PhongVan

Tìm ẩn số Tiên Rồng . . ? qua ngày giỗ Tổ Hùng Vương

3 bài viết trong chủ đề này

Tìm ẩn số Tiên Rồng . . ? qua ngày giỗ Tổ Hùng Vương

Từ lâu, lễ hội đền Hùng đã trở thành truyền thống dân tộc :

"Dù ai đi ngược, về xuôi..."

"Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba"

Đã là con dân nước Việt, hiển nhiên không thể nào lãng quên ngày hết sức đặc biệt ấy. Như cuộc hẹn thường niên, ngày để tất cả chúng ta Posted Imagenghiêm cẩn, đem hết tấm lòng thành cùng hướng về cội nguồn, vùng phát tích uy linh...

Là một ngày kỳ diệu, bất chấp mọi biên giới - đang hoặc đã - tồn tại trong các dòng nguồn tâm thức Việt...Từ ý thức hệ, cho tới tôn giáo, địa phương, sắc tộc, giới tính, và ngay cả các giai cấp xã hội, thân phận sinh tồn...Hết thảy - dẫu chỉ có hướng tâm về, hoặc bằng chính bước chân thật sự - đều tạm quên đi mỗi "cái tôi" riêng lẻ, mỗi thân thế thăng trầm để gặp nhau trong cuộc hành hương về cội nguồn dân tộc.

Trong không-thời-gian-vĩnh-cửu ấy, dù chỉ một ngày, ngay dưới chân anh linh chư Tổ : Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ và Thập bát thế Hùng Vương... Thêm lần nữa, bạn hãy nghe về huyền sử Rồng Tiên ? Vâng, mồng mười tháng ba. Những con số ngỡ như hết sức ngẫu nhiên ấy - thực ra - với tôi, chưa hẳn đã không ngầm nói lên điều cao sâu, huyền nhiệm...

Núi Nghĩa Lĩnh, nơi dường như để hậu duệ muôn đời sau biết choáng ngợp trước tầm cao của liệt tổ liệt tông. Là cơ hội để ai nấy đều cảm nhận sự thấp kém, cần hướng thượng của chính mình khi phải đến lúc quay lưng. Hạ sơn, bước thấp dần xuống núi...

Nếu chưa lần cảm nhận điều hiển nhiên ấy cũng có nghĩa, ta mất đi cơ hội để có thể soi lại và cải thiện những ý nghĩ sai lầm, rất có thể đã bắt nguồn từ tâm thức kiêu mạn. Vâng, Nghĩa Lĩnh thật sự là đền-đài-của-mọi-đền-đài trên tổ quốc. Là biểu tượng về đạo-đức-trước-hết-mọi-đạo-đức-Việt-Nam. Đạo lý cội nguồn Việt - trên hết - để kẻ đời sau thể hiện khi hành hương, đặt chân lên Nghĩa Lĩnh, phải chăng ? Là thật sự cúi đầu kính ngưỡng trước khí thiêng sông núi, trước anh linh chư Tổ từng hiển hiện mấy ngàn năm oanh liệt. Là nơi, cụ thể nhất để chúng ta hiểu thế nào là cảm xúc thực về hai tiếng "Ngàn thu".

Trước ý nghĩa vĩ đại của đền Hùng, không thái độ tôn vọng nào bằng chính sự im lặng thành khẩn trong mỗi tự thân hậu duệ. Là lúc tự nhìn rõ hơn, cái bóng chính ta - với gang tấc hữu hạn thế kia - cũng chỉ hân hạnh được nhập nhoà phút chốc bên sườn non vĩnh cửu. Lịch sử với những bước đi thăng trầm từng chuyển biến đến khôn lường, song khi ngược thời gian để tìm về nơi xuất phát, tất cả đều đồng quy nhất thể...Nhất thể trong ẩn số của Rồng Tiên.

Vâng, không mãi đắm chìm vào khói sương huyền sử để có thể - bạn cùng tôi - nhìn rõ hơn hai con số giản đơn..."Mồng mười tháng ba". Ngày giỗ Tổ Hùng Vương.

Lịch pháp và khâm thiên giám, hoặc các cơ quan có phần vụ tương đương - chuyên quan trắc thiên văn càn tượng, địa lý phong thuỷ - của nhiều triều đại lớn ở viễn đông (từ ngang nhà Châu trở xuống) đã cố định vào tháng đầu mỗi năm là tháng kiến dần. Và lần lượt, vì thế nguyệt kiến cho 12 tháng mỗi năm được lưu hành tuần tự :

Tháng giêng : kiến dần

Tháng hai : kiến mão

Tháng ba : kiến thìn

Tháng tư : kiến tỵ

Tháng năm : kiến ngọ

Tháng sáu : kiến mùi

Tháng bảy : kiến thân

Tháng tám : kiến dậu

Tháng chín : kiến tuất

Tháng mười : kiến hợi

Tháng (mười) một : kiến tí

Tháng chạp : kiến sửu

Giỗ Tổ tháng ba - tháng kiến Thìn. Tháng đã lấy hình tượng Rồng làm tiêu biểu. Linh vật tôn quý tối cao, một trong Thập nhị địa chi(mười hai con giáp...Cách nôm na, người bình dân thường gọi).

Địa chi hội ý trên mặt đất, nơi con người sinh ra để kết nên xã hội, nhân quần. Biểu tượng Rồng trong loài người còn có nghĩa vua hay hoàng đế. Vị quốc chủ đứng đầu một cõi để gìn giữ sơn hà, mở mang đất nước. Người bảo vệ tận tuỵ để xứng đáng được cai quản muôn dân.

Biểu tượng Rồng, tất yếu còn đi đôi "long đức". Để gánh vác thành công tất cả những trọng trách, bậc quốc chủ phải đích thật đem âu ca hoan lạc và rưới nhuần ơn mưa móc khắp nơi. Câu "Kiến long tại điền" hào từ trong quẻ thuần càn, tiêu chí phổ thông để đời sau khẳng định về "long đức"cơ bản nhất của một bậc quốc chủ...

Điền, là ruộng rẫy đất đai, cương thổ. Thứ vốn liếng tạo dựng nên bằng máu xương thế hệ, là sinh lực chủ chốt của đại bộ phận con dân dưới bóng của vì quốc chủ ấy. Hơn thế, đấy còn là danh dự chung dân tộc. Là lý-lẽ-của-mọi-lý-lẽ để cuối cùng thần phục được nhân tâm.

Lạc Long Quân, người mở đất vĩ đại. Kẻ miệt mài đi tìm về phía biển. Nơi cuối cùng của trăm sông giao hội, đổ về. Nền nông nghiệp lúa nước hoặc ngay cả việc chài lưới đều tựu trung vào chữ "thuỷ". Chữ mà loài Rồng gắn bó.

Rồng, xứng danh và oanh liệt khi vẫy vùng trên mặt thuỷ...

Rồng, vì vậy không thể không hướng mình về biển cả mênh mông.

Nhiệm vụ hay "long đức" tiên quyết của bậc quốc chủ vĩ đại nhất dân tộc căn bản đã hoàn thành. Lạc Long Quân vị vua Rồng về phía biển, lên đường...Đấy chính là mẫu mực đi trước, làm tin cho nòi giống Lạc Việt biết noi theo tiên tổ.

Ngày giỗ Tổ - mồng mười - còn mang ý nghĩa nào đặc biệt ?

Học thuật thiên văn cổ phương đông chia vòng hoàng đạo trên bầu trời tương ứng 28 chòm sao...Nhị thập bát tú : 1. Giốc, 2. Cang, 3. Đê, 4. Phòng, 5. Tâm, 6. Vĩ, 7. Cơ, 8. Đẩu, 9. Ngưu, 10. Nữ, 11. Hư, 12. Nguy, 13. Thất, 14. Bích, 15. Khuê, 16. Lâu, 17. Vị, 18. Mão, 19. Tất, 20. Chuỷ, 21. Sâm, 22. Tỉnh, 23. Quỷ 24. Liễu, 25. Tinh, 26. Trương, 27. Dực, 28. Chẩn.

Chòm sao Nữ theo thứ tự, ứng vị trí thứ 10 ngay trên vòng Hoàng đạo. Đấy là chòm sao trong Nhị thập bát tú mang thêm biểu tượng thứ hai hết sức đặc biệt - người nữ. Thông thường, sao Nữ cũng như 27 chòm sao khác, chỉ để biểu tượng các con vật như dơi, gà, khỉ, vượn...Đa số được đặt tên dựa theo phần hình dạng tương đối của chòm sao.

Thiên văn cổ, chuyên quan sát các hiện tượng của bầu trời. Các phân dã tương ứng dưới mặt đất, qua các chòm sao liên hệ là một trong bốn học thuật chính được kết hợp để các bậc đại trí dự báo lẽ thiên cơ (Dịch độn, Đẩu số, Thiên văn và Phong thuỷ ). Sao Nữ hay "người nữ trên trời" hàm ý bậc Tiên nương, Tiên nữ.

Ngày mồng mười ở đây như một thông điệp ngầm mang các đức tính tuyệt vời một bà Tiên trong tâm tưởng trẻ thơ : hiền dịu, an lành và che chở, thương yêu. Là kẻ luôn hiện ra bên những nỗi lòng hẫm hiu đầy ngang trái cuộc đời.

Bà tiên, tất nhiên không thể và không bao giờ hiện thân nơi đầy hạnh phúc, danh uy. Tiên luôn đứng về phía khổ đau và nước mắt. Đấy là sứ giả đặc biệt dành cho những nơi còn cách xa công bằng và chân lý.

Âu Cơ, sự bổ sung tuyệt hảo cho mặt luôn thiếu hụt của con người. Lòng nhân đạo hay là nghĩa đồng bào. Sự thiếu hụt ấy như một lẽ tất nhiên khi con người còn mãi mê "cái tôi", lo níu giữ đặc quyền đặc lợi của riêng mình. Một khi thụ hưởng nhắm chừng đã vượt quá công lao - thụ hưởng trên nhọc nhằn, tang thương kẻ khác - ấy là lúc lòng ích kỷ sẽ làm nên bất hạnh với đồng bào.

Bên cạnh Rồng, quyền và uy tối thượng. Dẫu là quyền uy thể hiện đích thực "long đức" của một bậc quốc chủ...Vẫn không thể thiếu Tiên để hoà điệu lẽ sống dân tộc. Vâng, đã tồn tại nam không thể nào thiếu nữ. Bên cạnh luật và lệnh của sức mạnh thế quyền, làm sao quên còn có đạo trời, tình người và máu thịt. Khi ba điều ấy không còn, đồng nghĩa với dân tộc mờ nhạt nghĩa Âu Cơ.

Nhưng tại sao ? Cuộc chia tay giữa quyền lực và tình người vẫn phải đã xãy ra "Ta, loài Rồng. Nàng, giống Tiên. Hai ta không cùng bên nhau mãi được". Vâng, nhất thiết đấy không phải là cuộc ly thân đớn đau hay sự chia rẽ đầy nước mắt đầu tiên trong sử Việt. Có chăng, đấy là bài học cổ xưa nhất mà Rồng và Tiên đem bản thân mình làm mẫu mực. "Hy sinh tự tư, tự lợi vì nghĩa lớn non sông". Là cuộc chia tay nhưng - không bao giờ - mang ngữ nghĩa chia lìa.

Rồng và Tiên. Luật lệnh và đạo trời, mỗi người một nhiệm vụ. Cuộc lên đường để cùng làm đẹp thêm tổ quốc. "Năm mươi con cùng cha xuống biển. Năm mươi con theo mẹ lên non". Đấy không phải chia ly để lụi tàn. Đấy là phân công, là hoà-tấu-khúc-của-Tiên- Rồng.

Núi, triệu cây rừng gom lại. Biển, trăm nước sông hợp nhất. Đi tìm ý nghĩa tối hậu cuộc chia tay giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân, cũng có nghĩa sẽ bắt gặp lại "Mộc bổn. Thuỷ nguyên" trong biểu tượng sau cùng. Chia tay, để đời sau gặp gỡ một nhà.

Ai hiểu được nghĩa lý "Đùm, bọc" và tại sao là "Trứng" ? Vâng, con số trăm nào khác gì trăm họ trong minh triết phương đông. Chừng ấy vừa đủ để ngụ ngôn quốc dân, bách tính. Sự hưng thịnh, đông đúc sẽ trở thành vô nghĩa khi "Đùm, bọc" không hiện hữu trong câu chuyện giống dòng. Phải chăng ? Kiến thức, cái nhìn trước hết khi mỗi "Trứng" nở thành con là khung trời Việt được ước lệ, được thu gọn qua "Đùm, bọc" kỳ diệu ấy.

"Nâng như nâng trứng. Hứng như hứng hoa". Huyền nghĩa vô cùng cao xa trong câu chuyện Rồng Tiên nhắc nhở bậc quốc chủ khi cai quản muôn dân. Dân cũng còn là "Trứng" mỏng...

Với đồng nghĩa "Con đỏ" trong Bình Ngô đại cáo, "Trứng" ở huyền sử Rồng Tiên kỳ diệu và tuyệt bút gấp nhiều lần chữ nghĩa Ức Trai Nguyễn Trãi. Vâng, Ức Trai luôn xứng đáng được kính trọng muôn phần. Là người đã - ở cả hai mặt, hiểu đủ và đánh đổi cuộc đời, sinh mạng ba dòng họ tru di - làm ý nghĩa cao xa nhất của huyền sử Rồng Tiên từ ngàn xưa, chói sáng...

Đã là huyền sử, huyền thoại...Ẩn số, chỉ có thể - một cách tương đồng, khế hợp - soi tìm qua Huyền học phương đông.

ST

Share this post


Link to post
Share on other sites

Con người ai cũng có thân xác, đó là cơ sở vật chất để sự sống tồn tại. Thân xác đó không thể tự ta mà có, nó có là do cha mẹ di truyền, đến lượt ta, ta lại trao truyền sự sống cho con, thành ra sự sống là một dòng tồn tục. Khi ta sống là cha mẹ ta đang sống. Khi ta chết ta vẫn còn sống nơi con ta, cháu ta.

Sinh huyết chảy mãi không ngừng từ vô thuỷ đến vô chung. Trân trọng sự sống, bảo tồn thân xác là bổn phận, là nhiệm vụ của con người vì thân xác đó không phải của riêng ta. Thân xác đó là của người trước, thân xác đó là của người sau. Thân xác đó cùng tồn tại với càn khôn, biến dịch cùng vũ trụ. Thế nên sống là tri ân. Sống là phải biết ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã cho ta sự sống. Đạo thờ cúng tổ tiên là đạo làm người. Người Việt Nam may mắn có chung một đạo, Đạo thờ cúng Ông Bà. Người Việt Nam còn may mắn hơn nữa khi có chung một Tổ để hướng về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một đền thờ Tổ để tri ân.

Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng: Đền Hùng.

Đền Hùng dựng trên núi Hùng

Sách Đại Nam nhất thống chí, phần tỉnh Sơn Tây viết: "Núi Hùng Vương ở xã Hy Cương, cách huyện Sơn Vi 12 dặm về phía đông, cũng gọi là núi Hy Cương, lại gọi là núi Bảo Thứu, hình thể tròn trĩnh xanh tốt lạ thường, Địa dư chí của Lê Đại Cương chép rằng: mạch núi từ núi Tam Đảo bổ xuống, kéo qua địa phận huyện Lập Thạch, xuyên qua sông Lô, đi qua địa phận các huyện Hùng Quan và Tây Quan kéo đến, ở phía tây núi non la liệt, ở phía đông có nước sông Đà lượn quanh, lại có các ngọn nước tụ hội ở ngã ba sông, thật là cục lớn về phong thuỷ" (1). Võ Văn Trực cực tả: "Núi Hùng vươn ra như một con rồng, đầu hướng về nam" (2) tr 419).

Núi Hùng cao 175m so với mặt biển. Núi còn nhiều tên gọi khác như Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương hay núi Cả. Núi Cả nhìn xuống làng Cả. Đời Lê, cư dân xã Hy Cương được ban làm con Cả, hằng năm giữ nhiệm vụ hương khói thờ phụng vua Hùng. Sách Ngọc phả Hùng Vương do Trực Học Sĩ Nguyễn Cố soạn năm 1470 có đoạn viết: "Phụng ban hương Trung Nghĩa (Cổ Tích) làm dân trưởng tạo lệ, cấp 500 mẫu ruộng tại xã Hy Cương, lại cho thu thuế ruộng của một vùng, trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới đến Việt Trì làm hương hoả phụng thờ". Hằng năm con trưởng chỉ có nghĩa vụ đi lính, còn được miễn thuế khoá, tiền thuế và ruộng chỉ để đèn nhang cúng lễ đền Hùng" (2) tr 380).

Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng ba:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba

Cả nước hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội Đền Hùng, 41 làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ. Trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới" (2) tr 382).

Nguyễn Thị Hạnh cho biết: "Xưa kia, việc cúng Tổ (cử hành) vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch)... Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch). Do đó ngày giỗ Tổ sau này mới là ngày 10 tháng 3 (âm lịch ) hàng năm. (2) tr 381).

Như thế ngày chính tế phải là ngày 12 tháng 3, ngày 10 tháng 3 chỉ là ngày quốc tế, ngày chính quyền Nhà nước đứng ra cúng tế. Và ngày 12 tháng 3 mới là ngày mang ý nghĩa của một thông điệp mà người xưa muốn gửi lại cho muôn đời sau.

Tại sao 18 đời Hùng Vương chỉ có một ngày lễ. Đồng ý đây có thể là hợp kỵ nhưng tại sao lại là ngày 12 tháng 3 mà không phải là ngày khác? Đây chắc không phải là ngày chọn lựa một cách tình cờ mà có dụng ý. Muốn giải mã được thông điệp của Tổ tiên; không thể chỉ dựa vào một sự kiện, vì như vậy người khác có thể cho là suy diễn, nhưng nếu vấn đề được giải đáp trong một hệ thống chúng ta không thể không quan tâm.

Chúng ta có thể đối chứng ngày giỗ Tổ Hùng Vương với ngày giỗ Tổ Phụ Lạc Long Quân và ngày giỗ Tổ Mẫu Âu Cơ. Ba ngày giỗ này có liên hệ mật thiết với nhau, thống nhất ý nghĩa trong cùng một hệ thống, tỏ rõ có bàn tay xếp đặt chứ không phải là ngẫu nhiên trùng hợp.

Trong sách Hùng Vương và lễ hội đền Hùng B.D.S cho chúng ta biết thêm một chi tiết khá quan trọng: ''Mãi gần đây chúng ta mới biết Lạc Long Quân được thờ tại Đình Nội, làng Bình Đà, huyện Thanh Oai, Hà Tây. Bình Đà có hai ngôi đình đẹp: Đình Nội (còn gọi là Đình Trong), Đình Ngoại (còn gọi là Đình Ngoài)... Dân làng Bình Đà tổ chức lễ hội từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 3 âm lịch. Ngày 6 tháng 3 là ngày chính hội, tương truyền đó là ngày sinh của Đức Lạc Long Quân (2) tr 371-373).

Theo Kinh Dịch, tính theo số Tiên-Thiên, quẻ Khảm hay còn gọi là quẻ Thuỷ đứng ở vị trí số 6, quẻ Ly hay còn gọi là quẻ Hoả đứng ở vị trí số 3. Vì vậy lấy ngày 6 tháng 3 để tưởng niệm Đức Lạc Long Quân là dựa vào tính chất của quẻ Khảm (số 6) và quẻ Ly (số 3). Hai quẻ này hợp lại là quẻ Thuỷ-Hoả-Ký-Tế, quẻ thứ 63 trong tổng số 64 quẻ Dịch.

Lạc Long Quân từng nói với Âu Cơ: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thuỷ tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng thuỷ hoả tương khắc, dòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia ly. Ta đem năm mươi con về thuỷ phủ, chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi xuống bể, hữu sự thì báo cho nhau biết" (Lĩnh Nam Chích Quái).

Lạc Long Quân tính thuỷ tương ứng với quẻ Khảm, loại quẻ dương. Âu Cơ tính hoả tương ứng với quẻ Ly, loại quẻ âm. Hai quẻ này âm dương tương hợp, tạo thành quẻ Ký-Tế. Hào cửu ngũ quẻ Ký-Tế là hào dương, biểu tượng cho vua, hào lục nhị quẻ Ký-Tế là hào âm, biểu tượng cho Âu Cơ, hai hào này là hai hào chính ứng với nhau.

Kinh Dịch chỉ có 8 quẻ đơn, từ quẻ Càn số 1 đến quẻ Khôn số 8, quẻ đơn không vượt quá số 8. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày 12 tháng 3, số 12 vượt quá giới hạn quẻ đơn, tuy nhiên ta biết rằng 12 là bội số của 6. Dịch lý luôn biến hoá, do đó số 12 vẫn hàm chứa số 6 nên ngày 12 tháng 3 về nội hàm vẫn là hoá thân của 6 tháng 3. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương và ngày giỗ Tổ Lạc Long Quân cùng có chung một ý nghĩa.

Quẻ Ký-Tế là quẻ duy nhất trong số 64 quẻ Dịch đạt đến độ lý tưởng hoàn chỉnh. Dịch quy định những hào ở vị trí số lẻ 1, 3, 5 phải là hào dương mới được kể là chính vị, nếu là hào âm thì gọi là thất vị (không đúng vị trí). Ngược lại những hào ở vị trí số chẵn 2, 4, 6 phải là hào âm mới được kể là chính vị, không đúng quy định đó gọi là thất vị. Số thứ tự của hào quẻ được tính từ dưới lên. Riêng hào 5 (hào cửu ngũ) còn được gọi là hào trung chính vì là hào dương mà lại là hào ở giữa quẻ ngoại. Cũng thế, hào 2 (lục nhị) còn được gọi là trung chính vì là hào âm và là hào ở giữa quẻ nội. Quẻ Ký-Tế,hào dương ở đúng vị trí dương, hào âm ở đúng vị trí âm được xem là quẻ chuẩn, chuẩn cho Dịch, chuẩn cho người, chuẩn cả cho trời đất vì đã đạt đến trung chính, nghĩa là đã đạt được Đạo. Trời đất trung chính thì mưa thuận gió hoà, xã hội trung chính thì cuộc sống yên ổn, thái bình. Cho nên toàn bộ Kinh Dịch, có thể nói như Nguyễn Hiến Lê: "Liệt kê ra thì cực phiền toái mà tổng hợp lại thì rất đơn giản chỉ gồm hai chữ trung chính như Trương Kỳ Quân đã nói: "Đạo lý trong thiên hạ (theo Dịch) chỉ là khiến cho việc không trung trở về chỗ trung, việc không chính trở về chỗ chính" (3) tr161). Nguyễn Văn Siêu nhấn mạnh trung không phải là lưng chừng, không phải là trung bình cộng mà trung là đạt đến chỗ chí thiện.

Phải chăng qua ngày giỗ 6/3 và 12/3 Tổ tiên muốn để lại cho con cháu muôn đời lời di huấn về phép trị nước an dân cốt sao đạt đến chỗ trung chính.

Đạo trị nước tất cũng là đạo giữ nước, đó chính là thông điệp của ngày giỗ Tổ Hùng Vương, giỗ Tổ Lạc Long Quân.

Ký-Tế là đã thành, đã xong, nhưng Vương-Bật trong Chu Dịch chú nói rằng: "Đã qua sông (ký tế) đừng quên lúc chưa qua sông (vị tế)'' (4) tr870). Vua Đường Thái Tông từng hỏi các cận thần: "Về sự nghiệp của đế vương, việc sáng lập và giữ gìn thành quả cái nào khó hơn". Nguỵ Trưng đáp: "Đế vương dấy nghiệp, tất thừa cơ lúc đời suy loạn, lật đổ bọn tàn ác hôn ám, trăm họ đều đồng lòng ủng hộ, bốn biển đều theo về, đó là lúc trời trao cho mệnh, do vậy việc đó không phải là khó. Nhưng sau khi đã được thiên hạ, chí thường kiêu ngạo phóng dật, trăm họ muốn được yên vui, nhưng sưu thuế nặng nề, muôn dân khổ sở điêu tàn, mà phải phục dịch cho việc ăn chơi xa xỉ không ngớt. Đất nước suy vong đều từ đó mà ra. Cho nên nói giữ vững thành quả là khó hơn nhiều" (4) tr 867). Ý của Tổ tiên muốn nhắc nhở người đời sau qua quẻ Ký-Tế: ai ai cũng nên làm tròn bổn phận, nhiệm vụ và chức năng của mình, giữ đúng kỷ cương vua ra vua, cha ra cha, con ra con thì gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển.

Lời di huấn này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, trống thiêng của dân tộc, gởi gắm trong biểu tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng. Mặt trời trên trống đồng có nhiều tia, có trống 8 tia có trống 10, 12 hoặc 14, 16 tia, nhưng đều là tia khắc nổi, đó là tia dương ứng với hào dương. Ngoài ra những tia nổi này còn tạo ra những tia chìm, đó là tia âm, ứng với hào âm. Cứ mỗi hào dương hào âm như thế nối nhau sẽ tạo ra những quẻ Ký-Tế chạy thành vòng tròn mặt trời giữa trống đồng. Ý nghĩa của mặt trời trên trống đồng và những con số ẩn trong ngày giỗ Tổ là nhất quán.

Ngày giỗ Lạc Long Quân, ngày giỗ Hùng Vương có chung một ý nghĩa, gắn bó nhau trong một hệ thống, thế còn ngày giỗ cũa Âu Cơ có chuyển tải ý nghĩa nào không?

Giỗ cha có nghĩa, giỗ con có nghĩa, lẽ nào giỗ mẹ lại không?

Sách Non Nước Việt Nam của Tổng cục Du lịch Việt Nam giới thiệu: "Đền thờ Mẹ Âu Cơ nằm giữa cánh đồng lúa của xã Hiền Lương (huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ), dưới tán lá của cây đa xum xuê toả bóng mát. Trong đền thờ tượng mẹ Âu Cơ đặt ở vị trí cao nhất. Bức tượng là một người mẹ hiền từ, đẹp như tiên, thông minh và phúc hậu. Tại đây còn thờ phụng con trai thứ hai của Mẹ, một vị tướng tài ba, trung hiếu, được tôn là ''Thượng Đẳng Thần".

Lễ hội Đền Âu Cơ tổ chức hàng năm vào ngày 7 tháng giêng âm lịch" (tr291).

Theo số Tiên Thiên, 7 là số thứ tự của quẻ Cấn còn gọi là quẻ Sơn, có tượng là núi. Tháng giêng số 1 là số thứ tự của quẻ Càn cũng gọi quẻ Thiên, có tượng là trời.

Mẹ Âu Cơ là mẹ tiên, người ở núi "Mẹ Âu Cơ dẫn 50 con lên núi". Dựa theo Dịch lấy ngày 7, quẻ Cấn, để tưởng nhớ mẹ là tiên nhân, cũng như Lạc Long Quân là cha rồng, người ở nước, nên lấy quẻ Khảm số 6 làm ngày tưởng niệm.

Quẻ Cấn và quẻ Càn hợp lại là quẻ Sơn-Thiên-Đại-Súc: 7/1

Quẻ trên là núi, quẻ dưới là trời, đây không phải là chuyện thực mà chỉ là hình ảnh biểu tượng: trời chứa trong núi, tượng trưng cho sự chứa đựng, tích góp lớn lao. Hình tượng này dành cho bậc thánh nhân, những người có thể làm nên những công trạng vĩ đại như Mẹ Âu Cơ. Đại tượng truyện đưa ra một ý rất thích hợp với nội dung câu chuyện chúng ta đang đề cập ở đây: "Đại-Súc, quân tử dĩ đa chỉ tiền ngôn vãng hành, dĩ súc kỳ đức". Việc súc tụ lớn lao, người quân tử nhân đó phải ghi nhớ nhiều ngôn luận và sự tích của các vị thánh hiền xưa, lấy đó để súc tụ mỹ đức cho mình (4) tr536). Tuy chỉ là ý kiến suy tưởng của người Trung Hoa nhưng từ ý này cũng giúp cho ta hình dung được sự phối hợp kỳ lạ giữa hai quẻ Ký-Tế và Đại-Súc, một bên là lời di huấn của cha, một bên là lời khuyên của mẹ, phải nhớ lời cha dặn.

Đại-Súc có nghĩa là súc tụ, súc dưỡng và súc chỉ.

Súc tụ là sự tập hợp vĩ đại, người lãnh đạo phải biết đoàn kết rộng khắp các hạng dân "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng". Tập hợp thành một khối kiên cường trong tình yêu thương rộng mở. Làm được công cuộc súc tụ, thì phải biết súc dưỡng, nuôi dưỡng nhân tài vật lực để phát triển, nhưng trong mọi hành động phải biết dừng lại ở chỗ chí thiện, phải biết chế ước, súc chỉ. Nếu không biết kiềm chế sẽ dẫn đến vọng động hỗn loạn.

Người xưa khi thiết kế những ngày hội lễ đã có những chủ đích nhất định. Phần hội để làm sống lại quá khứ, phần lễ để tạ ơn, nhưng hội lễ không chỉ dừng lại ở đó. Thông qua ngày giỗ Tổ, thông qua những con số, thông qua quẻ Dịch Tổ tiên ta còn có hoài bão muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Đó là nỗi lo muôn thuở, là tấm lòng bao dung, tha thiết, rộng mở của Chư Tổ còn vang vọng mãi khắp núi sông: "Hãy chôn ta trên núi Cả, để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu".

ST

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trong ngày Quốc giỗ 10/3 âm lịch, chiếc bánh chưng có trọng lượng gần 3 tấn kết từ sáu nghìn chiếc bánh chưng nhỏ sẽ được dâng lên vua Hùng.Về Đền Hùng trong những ngày giáp giỗ Tổ, đập vào mắt chúng tôi là núi rừng Nghĩa Lĩnh hùng vĩ, oai nghiêm. Trong không khí linh thiêng của ngày giỗ Tổ, Đền Hùng bừng lên vẻ tráng lệ, uy nghi, đón hàng nghìn người con đất Việt từ khắp mọi miền đất nước về thăm.Lễ hội Đền Hùng năm nay tưng bừng hơn với hệ thống cơ sở vật chất được xây dựng bề thế. Trong khu di tích có trung tâm lễ hội mở rộng với diện tích trên 200 ha, quảng trường lễ hội với hệ thống đèn chiếu sáng, màn hình lớn hiện đại có sức chứa hàng vạn người, trục hành lễ dài hơn 500m đều được lát đá…

Đặc biệt, Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân được khánh thành vào ngày 29/3 (tức 4/3 âm lịch) là một công trình kiến trúc và điêu khắc độc đáo mang tầm vóc của thời đại vua Hùng và thời đại Hồ Chí Minh.

Những lối đi dẫn vào khu di tích, lên các đền thờ đều sạch sẽ, thoáng mát. Trong mùa lễ hội năm nay, Ban quản lý khu di tích lịch sử Đền Hùng kiên quyết dẹp tình trạng bán hàng rong và chèo kéo khách thập phương về dự lễ hội; không để việc ăn uống, đặt lễ lạt trong đền diễn ra lộn xộn và tràn lan…

Ngày Quốc giỗ, chiếc bánh chưng có trọng lượng gần 3 tấn kết thành từ 6.000 chiếc bánh chưng nhỏ sẽ được dâng lê vua Hùng. Trong dịp này, ngoài tỉnh Phú Thọ sẽ có nhiều tỉnh, thành phố khác ở các vùng, miền trong cả nước tham gia góp giỗ Tổ và tổ chức lễ hội Đền Hùng như: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Lào Cai, Yên Bái, Đà Năng, TPHCM, Cần Thơ…

Các hoạt động lễ hội sẽ được tổ chức trong 7 ngày, trong đó: phần lễ tổ chức trong 2 ngày mùng 6 và 10/3 âm lịch; phần hội tổ chức 5 ngày từ mùng 6 đến 10/3 âm lịch. Các hoạt động hội trong giỗ Tổ Hùng Vương năm nay được tổ chức gắn với chương trình “Du lịch về cội nguồn”.

Trao đổi với PV Dân trí về công tác chuẩn bị phục vụ lễ hội, ông Nguyễn Tiến Khôi, Giám đốc Khu di tích lịch sử Đền Hùng cho biết: “Cho đến thời điểm này, các công trình tu bổ, tôn tạo và xây dựng mới đã cơ bản hoàn thành, vấn đề an ninh trật tự và công tác vệ sinh môi trường được đảm bảo tốt. Năm ngoái có 3 triệu lượt khách về dự lễ hội, năm nay chúng tôi dự kiến lượng khách sẽ lớn hơn thế. Chúng tôi đã sẵn sàng phục vụ cho ngày Quốc giỗ 10/3”.

Dưới đây là một số hình ảnh về không khí Đền Hùng những ngày giáp giỗ:

Posted Image

Posted Image

Từ cổng khu di tích đến các Đền thờ đều được chuẩn bị tươm tất và sạch sẽ

Posted Image

Posted Image

Những công đoạn xây dựng cuối cùng

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Nhiều khách thập phương đã về đất Tổ từ cuối tháng 2 âm lịch

Theo dântri

Share this post


Link to post
Share on other sites