phamthaihoa

Em hỏi một chút về ngày âm

10 bài viết trong chủ đề này

Trong luồng LVDT, em có tranh luận với anh Daohoa về lịch. Mỗi người dùng một công thức riêng. Tất nhiên cũng khác nhau ở một số ngày.

Cụ thể là 27/3/2009 Dương Lịch. Phần mềm của em tính ra là ngày 2/3 Âm năm Kỷ Sửu 2009 với múi giờ GMT +07 của Việt Nam. Khi em dịch sang múi giờ Trung Quốc là GMT+08 thì nó thành ngày 1/3 Năm Kỷ Sửu.

Công thức tính lịch anh Daohoa đưa ra thì ngày 27/3/2009 (múi giờ GMT+07) sẽ ra ngày 1/3 năm Kỷ sửu chứ không phải là mồng 2.

Em bắt đầu tham khảo các trang web tính lịch trên mạng xem nó tính thế nào. Tổng cộng 4 trang web.

Kết quả rất buồn cười là 2 trang web ra ngày 2/3, 2 trang web ra ngày 1/3, ngay cả các hệ thống xem ngày âm qua SMS cũng vậy, làm em không hiểu công thức nào là đúng nữa :lol:

Còn đây là ý kiến của một độc giả Vietnamnet: http://vietnamnet.vn/bandocviet/2006/08/600629/

Anh chị này có quyển Lịch Vạn Niên (loại nào chính xác ấy :rolleyes: ) tra hộ em cụ thể ngày 27/3/2009 là ngày bao nhiêu âm lịch để em hiểu chỉnh công thức với ạ.

Xin chân thành cảm ơn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thái Hòa thân mến

Ngày 27 tháng 3 năm 2009, nhằm ngày mùng 1 tháng Ba năm Kỷ Sửu, theo lịch Vạn Niên Dịch học phổ thông.

Năm 2006 hay 07 gì đó, cũng có một việc sai lệch trong Âm lịch, báo chí cũng ầm ĩ. Tôi cũng có phân tích về sai lầm của phương pháp tính Âm lịch theo cách lấy giờ Tây, tính lịch Tàu theo lối ta là một sai lầm. Gần đây, nhân đọc cuốn sách của ông - tôi có trao đổi với Giáo sư tiến sĩ Hoàng Tuấn về v/d Âm lịch, ông rất chú ý và đề nghị tôi gửi những tài liệu liên quan của tôi đến với ông. Nhưng vì thời gian lâu quá, tôi không biết lưu ở đâu. Kỳ này ra Hanoi tôi sẽ trực tiếp trao đổi về mọi vấn đề liên quan đến Âm lịch.

Nhưng quan điểm trước đây của tôi dẫn đến kết luận cho rằng:

Âm lịch bắt buộc phải sử dụng phương pháp nhất quán là: Giờ Tý Âm lịch phải bắt đầu từ 23 giờ đêm hôm trước đến hết 1 giờ đêm hôm sau theo giờ quy ước của Việt Nam - tức múi giờ thứ 7. Đây là mấu chốt của sự sai lệch giữa hai phương pháp tính lịch.

Kết luận của tôi trùng hợp với cách tính lịch của anh Đào Hoa.

Bởi vậy Thái Hòa lưu ý nên dùng công thức của anh Đào Hoa.

Đây là kết luận cuối cùng của tôi.

Là người sáng lập ra Lạc Việt độn toán. Bởi vậy Lạc Việt độn toán chỉ sử dụng Âm lịch theo phương pháp tính Âm lịch được coi là đúng , nếu phương pháp đó nhất quán trong ứng dụng đơn vị thời gian Âm lịch căn cứ vào múi giờ thứ 7 qui ước của Việt Nam.

Thiên Sứ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thái Hòa thân mến.

Ngoài bài viết trên tôi gửi lên đây một số ý kiến liên quan trong v/d Âm lịch đã có tranh luận vào tháng 2/ 2006 mà tôi mới sưu tầm được.

12 - 2 - 2006

Kính thưa quí vị quan tâm.

Dưới đây là một thông tin khác liên quan đến Âm lịch. Tư Liệu do ông Nguyễn Quang Thu - thành viên nghiên cứu của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương trình bày

Kính thưa anh em.

Theo quyển LỊCH VÀ LỊCH VẠN NIÊN - ÂM DƯƠNG LỊCH ĐỐI CHIẾU 1780 - 2060 của nhà nghiên cứu LÊ QUÝ NGƯU biên soạn; NXBVH DT - 2001.

Theo tác giả ngay lời nói đầu:

Hằng năm ở nước ta khi dử dụng phần Âm lịch đều tuân theo cách tính: "Căn cứ vào sự vận chuyển của mặt trăng trên quỹ đạo xung quanh trái đất và theo giờ kinh tuyến 105 độ Đông, được nhà nước công nhận, mà tính can,chi,năm,tháng, ngày, giờ cho lịch (QĐ 121/CP ngày 8 tháng 8 năm 1967 về cải cách lịch của HĐCP)".

"Hiện nay vẫn còn một số người chưa nắm vững các yếu tố tính toán lịch cho rằng lịch Âm của nước ta soạn không đúng. Thực ra, cả hai loại lịch Âm hiện đang lưu hành của Trung Quốc cũng như nước ta đều đúng, bởi vì cả hai đều tính toán dựa trên cơ sở của sự chuyển vận mặt trăng xoay quanh quả đất và qua đường kinh tuyến của mỗi nước về mặt địa lý thực tế".

"Ở nước ta hiện nay dùng hệ lịch Dương lịch theo cách tính lịch (Gregorius như các nước trên toàn thế giới). Còn Âm lịch theo cách tính cổ Trung Quốc, tức lấy tháng mặt trăng làm gốc để tính nhưng theo chu kỳ vận chuyển qua đường kinh tuyến 105 độ Đông. Tức 7 giờ GMT (Trung Quốc ở kinh tuyến 120 độ Đông, tức 8 giờ GMT), như vậy khi ở nước ta mới 23 giờ 00 hôm nay, thì ở Trung Quốc đã là 00g 00 của ngày hôm sau rồi. Nếu ngày hôm đó lại ngày cuối tháng hoặc cuối năm, thì ta còn ở tháng này hoặc năm này, còn ở Trung Quốc đã là tháng sau hoặc năm sau rồi. Việc chênh lệch nhau một giờ sẽ dẫn tới có lúc khác ngày, khác tháng, khác năm. Sự chênh lệch về ngày tháng giữa lịch Âm Việt Nam và lịch Âm Trung Quốc là có cơ sở ở sự tính toán khoa học. Vì vậy trong lúc biên soạn chúng tôi có tham khảo tới "Lịch Việt Nam 1901 - 2010" của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 1992 để độc giả đối chiếu tham khảo thêm. Dựa vào cách tính này với chỉ trong thời gian 43 năm (kể từ 1968 - 2010) sẽ có 34 tháng thiếu đủ khác nhau, 29 tiết khác nhau, 2tháng nhuận khác nhau (năm Giáp Tý 1984 và năm Đinh Mão 1987) với 4 ngày Tết Nguyên đán khác nhau".

"Bởi vậy ở nước ta nhiều năm ăn Tết sớm hơn 1 ngày khác với Trung Quốc như Tết năm Mậu Thân (1968), Tết năm Kỷ Dậu (1969); hoặc ăn tết sớm hơn 1 tháng như tết Ất Sửu (1985) là điều không có gì lạ. Do đó, trong tập này từ năm 1968 tới năm 2010 chúng tôi có ghi nhận lại sự khác nhau giữa các tháng ấy để có sự so sánh".

Ông Nguyễn Quang Thu có nhận xét khái quát:

Tôi có xem qua thì thấy tác giả dẫn chứng, so sánh, phân tích tìm nguyên nhân về lịch Việt giống và khác lịch Tầu qua nhiều triều đại từ Lý, Trần, Lê, Nguyễn và hiện nay. Và cũng là nguyên nhân khi các nhà nghiên cứu lấy lịch Tầu tra xem Lịch sử Việt về niên biểu thì không trùng, rồi lại cho Sử Việt chép sai, nhưng khi áp lịch Việt thì trùng khớp.

Xin chép giới thiệu đến anh em quan tâm.

Người viết: Nguyễn Quang Thu

Thiên Sứ giới thiệu

*

12 - 2 - 2006

Kính thưa quí vị quan tâm.

Dưới đây là một bài viết khác của ông Karajan, một thành viên nghiên cứu thuộc Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương, để quí vị quan tâm tham khảo:

TƯ LIỆU THAM KHẢO

1) Các tháng của âm lịch có ngày bắt đầu tính từ nửa đêm của ngày diễn ra sóc thiên văn tính theo múi giờ địa phương.

2) Mỗi năm có 12 tháng thông thường, được đánh số nối tiếp từ 1 đến 12. Cứ hai đến ba năm lại có năm có tháng nhuận, tháng này có cùng cách đánh số như tháng trước đó (nó có thể xảy ra sau bất kỳ tháng nào? - điều này bản tiếng Anh có lẽ không đúng vì người ta quy định các tháng 11: Tý, 12 :Sửu, 1: Dần không được tính nhuận). Xem thêm quy tắc 6

3) Cứ mỗi một tiết khí chính của lịch mặt trời Trung Quốc tương đương với điểm mà mặt trời đi vào trong cung hoàng đạo (trung khí). Có 12 trung khí là vũ thuỷ, xuân phân, cốc vũ, tiểu mãn, hạ chí, đại thử, xử thử, thu phân, sương giáng, tiểu tuyết, đông chí, đại hàn.

4) Mặt Trời phải luôn đi qua điểm đông chí (tức là đi vào cung Ma Kết hay Capricorn) trong tháng 11 âm lịch.

5) Nếu có 13 tháng âm lịch giữa hai tháng 11 âm lịch kế tiếp, ít nhất có một tháng là tháng mà khi đó mặt trời chỉ nằm hoàn toàn trong một cung hoàng đạo. Nếu chỉ có 1 tháng như vậy thì nó là tháng nhuận, nếu có 2 tháng như vậy trở lên thì chỉ có tháng đầu tiên là nhuận (có ngoại lệ, xem mục 6 dưới đây).

6) Không được tính nhuận các tháng Tý, Sửu, Dần. Nếu trong các tháng này có một tháng nào không có trung khí thì nó vẫn không bị tính là nhuận của tháng trước đó, tháng bị tính là nhuận sẽ là một trong hai trường hợp sau:

# Tháng sau tháng Mão (tháng 2) (nếu chỉ có một tháng không có trung khí). Trường hợp này có tháng giả nhuận, mặc dù tháng âm lịch giả nhuận này có thể vẫn có chứa điểm trung khí.

# Hay tháng không có trung khí còn lại, nếu có 2 trên 13 tháng không có trung khí.

7) Thời gian diễn ra sóc thiên văn và mặt trời đi vào một cung hoàng đạo nào đó trong lịch Trung Quốc được xác định theo múi giờ Trung Quốc tại đài thiên văn Tử Kim Sơn gần Nam Kinh sử dụng các phương trình thiên văn hiện đại, còn tại Việt Nam xác định theo giờ Hà Nội.

Đây là quy tắc chung cho Âm Lịch phương đông. Âm Lịch được làm dựa vào chu kỳ Mặt Trăng nhưng 24 Tiết Khí lại dựa vào 24 điểm trên quỹ đạo Trái Đất xoay quanh Mặt Trời. Đây là nguồn gốc cho mọi sự sai sót và rắc rối của Âm Lịch. Do Tiết khí xác định bằng Mặt Trời cho nên đứng quan sát ở mỗi nơi thì thời điểm Mặt Trời lặn và Mọc khác nhau cho nên thời điểm chuyển tiết khí phải khác nhau.

Luật lệ trên áp dụng từ Lịch Thái Sơ (niên hiệu Thái Sơ, 104-101 trc CN đời Hán Vũ Đế ) cho đến tận năm 1645.

Năm 1645 sự du nhập của Lượng Giác Học và Thiên Văn Phương Tây, Hoàng Đế Thuận Trị và sau này là Khang Hy đã cho cải cách lại lịch tính toán theo Lượng Giác của Phương Tây.

Lịch số mà mọi người thấy ngày nay là theo sự cải cách này.

Đời Thanh có đài Thiên Văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh (xây từ đời Minh) chuyên dùng cho quan trắc để làm nông lịch (Lưu Bá Ôn có đóng góp rất lớn). Chính vì thế nó được xem như giờ chuẩn cho cả nước TQ để tính tiết khí. Sau này, ông Mao Trạch Đông cũng tái ấn định lại việc này.

Người viết: KARAJAN

Thiên Sứ giới thiệu

*

12 - 2 - 2006

Kính thưa quí vị quan tâm.

Âm lịch hiện nay là thời gian qui ước trong xã hội Đông phương cổ, đã tồn tại hàng ngàn năm, trước khi Dương lịch có nguồn gốc từ văn minh Tây phương, du nhập vào xã hội Đông phương vài trăm năm nay. Tất cả mọi sinh hoạt trong xã hội Đông phương cổ, trong đó những phương pháp ứng dụng của Lý Học Đông phương cũng sử dụng Âm lịch. Bởi vậy, Âm lịch có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc ứng dụng và nghiên cứu Lý học Đông phương. Do đó sự sai lệch của Âm lịch được chú ý đặc biệt cho những nhà nghiên cứu Lý học Đông phương, không chỉ ở Việt Nam và còn trên thế giới. Cho nên, sự sai lệch trong Âm lịch giữa Việt Nam và Trung Quốc – theo như nội dung những bài viết mà chúng tôi đã giới thiệu ở trên - là ít nhất từ một ngày, đến một tháng, nhiều là một năm - từ đó sẽ đặt ra một số vấn đề sau đây:

1) Ở Hà Lan, nếu người ta muốn ứng dụng Âm lịch vào việc nghiên cứu Lý Học Đông Phương và muốn chuyển đổi ngày Dương Lịch ra Âm lịch thì sẽ lấy Lịch Việt Nam hay Trung Quốc khi có sự sai lệch lớn như vậy? Phải chăng trong trường hợp này, người Hà Lan muốn tìm hiểu những phương pháp ứng dụng thuộc Lý học Đông Phương, thì họ phải tự tạo ra một cuốn lịch riêng cho múi giờ của họ theo cùng một phương pháp và các dữ kiện thiên văn mà cả lịch Việt Nam và Trung Quốc đã áp dụng?

2) Khi ứng dụng những phương pháp khác nhau và những dữ kiện khác nhau thì có thể cho chúng ta những loại lịch khác nhau . Nhưng cùng một phương pháp làm lịch và cùng dựa trên những dữ kiện thiên văn của các hành tinh liên quan đến Địa cầu như nhau, liệu có là một sự hợp lý khi có đến hai loại lịch khác nhau? Phải chăng hệ quả của vấn đề này sẽ dẫn đến hai khả năng sau:

# Sự khác biệt giữa Âm lịch của Việt Nam và Trung Quốc xuất phát từ hai phương pháp làm lịch khác nhau; hoặc từ những dữ kiện thiên văn khác nhau.

# Nếu cùng một phương pháp và cùng một dữ kiên thiên văn, nhưng cho rằng vì múi giờ khác nhau nên tạo ra những cuốn lịch khác nhau - thì phải chăng ở 12 múi giờ trên địa cầu (Theo qui ước giờ trong Âm lịch); hoặc 24 múi giờ (Theo qui ước giờ trong Dương Lịch) sẽ có 12 hoặc 24 cuốn Âm lịch khác nhau? Hay diễn đạt một cách khác:

Sự khác nhau giữa âm lịch Việt và Trung khi cùng một phương pháp và các dữ kiện liên quan và chỉ vì khác múi giờ nên thành hai loại lịch khác nhau. Vậy ở các múi giờ khác thì sự chênh lệch này sẽ như thế nào trong việc thực hiện Âm lịch ở các múi giờ khác? nếu sai số đến ngày thì tối đa là 12 ngày; đến tháng thì tối đa sẽ là 12 tháng, nếu sai số đến năm thì tối đa sẽ là lệch nhau đến 12 năm?

Kính thưa quí vị.

Chúng tôi chưa có những công trình nghiên cứu sâu về phương pháp làm lịch vì những lý do khách quan về thời gian và phương tiện nghiên cứu. Bởi vậy, chúng tôi chưa thể có kết luận về vấn đề đúng sai giữa hai cuốn lịch Trung - Việt. Nhưng theo thiển ý của tôi thì không thể có sự khác biệt về múi giờ dẫn đến sự xuất hiện hai cuốn lịch khác nhau ít nhất là một ngày và nhiều nhất là một năm, khi mà phương pháp và dữ kiện thiên văn hoàn toàn giống nhau. Về lý thuyết, nếu nguyên nhân này được khẳng đinh – sai lệch múi giờ dẫn đến sai lệch về lịch – thì cũng về lý thuyết, thế giới này nếu dùng Âm lịch như chúng ta và có cùng một phương pháp và dữ kiện thiên văn sẽ có tối thiểu 12 loại Âm lịch khác nhau. Giả thiết rằng múi giờ được chia nhỏ hơn thì số lượng Âm lịch có sai lệch sẽ lớn hơn và ngược lại.

Kính thưa quí vị.

Thời gian và không gian là những thành tố tồn tại khách quan của sự vận động trong vũ trụ, mà muôn loài trong đó có loài người cảm nhận được. Lịch – dù bất cứ là lịch nào - đều là thời gian qui ước của con người phản ánh khả năng nhận thức thực tại khách quan của sự vận động vũ trụ trong thời gian. Bởi vậy, về mặt nguyên tắc, không thể có cùng một phương pháp và cùng một dữ kiện thiên văn, nhưng lại xảy ra hai cuốn lịch khác nhau.

Để cho dễ hiểu. Xin được đặt lại vấn đề:

Ở Thuỵ Sĩ, nếu muốn dùng Âm lịch Đông phương theo đúng phương pháp và dữ kiện thiên văn của Đông phương như Việt Nam và Trung Quốc, phải chăng họ sẽ lại tạo ra được một cuốn lịch khác hoặc phải lựa chọn một trong hai cuốn lịch của Việt Nam hay Trung Quốc?

Phải chăng có một nguyên nhân chưa hợp lý nào đó đang tồn tại trong phương pháp làm lịch.

*

16 - 2 - 2006

NGUYÊN NHÂN SAI LỆCH NẰM Ở ĐÂU?

Kính thưa quý vị.

Chúng tôi đã hân hạnh trình bày với quý vị về tính bất hợp lý trong sự tồn tại hai cuốn Âm lịch khác nhau, khi các dữ kiện thiên văn và phương pháp tính lịch hoàn toàn giống nhau.

Vậy nguyên nhân sai lệch này nằm ở đâu?

Chúng ta biết rằng một ngày Âm lịch bắt đầu được tính bằng sự giao hội của Mặt trăng và Mặt trời khi quan sát từ trái đất. Thời điểm giao hội này là thời điểm không gian, chỉ xảy ra một lần duy nhất trong ngày, không lệ thuộc vào vị trí múi giờ quy ước trên Trái đất. Tức là, khi thời điểm giao hội này xảy ra thì sẽ rơi vào thời gian khác nhau trên múi giờ qui ước của trái Đất. Bởi vậy, nếu căn cứ theo múi giờ quy ước để xác định thời điểm một ngày Âm lịch bắt đầu thì ít nhất chúng ta có 3 cuốn lịch khác nhau về ngày trong năm. Bởi vì sẽ có những quốc gia có những múi giờ đi trước, đi sau và trong ngày của thời điểm không gian giao hội giữa mặt trăng và mặt trời.

Yếu tố sai lệch trong việc tính tháng Nhuận của Âm lịch Đông phương được chứng mình tương tự là:

Thời điểm giao hội giữa trái đất và vị trí xác định tiết khí trong tháng trên cung Hoàng Đạo là thời điểm không gian, không lệ thuộc vào vị trí múi giờ quy ước trên trái đất. Nó có thể rơi vào những giờ khác nhau của các quốc gia nằm trong múi giờ qui ước khác nhau. Do đó, nếu sử dụng múi giờ quy ước của các quốc gia để tính lịch thì chúng ta sẽ có 2 loại lịch khác nhau sai lệch về tháng, do tính chất cách biệt ngày đêm của Trái Đất.

Như vậy, qua sự trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng sự sai lệch của Âm lịch Đông phương giữa Việt Nam và Trung quốc chính là nằm sự quan sát từ múi giờ quy ước khác nhau vào thời điểm không gian xảy ra những dữ kiện thiên văn trong phương pháp làm lịch nói trên. Từ đó chúng ta suy ra rằng: Từ sự quan sát ở những múi giờ khác nhau sẽ tạo ra những cuốn lịch khác nhau, mặc dù cùng một phương pháp và dữ kiện thiên văn như sau. Và đây chính là nguyên nhân bất hợp lý của sự tồn tại hai cuốn Âm lịch Đông phương khác nhau trên. Mặc dù cả hai cuốn đều dùng một phương pháp và dữ kiện thiên văn.

Do đó - như chúng tôi đã trình bày ở bài trước - nếu múi giờ quy ước càng được chia nhỏ thì sự bất hợp lý càng tăng và mỗi quốc gia nếu quan tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương phải tự tạo ra một cuốn Âm lịch Đông phương của riêng mình và đây là điều bất hợp lý . Bây giờ chúng ta xét đến sự sai lệch về múi giờ được ứng dụng trong phương pháp thực hiện Âm lịch Đông phương là:

Thời gian quy ước về giờ trong Âm lịch Đông phương thì chỉ có 12 múi giờ. Vì múi giờ thuộc thời gian quy ước của Âm lịch Đông phương bằng 2 giờ trong thời gian quy ước của Dương lịch. Giờ Tý - giờ khởi đầu trong ngày của Âm lịch Đông phương được quy ước bắt đầu tương đương với 23h (theo giờ quy ước của Dương lịch). Do đó những dữ kiện thiên văn làm quy chuẩn để xây dựng Âm lịch, nếu xảy ra vào giờ Tý (23h Pm- 1h Am) thì vẫn được coi là xảy ra vào giờ đầu của ngày hôm sau theo quy ước của Âm lịch. Nhưng nếu chúng ta lại lấy giờ quy ước của Dương lịch là thời điểm 0 giờ đựơc bắt đầu của ngày hôm sau để ứng dụng vào phương pháp thực hiện Âm lịch Đông phương thì sẽ xảy ra thêm một sai lệch không đáng có . Bởi vì với giờ quy ước Dương lịch đó - dù dữ kiện thiên văn cùng xảy ra trong một giờ Âm lịch - thí dụ như giờ Tý) – nhưng cũng sẽ tạo nên sự khác biệt, nếu quan sát ở hai vị trí mùi giờ Dương Lịch trước và sau 0 giờ. Trong trường hợp này sai lầm ở chỗ lấy giờ quy ước Dương lịch tính giờ quy ước Âm lịch, nói một cách hình ảnh là “Lấy giờ Tây tính lịch Tầu”. Trong khi đó, người Đông phương tính Âm lịch đã hàng ngàn năm chỉ dùng giờ quy ước của Âm lịch. Đây lại là một nguỵên nhân sai lầm nữa dẫn đến sự sai lệch.

Sự sai lệch trong phương pháp làm lịch – nói chung cho tất cả các loại lịch, nếu có – chính là không có một múi giờ định vị chuẩn cho nó. Điều này sẽ tạo ra những sai lệch về lịch không chỉ riêng ở Âm lịch Đông phương, mà ngay ở Dương lịch cũng sẽ có tình trạng tương tự, nếu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều lấy thời điểm chuẩn 0 giờ là giờ qui ước của quốc gia mình để tính lịch. Thí dụ: một ngày của Nhật Bản được quy định từ 0 giờ, lấy múi giờ Nhật Bản làm múi giờ 0 để định vị và một ngày của Hoa Kỳ cũng được quy định từ 0 giờ, nhưng lấy múi giờ Hoa Kỳ là múi giờ 0 để định vị thì thế giới này sẽ có 24 cuốn Dương Lịch khác nhau cùng theo dữ kiện thiên văn, dùng cho các dân tộc trên thế giới. Trường hợp này, nước nào cũng thấy lịch của mình đúng và các nước khác là sai. Hoặc tất cả đều đúng một cách ….vô lý. Đây chính là nguyên nhân sai lệch vô lý của hai cuốn Âm lịch cùng tồn tại với phương pháp giống nhau và dữ kiện thiên văn như nhau. Sở dĩ Dương lịch không xảy ra hiện tượng này chính vì nó có một múi giờ 0 được định vị chuẩn quốc tế và Âm lịch thì không. Hay đúng hơn là chưa.

Chúng tôi không có ý định nhận xét cuốn lịch nào đúng và cuốn lịch nào sai giữa 2 cuốn lịch Việt – Trung. Bởi vì như đã trình bày ở trên: điều này phụ thuộc vào sự xác định tính quy ước của múi giờ định vị chuẩn. Nhưng với tư cách của một Trung tâm Nghiên cứu về Lý học Đông phương và nhân danh tính khách quan của khoa học, chúng tôi trình bày những ý kiến của mình để được quý vị tham khảo. Đồng thời, chúng tôi cũng hy vọng những nhà khoa học quan tâm đến Lý học Đông phương sẽ tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế, để tìm ra một múi giờ định vị chuẩn cho Âm lịch Đông phương. Đây là một loại lịch gần như có sự đồng nhất giữa thời gian và không gian trong vũ trụ, bởi nó thể hiện tính tương tác phức tạp của các mối liên hệ trong vũ trụ gần trái Đất. Thông qua loại lịch này, chúng tôi nghĩ rằng sẽ là một phương tiện khám phá những bí ẩn trong những tương tác của vũ trụ trong tương lai. Một cuộc hội thảo quốc tế về Âm lịch là một đều rất cần thiết cho sự phát triển của văn minh.

Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị.

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG

NGUYỄN VŨ TUẤN ANH

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cảm ơn chú Thiên Sứ và chị Laviedt. Cháu sẽ hiểu chỉnh lại :rolleyes:

Share this post


Link to post
Share on other sites

PhamThaiHoa mến,

Công thức mà bạn dùng trong bản viết 1.0, không có để ý múi giờ khác nhau trong 2 muà. Theo Lý Học Đông Phương thì chúng ta gọi là tiết Lập Xuân và tiết Lập Thu. Trong công thức của bạn thì bạn dùng trong tiết Lập Thu, người Tây gọi giờ đó là giờ "Eastern Standard Time", đồng hồ quay lại 1 tiếng. Và giờ cho tiết Lập Xuân người Tây gọi giờ đó là giờ "Eastern Daylight Time", đồng hồ quay lên 1 tiếng.

Nếu ai lấy công thức lấy giờ Tây mà sử dụng cho lịch Việt mà không để ý tới việc đồng hồ thay đổi trong năm, cứ 2, 3 năm mỗi khi thì giờ thay đổi từ tiết Đại Hàn sang tiết Lập Xuân hay từ tiết Đại Thử qua tiết Lập Thu, thì công thức đó sẽ bị sai lầm.

Cũng vì lý do đó, tại hạ phải sửa lại công thức để tính sự khác biệt giữa 2 tiết Lập Xuân và Lập Thu. Với người áp dụng công thức của tại hạ khỏi phải bỏ công tìm kiếm 24 tiết trong năm. Mong rằng lời giải thích trên sẽ giúp bạn hiểu được lý do công thức của tại hạ không giống với công thức của vài tác giả khác.

Đào Hoa

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào các bạn,

VinhL củng có nghiên cứu sơ qua vấn đề làm lịch âm lịch. Xin đem sự hiểu biết nhỏ hẹp của mình để giải thích sự khác biệt giữa các cách tính âm lịch cho ngày 27/3/2009.

Sự khác biệt giữa chính là do sự dùng múi giờ khác nhau để tính âm lịch. Trong âm lịch, theo quy luật ngày mùng 1 là ngày trăng mới (New Moon). Dùng công thức thiên văn tây phương ta có thể tính các ngày trăng mới cho năm 2009, như sau:

Dùng Múi giờ GMT +8

Ngày 27/12/2008 20g24 là Mùng 1 tháng 12 âm lịch

Ngày 26/01/2009 15g56 là Mùng 1 tháng giêng âm lịch

Ngày 25/02/2009 9g36 là Mùng 1 tháng hai âm lịch

Ngày 27/03/2009 0g07 là Mùng 1 tháng ba âm lịch

Ta thấy Ngày 27/03 trăng mới xuất hiện khoảng 0g07 tức vừa mới bước vào ngày 27

Dùng múi giờ GMT +7 thì ta có

Ngày 26/03/2009 23g07 là Mùng 1 tháng ba tức vẫn ở ngày 26, và ngày 27 sẻ là Mùng 2 tháng 3 âm lịch.

Nguyên do của sự khác biệt là 0g07 và 23g07, theo các công thức thiên văn tây phương thì khi qua 0g thì đã vào ngày mới. Trường hợp này có thể tránh khỏi khi lập trình bằng cách chuyển các giờ tây sang giờ âm lịch, như thế thì cả hai móc giờ đều là giờ Tý của ngày tới (tức là ngày 27 tháng 3 dương lịch).

Nhưng sự điều chỉnh này vẫn là tạm thời vì khi điểm móc của ngày trăng mới xảy ra ngay giữa giờ Hợi và giờ Tý âm lịch hay trong khoảng 10g đến 11g tây. Biện pháp tốt nhất là khi tính các điểm móc ngày trăng mới ta dùng múi giờ GMT +8, để tính ngày mùng 1, sau đó cộng hoặc trừ đi sự khác biệt giữa hai múi giờ.

Vì âm lịch dựa vào thời điểm tiết khí và trăng mới, mà các móc này theo giờ địa phương, mổi nơi mổi khác (theo múi giờ), cho nên, mổi quốc gia trên thới giới sẻ có một cuốn âm lịch riêng vậy. Dương lịch thì có mốc Greenwich làm chuẩn, còn âm lịch thì không, cho nên có các sự khác biệt vậy.

Muốn thống nhứt tất cả cuốn âm lịch thì ta phải lập ra múi giờ mốc để tính cuốn âm lịch mốc. Các địa phương khác đều dùng chung cuốn lịch mốc, chỉ chỉnh lại giờ theo sự khác biệt giửa múi giờ

Sau đi xin cống hiến các bạn phương pháp tính toán các móc tiết khí, ngày giờ trăng mới, theo công thức thiên văn tây phương dùng trong việc lập trình để hoán chuyển dương lịch sang âm lịch hay ngược lại.

Phương Pháp Tự Làm Âm Lịch

Âm lịch là một vấn đề vô cùng quan trọng trong sự nghiên cứu lý số đông phương, đa số các môn bói toán đều dùng âm lịch. Cách tính âm lịch thì không nhiều người biết, chỉ mua một cuốn lịch vạn niên, hay cuốn tam tông miếu dùng thì đã đủ. Thời nay, đa số nhà ai cũng có máy vi tinh, có thể tự tính lấy cuốn âm lịch cho bất cứ năm nào. Thí dụ nhiều lúc muốn tính Tử Vi hay lấy Tứ Trụ cho một người tiền nhân nào đó sinh vào thế kỷ thứ 18, hay 19 gì đó, xin hỏi đi đâu kiếm được một cuốn âm lịch đủ các tiết khí cho thế kỷ 18 để mà dùng nhỉ. Mà có đi nữa làm sao mà xác định nó đúng đây?

VinhL có nghiên cứu qua cách tính tiết khí, năm tháng âm lịch dùng các hàm số của Thiên Văn tây phương, xin diễn giải ra để mọi người có cơ hội tham khảo mà tự tính lấy âm lịch để dùng.

Theo sự tra cứu và sưu tầm cho biết thì Âm lịch căn cứ vào sự xoay chuyển của mặt trăng để tính tháng, và Tiết khí để tính năm.

Tháng âm lịch bắt đầu váo ngày trăng mới (new moon) và kết thúc vào ngày trước con trăng mới sau (next new moon).

Năm âm lịch có 12 hoặc 13 tháng âm lịch, và số tháng âm lịch tuỳ thuộc vào số lần trăng mới giữa hai tiết Đông chí.

Âm lịch có 24 tiết khí căn cứ vào sự xoay chuyển của mặt trời di qua 12 cung Hoàng đạo. Mỗi tiết khí là 15 độ của kinh độ mặt trời (solar longitude), theo bản sau đây

Tên Tiết Kinh độ mặt trời

(solar longitude)

1 Đông chí (Winter Solstice) .......... 270 độ

2 Tiểu hàn ........................................ 285

3 Đại hàn ......................................... 300

4 Lập xuân ....................................... 315

5 Vủ thuỹ ......................................... 330

6 Kinh chập ...................................... 345

7 Xuân phân (Spring Equinox) ........... 0

8 Thanh minh .................................... 15

9 Cốc vũ ............................................ 30

10 Lập hạ ........................................... 45

11 Tiểu mãng ..................................... 60

12 Mang chủng .................................. 75

13 Hạ chí (Summer Solstice) ............ 90

14 Tiểu thử ....................................... 105

15 Đại thử ........................................ 120

16 Lập thu ........................................ 135

17 Sử thử .......................................... 150

18 Bạch lộ ........................................ 165

19 Thu phân (Autumnal Equinox).... 180

20 Hàn lộ .......................................... 195

21 Sương giáng ................................ 210

22 Lập đông ..................................... 225

23 Tiểu tuyết .................................... 240

24 Đại tuyết ...................................... 255

Trăng mới được quy định là thờ gian lúc mặt trời và mặt trăng có cùng một kinh độ (time when the sun and the moon have the same longitude, that is solar longitude = lunar longitude).

Khi có được hai thời gian của hai Tiết Đông chí, và thời gian của tất con trăng mới giữa 2 Đông chí, thì tháng Âm lịch có thể sắp xếp theo 2 luật sau đây

1) Tiết Đông chí lúc nào cũng phải nằm trong tháng 11 của Âm lịch.

2) Trong năm Âm lịch mà có 13 tháng (13 con trăng mới, tín từ Đông chí năm trước đến Đông chí trong năm), thì tháng nhuận được đặt vào tháng Âm lịch đầu tiên mà không có Trung khí (Trung khí là những tiết Đông chí, Đại hàn, Vủ thũy, Xuân phân, Cốc vũ, Tiểu mảng, Hạ chí, Đại thử, Sử thử, Thu phân, Sương giáng, hay Tiểu tuyết).

Để cho việc tín toán thời gian và các công thức trong thiên văn học được dễ dàng, chúng ta phải biết đến hai hệ thống đếm ngàỵ

1) Hệ thống đếm ngày cố định (Fixed Day Numbers)

Hệ thống này dùng 0 giờ đêm (midnight) thứ hai (Monday), ngày 1, tháng 1, năm 1 Dương lịch (Gregorian) là ngày 1 được ký hiệu là R.D. 1 (R.D. : Rata die or fixed date). R.D. 1 là ngày trù tượng vì Dương lịch (Gregorian) chỉ được thành lập trong thế kỷ thứ 16. Trong hệ thống này, thời gian được đếm bằng một chuổi ngày theo số nguyên ... -2, -1, 0, 1, 2, ... Ngày trước ngày R.D. 1 là âm. Phần phân số, nếu có, là đại diện cho các giờ, phút trong ngàỵ

2) Hệ thống đếm ngày Julian (Julian Day Numbers)

Hệ thống đếm ngày này được sử dụng trong thiên văn học, nhất là trong những phương trình tính toán liên quan đến thời gian và không gian của các thiên thể.

Hệ thống này dùng ngày móc là trưa (noon) thứ hai (Monday) ngày 1, tháng 1, năm 4713 BC của lịch Julian và củng là trưa thứ hai, ngày 24, tháng 11, năm -4712 Dương lịch.

Hệ thống này dùng phần phân số để đại diện cho giờ, phút trong ngàỵ

Để có thể hoán chuyển thời gian từ một hệ thống này sang hệ thống khác, chúng ta cần định nghĩa một số phép tính toán học như sau:

floor(X) = số nguyên lớn nhất, it hơn hoặc bằng X.

X mod Y = X – Y*Floor (X/Y) : tức là số thừa của X/Y (còn gọi là modulus function)

X amod Y = 1 + (X-1) mod Y = X mod Y, ngoại trừ nếu X mod Y = 0 thì X amod Y = Y

Hoán Chuyển giửa hai hệ thống đếm ngày:

Từ Julian sang Fixed

jd2fx(jd) = jd – 1721424.5

Từ Fixed sang Julian

fx2jd(fx) = fx + 1721424.5

Hoán Chuyển giửa Dương lịch và Fixed Day

Từ Dương lịch (Gregorian) sang Fixed

gr2fx(month,day,year) = 365*(year-1) + floor((year-1)/4) - floor((year-1)/100)

+ floor((year-1)/400) + floor(((365*month)-362)/12)

+ day

+ ((0 nếu month <=2),(-1 nếu month >2 AND grleapyear(year)),(-2 otherwise))

grleapyear(y) = ((y mod 4)=0) AND (y mod 400 not in (100,200,300))

Từ Fixed sang Dương lịch

fx2gr(fx) = month, day, year

year = ((=yyyy if n100 =4 or n1=4),(=yyyy+1 otherwise))

d0 = fx-1

n400 = floor(d0/146097)

d1 = d0 mod 146097

n100 = floor(d1/36524)

d2 = d1 mod 36524

n4 = floor(d2/1461)

d3 = d2 mod 1461

n1 = floor(d3/365)

yyyy=400*n400+100*n100+4*n4+n1

month = floor((12*(priordays+correction)+373)/367)

priordays = fx – gr2fx(1,1,year)

correction = ((=0 if fx < gr2fx(3,1,year)),(=1 if fx >= gr2fx(3,1,year)),(=2 otherwise))

day = fx – gr2fx(month,1,year) + 1

Tất cả những công thức trên đây được trích từ quyển Calendrical Calculations do tác gỉa Nachum Dershowitz và Edward M. Reingold, nhà xuất bản The Press Syndicate of the University of Cambridge ấn loát, 1997.

Một yếu tố rất quan trọng trong các công thức thiên văn là đơn vị thời gian. Trong thiên văn học hiện nay có đến bảy hoặc tám loại thời gian như Civil Time, Universal Time, Solar Time, Sidereal Time, Ephemeris Time, Dynamic Time, Terrestrial Time, and International Atomic Time (TAI). Chúng ta sẽ dùng đến Civil Time (Còn gọi là Local Time), Universal Time, Ephemeris Time.

Giờ địa phương là local time, khi chúng ta hẹn ai đó đi xi nê vào 7:30 PM thì đây là local time.

Local time dùng Kinh Tuyến 0 độ tại Greenwich Anh quốc làm chuẩn. Toàn địa cầu được chia ra làm 24 múi giờ (Time Zone) tức là mổi múi giờ bao gồm 360/24 = 15 độ kinh tuyến. Múi giờ tại Greenwich thường gọi là Greenwich mean time (GMT). GMT hiện nay được chỉnh theo Coordinated Universal Time (UTC) mà thời gian là được một mạng lưới giờ nguyên tử (Atome Time) của các đài thiên văn rải rác khắp thế giới kiểm soát. Mặc dầu vậy, đời sống chúng ta gắn liền đến sự xoay chuyển của quả địa cầu (ngày và đêm), mà sự xoay chuyển của quả địa cầu thường có sự thay biến đột ngột, và hiện nay đang chậm lại, vì vậy giờ địa phương hay UTC sẽ mất nhịp với giờ nguyên tử (TAI). Cho nên UTC được điểu chỉnh lại bằng cách cộng một hai giây (gọi là giây nhuận – leap-second) vào giờ nguyên tử trong một hai năm một lần vào tháng 6 hay tháng 12.

Universal Time (Giờ quốc tế)

Hoán chuyển giửa Local Time và Universal Time

Mỗi múi giờ có 15 kinh độ như vậy mỗi kinh độ khác nhau 4’ (4 phút)

Universal Time sang Local Time

ut2lt(utime, timezone) = utime + (timezone*60)/1440

Nến chúng ta dùng kinh tuyết thì

ut2lt(utime, meridian) = utime + (eastwest * meridian * 4)/1440

eastwest = ((=1 meridian là kinh tuyết đông),(=-1 meridian là kinh tuyết tây))

Local Time sang Universal Time

lc2ut(ltime, timezone) = ltime – (timezone*60)/1440

lc2ut(ltime, meridian) = ltime – (eastwest * meridian * 4)/1440

Ephemeris Time (ET)

Ephemeris Time căn cứ vào sự xoay chuyển của quả địa cầu chung quanh mặt trời, quỷ đạo và lực thủy triều của mặt trăng. Các nhà thiên văn muốn ước lượng chính xác Ephemeris Time đến 1 phần 10^10 thì họ cần phải quan sát mặt trăng liên tục trong 5 năm. Đa số các công thức thiên văn đều sử dụng Ephemeris Time trong các việc tính toán liên quan đến sự vận hành của các thiên thể. Ephemeris Time được hoán chuyển sang UT qua công thức Ephemeris correction: deltaT = ET – UT. Nếu sự sai biệt vài phút (có thể đến 10 phút) là không thành vấn, thì chúng ta có thể cho deltaT = 0, tức là ET = UT.

Kinh Độ Thái Dương (Solar Logitude)

Sau đây là công thức để tính kinh độ của mặt trời.

Thời gian T trong thế kỷ Julian từ mốc J2000. (Một thế kỷ Julian có 36525 ngày).

jd: thời gian mà chúng ta muốn tìm kinh độ mặt trời

T = (jd – 2451545)/36525

Các công thức sau đây chúng ta sẻ dùng cách sắp xếp của Horner để giảm đi bớt số lương tính toán và sự gạt bỏ các phân số nhỏ.

Geometric Mean Longitude of the Sun

L0 = 280.4664567 + 36000.76982779*T + 0.0003032028*T^2

= 280.4664567 + T*(36000.76982779 + 0.0003032028*T)

L0 = L0 – floor(L0/360)*360

Sun’s mean anomaly

M = 357.5291092 + 35999.0502909*T – 0.00015366*T^2

= 357.5291092 + T*(35999.0502909 – 0.00015366*T)

M = M – floor(M/360)*360

Nutation and Aberration Correction

O = 125.04452 – 1934.136261*T + 0.0020708*T^2

= 125.04452 – T*(1934.136261 – 0.0020708*T)

O = O – floor(O/360)*360

Sun’s equation of the center

C = (1.914602 – 0.004817*T – 0.000014*T^2)*sin(M)

+ (0.019993 – 0.000101*T)*sin(2*M)

+ 0.000289*sin(3*M)

Solar Longitude

SL = L0 + C – 0.00569 – 0.00478*sin(O)

Công thức tính kinh độ thái dương (solar logitude) được trích từ quyển Astronomical Algorithms 2nd edition do tác giả Jean Meeus, nhà xuất bản Willmann-Bell Inc. ấn loát, 1998.

Bây giờ chúng ta định nghỉa hàm số sal(jd) để tính kinh độ thái dương theo nhưng công thức đã trình bàỵ

sal(jd) = SL

jd là thời gian trong hệ Julian.

Trước khi áp dụng hàm số sal thì tay phải cần thêm 2 công thức để hoán chuyển thời gian từ dạng dương lịch (Gregorian) sang Julian và ngược lại. Để tiện cho việc lập trình, ta sẻ ghi chú ngày tháng năm, giờ phúc giây như sau: dd.mmyyy (Ngày.ThángNăm), hh.mmss (Giờ.PhúcGiây).

Muốn chuyển thừ month, day, year sang dạng dd.mmyyyy thì chỉ cần các công thức sau:

dd.mmyyyy = day + month/100 + year/1000000

hoặc

day = int(dd.mmyyyy)

month = int(fraction(dd.mmyyyy)*100)

year = fraction(dd.mmyyyy * 100)*10000

Vì vậy ta sẻ định nghỉa lại 2 công thức hoán chuyển dương lịch sang fixed day để thêm giờ phút giây

gr2fx(dd.mmyyyy, hh.mmss) = 365*(yyyy-1) + floor((yyyy-1)/4) - floor((yyyy-1)/100)

+ floor((yyyy-1)/400) + floor(((365*mm)-362)/12)

+ dd

+ ((hh*3600+mm*60+ss)/86400)

+ ((0 nếu mm <=2),(-1 nếu mm >2 AND grleapyear(yyyy)),(-2 otherwise))

grleapyear(yyyy) = ((yyyy mod 4)=0) AND (yyyy mod 400 not in (100,200,300))

fx2gr(fx) = dd.mmyyyy, hh.mmss

yyyy = ((=yr if n100 =4 or n1=4),(=yr+1 otherwise))

d0 = fx-1

n400 = floor(d0/146097)

d1 = d0 mod 146097

n100 = floor(d1/36524)

d2 = d1 mod 36524

n4 = floor(d2/1461)

d3 = d2 mod 1461

n1 = floor(d3/365)

yr=400*n400+100*n100+4*n4+n1

mm = floor((12*(priordays+correction)+373)/367)

priordays = fx – gr2fx(1.01yyyy)

correction = ((=0 if fx < gr2fx(1.03yyyy)),(=1 if fx >= gr2fx(1.03yyyy)),(=2 otherwise))

dd = fx – gr2fx(1.mmyyyy) + 1

hh = int(fraction(fx)*24)

mm = int(fraction(fraction(fx)*24)*60)

ss = int(fraction(fraction(fraction(fx)*24)*60)*60)

Ta còn có những công thức đã định nghĩa trước là

jd2fx(jd) = jd – 1721424.5

fx2jd(fx) = fx + 1721424.5

ut2lt(utime, timezone) = utime + (timezone*60)/1440

lt2ut(ltime, timezone) = ltime – (timezone*60)/1440

Hoán Chuyển Dương Lịch và Julian Day

gr2jd(dd.mmyyyy,hh.mmss, timezone) = lc2ut(fx2jd(gr2fx(dd.mmyyyy,hh.mmss)),timezone)

jd2gr(jd,timezone) = fx2gr(ut2lc(jd2fx(jd),timezone))

Như vậy thì ta có thể tính kinh độ thái dương cho bất cứ thời điểm, và địa phương nào, như sau:

sal(gr2jd(dd.mmyyyy,hh.mmss,timezone))

Tính Tiết Khí

Để có thể tính được gần chính xác (sai khoảng 10 phút trở lại) tiết khí xảy ra ngay thời điểm nào, ta cần một số công thức sau:

Biến đổi tiết khí sang kinh độ thái dương như sau:

ti2sl(ti) = 1 + (((ti + 16) mod 24 + 1) * 15 – 1) mod 360

ti = 1 là Đông Chí thì ti2sl(ti) sẻ cho 270

ti = 23 là Tiểu Tuyết thì ti2sl(ti) sẻ cho 240

Điều chỉnh (correct) kinh độ thái dương

slcor(jd,sl0,sl1) = jd + 58 * sin(sl0 – sl1)

jd = thời điểm trong hệ Julian

sl0 = là kinh độ của tiết khí muốn tính

sl1 = là kinh độ tính được theo công thức sal

Như vậy ta có thể tính thời điểm của tiết khí như sau:

tiet(dd.mmyyyy,hh.mmss,timezone,tiet) = dd.mmyyyy,hh.mmss

sl0 = ti2sl(tiet),

jd = gr2jd(dd.mmyyyy,hh.mmss,timezone)

sl1 = 0

while abs(sl0 – sl1) >= 0.00001

{

sl1 = sal(jd)

jd= slcor(jd,sl0,sl1)

}

dd.mmyyyy,hh.mmss = jd2gr(jd,timezone)

Theo như công thức trên ta có thể tính thời điểm của tiết Đông chí năm 2006, tiet(1.012006,0,8,1) thì ta có 22.122005, 2.3356, tức là tiết Đông chí gần ngày 1 tháng 1 năm 2006 Dương lịch nhất là đến vào ngày 22 tháng 12 năm 2005, 2 giờ 33 phút 56 giây.

Tiết Đông chí tới tiet(1.012007,0,8,1) là 22.122006, 8.2113 tức là ngày 22 tháng 12 năm 2006 dương lịch, vào 8 giờ 21 phút 13 giâỵ

Còn Tiếp ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phương Pháp Tính Thời Điểm Trăng Mới

Chúng ta muốn tính thời điểm của con trăng gần nhất cho ngày dd.mmyyyy, hh.mmss, và múi giờ timezone. Đầu tiên ta phải chuyển ngày tháng giờ dương lịch qua hệ thống Julian.

1) Tìm k, k là một số nguyên đại diện con trăng mới lần thứ mấy sau ngày 6 tháng 1, 2000,

k = 0 là trăng mới của ngày 6 tháng 1, 2000 dương lịch

g2k(dd.mmyyyy,hh.mmss,timezone)

a) jd0 = g2jd(dd.mmyyyy, hh.mmss, timezone)

:rolleyes: date = fx2g(floor(jd0-1721424.5))

c) fx2g sẻ cho ta ngày tháng năm giờ date_dd.mmyyyy, date_hh.mmss

ta gọi ngày cuối năm trước là 31.12yyyy-1

daynumber = g2fx(date_dd.mmyyyy,date_hh.mmss)

– g2fx(31.12yyyy-1,date_hh.mmss)

g2k = floor(date_yyyy + (daynumber/365.25)-2000)

5) thời điểm của trăng mới, k2newmoon(k,timezone)

T = (k/1236.85)

a) Eccentricity of Earth’s orbit around the sun E

E = 1 – T*(0.002516 – 0.0000074*T)

:lol: Sun’s mean anomaly

M = 2.5534 + T*(35998.9604344 – T*(0.0000014 – 0.00000011*T))

M = M – 360 * floor(M/360)

c) Moon’s mean anomaly

Mp = 201.5643 + T*(477197.676401

+ T*(0.0107582

+ T*(0.00001238-0.000000058*T)))

Mp = Mp – 360 * floor(Mp/360)

d) Moon’s argument of latitude

F = 160.7108 + T*(483200.811438

- T*(0.0016118

- T*(0.00000227 + 0.000000011*T)))

F = F – 360 * flooe(F/360)

e) Periodic terms

Periodic = -0.40720 * sin(Mp) + 0.17241*E*sin(M)

+ 0.01608*sin(2*Mp) + 0.01039*sin(2*F)

+ 0.00739*sin(Mp-M) - 0.00514*E*sin(Mp+M)

+ 0.00208*E*E*sin(2*M) - 0.00111*sin(Mp-2*F)

- 0.00057*sin(Mp+2*F) + 0.00056*E*sin(2*Mp+M)

- 0.00042*sin(3*Mp) + 0.00042*E*sin(M+2*F)

+ 0.00038*E*sin(M-2*F) - 0.00024*E*sin(2*Mp-M)

f) NMTime = 2451550.09766 + T*(36524.9088327

+ T*(0.00015437

- T*(0.000000150 + 0.00000000073*T)))

+ Periodic

g) k2newmoon(k,timezone) = jd2g(NMTime,timezone)

Ta cần một công thức để tính số ngày giửa hai ngày dương lịch,

ddiff(dd.mmyyyy1,dd.mmyyyy2) = g2fx(dd.mmyyyy2,0) – g2fx(dd.mmyyyy1)

Chúng ta sẻ tính tất cả trung khí và các con trăng mới cho năm 2001

Ta sẻ dùng ngày 1.012001, 0.0000, và múi giờ 8 (như âm lịch của tàu) để tìm ngày đông chí, ta dùng công thức tiet(dd.mmyyyy,hh.mmss,timezone,tiet).

Đông Chí (270 độ), tiet = 1 : tiet(1.012001,0,8,1) -> 21.122000,21.3135

Đại Hàn (300 độ), tiet = 3 : tiet(1.012001,0,8.3) -> 20.012001,8.1104

Vũ Thũy (330 độ), tiet = 5 : tiet(1.012001,0,8,5) ->18.022001,22.2042

Xuân Phân (0 độ), tiet = 7 : tiet(1.012001,0,8,7) ->20.032001,21.2137

Cốc Vũ (30 độ), tiet = 9 : tiet(1.012001,0,8,9) ->20.042001,8.2503

Tiểu Mảng (60 độ), tiet = 11 : tiet(1.012001,0,8,11) ->21.052001,7.3437

Hạ Chí (90 độ), tiet = 13 : tiet(1.012001,0,8,13) ->21.062001,15.3231

Đại Thử (120 độ), tiet = 15 : tiet(1.012001,0,8,15) ->23.072001,2.2612

Sử Thử (150 độ), tiet = 17 : tiet(1.012001,0,8,17) ->23.082001,9.3008

Thu Phân (180 độ), tiet = 19 : tiet(1.012001,0,8,19) ->23.092001,7.0755

Sương Giáng (210 độ), tiet = 21 : tiet(1.012001,0,8,21) ->23.102001,16.2755

Tiểu Tuyết (240 độ), tiet = 23 : tiet(1.012001,0,8,23) ->22.112001,14.0122

Đông Chí (270 độ), tiet = 1 : tiet(1.012002,0,8,1) ->22.122001,3.2123

Tính trăng mới

Ta sẻ dùng ngày 1.012001, 0.0000, và múi giờ 8 để tìm k đầu tiên cho năm 2001

g2k(1.012001,0,8) = 12

và dùng k2newmoon(k,timezone) để tìm thời điểm của con trăng mới

k = 12, k2newmoon(12,8) -> 26.122000,1.2404

k = 13, k2newmoon(13,8) -> 24.012001,21.0851

k = 14, k2newmoon(14,8) ->23.022001,16.2319

k = 15, k2newmoon(15,8) ->25.032001,9.2347

k = 16, k2newmoon(16,8) ->23.042001,23.2811

k = 17, k2newmoon(17,8) ->23.052001,10.4814

k = 18, k2newmoon(18,8) ->21.062001,19.5952

k = 19, k2newmoon(19,8) ->21.072001,3.4620

k = 20, k2newmoon(20,8) ->19.082001,10.5701

k = 21, k2newmoon(21,8) ->17.092001,18.2901

k = 22, k2newmoon(22,8) ->17.102001,3.2452

k = 23, k2newmoon(23,8) ->15.112001,14.4144

k = 24, k2newmoon(24,8) ->15.122001,4.4933

k = 25, k2newmoon(25,8) ->13.012002,21.3050

Chúng ta đả có tất cả điểm mốc để sắp xếp âm lịch cho năm 2001.

Ta nhập 2 bảng thời điểm tiết khí và thời điểm trăng mới vào nhau theo thứ tự thời gian

Đông Chí, tiet = 1 -> 21.122000,21.3135

k = 12, -> 26.122000,1.2404 <- 1 tháng Chạp, 29 ngày

Đại Hàn, tiet = 3 -> 20.012001,8.1104

k = 13, -> 24.012001,21.0851 <- 1 tháng Giêng, 30 ngày

Vũ Thũy, tiet = 5 ->18.022001,22.2042

k = 14, ->23.022001,16.2319 <- 1 tháng Hai, 30 ngày

Xuân Phân, tiet = 7 ->20.032001,21.2137

k = 15, ->25.032001,9.2347 <- 1 tháng Ba, 29 ngày

Cốc Vũ, tiet = 9 ->20.042001,8.2503

k = 16, ->23.042001,23.2811 <- 1 tháng Tư, 30 ngày

Tiểu Mảng, tiet = 11 ->21.052001,7.3437

k = 17, ->23.052001,10.4814 <- 1 tháng Tư Nhuận, 29 ngày

k = 18, ->21.062001,19.5952 <- 1 tháng Năm, 30 ngày

Hạ Chí, tiet = 13 ->21.062001,15.3231

k = 19, ->21.072001,3.4620 <- 1 tháng Sáu, 29 ngày

Đại Thử, tiet = 15 ->23.072001,2.2612

k = 20, ->19.082001,10.5701 <- 1 tháng Bảy, 29 ngày

Sử Thử, tiet = 17 ->23.082001,9.3008

k = 21, ->17.092001,18.2901 <- 1 tháng Tám, 30 ngày

Thu Phân, tiet = 19 ->23.092001,7.0755

k = 22, ->17.102001,3.2452 <- 1 tháng Chín, 29 ngày

Sương Giáng, tiet = 21 ->23.102001,16.2755

k = 23, ->15.112001,14.4144 <- 1 tháng Mười, 30 ngày

Tiểu Tuyết, tiet = 23 ->22.112001,14.0122

k = 24, ->15.122001,4.4933 <- 1 tháng Mười Một, 29 ngày

Đông Chí, tiet = 1 ->22.122001,3.2123

k = 25, ->13.012002,21.3050 <- Mùng 1 tháng Chạp

Theo quy luật của lịch âm lịch, tiết Đông Chí phải nằm trong tháng 11 (tý) , vậy ngày mùng 1 tháng 12 âm lịch sẻ là ngày 26.122000,1.2404 dương lịch. Tất cả thời điểm của con trăng mới đều là mùng 1.

Chúng ta thấy tiết Hạ Chí đến vào 21.062001, 15.3231 và tháng k=18 đến vào 21.062001,19.5952, theo thời gian thì tiết Hạ Chí đến trước, nhưng nó vẩn nằm trong ngày 21.062006 này, cho nên tháng trước đó không có trung khí, và là tháng nhuận, tức là từ tháng k=17 đến đầu k=18 không có trung khí, cho nên tháng k=17 là nhuận, mà tháng trước nó là tháng tư, nên nó là tháng tư nhuận.

Sau đó ta dùng ddiff() của 2 ngày Mùng 1 để biết tháng đó có 29, hay 30 ngày.

Lịch Bính Tuất 2006

Chúng ta sẻ tính tất cả trung khí và các con trăng mới cho năm Bính Tuất 2006

Ta sẻ dùng ngày 1.012006, 0.0000, và múi giờ 8 để tìm ngày đông chí và các trung khí.

Đông Chí (270 độ), tiet = 1 : tiet(1.012006,0,8,1)------> 22.122005,02.3356

Đại Hàn (300 độ), tiet = 3 : tiet(1.012006,0,8.3)-------> 20.012006,13.1318

Vũ Thũy (330 độ), tiet = 5 : tiet(1.012006,0,8,5)------->19.022006,03.2142

Xuân Phân (0 độ), tiet = 7 : tiet(1.012006,0,8,7)-------->21.032006,02.2030

Cốc Vũ (30 độ), tiet = 9 : tiet(1.012006,0,8,9)---------->20.042006,13.2126

Tiểu Mảng (60 độ), tiet = 11 : tiet(1.012006,0,8,11)--->21.052006,12.2841

Hạ Chí (90 độ), tiet = 13 : tiet(1.012006,0,8,13)-------->21.062006,20.2502

Đại Thử (120 độ), tiet = 15 : tiet(1.012006,0,8,15)----->23.072006,07.1823

Sử Thử (150 độ), tiet = 17 : tiet(1.012006,0,8,17)------>23.082006,14.2313

Thu Phân (180 độ), tiet = 19 : tiet(1.012006,0,8,19)---->23.092006,12.0247

Sương Giáng (210 độ), tiet = 21 : tiet(1.012006,0,8,21)->23.102006,21.2454

Tiểu Tuyết (240 độ), tiet = 23 : tiet(1.012006,0,8,23)---->22.112006,19.0010

Đông Chí (270 độ), tiet = 1 : tiet(1.012007,0,8,1)-------->22.122006,08.2113

Ta sẻ dùng ngày 1.012006, 0.0000, và múi giờ 8 để tìm k đầu tiên cho năm 2006

g2k(1.012006,0,8) = 74

và dùng k2newmoon(k,timezone) để tìm thời điểm của con trăng mới

k = 74, k2newmoon(74,8) ->31.122005,11.1258

k = 75, k2newmoon(75,8) ->29.012006,22.1604

k = 76, k2newmoon(76,8) ->28.022006,08.3230

k = 77, k2newmoon(77,8) ->29.032006,18.1653

k = 78, k2newmoon(78,8) ->28.042006,03.4517

k = 79, k2newmoon(79,8) ->27.052006,13.2700

k = 80, k2newmoon(80,8) ->26.062006,00.0642

k = 81, k2newmoon(81,8) ->25.072006,12.3218

k = 82, k2newmoon(82,8) ->24.082006,03.1112

k = 83, k2newmoon(83,8) ->22.092006,19.4634

k = 84, k2newmoon(84,8) ->22.102006,13.1539

k = 85, k2newmoon(85,8) ->21.112006,06.1941

k = 86, k2newmoon(86,8) ->20.122006,22.0221

k = 87, k2newmoon(87,8) ->19.012007,12.0204

Ta nhập 2 bảng thời điểm tiết khí và thời điểm trăng mới vào nhau theo thứ tự thời gian

Đông Chí, tiet = 1 -> 22.122005,02.3356

k = 74, ->31.122005,11.1258<- 1 tháng Chạp, 29 ngày

Đại Hàn, tiet = 3 -> 20.012006,13.1318

k = 75, -> 29.012006,22.1604<- 1 tháng Giêng, 30 ngày

Vũ Thũy, tiet = 5 ->19.022006,03.2142

k = 76, ->28.022006,08.3230<- 1 tháng Hai, 29 ngày

Xuân Phân, tiet = 7 ->21.032006,02.2030

k = 77, ->29.032006,18.1653<- 1 tháng Ba, 30 ngày

Cốc Vũ, tiet = 9 ->20.042006,13.2126

k = 78, ->28.042006,03.4517<- 1 tháng Tư, 29 ngày

Tiểu Mảng, tiet = 11 ->21.052006,12.2841

k = 79, ->27.052006,13.2700<- 1 tháng Năm, 30 ngày

Hạ Chí, tiet = 13 ->21.062006,20.2503

k = 80, ->26.062006,00.0642<- 1 tháng Sáu, 29 ngày

Đại Thử, tiet = 15 ->23.072006,07.1823

k = 81, ->25.072006,12.3218<- 1 tháng Bảy, 30 ngày

Sử Thử, tiet = 17 ->23.082006,14.2313

k = 82, ->24.082006,03.1112<- 1 tháng Bảy Nhuận, 29 ngày

k = 83, ->22.092006,19.4634<- 1 tháng Tám, 30 ngày

Thu Phân, tiet = 19 ->23.092006,12.0247

k = 84, ->22.102006,13.1539<- 1 tháng Chín, 30 ngày

Sương Giáng, tiet = 21 ->23.102006,21.2454

k = 85, ->21.112006,6.1941<- 1 tháng Mười, 29 ngày

Tiểu Tuyết, tiet = 23 ->22.112006,19.0010

k = 86, ->20.122006,22.0221<- 1 tháng Mười Một, 30 ngày

Đông Chí, tiet = 1 ->22.122006,8.2113

k = 87, ->19.012007,12.0204<- Mùng 1 tháng Chạp

Chúng ta thấy tháng k=82 không có trung khí, cho nên nó sẻ là tháng nhuận, tháng trước nó là tháng Bảy, nên nó sẻ là tháng Bảy Nhuận vậy.

Nay chúng ta đã tính các móc âm lịch cho năm Bính Tuất, sẳn đây ta có thể phân tích sực khác biệt giửa lịch vạn niên và lịch Bloc cho năm Bính Tuất nhé.

Lịch vạn niên dùng múi giờ là 8 để tính (trung quốc là múi giờ 8) và lịch Bloc dùng múi giờ 7. Ta hảy tính các móc tiết và trăng mới cho tháng 4,5,6,7,8,9 dùng múi giờ 7 và 8 nhé.

Múi giờ 7

k = 78, ->28.042006,02.4517<- 1 tháng Tư, 29 ngày

Tiểu Mảng, tiet = 11->21.052006,11.2841

k = 79, ->27.052006,12.2700<- 1 tháng Năm, 29 ngày

Hạ Chí, tiet = 13->21.062006,19.2502

k = 80, ->25.062006,23.0642<- 1 tháng Sáu, 30 ngày

Đại Thử, tiet = 15->23.072006,06.1823

k = 81, ->25.072006,11.3218<- 1 tháng Bảy, 30 ngày

Sử Thử, tiet = 17->23.082006,13.2313

k = 82, ->24.082006,02.1112<- 1 tháng Bảy Nhuận, 29 ngày

k = 83, ->22.092006,18.4634<- 1 tháng Tám, 30 ngày

Thu Phân, tiet = 19->23.092006,11.0247

Múi giờ 8

k = 78, ->28.042006,03.4517<- 1 tháng Tư, 29 ngày

Tiểu Mảng, tiet = 11->21.052006,12.2841

k = 79, ->27.052006,13.2700<- 1 tháng Năm, 30 ngày

Hạ Chí, tiet = 13->21.062006,20.2503

k = 80, ->26.062006,00.0642<- 1 tháng Sáu, 29 ngày

Đại Thử, tiet = 15->23.072006,07.1823

k = 81, ->25.072006,12.3218<- 1 tháng Bảy, 30 ngày

Sử Thử, tiet = 17->23.082006,14.2313

k = 82, ->24.082006,03.1112<- 1 tháng Bảy Nhuận, 29 ngày

k = 83, ->22.092006,19.4634<- 1 tháng Tám, 30 ngày

Thu Phân, tiet = 19->23.092006,12.0247

Ta thấy sự khác biệt giửa hai lịch là múi giờ, Bloc dùng múi giờ 7, nên các móc đến sau lịch vạn niên 1 giờ. Nguyên do chính là mùng 1 tháng k=80. Theo múi giờ 8 thì nó đả bước sang ngày mới rồi, tức là ngày 26.062006 dương lịch và con trăng mớ xảy ra lúc 00.0642 (không giờ 6 phút 42 giây). Nhưng theo lịch Bloc múi giờ 7 thì nó đến vào ngày 25.062006 dương lịch và trăng mới xảy ra vào 23.0642 (11 giờ 6 phút 42 giây PM) tức vẩn còn ở trong ngày 25.062006, thay vì ngày 26.062006 theo múi giờ 8 của lịch vạn niên. Vì lý do này, mà lịch Bloc chỉ có 29 ngày trong tháng năm và 30 ngày trong tháng sáu âm lịch. Còn lịch vạn niên thì có 30 ngày trong tháng năm và 29 ngày trong tháng sáu vậy.

vạn niên lịch

k=79: mùng 1 tháng 5, 27.052006 DL ----> k=80: mùng 1 tháng 6, 26.062006 = 30 ngày

k=80: mùng 1 tháng 6, 26.062006 DL ----> k=81: mùng 1 tháng 7, 25.072006 = 29 ngày

lịch Bloc

k=79: mùng 1 tháng 5, 27.052006 DL ----> k=80: mùng 1 tháng 6, 25.062007 = 29 ngày

k=80: mùng 1 tháng 6, 25.062007 DL ----> k=81: mùng 1 tháng 7, 25.072006 = 30 ngày

Vì lý do vừa bàn thảo trên mà có sự khác biệt đấy.

Làm thế nào tránh khỏi tình trạng này? Chỉ có cách là lập ra một múi giờ mốc để tính toán lịch. Ta có thể dùng múi giờ 8 làm mốc tính lịch. Còn các thời điểm như trăng mới, trăng tròn, thời điểm tiết khí thì ta chỉ cần giảm đi mấy giờ theo sự khác biệt của múi giờ, trong trường hợp này thì là giảm đi 1 giờ vậy.

VinhL

Share this post


Link to post
Share on other sites

Theo tài liệu của VinhL thì:

Ngày 27/03/2009 0g07 là Mùng 1 tháng ba âm lịch

Ta thấy Ngày 27/03 trăng mới xuất hiện khoảng 0g07 tức vừa mới bước vào ngày 27

Dùng múi giờ GMT +7 thì ta có

Ngày 26/03/2009 23g07 là Mùng 1 tháng ba tức vẫn ở ngày 26, và ngày 27 sẻ là Mùng 2 tháng 3 âm lịch.

Như vậy thì 23g 07 phút là đã trong giờ Tý của ngày 27 theo múi giờ thứ 7 và nếu lấy múi giờ thứ 8 thì cũng vẫn là giờ Tý.Bởi vậy, ngày 27 / 3 2009 là mùng 1 là hoàn toàn chính xác.Bởi vậy,Nếu lịch nào lấy ngày 26 Tây là mùng 1 tháng 3 là sai.

Chúng ta cũng cần lưu ý rằng:

11g 07 - theo múi giờ 7 và 12g 07 theo múi giờ 8 là một cách nhìn chủ quan. Bới vì:

Nếu đứng ở vị trí múi giờ 7 thì chúng ta thấy 12g 07 là giờ Trăng mới của múi giờ 8. Nhưng nếu đứng ở vị trí múi giờ 8 thì vẫn là 11g 07.

Vài lời bàn góp.

Thái Hòa thân mến.

Theo chú Thái Hòa nên lấy lịch Vạn Niên làm chuẩn.

Thiên Sứ

Share this post


Link to post
Share on other sites

xin chào tất cả! Nếu dc xin hỏi tác giả của cốn "Lịch Vạn Niên Dịch Học Phổ Thông" tôi có tra cứu ngày giờ trên cuốn "Lịch Vạn Niên Dịch Học Phổ Thông" do PGS PTS Hoàng Nam, biên tập Nguyễn Thị Chính, vào những ngày 10/12/2008 của các lịch thường thì ngày âm của "Lịch Vạn Niên Dịch Học Phổ Thông" không trùng khớp với lịch. mong có câu trả lời sớm!

Share this post


Link to post
Share on other sites

xin chào tất cả! Nếu dc xin hỏi tác giả của cốn "Lịch Vạn Niên Dịch Học Phổ Thông" tôi có tra cứu ngày giờ trên cuốn "Lịch Vạn Niên Dịch Học Phổ Thông" do PGS PTS Hoàng Nam, biên tập Nguyễn Thị Chính, vào những ngày 10/12/2008 của các lịch thường thì ngày âm của "Lịch Vạn Niên Dịch Học Phổ Thông" không trùng khớp với lịch. mong có câu trả lời sớm!

Topic này là câu trả lời quá rõ. Mrdung xem kỹ lại. Tôi xóa bớt một bài có nội dung tương tự ở đây.

Share this post


Link to post
Share on other sites