Như Thông

Tiếng Việt huyền diệu - Chúa Giêsu biết nói Tiếng Việt

8 bài viết trong chủ đề này

Posted Image

BS Nguyễn Xuân Quang

20-12-2007

Hình: Giống ngưới homo sapiens-sapiens di chuyển từ Đông Phi Châu theo sự nghiên cứu DNA (The migration of homo sapiens-sapiens from East of Africa based on DNA study, The Cambridge Encyclopedia of Human Evolution).

Tôi khám phá ra câu nói cuối cùng của Chúa Jesus khi bị đóng đinh trên thánh giá là tiếng Việt! Chuyện khó tin nhưng không phải là không có thật. Trong Sách Tân Ước (The Books of the New Testament) có ghi lại câu nói cuối cùng của chúa Jesus khi bị đóng đinh trên thánh giá như sau: “Eli, Eli, lama sabac tha ni”. Không một ai hiểu Chúa nói gì. Không một ai biết Chúa có ẩn ý gì. Vì câu nói này không phải là tiếng Do Thái hay bất cứ một thứ tiếng Tiểu Á nào đang nói vào thời Chúa Jesus sống. Chúa đã dùng một thứ ngoại ngữ. Tại sao Chúa đã nói bằng tiếng ngoại ngữ? Bởi vì Chúa không muốn những kẻ đóng đinh Chúa hiểu những gì Chúa nói. Cũng chính bởi Chúa nói bằng tiếng ngoại ngữ nên các kẻ đóng đinh Chúa vì không hiểu câu nói cuối cùng của Chúa, họ đã rất tò mò nên đã ghi lại lời Chúa nói và vì thế câu nói cuối cùng này của Chúa sau này đã được ghi lại trong Tân Ước.

Gần hai ngàn năm không một ai hiểu lời nói cuối cùng của Chúa. Cho mãi tới khoảng thập niên ba mươi, James Churchward, một nhà khảo cổ rất nổi tiếng mới hiểu được ý nghĩa của câu nói cuối cùng của Chúa. Trong cuốn The Symbols of Mu, ông cho đây là tiếng nói của vùng Đông Á châu mà ông gọi là Naga-Maya, một tiếng nói thuần túy của vùng Đất Mẹ “Mother Mu”. Theo ông, tiếng Naga-Maya-Đông Á châu là một ngôn ngữ cổ nhất của loài người. Cũng theo ông câu nói này đã được phát âm và đánh vần sai trong Tân Ước. Thật ra phải đánh vần, đọc và phát âm như sau: “ Hele, hele, lamat zabac ta ni”. Ông dịch qua Anh ngữ: “Hele- I faint (Ta xỉu)- Hele-I faint (Ta ngất); lamat zabac ta ni - darkness is coming over my face” (bóng tối đang phủ xuống mặt ta) (It is the pure tongue of the Motherland, badly pronounced and spelt in New Testament. It should have been spelt, read and pronounced: “Hele, hele, lamat zabac ta ni” Translation: Hele-I faint. Hele-I faint; lamat zabac ta ni-: darkness is coming over my face”, p. 54).

James Churchward gọi vùng đất Mu là Motherland, một vùng đất ở biển Đông ngày xa xưa còn có các cầu đất nối liền với Đông Nam Á, thuộc địa bàn của văn hóa Hòa Bình trong đó có cổ Việt.

Ngày nay vùng đất Mẹ “Mu” này đã chìm xuống biển. Cũng theo James Churchward, vùng đất Mẹ Mu này có một nền văn minh rất huy hoàng và là nguồn gốc của văn minh loài người. Cũng nên biết là gần đây (1998) một bác sĩ Nhi Khoa tên là Stephen Oppenheimer, trong quyển Địa Đàng ở Phương Đông hay Lục Địa đã Chìm Đắm ở Đông Nam Á (The Eden in the East, The Drowned Continent in Southeast Asia) cũng chứng minh rằng ở vùng biển Đông Nam Á trước đây có một lục địa gọi là Sundaland về sau bị nước biển dâng lên nhận chìm xuống. Stephen Oppenheimer cũng cho rằng Sundaland có một nền văn minh rất huy hoàng. Đất Mẹ Mu của James Churchward chính là Sundaland của Stephen Oppenheimer.

James Churward cũng cho biết ông không phải là người duy nhất đã tìm cách dịch câu nói cuối cùng của chúa Jesus khi bị đóng đinh trên thánh giá mà Don Antonio Batres Jaurequi, một học giả uyên bác về Maya của Guatemala, trong quyển “History of Central America”, đã viết “Những từ cuối cùng của Chúa Jesus trên Thánh giá là tiếng Maya, một thứ ngôn ngữ cổ nhất hiện biết đến. Lời chúa nói phải đọc như sau: “Hele, Hele, lamah sabac ta ni”. Dịch sang Anh ngữ ”Bây giờ Ta đang ngất xỉu; bóng tối bao phủ mặt ta” (“The last words of Jesus on the Cross were in Maya, the oldest known language”. He says they should read “Hele, Hele, lamah sabac ta ni”. Put in English: “Now I am fainting; the darkness covers my face”). James Churward cho rằng ông phát âm lamat và zabac còn Jaurequi phát âm lamah và sabac là do ông dựa theo ngôn ngữ Naga-Maya ở Đông Á châu, còn Jaurequi dựa vào ngôn ngữ Maya hiện nay ở Trung Mỹ. Hai dòng ngôn ngữ lấy từ hai vùng cách xa nghìn trùng của quả đất nhưng đồng thuận với nhau về mọi điểm trọng yếu (Jaurequi spells the word “lamah”. I spell it “lamat”. He spells the word “sabac”. I spell it “zabac”. This difference is brought about by the translation coming from two different lines of colonization. Mine comes from the Naga-Maya of Eastern Asia; Jaurequi’s comes from the Modern Maya of the Central America. The two, taken from vastly distant parts of the earth, agree in all material points’, p. 54-55). Nói một cách khác chúng là hai ngôn ngữ chị em của cùng một ngôn ngữ Motherland, của cùng một ngôn ngữ nhưng nói theo hai phương âm khác nhau như ngôn ngữ Việt Nam nói ở miền Bắc và ở miền Trung-Nam .

Bây giờ, tôi là người thứ ba xin chuyển câu nói cuối cùng này của Chúa Jesus qua tiếng Việt. Tôi sẽ chứng minh câu nói này là tiếng Việt, một trăm phần trăm tiếng Việt.

-Eli, Hele

Eli, hele là những tán thán từ (exclamation) . Eli là một cổ ngữ Anh liên hệ với từ Anh ngữ hiện kim Alas và biến âm với tiếng Việt hiện kim Ế a, Ối a và Hele là cổ ngữ Anh liên hệ với Pháp ngữ hiện kim Hélas và liên hệ với cổ ngữ Việt Hĩ ôi! (Alexandre de Rhodes, Từ Điển Việt Bồ La) và với tiếng Việt hiện kim Hỡi a!, Hỡi ơi!, Hỡi ôi!

-lama, lamat, lamah

.Nếu coi từ lama hay lamah là hai từ riêng rẽ: la và ma (mah)

./ la biến âm với lù (lù mù), lờ (lờ mờ), với lòa (mù lòa, chói lòa), lóa (lóa mắt, chói lóa). Lòa, lóa, chóa là đui mù, làm tối mắt, không nhìn thấy liên hệ với Pháp ngữ noir (/noa/), đen, tối. La cũng biến âm với làn. Từ làn là lớp che như một làn sương khói, một làn khói bốc lên (la, làn liện hệ với Anh ngữ “layer”). Theo l=m như lờ = mờ, lu, lù = mù, mờ; lạch = mạch (nước), ta có làn = màn, một làn sương mù = một màn sương mù .

./ ma là mà, mù, mờ, mây như mù mà mù mờ, làm cho không thấy, che mắt như ta thường nghe nói các nhà ảo thuật mà con mắt người xem (ma tương đương với một nghĩa của ma thuật, liên hệ với magic).

Lama là lờ mờ, lù mù, lóa mất , làn mây mù, lớp mây mù.

.Nếu coi lama chỉ là một từ

Lama có lam- biến âm với lấm (bẩn), lầm (vẩn đục như lầm than, cát vẩn bụi lầm), lem (lem luốc, lem nhem, lâ1m lem). Lấm, lầm, lem ngoài nghĩa bẩn còn hàm nghĩa đen đủi, rõ nhất là từ lem như thấy qua từ đôi lọ lem. Ta có lem = lọ (lọ, nhọ có nghĩa là đen như lọ nồi, nhọ nồi). Theo l=đ, lam- = đậm = đêm (tối), theo l=th, lam- = thâm. Đậm, đêm và thâm cũng hàm nghĩa đen như đậm đen, đêm đen, thâm đen (chiếc áo the thâm). Vậy lam- liên hệ với Việt ngữ lấm, lầm, lem, đậm, đêm, thâm hàm nghĩa đen, tối.

Mặt khác lam- liên hệ với Hán Việt lam là khí núi như lam chướng, sơn lam chướng khí. Khí núi là một thứ mù sương, sương mù, sương mờ trông như mây mù, khói mù . Thường cho lam chướng là một thứ khí độc (miasma).

Như thế lama là tối đen (darknes hay làn mây mù, lờ mờ, lù mù .

Như đã biết Việt ngữ liên hệ với tiếng Nam Đảo (Austronesian language). Ta có

thể dùng tiếng Nam Đảo để kiểm chứng lại nghĩa ngữ của từ lama để thuyết phục thêm những người có đầu óc đa nghi. Tôi mò tìm trong ngôn ngữ Nam Đảo và đã tìm thấy trong Ngôn ngữ Nam Dương tộc Torah có từ lama có nghĩa là dew (sương), mist (mù) (Tae, Zuid Toradjasch WMP; van der Veen 1940) và ngôn ngữ ở đảo Salomon có từ lama có nghĩa là spread over, cover over (lan tỏa, che phủ)

(OC, Sa’a, S.E. Salomon, W.G, Ivens, 1929) (Robert Blust, Austronesian Etymologies, Oceanic Languistics, Vol. XIX, No 1 and 2, 1980. tr. 101).

Mã Lai ngữ kelam là dark (tối, đen, đậm, thâm), obscure (tối tăm, mờ mịt), malam là night (đêm), the darkness of night (tối đêm, đêm đen) và silam là darkness, nightfall (“màn” đêm rơi xuống). Tất cả đều có gốc –lam liên hệ với Việt ngữ lấm, lầm, lem, đậm, đêm, thâm nói ở trên.

Tóm lại rõ như hai năm là mười là lama là làn mây mù, lớp lam mù, l ù mù, lờ mờ, lóa mắt, bóng tối, tối tăm và từ lama viết trong Tân Ước gần cận với ngôn ngữ Nam Á và Nam Đảo hơn là hai từ của hai tác giả trên là lamat, lamah.

-sabac, zabac

Theo sự biến âm lịch sử trong Việt ngữ, âm b là âm cổ ví dụ các cụ chúng ta nói bồ hôi = chúng ta ngày nay thích nói mồ hôi, các cụ nói bồ hóng = chúng ta nói mồ hóng, các cụ nói thuốc bồi = chúng ta nói thuốc mồi... như thế ta có sabac là dạng cổ của Việt ngữ samac. Khoảng hai ngàn năm trước, Chúa nói sabac, chúng ta ngày nay nói samac.

.Nếu coi samac là hai từ riêng rẽ là sa và mac

-sa, sà là rơi xuống, đổ xuống như sa xuống, sà xuống.

-mac là mặt (cũng nên biết là người Trung Nam ngày nay cũng thường phát âm c thay cho t, viết chính tả hay lầm c với t).

Samac là sa, sà xuống mặt.

.Nếu coi samac chỉ là một từ

Samac có sam- là sâm, sẩm, xẩm, sầm hàm nghĩa tối, đen như sâm sẩm tối, lúc xẩm tối, tối sầm lại. Sâm, xâm, xẩm cũng có nghĩa là bị tối mắt lại tức bị xỉu, ngất như bị xây xẩm cả mặt mày, bị xâm (faint). Xẩm là mù, không thấy như thấy qua từ hát xẩm.

Như thế, samac có thể hiểu là tối đen đổ xuống mặt, bị xỉu, ngất. Vắn tắt sabac là samac là sa, sà (xuống), sa sầm (bóng tối đổ xuống) xuống mặt, mắt, bị sâm, xây xẩm.

-ta ni

Ta ni chính là Việt ngữ ta ni, ta nì, ta này, ta nầy, ta nè. Ta ni trăm phần trăm là tiếng Việt, một ngàn phần trăm là tiếng Việt, một triệu phần trăm là tiếng Việt. Ta ni là tiếng Việt đứt đuôi con nòng nọc. Khoảng hai ngàn năm hai từ ta ni không thay đổi trong tiếng Việt. Khoảng hai ngàn năm trước Chúa nói ta ni và ngày nay chúng ta cũng vẫn nói là ta ni.

Tóm lại, toàn câu nói “Hele, hele, lama sabac ta ni” = “Hỡi ơi! Hỡi ôi! làn mây mù sà xuống mặt ta nì” hay “Hỡi ơi! Hỡi ôi! làn mây mù sà xuống tối mặt ta nì” hay dịch thoát nghĩa là “Hỡi ơi! Hỡi ôi! ta đang bị xây xẩm, màn bóng tối che mặt ta nì”. Tổng quát, nghĩa của câu tiếng Việt rất ăn khớp với nghĩa của James Churchward và Don Antonio Batres Jaurequi đã dịch: “I am fainting, the darkness covers my face”. Nhưng tất cả mọi người phải công nhận với tôi là câu tiếng Việt chính thống và đúng nghĩa nhất.

Theo Việt ngữ hiện kim thì câu nói cuối cùng của Chúa Jesus trên thánh giá phải viết như sau “ Hoioi, hoioi, lanmay samat ta ni”.

Như thế rõ ràng Chúa Jesus đã nói tiếng Việt! Bây giờ, một câu hỏi lớn được đặt ra là Chúa đã học thứ ngoại ngữ này ở đâu?

Giáo sử của Thiên chúa giáo có ghi lại rằng Chúa Jesus đã “vắng bóng” một khoảng thời gian mà các tín đồ không rõ ngài đi đâu. Một tài liệu gần đây nói rằng Chúa đã viếng thăm vùng phía bắc Ấn Độ. James Churchward cũng xác nhận điểm này. Ông là một nhà khảo cổ học uyên bác đã từng lặn lội đến những vùng đất có những nền văn minh huy hoàng cổ nhất của nhân loại để nghiên cứu. Ông đã từng đến những vùng bắc Ấn, Hy Mã Lạp Sơn, Tây Tạng... để tìm tòi nghiên cứu về nguồn gốc văn minh loài người. Trong quyển Symbols of Mu ông đã viết:

“Một dịp, một lão tu Ấn Độ Rishi bảo cho tôi biết rằng truyền thuyết của ngôi đền có ghi rằng ‘Chúa Jesus, trong khi lưu lại ở một tu viện ở Himalaya, ngài đã nghiên cứu thứ tiếng thiêng liêng Sacred Inspired Writings, ngôn ngữ, chữ viết và và Vũ Trụ luận của vùng Đất Mẹ”. Đây là lý do James Churchward đã cho rằng câu nói cuối cùng của Chúa là thứ ngôn ngữ của vùng Đất Mẹ.

Như thế Chúa đã nói một thứ ngôn ngữ cổ vùng Đông Á mà địa bàn của cổ Việt là ở vùng Đông Á liên hệ với vùng Hy Mã Lạp Sơn thì hiển nhiên Chúa nói tiếng cổ Việt.

Tôi xin chứng minh có sự liên hệ giữa tiếng Việt và tiếng Naga-Maya Đông Á của James Churchward. Ở đây chỉ xin so sánh tiếng Việt với vài ba từ Naga-Maya Đông Á trong nhóm tự vựng của James Churchward.

-Ngôn ngữ Naga-Maya Đông Á có từ naga là rắn nước (nag- là nác, nước), một thứ rồng nước. Theo truyền thuyết chúng ta là dòng dõi Lạc Long Quân. Lạc Long là Rồng Nác, Rồng Nước là Naga, như thế dân Lạc Việt có gốc rồng nước liên hệ với Naga-Maya Đông Á châu của J. Churchward. Lạc Long Việt và Naga-Maya Đông Á cùng một dòng Naga-Rồng Rắn Nước, dòng nước, Mặt trời nước, dòng vũ trụ nòng (âm). Tiếng cổ Việt là tiếng Naga-Maya Đông Á hay liên hệ vời tiếng này.

-Từ Naga-Maya Đông Á châu keh có nghĩa là con hươu, người đầu tiên trên mặt đất (Keh ruột thịt với Pháp ngữ cerf là con hươu; với gốc Hy lạp ker-, sừng như keratitis, sưng màng sừng ở mắt). Keh chính là Việt ngữ kẻ (người như kẻ nào đó? vùng, đất cao, núi nổng. Kẻ nguyên thủy chỉ người tộc Hươu, người ở vùng đất cao, tộc núi như Kẻ Sặt, Kẻ Mau, Kẻ Trọng), ruột thịt với Hán Việt Kì là cây, sừng, vùng đất, con hươu nọc. Vua đầu tiên của chúng ta là Kì Dương Vương có Kì là Kẻ ruột thịt với Naga-Maya kek, con hươu, người đầu tiên. Kì Dương Vương là người đầu tiên của tộc Việt và của cả loài người đã lập ra nước đầu tiên của tộc Việt là Xích Quỉ cũng có tên mẹ đẻ là con hươu đực Lộc Tục (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

-Từ Naga-Maya Đông Á châu Mu là Me ruột thịt với Việt ngữ Mụ, Mẹ, Mệ, Mợ...

-Từ Maya Đông Á Menen (người) chính là Việt ngữ Man, Mán, Mường, Môn (người),

Như thế chỉ qua vài ba từ, ta thấy ngôn ngữ, truyền thuyết, cổ sử của Việt Nam liên hệ khắng khít ruột thịt với Naga-Maya ngữ.

Vậy Chúa nói tiếng Naga-Maya Đông Á thì Chúa cũng có thể nói tiếng Việt.

Như trên ta đã biết tiếng Naga-Maya Đông Á và tiếng Maya Trung Mỹ là hai ngôn ngữ chị em. Vậy tiếng Naga-Maya Đông Á liên hệ với Việt ngữ thì Việt ngữ cũng phải liên hệ với tiếng Maya Trung Mỹ. Tôi xin chứng minh. Có ít nhâ hai tác giả Việt Nam cho rằng có sự liên hệ giữa Việt Nam và Maya Trung Mỹ:

-Bình Nguyên Lộc trong “Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam” cho rằng Maya ngữ Trung Mỹ châu là tiếng Mã Lai đợt II. Có nhiều tác giả trong đó có Bình Nguyên Lộc đã chứng minh rằng có sự liên hệ giữa Việt ngữ và tiếng Mã Lai nằm trong nhóm ngôn ngữ Nam Đảo. Vậy thì tiếng Việt liên hệ với tiếng Maya Trung Mỹ.

-Triết gia Kim Định trong Việt Lý Tố Nguyên cho rằng Maya liên hệ với Bộc Việt. Bộc là Bọc là túi, nang. Bộc Việt là Nòng Việt, dòng âm, ngoại, dòng Vũ trụ, Hư Không âm.

-Tôi cũng nhận thấy giữa Maya và Việt Nam có một sự liên hệ mật thiết về văn hóa, cổ sử và ngôn ngữ. Họ là tộc thờ mặt trời thuộc dòng Nòng (tức Bọc, Bộc), dòng Vũ trụ Hư Không âm, dòng nước, dòng Mẹ Mặt trời. Hãy lấy một vài ví dụ để soi sáng.

-Từ Maya

Trước hết hãy tìm hiểu xem Maya nghĩa là gì? Theo các nhà nghiên cứu Maya Tây phương ngày nay, Maya có nghĩa là 'not many': “The name Mayapán, given to Maya New Empire which endured from A.D. 987 to 1697 means the 'Standard of the Not Many', from Maya (not many) and pán (standard). It was sometimes called Ichpa meanning 'within the closure', an exactly parallel idea on the Nahuaque as Lord of the Ring" (Irene Nicholson, Mexican and Central American Mythology, tr.123) (Tên Mayapán, đặt cho Tân Đế Quốc Maya kéo dài từ 987 đến 1697 sau công nguyên có nghĩa là "Tiêu chuẩn Không nhiều", do Maya là 'Không nhiều' và pán 'tiêu chuẩn'. Đôi khi cũng được gọi là Ichpa có nghĩa là "trong vòng kín", chính là ý nghĩa song song với Nahuaque, "Chúa Vòng"). Câu cắt nghĩa này thật là tối nghĩa và gần như là ngớ ngẩn. Đây là cách giải nghĩa đã đi lệch ra ngoài. Bây giờ ta thử dùng Việt ngữ và chữ nòng nọc để tìm nghĩa đích thực của tên tộc Maya xem sao. Đối chiếu với Việt ngữ ta thấy Maya (không nhiều) quả thật có nghĩa là Mấy (mấy cũng có nghĩa là không nhiều như sức mấy, mấy hơi, mấy kẻ... Mấy liên hệ với mỡ, mậu, mụ, mô có nghĩa là không có gì, xem dưới). Do đó Maya chính là Mấy, Không. Pán chính là Việt ngữ bản, buôn, mường chỉ người, chỗ ở, đất nước. Bản về sau cũng có nghĩa là căn bản, đơn vị gốc dùng làm tiêu chuẩn, các nhà nghiên cứu Maya hiện nay đã hiểu theo nghĩa standard là tiêu chuẩn này. Mayapán là Bản Mấy, Bản Không, Mường Mấy, Mường Không. Không có nghĩa là hư không, là Khôn, Nòng. Vì thế mà từ Mayapán có nghĩa đi đôi với Ichpa có nghĩa là "within the closure", là "quây kín", "Ring", "Vòng". "Lord of the Ring" là "Chúa Vòng". Ở đây ta phải hiểu theo chữ nòng nọc, theo vũ trụ giáo. Theo v=n, víu = níu, Vòng = Nòng. Vòng là Nòng, là Khôn tức ngành âm. Rõ như ban ngày là Maya là Mấy, Không mang ý nghĩa Vòng, Nòng, Khôn, Hư Không. Maya là một tộc thuộc ngành Nòng, Khôn âm, Nước trong vũ trụ taẹo sinh. Vì thế hình hai vòng tròn đồng tâm mang ý nghĩa hai nòng O là hai âm, thái âm, nước là biểu tượng chính của Maya như thấy ở các hình rắn cuộn tròn (rắn mang một ý nghĩa biểu tượng cho nước) và thấy rất nhiều ở các kiến trúc.

Kiến trúc hình hai vòng tròn đồng tâm và con Rắn-Lông Chim Kuckucan cuộn tròn thành hình hai vòng tròn đồng tâm ở sân chơi “bóng người” (Chichén Itzá, Cancun, Mexico, 2006).

Điều này cũng thấy rất rõ là nét nổi bật nhất của Maya là mặt trời của Maya là mặt trời âm và có cả mặt trời cõi âm và có biểu tượng là con báo (báo thuộc họ mèo biểu tượng cho dòng âm, nữ).

Theo duy dương Maya là một thứ Lạc Việt, theo duy âm là một thứ Âu Việt thuộc ngành nòng ở Mỹ châu (nên nhớ Thổ Dân Mỹ châu xuất phát từ vùng duyên hải Nam Á, xem dưới).

- Trong Maya ngữ, Maya ngữ có Ma- có nghĩa là Mẹ, chính là Việt ngữ Má, Mạ, Me, Mẹ, Mợ, Mụ. Nếu Ma đứng đầu từ tức là tiền tố thì Ma- có khi mang nghĩa phủ định (negation) có nghĩa là không, không có, chớ có (James Churchward, Land of Mu). Điểm này cũng giống như trong Việt ngữ có các cổ ngữ mựa, mỡ có nghĩa phủ định như thấy trong thơ Lê Thánh Tôn, thế kỷ 15:

Mỡ ểu áo vàng chẳng có việc.

Mỡ ểu có nghĩa là chớ có kêu ca (giải thích của Bùi Đức Tịnh, Văn Phạm Việt Nam, Xuân Thu, tr.237), mỡ là không; tiếng Huế mô (mô có = không có), Quảng Đông ngữ mụ, mậu (không), ểu biến âm với e (sợ), eo (sèo), mỡ ểu là chớ có e sợ, chớ có eo sèo.

.Maya có vật tổ là Kucucan là Rắn Lông Chim có Kucu- là chim cúc-cu (tú hú, biểu tượng cho gió), -can là chăn, trăn, rắn. Kucucan là Rắn-Chim, Rắn-Lông Chim, Rắn Gió (Thần Gió) tức là Rắn bay được tức là một loại naga, long, thuồng luồng, rồng. Hiển nhiên qua vật tổ này ta thấy rất rõ Maya Trung Mỹ cũng thuộc dòng âm Naga. Họ là Naga-Maya ổ Trung Mỹ. James Churchward đã chứng minh đúng.

.Maya ngữ ou (ếch) biến âm với oa, ếch.

.Ở trên ta đã biết Maya có nghĩa là Không, Vòng Kín, Chúa Vòng thuộc dòng Khôn âm nên họ có con số zero có hình con sò có hai răng mang hình ảnh Nữ Oa là “con ốc có hai ngà” (Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên). Theo truyền thuyết Nữ Oa có đuôi rắn là dòng nước, Nòng Khôn âmlà người đăn bà đầu tiên của nhân loại. Maya Trung Mỹ thuộc dòng Nòng, Không, Khôn âm đã lấy hình ảnh con ốc có hai ngà của Nữ Oa làm con số không zero. Như thế họ ruột thịt với Nữ Oa (điều này cũng cho thấy Nữ Oa không phải là của Trung Hoa, xem Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

. . . . . .

Cuối cùng một bằng chứng vững chắc và đáng tin cậy nhất là nghiên cứu di truyền học dựa trên DNA. Sự khảo cứu dựa trên DNA của Tiến sĩ J.Y. Chu chứng minh rằng con người Homo sapiens sapiens phát xuất từ đông châu Phi tới vùng Lưỡng Hà rồi đến Đông Nam Á. Ở đây, họ chia ra làm hai nhánh. Một nhánh đi lên phía Bắc tức Trung Hoa rồi vượt qua eo biển Bering qua Mỹ châu. Nhánh thứ hai đi xuống Nam Đảo ở Thái Bình Dương.

Khảo cứu này cung cấp một bằng chứng kiên cố là thổ dân Mỹ châu nói chung và Maya Trung Mỹ nói riêng phát gốc từ Đông Nam Á. Hiển nhiên Maya Trung Mỹ liên hệ với cổ Việt.

Như thế câu nói cuối cùng của chúa Jesus theo James Churward là tiếng Naga-Maya Đông Á châu và ta đã thấy rõ có liên hệ với tiếng cổ Việt. Theo James Churward tiếng Naga-Maya Đông Á châu và tiếng Maya Trung Mỹ là hai dòng “thuộc địa” của Đất Mẹ Mu mặc dù xa cách ngàn trùng nhưng tương thuận với nhau về mọi điểm (4). Như thế Việt ngữ ruột thịt với Maya ngữ Trung Mỹ. Mặt khác, theo Jaurequi câu nói cuối cùng của Chúa Jesus là tiếng Maya Trung Mỹ và ta đã thấy Maya là một thứ Bộc Việt, một thứ Việt dòng âm và sự khảo cứu của tôi cũng đã cho thấy câu nói của Chúa là tiếng Việt. Như thế thì rõ ràng như “con cua tám cẳng hai càng, một mai hai mắt rõ ràng con cua” là câu nói cuối cùng của Chúa Jesus là tiếng cổ Việt.

Nhìn tổng quát, tóm tắt lại, ta có thể làm một cái tam đọan luận đơn giản là:

-theo J. Churchward, Chúa Jesus nói tiếng cổ Đông Á (trong đó có tiếng Việ t hay tiếng Việt liên hệ với). Mặt khác tiếng cổ Đông Á liên hệ với tiếng Nam Đảo và tiếng Maya Trung Mỹ châu.

-theo Jaurequi, Chúa nói tiếng Maya Trung Mỹ châu và tiếng này liên hệ với tiếng Nam Đảo và tiếng Việt (Bình Nguyên Lộc).

Như thế chúa nói tiếng Việt là chuyện tất nhiên.

Kết Luận

Tóm lại câu nói cuối cùng của Chúa Jesus trên thánh giá là câu nói bằng một ngôn ngữ tối cổ của loài người, có thể hiểu qua ngôn ngữ Maya Đông Á châu của James Churward, qua ngôn ngữ Maya Trung Mỹ của Jaurequi và qua ngôn ngữ Việt của tôi. Chúa nói tiếng Việt. Dù gì thì qua câu nói này ta rút ra được một điều chắc chắn là tiếng Việt là một thứ ngôn ngữ nằm trong nhóm ngôn ngữ cổ nhất hay liên hệ với một thứ ngôn ngữ cổ nhất của loài người. Rõ ràng James Churchward cho tiếng Naga-Maya là “tiếng tối cổ”, Jaurequi cho tiếng Maya Trung Mỹ là “tiếng cổ nhất hiện biết đến” thì hiển nhiên Việt ngữ liên hệ với hai ngôn ngữ đó cũng phải là một ngôn ngữ tối cổ. Ta có thể so sánh tiếng Việt với bất cứ ngôn ngữ nào của loài người. Ta có thể dùng tiếng Việt để nghiên cứu bất kỳ một ngôn ngữ nào của loài người và ngược lại có thể dùng bất cứ một ngôn ngữ nào của loài người để nghiên cứu tiếng Việt.

Ta có thể dùng tiếng Việt để tìm ra nguồn gốc ngôn ngữ loài người (xem Việt Ngữ và Nguồn Gốc Ngôn Ngữ Loài Người trong Tiếng Việt Huyền Diệu).

Tài Liệu Tham Khảo

.James Churchward:

-The Lost Continent of Mu, 1969 Paperback Library Edition, Coronet Communications Inc.;

-The Childen of Mu, 1959 Compton Printing Works Ltd, London.

-The Sacred Symbols of Mu, Neville Spearman, London.

.Don Antonio Batres Jaurequi, History of Central America.

.Oppenheimer, Stephen, Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia, Phoenix, London, 1998.

.Irene Nicholson, Mexican and Central American Mythology.

.Robert Blust, Austronesian Etymologies, Oceanic Languistics, Vol. XIX, No 1 and 2, 1980.

.Bình Nguyên Lộc, Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam, Xuân Thu xuất bản.

.Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên, An Tiêm xuất bản 1970.

.Nguyễn Xuân Quang:

-Tiếng Việt Huyền Diệu.

-Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt Y Học Thường Thức xuất bản, 1999.

-Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa dân Việt, 2002.

Nguồn:vietnamreview.com

Share this post


Link to post
Share on other sites

Có lý nhỉ ? Như vậy Việt Ngữ của ta phải có trước Công Nguyên ?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Có lý nhỉ ? Như vậy Việt Ngữ của ta phải có trước Công Nguyên ?

Văn hóa Hòa bình có niên đại 8 nghìn năm, còn lưu lại dấu tích chữ Việt cổ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Người ta đã xác định một Kim Tự Tháp chìm xuống biển Nhật Bản, sau khi ông Stephen Oppenheimer viết cuốn địa đàng Phương Đông. Đây chính là miền Nam Dương Tử . Nơi thống trị của nến văn minh Văn Lang.

Tư Mã Thiên viết:

Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài này hay quá.

Ở đoạn này thấy có nói tới lục địa Mu và văn minh siêu nhiên của lục địa này mà tàn tích còn sót lại của nó chính là Kim Tự Tháp dưới biển Nhật Bản:

James Churchward gọi vùng đất Mu là Motherland, một vùng đất ở biển Đông ngày xa xưa còn có các cầu đất nối liền với Đông Nam Á, thuộc địa bàn của văn hóa Hòa Bình trong đó có cổ Việt.

Ngày nay vùng đất Mẹ “Mu” này đã chìm xuống biển. Cũng theo James Churchward, vùng đất Mẹ Mu này có một nền văn minh rất huy hoàng và là nguồn gốc của văn minh loài người. Cũng nên biết là gần đây (1998) một bác sĩ Nhi Khoa tên là Stephen Oppenheimer, trong quyển Địa Đàng ở Phương Đông hay Lục Địa đã Chìm Đắm ở Đông Nam Á (The Eden in the East, The Drowned Continent in Southeast Asia) cũng chứng minh rằng ở vùng biển Đông Nam Á trước đây có một lục địa gọi là Sundaland về sau bị nước biển dâng lên nhận chìm xuống. Stephen Oppenheimer cũng cho rằng Sundaland có một nền văn minh rất huy hoàng. Đất Mẹ Mu của James Churchward chính là Sundaland của Stephen Oppenheimer.

Như vậy đã xác định rõ hơn giả thuyết lục địa này đã chìm xuống đáy Thái Bình Dương cách nay khoảng 12000 năm và phần kiến tạo địa chất còn lại hoàn toàn khớp với miền nam sông Dương Tử và Biển Đông :

Mu có 64 triệu dân - một con số khổng lồ vào thời điểm nó tồn tại, cách đây 200 000 năm trước. Với hệ thống xã hội vô cùng tinh vi và phát triển, Mu biến tất cả các lục địa khác thành thuộc địa. Mu có nền khoa học vô cùng phát triển, nhiều kỹ thuật còn vượt xa cả những gì con người ngày nay tưởng tượng. Người dân Mu có những khả năng siêu nhiên. Họ có thể sống rất lâu, tới hàng trăm năm tuổi. Tuy nhiên 12000 năm trước một thảm họa đã nhấn chìm toàn bộ Mu xuống biển. Người dân trên lục địa phải di cư đi nơi khác. Họ đến các lục kia còn lại và sáng lập nên các nền văn minh khác sau này.

(Nguồn : http://kenh14.vn/c44/t11/20090203095646819...en-thoai-mu.chn )

Nhưng có một điều còn hơi thắc mắc là các ghi chép về sự biến mất của nền văn minh Maya - nền văn minh bí ẩn có mối quan hệ ngôn ngữ và vũ trụ quan khá tương đồng với văn minh Lạc Việt, vẫn không thống nhất (?!) Có thực sự là cho đến tận thế kỷ 15, tức thời điểm người Châu Âu đặt chân lên Châu Mỹ, người Maya mới dần dần bị tuyệt diệt không ?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bí ẩn lục địa huyền thoại Mu

03/02/2009 10:00:00

Nguồn: kenh14.vn

[Kênh 14] - Lục địa Mu được tương truyền là nằm trên 1trong 4 đại dương của Trái Đất. Tuy nhiên nó đã.... biến mất vào thời kỳ binh minh của loài người.

Remi (tổng hợp)

Tên gọi cũng như khái niệm về Mu được nhà du hành Augustus Le Plongeon đề xuất vào thế kỷ thứ 19. Augustus khẳng định rằng những nền văn minh cổ đại như Ai Cập hay Mesoamerica, thực chất được xây dựng nên bởi những người đến từ lục địa Mu - một lục địa nằm ở Đại Tây Dương.

Posted Image

Augustus Le Plongeon

Sau này khái niệm về Mu được mở rộng hơn bởi James Churchward (1851–1936). Tuy nhiên James cho rằng Mu nằm ở Thái Bình Dương chứ không phải Đại Tây Dương.

Posted Image

James Churchward

Ý tưởng đầu tiên về lục địa Mu xuất hiện sau khi Augustus Le Plongeon (1825–1908) tiến hành nhiều cuộc điều tra về nền văn minh cổ đại như Maya ở Yucatán. Ông khẳng định rằng những bút tích của người Mayan sau khi được dịch ra cho thấy, nền văn minh này còn lâu đời hơn cả nền văn minh Hy Lạp hay Ai Cập cổ đại. Ngoài ra, nó còn cho thấy trước đó có một lục địa còn cổ xưa hơn những lục địa mà con người từng biết tới. Le Plongeon đã chọn cái tên "Mu"- có nghĩa là tai họa để ám chỉ sự biến mất của lục địa này. Thực ra đây là một cái tên do ông dịch sai từ một văn bản cổ. Le Plongeon cũng cho rằng Mu nằm ở Đại Tây Dương, một thảm họa nào đó đã nhấn chìm nó xuống làn nước sâu thẳm.

Posted Image

Văn bản bị dịch nhầm

Posted Image

Bản vẽ tay chỉ ra vị trí của lục địa huyền bí

Người tiếp theo nhắc đến Mu - James Churchward - lại có cách nghĩ khác. Ông khẳng định rằng “hơn 15 năm trước” (thời điểm ông ta nói) khi ông còn là một quân nhân ở Ấn Độ, ông đã kết bạn với hai vị hòa thượng – những người cho ông xem hai tấm phù điêu đất sét cổ. Người ta cho rằng có thể nó được viết bằng ngôn ngữ "Naga-Maya ". Thứ ngôn ngữ này chỉ có 2 người ở Ấn Độ đọc được. Sau khi nghiên cứu thứ ngôn ngữ kỳ lạ, Churchward phát hiện ra rằng chúng có xuất xứ từ lục địa huyền thoại. Theo những nghiên cứu của Churchward, Mu nằm ở Thái Bình Dương.

Mu có 64 triệu dân - một con số khổng lồ vào thời điểm nó tồn tại, cách đây 200 000 năm trước. Với hệ thống xã hội vô cùng tinh vi và phát triển, Mu biến tất cả các lục địa khác thành thuộc địa. Mu có nền khoa học vô cùng phát triển, nhiều kỹ thuật còn vượt xa cả những gì con người ngày nay tưởng tượng. Người dân Mu có những khả năng siêu nhiên. Họ có thể sống rất lâu, tới hàng trăm năm tuổi. Tuy nhiên 12000 năm trước một thảm họa đã nhấn chìm toàn bộ Mu xuống biển. Người dân trên lục địa phải di cư đi nơi khác. Họ đến các lục kia còn lại và sáng lập nên các nền văn minh khác sau này.

Churchward chỉ ra rằng Mu nằm trải dài từ phía nam Hawaii cho tới đảo Fiji và đảo Phục Sinh.

Tuy nhiên, một sai lầm của Churchward đó là ông không bao giờ công bố những bản dịch của mình trong các cuốn sách. Do vậy người ta không thể coi những gì ông nói là dựa trên cơ sở khoa học.

James đặt giả thuyết Nan Modal, trên đảo Pohnpei, Nam Thái Bình Dương rất có thể là một trong 7 thành phố của Mu. Điểm đặc biệt của thành phố này là tuy được xây dựng bằng đá, những gần thành phố không có mỏ đá nào cả. Người ta đặt câu hỏi làm thế nào mà những tảng đá được di chuyển đến đây. Có người nói rằng người trên Mu đã sử dụng ma thuật bóng tối nhưng chưa nói đến chuyện họ dùng gì, bởi các giám định cacbon sau này cho thấy niên đại của những viên đá là khoảng 1200 sau Công nguyên, nghĩa là chả liên quan gì tới Mu cả.

Posted Image

Nan Modal

Năm 1985 gần hòn đảo Yonaguni, Nhật Bản, người ta tìm thấy một kim tự tháp bậc thang lớn. Giáo sư Masaki Kimura, thuộc đại học Ryukyu, Okinawa, cho biết nó rộng tới 183 mét và cao 27 mét.

Posted Image

Nó có cách đây khoảng 3,000 tới 8,000 năm. Một số nhà nghiên cứu cho rằng nó có thể là tàn tích còn sót lại của Mu.

Tháng 12 năm 2000, một đội tìm kiếm đến từ Viện công nghệ hải dương quốc gia (NIOT) khẳng định rằng họ đã tìm thấy phần còn lại của một thành phố khổng lồ chìm dưới nước ở vịnh Cambay, phía tây bờ biển Ấn Độ. Một năm sau, những cuộc tìm kiếm tiếp tục chỉ ra một loạt các công trình khổng lồ, nhiều đồ gốm, các bức tường, nhiều chuỗi hạt, xe cộ lẫn những mảnh xương người. Các giám định cho thấy những đồ vật và di tích trên xuất hiện vào khoảng thời gian 7500 năm trước Công nguyên, nghĩa là sớm hơn 4000 năm so với nền văn minh cổ nhất được biết tới ở Ấn Độ. Vậy nền văn minh đó là gì? Mu chăng? Cho tới giờ phút này, sự tồn tại của Mu cũng như những nghiên cứu về nó còn rất nhiều điểm tranh cãi. Bạn có thể tìm thấy hàng trăm trang tài liệu về Mu, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tranh cãi mà thôi. Mu vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất của mọi thời đại.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bí ẩn lục địa huyền thoại Mu

03/02/2009 10:00:00

Nguồn: kenh14.vn

[Kênh 14] - Lục địa Mu được tương truyền là nằm trên 1trong 4 đại dương của Trái Đất. Tuy nhiên nó đã.... biến mất vào thời kỳ binh minh của loài người.

Remi (tổng hợp)

Tên gọi cũng như khái niệm về Mu được nhà du hành Augustus Le Plongeon đề xuất vào thế kỷ thứ 19. Augustus khẳng định rằng những nền văn minh cổ đại như Ai Cập hay Mesoamerica, thực chất được xây dựng nên bởi những người đến từ lục địa Mu - một lục địa nằm ở Đại Tây Dương.

Posted Image

Augustus Le Plongeon

Sau này khái niệm về Mu được mở rộng hơn bởi James Churchward (1851–1936). Tuy nhiên James cho rằng Mu nằm ở Thái Bình Dương chứ không phải Đại Tây Dương.

Posted Image

James Churchward

Ý tưởng đầu tiên về lục địa Mu xuất hiện sau khi Augustus Le Plongeon (1825–1908) tiến hành nhiều cuộc điều tra về nền văn minh cổ đại như Maya ở Yucatán. Ông khẳng định rằng những bút tích của người Mayan sau khi được dịch ra cho thấy, nền văn minh này còn lâu đời hơn cả nền văn minh Hy Lạp hay Ai Cập cổ đại. Ngoài ra, nó còn cho thấy trước đó có một lục địa còn cổ xưa hơn những lục địa mà con người từng biết tới. Le Plongeon đã chọn cái tên "Mu"- có nghĩa là tai họa để ám chỉ sự biến mất của lục địa này. Thực ra đây là một cái tên do ông dịch sai từ một văn bản cổ. Le Plongeon cũng cho rằng Mu nằm ở Đại Tây Dương, một thảm họa nào đó đã nhấn chìm nó xuống làn nước sâu thẳm.

Posted Image

Văn bản bị dịch nhầm

Posted Image

Bản vẽ tay chỉ ra vị trí của lục địa huyền bí

Người tiếp theo nhắc đến Mu - James Churchward - lại có cách nghĩ khác. Ông khẳng định rằng “hơn 15 năm trước” (thời điểm ông ta nói) khi ông còn là một quân nhân ở Ấn Độ, ông đã kết bạn với hai vị hòa thượng – những người cho ông xem hai tấm phù điêu đất sét cổ. Người ta cho rằng có thể nó được viết bằng ngôn ngữ "Naga-Maya ". Thứ ngôn ngữ này chỉ có 2 người ở Ấn Độ đọc được. Sau khi nghiên cứu thứ ngôn ngữ kỳ lạ, Churchward phát hiện ra rằng chúng có xuất xứ từ lục địa huyền thoại. Theo những nghiên cứu của Churchward, Mu nằm ở Thái Bình Dương.

Mu có 64 triệu dân - một con số khổng lồ vào thời điểm nó tồn tại, cách đây 200 000 năm trước. Với hệ thống xã hội vô cùng tinh vi và phát triển, Mu biến tất cả các lục địa khác thành thuộc địa. Mu có nền khoa học vô cùng phát triển, nhiều kỹ thuật còn vượt xa cả những gì con người ngày nay tưởng tượng. Người dân Mu có những khả năng siêu nhiên. Họ có thể sống rất lâu, tới hàng trăm năm tuổi. Tuy nhiên 12000 năm trước một thảm họa đã nhấn chìm toàn bộ Mu xuống biển. Người dân trên lục địa phải di cư đi nơi khác. Họ đến các lục kia còn lại và sáng lập nên các nền văn minh khác sau này.

Churchward chỉ ra rằng Mu nằm trải dài từ phía nam Hawaii cho tới đảo Fiji và đảo Phục Sinh.

Tuy nhiên, một sai lầm của Churchward đó là ông không bao giờ công bố những bản dịch của mình trong các cuốn sách. Do vậy người ta không thể coi những gì ông nói là dựa trên cơ sở khoa học.

James đặt giả thuyết Nan Modal, trên đảo Pohnpei, Nam Thái Bình Dương rất có thể là một trong 7 thành phố của Mu. Điểm đặc biệt của thành phố này là tuy được xây dựng bằng đá, những gần thành phố không có mỏ đá nào cả. Người ta đặt câu hỏi làm thế nào mà những tảng đá được di chuyển đến đây. Có người nói rằng người trên Mu đã sử dụng ma thuật bóng tối nhưng chưa nói đến chuyện họ dùng gì, bởi các giám định cacbon sau này cho thấy niên đại của những viên đá là khoảng 1200 sau Công nguyên, nghĩa là chả liên quan gì tới Mu cả.

Posted Image

Nan Modal

Năm 1985 gần hòn đảo Yonaguni, Nhật Bản, người ta tìm thấy một kim tự tháp bậc thang lớn. Giáo sư Masaki Kimura, thuộc đại học Ryukyu, Okinawa, cho biết nó rộng tới 183 mét và cao 27 mét.

Posted Image

Nó có cách đây khoảng 3,000 tới 8,000 năm. Một số nhà nghiên cứu cho rằng nó có thể là tàn tích còn sót lại của Mu.

Tháng 12 năm 2000, một đội tìm kiếm đến từ Viện công nghệ hải dương quốc gia (NIOT) khẳng định rằng họ đã tìm thấy phần còn lại của một thành phố khổng lồ chìm dưới nước ở vịnh Cambay, phía tây bờ biển Ấn Độ. Một năm sau, những cuộc tìm kiếm tiếp tục chỉ ra một loạt các công trình khổng lồ, nhiều đồ gốm, các bức tường, nhiều chuỗi hạt, xe cộ lẫn những mảnh xương người. Các giám định cho thấy những đồ vật và di tích trên xuất hiện vào khoảng thời gian 7500 năm trước Công nguyên, nghĩa là sớm hơn 4000 năm so với nền văn minh cổ nhất được biết tới ở Ấn Độ. Vậy nền văn minh đó là gì? Mu chăng? Cho tới giờ phút này, sự tồn tại của Mu cũng như những nghiên cứu về nó còn rất nhiều điểm tranh cãi. Bạn có thể tìm thấy hàng trăm trang tài liệu về Mu, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tranh cãi mà thôi. Mu vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất của mọi thời đại.

theo tui nghĩ thì câu cuối cùng là ngôn ngữ xưa nhất hoặc là xa nhất trong tương lai , khi con người có thể sống lại và quay về quá khứ cứu độ chúng sanh . khi đó tất cả nói chung 1 ngôn ngữ là ngôn ngữ này

câu này gần giống : "Yết đế Yết đế .Bà la Yết đế Bà la tăng yết đế . Bồ Đề tát bà ha . Qua rồi Qua rồi, hoàn toàn qua rồi . Tất cả hoàn toàn qua rồi . Ôi giải thoát . " trong bát nhã ba la mật đa tâm kinh .

vì tất cả bồ tát khi thành phật đều luôn biết niệm và trì chú kinh này. nghiên cứu thêm về gốc câu này các bạn có thể dùng google serch .

chứng minh :

trong kinh ghi :" Này Kim Cang Huệ! Ngươi đừng lấy làm ngạc nhiên, Vô Biên Quang Bồ tát kia nào phải ai xa lạ, chính là ta ngày trước đó! Còn bốn vị Bồ tát chưa thành Phật tức là Văn Thù Sư Lợi, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí và Kim Cang Huệ nhà ngươi đó!" trước lúc nhập niết bàn Thích ca mâu ni bảo văn thù sư lợi bồ tát sẻ thành Di-lặc kế tiếp trong vòng 32 tiểu kiếp . Di lặc rõ ràng là Jesus . sắp tới chúng ta hãy hoan hỹ đón người phụ nữ tuyệt vời nhất Quán Âm Bồ Tát nói pháp và đắc đạo . cũng theo 6 phép ba la mật vô sỡ úy này .

mặc khác ta có : tâm dũng mãnh như Jesus sao có chuyện than vãn như các nhà khoa học rằng : bóng tối trùm xuống mặt ...hoặc chúa ơi sao nỡ bõ con ?... vâng vâng???

thêm vào đó trước khi lên thập tự Chúa Jesus đã nhìu lần cầu nguyện và dùng ngôn ngữ này mà các vị khác cho rằng đây là chúa Jesus dùng ngôn ngữ lạ , hoặc tiếng lạ ...

các việc khác các vị trí thức có thể tìm ở google. vì mình chẳng tiện bê hết lên đây đàm phán ,đây chỉ là theo thiển ý của mình có gì các bác chỉ giáo thêm với.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đúng vậy, chỉ là theo bạn nghĩ thôi :D

theo tui nghĩ thì câu cuối cùng là ngôn ngữ xưa nhất hoặc là xa nhất trong tương lai , khi con người có thể sống lại và quay về quá khứ cứu độ chúng sanh . khi đó tất cả nói chung 1 ngôn ngữ là ngôn ngữ này

câu này gần giống : "Yết đế Yết đế .Bà la Yết đế Bà la tăng yết đế . Bồ Đề tát bà ha . Qua rồi Qua rồi, hoàn toàn qua rồi . Tất cả hoàn toàn qua rồi . Ôi giải thoát . " trong bát nhã ba la mật đa tâm kinh .

vì tất cả bồ tát khi thành phật đều luôn biết niệm và trì chú kinh này. nghiên cứu thêm về gốc câu này các bạn có thể dùng google serch .

chứng minh :

trong kinh ghi :" Này Kim Cang Huệ! Ngươi đừng lấy làm ngạc nhiên, Vô Biên Quang Bồ tát kia nào phải ai xa lạ, chính là ta ngày trước đó! Còn bốn vị Bồ tát chưa thành Phật tức là Văn Thù Sư Lợi, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí và Kim Cang Huệ nhà ngươi đó!" trước lúc nhập niết bàn Thích ca mâu ni bảo văn thù sư lợi bồ tát sẻ thành Di-lặc kế tiếp trong vòng 32 tiểu kiếp . Di lặc rõ ràng là Jesus . sắp tới chúng ta hãy hoan hỹ đón người phụ nữ tuyệt vời nhất Quán Âm Bồ Tát nói pháp và đắc đạo . cũng theo 6 phép ba la mật vô sỡ úy này .

mặc khác ta có : tâm dũng mãnh như Jesus sao có chuyện than vãn như các nhà khoa học rằng : bóng tối trùm xuống mặt ...hoặc chúa ơi sao nỡ bõ con ?... vâng vâng???

thêm vào đó trước khi lên thập tự Chúa Jesus đã nhìu lần cầu nguyện và dùng ngôn ngữ này mà các vị khác cho rằng đây là chúa Jesus dùng ngôn ngữ lạ , hoặc tiếng lạ ...

các việc khác các vị trí thức có thể tìm ở google. vì mình chẳng tiện bê hết lên đây đàm phán ,đây chỉ là theo thiển ý của mình có gì các bác chỉ giáo thêm với.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay