Suachobe

Vì sao bà bầu thiếu hụt chất dinh dưỡng trong thai kỳ và những biện pháp cải thiện

1 bài viết trong chủ đề này

1.000 ngày đầu đời (từ khi bé được mang thai tới 2 tuổi và thời điểm tuổi dậy thì) được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhấn mạnh là giai đoạn hoàn hảo tăng trưởng chiều cao và thể chất. Thiếu hụt dinh dưỡng càng sớm đặc biệt từ thời điểm bào thai sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng lên sức khỏe và quá trình tăng trưởng của trẻ. Vậy phòng ngừa thiếu hụt dinh dưỡng trong thai kỳ như thế nào?

1. Hậu quả từ việc thiếu dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai
Thiếu dưỡng chất trong khoảng thời gian có thai sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mô não, thần kinh và sẽ không bao giờ hồi phục hoàn chỉnh được. Hậu quả của việc thiếu dưỡng chất trong thời kỳ mang thai sẽ phụ thuộc vào mỗi thời điểm thai kỳ:

  • Giai đoạn sớm thai kỳ: có thể khiến sảy thai.
  • Giai đoạn cấu thành những cơ quan của cơ thể: có thể gây dị tật bẩm sinh.
  • Giai đoạn cuối thai kỳ: chậm phát triển bào thai dẫn đến bé sinh ra có cân nặng chưa đến 2500g.

Khi lượng đạm ăn vào quá ít trong suốt thai kỳ thì số lượng tế bào của mô thai nhi sẽ suy giảm, trẻ sinh ra sẽ nhẹ cân và chiều dài không đạt mức tốt nhất theo tiềm năng di truyền cho phép.

Thiếu hụt chất đạm vô cùng nghiêm trọng cho não bộ vì sẽ gây ra sự chậm tăng trưởng không hồi phục.
Thiếu folate trong các tuần đầu thai kỳ sẽ dẫn đến dị tật ống thần kinh như nứt đốt sống và thiếu một phần não bẩm sinh. Ống thần kinh đóng không hoàn toàn là nguyên nhân gây nên bại liệt, não úng thuỷ... Ống thần kinh thường đóng lại vào khoảng ngày 24-28 của thai kỳ, đây là thời điểm nhiều phụ nữ chưa nhận biết mình mang thai vì vậy chế độ dinh dưỡng chưa được điều chỉnh thích hợp.

20200411_021307_110104_di_tat_bam_sinh.m

Thiếu hụt dưỡng chất trong thời kỳ mang thai không

chỉ tác động đến thai phụ mà còn khiến dị tật bẩm sinh ở trẻ

 

  • Thiếu hụt folate trong thời điểm cuối thai kỳ sẽ gây cho em bé kém tăng trưởng và bà mẹ mang thai có thể bị chứng thiếu máu hồng cầu to và các biến chứng trong thời kỳ mang thai như nhau bong non, xuất huyết.
  • Thiếu iốt trước và trong thời kỳ mang thai bé sinh ra sẽ ngu ngơ, nếu thiếu ít thì có thể dẫn đến chậm phát triển năng lực nhận thức & vận động của bé.
  • Tình trạng thiếu hụt vitamin A ở thai phụ sẽ gây sinh non, thai chậm phát triển và sơ sinh nhẹ cân.
  • Thiếu hụt sắt ở mẹ có thể làm gia tăng rủi ro chết chu sinh ở trẻ, sanh non, hoặc bé sinh ra nhẹ cân, mẹ có khả năng bị băng huyết sau sinh, chậm hồi phục sức khỏe, giảm sức  đề kháng.
  • Thiếu hụt kẽm ở bà bầu sẽ tác động đến chiều dài tiềm năng của bé.
  • Thiếu hụt vitamin D trong suốt thời kỳ mang thai sẽ dẫn đến rối loạn chuyển hoá canxi làm hạ canxi huyết, co giật do thiếu canxi, giảm sản sinh men răng của trẻ và chứng nhuyễn xương ở mẹ.
  • Bé sinh ra từ phụ nữ có chế độ dinh dưỡng không đủ vitamin B12 sẽ có nguy cơ cao bị chậm phát triển.

Khám phá ngay:
http://blog.livedoor.jp/suachobe_/archives/8270366.html 

2. Nhu cầu dưỡng chất cho phụ nữ mang thai
2.1. Năng lượng
Quan niệm bà bầu phải dung nạp lượng thức ăn gấp đôi là không chính xác vì ăn quá nhiều sẽ làm cho bà mẹ tăng cân quá mức cần thiết.
Trong 3 tháng đầu thai kỳ, nhu cầu năng lượng gia tăng không đáng kể. Vì vậy, ăn đa dạng và đầy đủ các dưỡng chất vẫn thiết yếu hơn là ăn thật nhiều. Thế nhưng, đối với bà mẹ trước khi mang thai gặp suy dinh dưỡng thì sẽ cần tăng năng lượng ăn vào tối thiểu là 150 kcal, tương đương với tăng 1-2 bữa phụ như uống thêm 1 ly sữa, ăn thêm hoa quả.
Trong 6 tháng sau thai kỳ, bà mẹ mang thai cần tăng thêm khoảng 300 kcal/ngày, tương đương ăn thêm 1 chén cơm cùng những loại thức ăn, dùng thêm 1-2 ly sữa, hoặc ăn 1-2 bữa phụ.

2.2. Chất đạm
Chất đạm từ chế độ ăn của mẹ sẽ được chuyển đến bào thai để tổng hợp chất đạm của thai. Lượng đạm dung nạp vào của mẹ sẽ ảnh hưởng lên chiều dài tiềm năng có thể có được của bào thai. Bà bầu cần bổ sung thêm lúc chưa mang thai khoảng 15g chất đạm mỗi ngày (nghĩa là phải cho vào chế độ ăn mỗi ngày khoảng 80-100 thịt hoặc cá, 2 cái trứng, hoặc 1 ly sữa và 1 miếng phô mai). Theo đó, mẹ bầu nên lựa chọn loại thực phẩm dồi dào đạm có giá trị sinh học cao như thịt, cá, trứng, sữa (hoặc các chế phẩm từ sữa), sản phẩm từ đậu nành... Thịt, cá, trứng còn là thức ăn giàu chất sắt, kẽm, vitamin A. Sữa còn có dồi dào canxi, photpho, vitamin A, vitamin nhóm B...

20190603_110004_914759_thuc-pham-giau-da
Chất đạm có thể tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm

2.3 Canxi
Canxi từ mẹ được chuyển đến thai để hình thành xương và răng. Ở 6 tháng đầu, mẹ bầu dự trữ canxi trong xương. Một phụ nữ duy trì dưỡng chất tốt trước mang thai sẽ dự trữ trên 1000g canxi để sử dụng. Khi hệ xương thai nhi phát triển làm nhu cầu canxi tăng cao trong 3 tháng cuối, thai nhi sẽ rút canxi từ nơi tích trữ của mẹ bầu. Do đó, nếu thai phụ không nhận đủ canxi từ thực phẩm thì sẽ có rủi ro cao bị hư răng và loãng xương về sau này. Nhu cầu canxi của bà bầu là 1000mg/ngày.
Một vài thức ăn dồi dào canxi bà bầu có thể thêm vào chế độ ăn hàng ngày như: sữa, chế phẩm từ sữa, rau xanh, đậu nành, cá nhỏ ăn luôn xương, tôm tép ăn cả vỏ. 1 ly sữa 200ml tăng cường khoảng 240 mg canxi.

2.4. Sắt
Bà mẹ mang thai cần lượng sắt rất lớn để chuyển đến thai nhi, hình thành bánh nhau, lượng máu của mẹ tăng thêm khi mang bầu, và bù đắp cho lượng sắt mất khi sinh nở. Tổng lượng sắt cần cho mẹ ở suốt thai kỳ là khoảng 840mg. Trên thực tế, hầu hết các bà mẹ khi mang thai đều không có đủ lượng sắt dự trữ cần thiết cho thai kỳ.
Sắt có trong thịt (đặc biệt là thịt đỏ như thịt heo, thịt bò), cá, lòng đỏ trứng, rau xanh, đậu đỗ. Sắt từ thức ăn nguồn gốc động vật sẽ dễ dàng hấp thu hơn sắt từ nguồn thực vật. Thế nhưng, nếu sử dụng thực phẩm dồi dào vitamin C cùng bữa ăn sẽ làm gia tăng hấp thu chất sắt từ thực vật. Ngược lại, trà, cà phê, ca cao sẽ ức chế hấp thu sắt từ thực vật do đó cần sử dụng cách xa bữa ăn.
Mặc dù mẹ bầu có thể dung nạp nhiều thực phẩm nhiều chất sắt nhưng vẫn không thể đáp ứng nhu cầu chất sắt tăng rất cao ở thai kỳ. Chính vì lý do đó , để bảo đảm đủ lượng sắt dự trữ cho mẹ, tăng cường đủ nhu cầu cho thai và ngăn ngừa thiếu hụt sắt ở mẹ, Viện dinh dưỡng khuyến nghị bà bầu nên uống thêm viên sắt bổ sung với liều 60mg sắt nguyên tố kết hợp 0,4mg acid folic hàng ngày từ khi phát hiện có thai tới ít nhất 1 tháng sau sinh.

20200618_091240_885185_bo-sung-vitamin-c

Chế độ ăn giàu sắt giúp mẹ bầu không bị thiếu máu


2.5. I-ốt
Bà mẹ cần nhận đủ i-ốt trong thời kỳ mang thai để tạo hormone tuyến giáp hỗ trợ phát triển hệ thần kinh trung ương của em bé. Iốt có thể được tăng cường cho cơ thể từ thức ăn chế biến từ vật nuôi, cây trồng trên đất giàu iốt. Tuy nhiên, nước ta là vùng bị thiếu iốt do đó vật nuôi, cây trồng cũng đều bị thiếu. Chính vì lý do đó, để ngăn ngừa thiếu hụt iốt một cách tốt nhất thì bà mẹ mang thai nên dùng muối iốt hàng ngày (nêm lạt) trong ăn uống và chế biến thực phẩm.

2.6. Kẽm
Bà bầu cần khoảng 15 mg kẽm từ chế độ ăn hàng ngày. Thiếu kẽm thường diễn ra ở các bà mẹ có chế độ ăn chủ yếu là ngũ cốc, ít thức ăn nguồn gốc động vật, nhiều chất ức chế hấp thu kẽm (phytate có trong thực phẩm nguồn gốc thực vật), hoặc bà mẹ bị bệnh đường tiêu hoá (viêm tá tràng, hỗng hồi tràng, giảm tiết dịch vị) ảnh hưởng đến hấp thu kẽm hoặc đa thai. Chính vì lý do đó, những bà mẹ này cần được bổ sung kẽm.
Kẽm có nhiều trong thực phẩm từ động vật, có rất ít trong thực phẩm từ thực vật (trừ mầm của các loại hạt).

20200212_074956_862008_thuc-pham-giau-ke
Thực phẩm giàu kẽm nên được bổ sung vào chế độ ăn uống


2.7. Vitamin A
Chế độ ăn của bà mẹ cần có thực phẩm dồi dào tiền sinh tố A (rau xanh đậm, củ quả vàng cam đậm) và vitamin A (thịt, cá, trứng, sữa). Cần đặc biệt thận trọng khi uống thuốc có chứa vitamin A cho bà bầu do vitamin A liều cao có thể làm dị tật ở thai nhi. Vitamin A cung cấp từ thực phẩm thường sẽ an toàn hơn và không đến mức gây hại. Tuy nhiên, bà mẹ mang thai không nên ăn quá nhiều gan vì gan có rất nhiều vitamin A.

2.8. Vitamin D
Vitamin D rất thiết yếu để tăng hấp thu canxi vào cơ thể. Bà mẹ cần thường xuyên ra ánh nắng mặt trời (buổi sáng sớm hoặc chiều muộn) để làn da được tiếp xúc ánh nắng giúp chuyển tiền vitamin D dưới da thành vitamin D. Đối với các bà mẹ không tiếp xúc ánh nắng trong suốt thời kỳ mang thai thì cần được tăng cường vitamin D. Mặc dù vậy, không nên dùng liều cao vitamin D trong suốt thai kỳ.

20191119_131820_650916_vitamin-d-1.max-1

Vitamin D rất cần thiết để tăng hấp thu canxi vào cơ thể


2.9. Folate và vitamin B12
Folate cần thiết để hình thành ống thần kinh của em bé trong các tuần đầu thai kỳ, giai đoạn sau folate cần cho quá trình phân bào, tăng trưởng và hình thành hồng cầu. Nhu cầu folate trong suốt thai kỳ là 400μg/ngày. Cung cấp đủ folate vô cùng quan trọng đối với thai phụ nhiều lần, thiếu máu mãn tính hoặc dùng thuốc chống co giật.
Điều khác nhau so với các chất dinh dưỡng khác là hiệu quả hấp thu folate suy giảm và bài tiết lại gia tăng trong thai kỳ. Đây là yếu tố quan trọng khiến cho thiếu hụt folate trong thai kỳ trở nên là vấn đề quan trọng đáng chú ý.
Có thể tăng cường folate trong khẩu phần bằng cách: lựa chọn ăn thực phẩm dồi dào folate (mầm lúa mì, gan, thận, đậu đỗ, các loại hạt, rau xanh, trái cây đặc biệt là cam, dâu tây, lê, dưa hấu), ăn thức ăn tăng cường folate, hoặc tăng cường acid folic ở dạng thuốc. Mặc dù vậy, nếu chỉ ăn thực phẩm có nhiều folate sẽ rất khó đạt được nhu cầu. Do đó, bên cạnh chế độ ăn thực phẩm chứa nhiều folate thì bà bầu cần được cung cấp khoảng 0,4mg acid folic mỗi ngày bằng thực phẩm được bổ sung acid folic hoặc thuốc bổ có acid folic.
Vitamin B12 cũng quan trọng trong quá trình phân bào và hình thành hồng cầu. Với các phụ nữ mang thai ăn chay trường rất cần được cung cấp vitamin B12, vì đây là một loại vitamin chỉ có ở thức ăn nguồn gốc động vật.

2.10. Nước
Bà bầu cần uống tối thiểu khoảng khoảng 2 lít nước hàng ngày để đủ nước cho tiêu hoá, hấp thu, chuyển hóa các chất dinh dưỡng, đào thải các sản phẩm chuyển hoá không cần cho cơ thể, và cũng để tránh táo bón. Bên cạnh nước chín, thai phụ nên chọn những loại thức uống tăng cường chất dinh dưỡng cần cho cơ thể để đạt nhu cầu khuyến nghị (nước trái cây tươi, sữa...).

20200616_045017_117525_voi-hoa-gan-3.max

Mẹ bầu đừng quên bổ sung nước mỗi ngày


2.11. Thuốc bổ
Các thai phụ có chế độ ăn không đủ nhu cầu dưỡng chất (như kém dung nạp lactose, ăn chay, ăn kiêng, hoặc đa thai) thì cần được bổ sung thuốc bổ đa sinh tố hay khoáng chất để giảm nguy cơ khiếm khuyết phát triển não bộ, cải thiện khả năng miễn dịch.

Tin liên quan:
https://community.cisco.com/t5/user/viewprofilepage/user-id/1116544 
https://www.awwwards.com/suachobe/favorites 

3. Chế độ ăn dành cho thai phụ được khuyến nghị
Để đảm bảo sức khỏe của mẹ cũng như hỗ trợ thai nhi phát triển khỏe mạnh thì mẹ bầu nên có chế độ dinh dưỡng như sau:

  • Ăn nhiều loại thực phẩm.
  • Nên ăn nhiều bữa để đạt nhu cầu dinh dưỡng.
  • Để đạt nhu cầu năng lượng, mỗi bữa nên ăn thêm 1 chén cơm (cùng với thức ăn) so với lúc chưa có thai.
  • Nhóm bột đường: gạo, nếp, mì, khoai... Nên chọn gạo tốt, không xát kỹ vì sẽ làm mất đi vitamin B1. Các loại khoai củ có ít chất đạm nên chỉ ăn thêm chứ không ăn thay bữa chính.
  • Thức ăn dồi dào đạm như thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa và những loại đậu, cụ thể thịt cá: 120-150g mỗi ngày. Một tuần nên ăn 2-4 lần thịt, khoảng 3 lần cá, hạn chế ăn gan. Trứng: 2-3 quả trứng mỗi tuần. Sữa: 2-4 ly mỗi ngày (ly 200ml), có thể thay thế bằng phô mai, yaourt. Không nên sử dụng nhiều sữa, yaourt quá ngọt do lượng đường quá nhiều sẽ không tốt.
  • Chất béo: nên sử dụng dầu thực vật và chỉ ăn vừa phải.

20191028_071433_727808_trai-cay-rau-qua.

Trái cây chứa nhiều vitamin có lợi cho mẹ bầu

 

  • Nên ăn nhiều rau và trái cây tươi hàng ngày, nhất là rau lá xanh đậm và củ quả vàng cam đậm. Khoảng 300g rau (tương đương 3 chén rau chín) và 2-3 phần trái cây mỗi ngày (1 phần trái cây tương đương 1 trái chuối, 1 trái cam cỡ vừa, 1 miếng đu đủ...)
  • Chất ngọt cũng chỉ ăn vừa đủ. Ăn nhiều thức ăn ngọt sẽ làm cho bà mẹ tăng cân nhiều nhưng vẫn có khả năng bị thiếu hụt các dưỡng chất cần thiết như chất đạm và các vi chất.
  • Dùng muối iốt trong ăn uống và chế biến thực phẩm (nêm lạt).
  • Uống nhiều nước (1,5- 2 lít nước mỗi ngày).
  • Hạn chế tối đa thức uống có cồn (rượu, bia).
  • Caffeine qua nhau có thể làm tăng nhịp tim và nhịp thở của em bé. Caffeine có trong cà phê, một số loại trà, nước ngọt có gaz, nước tăng lực, cacao... Bà bầu không nên uống quá 2 ly cà phê mỗi ngày.
  • Không hút thuốc lá (kể cả hít khói thuốc lá từ môi trường xung quanh): nicotine từ khói thuốc lá sẽ vào hệ tuần hoàn của mẹ, qua nhau thai làm ảnh hưởng đến cung cấp oxy cho em bé.

4. Các trường hợp đặc biệt
4.1 Nôn ói
Thường xảy ra vào những tháng đầu thai kỳ. Nếu trầm trọng sẽ dẫn đến thiếu chất đạm và năng lượng, chất khoáng, vitamin và điện giải. Khi đó cần chia nhỏ bữa ăn, chế độ ăn nên ít béo, ít gia vị và nhiều chất bột đường. Không nên uống nhiều cùng với bữa ăn. Nếu tình trạng này kéo dài thì cần nhập viện để được truyền dịch để tránh mất nước và điện giải.

20200625_004903_578094_image1.max-1800x1

Mẹ bầu có thể phải truyền nước nếu tình trạng nôn ói xảy ra thường xuyên


4.2. Nóng rát ngực
Thường trong giai đoạn sau của thai kỳ vì tử cung to gây áp lực lên dạ dày cùng với sự nới lỏng cơ vòng thực quản nên dịch tiêu hoá dễ trào lên thực quản gây nóng rát. Hiện tượng này sẽ giảm bằng cách ăn ít mỗi bữa, tăng số bữa ăn và không nên nằm ngay sau khi ăn. Tránh thức ăn béo, cà phê và nước uống có gas.

4.3. Táo bón và bệnh trĩ
Thường ở giai đoạn cuối thai kỳ vì suy giảm nhu động ruột, ít hoạt động thể lực và bởi vì tử cung to đè lên đại tràng. Các chứng này có khả năng suy giảm khi thai phụ ăn nhiều thực phẩm nhiều chất xơ như ngũ cốc không xát kỹ, rau và trái cây, uống nhiều nước. Nên uống 1 ly nước khi thức dậy vào buổi sáng.

4.4 Ngộ độc thực phẩm
Thỉnh thoảng tình trạng ngộ độc thức ăn xảy ra tác động nghiêm trọng đến thai nhi. Bà mẹ có thể phòng tránh bằng cách chú ý vệ sinh ăn uống, rửa kỹ rau quả, gọt vỏ trước khi ăn, rửa tay kỹ, sử dụng nước chín, không ăn thức ăn sống (thịt tái, gỏi cá sống, trứng lòng đào hoặc trứng sống, hải sản nướng...), tránh xa vật nuôi như chó mèo vì có thể nhiễm giun sán từ các thú cưng này.

20200528_025135_952720_khoai-tay-tuoi-co

Nên ăn chín uống sôi để tránh ngộ độc thực phẩm


4.5 Đái tháo đường thai kỳ
Đái tháo đường thai kỳ chủ yếu xuất hiện sau 20 tuần và thường tự khỏi sau khi sinh. Thai phụ cần ăn đủ nhu cầu, theo dõi đường huyết thường xuyên, giữ mức đường trong máu ổn định, phòng ngừa tình trạng cạn kiệt nguồn dinh dưỡng dự trữ. Thành phần những chất đạm : béo : chất bột đường trong chế độ ăn nên cân bằng ở mức 15 : 30 : 55% năng lượng.

4.6. Tăng huyết áp thai kỳ
Tăng huyết áp thai kỳ là một hội chứng bao gồm tăng huyết áp, đạm niệu, và phù nề. Xảy ra khoảng 7-8% thai kỳ và thường ở 3 tháng cuối thai kỳ. Tình trạng này làm giảm lượng máu đến tử cung gây ra thai bị kém nuôi dưỡng. Thai phụ cần được theo dõi sức khỏe thường xuyên để đảm bảo an toàn cho mẹ và em bé.

Nguồn tham khảo:
https://www.friso.com.vn/kinh-nghiem-hay/top-3-hien-tuong-chung-me-bau-dang-bi-thieu-dinh-duong-trong-thai-ky 
 

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay