùa làm lẫy nỏ. Đất nước ta từ đó bị nội thuộc và trở thành một quận của Trung quốc trong khoảng 1000 năm. Cao Biền sang làm Tiết độ sứ vào thời nhà Đường cũng là cuối thời kỳ nội thuộc. Ông ta là một nhà phong thuỷ tài ba và có mưu đồ xưng đế trên đất nước nam nhưng không thành và bị vua nhà Đường giết. Vậy tôi có thể suy thế này không. Khi ông ta muốn xưng đế thì ông ta phải có được đội ngũ chân tay là những người tài giỏi thì mới có thể đứng ngang hàng với nước Trung quốc mạnh mẽ được. Vậy thì cớ gì ông ta lại tìm cách làm đất nước này mất nhân tài. Tôi cho là ông ta đã dùng thuật phong thuỷ để chữa bệnh cho "con rồng Việt nam" thì đúng hơn. Bằng chứng ư. Trước đây chẳng phải nước ta đã bị đô hộ hàng nghìn năm đó sao. Nhân tài chẳng thấy có ai đứng lên được để chống lại sự đô hộ đó. Còn sau thời Cao biền thì anh hùng nổi lên như ong và nước ta sau đó giành được độc lập vững bền tuy có nhiều lần bị Trung quốc sang xâm lược nhưng chỉ có nhà Minh xâm chiếm được nước ta trong một thời gian ngắn còn lại toàn bị thua và bị đuổi ra khỏi nước. Sự trấn yểm của ông ta ở dòng sông tô lịch như bác nói đã làm thế đất cứng lên và khi nguyên khí đã thông, Lý công Uẩn mới có thể thấy được khí chất long mạch mà xây dựng Hoàng Thành Thăng Long bền vững đã bao đời nay.

Còn hiện nay sau khi đã phá cái điểm trấn yểm trên dòng sông tô lịch ta thử xem xem liệu tốt lên hay là xấu đi. Bác có thể thấy khu vực Bắc Thăng long Nội bài đang phát triển nhanh với những khu công nghiệp mới hình thành nhưng vận khí của đất nước há có thể đem chứng minh bởi sự phát triển của một vùng đất nhỏ. Tôi có nhớ là đã đọc một tài liệu về sự lún sụt của đất Hà nội do khai thác tầng nước ngầm quá mạnh với nhu cầu nước tăng nhanh. Liệu đó có phải là bằng chứng của một sự sụtlở như trước khi được yểm bùa không ?. Tôi có nghe về việc lục đục trong nội bộ lãnh đạo cấp cao ở Hà nội thì liệu có phải đó là nguyên khí bị suy không ? Tôi có nghe về hiệp ước biên giới, biển giữa Việt Nam và trung Quốc và việc Trung quốc tương đối coi thường Việt Nam trong quan hệ ngoại giao thì liệu có phải là một cái nguy cơ lơ lửng trên đầu không ? Tôi có nghe về dự án thuỷ điện sông Duong tử sẽ có ảnh hưởng vô cùng lớn lao với toàn bộ đồng bằng sông Cửu long rồi dự án xây dựng đập thuỷ điện Hoà Bình với sự nguy hiểm treo lơ lửng trên đầu Hà nội và đồng bằng Bắc bộ cũng như đóng thẳng vào huyệt chính ở đầu rồng thì liệu có đáng suy nghĩ không ?

Vận nước cũng như con người bị bệnh. Đôi khi bệnh phù thũng làm người ta tưởng nhầm là béo ra nếu không quan sát cái sắc khí của người bệnh. Kinh tế Việt Nam đang đi lên nhưng một phần quan trọng là từ những nguồn vốn vay và được đổ vào xây dựng cơ sở hạ tầng với việc tham nhũng lên tới 50%. Tham nhũng trong bộ máy công quyền đã có cảm giác như không thể ngăn nổi. Vậy cái biểu hiện của Kinh tế tăng trưởng đó có phải là biểu hiện bên ngoài của một người đang bị bệnh phù thũng không ??

Các bác nghiên cứu Phong thuỷ thử giải thích hộ tôi xem sao.

quangcom

dienbatn bình sinh rất không ưa nói chuyện Chính trị, do vậy mà không trả lời những vấn đề mà Quang com đề cập ở phần trên . Riêng về những vấn đề đơn thuần về Phong thủy thì dienbatn xin trả lời như sau :

Trong các bài viết trước như : HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH ,NHỮNG CUỘC HÀNH HÓA GIẢI KHAI HUYỆT ĐẠO THỜI NAY , VÀI NÉT VỀ ĐỊA MẠCH HÀ TÂY .... dienbatn đã có viết rất nhiều về những điều các bạn đang hỏi . Tuy nhiên , xung quanh những vụ Trấn yểm đó còn vô vàn những điều Huyền bí mà không thể viết ra được . Ý tại ngôn ngoại . Tuy nhiên về mặt trực cảm người ta cũng thấy rằng : KHI NHỮNG TRẬN ĐỒ TRẤN YỂM ĐÃ ĐỀ CẬP BỊ VÔ HIỆU HÓA THÌ NHỮNG VÙNG ĐẤT BỊ TRẤN YỂM TỰ ĐỘNG HỒI SINH VÀ PHÁT TRIỂN RẤT MẠNH , GIỐNG NHƯ CON NGỰA BỊ GIAM HÃM LÂU NGÀY NAY LẠI THẢ SỨC DONG DUỔI TRÊN ĐƯỜNG VẠN LÝ . Cũng đúng như nhận xét của Quang com : " Bác có thể thấy khu vực Bắc Thăng long Nội bài đang phát triển nhanh với những khu công nghiệp mới hình thành ". dienbatn có thể bổ xung thêm là hướng Đông bắc của Hà nội , bao gồm cả Vùng Đông anh ,Nội bài , Vĩnh Phúc ,....sẽ phát triển rất mạnh trong những năm tới này . Giá đất khu vực này đang tăng vùn vụt hàng ngày ( Một gợi ý cho các bạn có dự định kinh doanh đất ? ).

Khi một vùng đất được hồi sinh và tới vận , chúng ta có thể nhìn thấy nó đổi thay từng ngày .

Các bạn cũng lưu ý rằng , trong các bài viết của mình , dienbatn chỉ đề cập đến những Trận đồ Trấn yểm , có ảnh hưởng đến những vùng đất tương đối nhỏ nhưng quan trọng chứ không phải là những Tổ sơn có thể ảnh hưởng đến Vận mệnh của cả nước . Do vậy , những việc mà Quang com nêu trên không phải do ảnh hưởng của những Trận đồ trấn yểm , hay nói chính xác là chỉ có những ảnh hưởng rất nhỏ .

Mong các bạn đọc kỹ lại những dòng viết để hiểu ý của dienbatn . Thân ái .dienbatn .

Share this post


Link to post
Share on other sites