Posted 17 Tháng 5, 2008 Đây là bài viết của Moclan mà ThanhTrang sưu tầm được từ trang web Nhantrachoc để cùng các bạn tìm hiểu môn học tử bình này ---- Hôm nay moclan giới thiệu các bạn 1 cách để hiểu được tứ trụ của mình giản đơn vô cùng, coi như là bước đầu cho việc tìm hiểu môn Tử bình tuyệt diệu. Đối với các bạn chưa biết gì về Dịch học, tử vi... moclan xin nhắc lại vài điểm mấu chốt của ngũ hành và âm dương, vì nó là phần cốt lũy của mọi sự việc để giải thích tất cả vũ trụ! Âm và Dương là 2 cực khác nhau, như Sáng và Tối... 10 thiên can, 12 địa chi chia ra thành nửa phần đối đãi nhau. Can và Chi được giải thích là những giai đoạn sinh trưởng có trật tự cố định trong trời đất, từ lúc nẩy mầm, vươn lên, trưởng thành, thuần thục, kết hoa trái, thành quả, sinh hạt, suy tàn và chết. - Can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm (+) - Can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quí (-) - Chi dương: Dần, Ngọ, Thìn, Tuất, Thân, Tí (+) - Chi âm: Mão, Tỵ, Sửu, Mùi, Dậu, Hợi (-) Ngũ hành là 5 khí tương tác lẫn nhau làm cho sự vật ra đời: Thổ, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa. Ngũ hành cũng chia 2 loại Dương và Âm. - Giáp= Can Dương Mộc - Ất = Can Âm Mộc - Bính = Can Dương Hỏa - Đinh = Can Âm Hỏa - Mậu = Can Dương Thổ - Kỷ = Can Âm Thổ - Canh = Can Dương Kim - Tân = Can Âm Kim - Nhâm = Can Dương Thủy - Quý = Can Âm Thủy - Thìn, Tuất = Chi Dương Thổ - Sửu, Mùi = Chi Âm Thổ - Thân = Chi Dương Kim - Dậu = Chi Âm Kim - Tí = Chi Dương Thủy - Hợi = Chi Âm Thủy - Dần = Chi Dương Mộc - Mão = Chi Âm Mộc - Ngọ = Chi Dương Hỏa - Tỵ = Chi Âm Hỏa Tính chất của các Can và Chi cùng khí chất kể trên có quan hệ với nhau theo nguyên lý của Dịch, chúng ta chỉ cần nắm vững các nguyên tắc này: 1. Đồng hành, đồng cực thì đẩy nhau (kỵ nhau nhưng không hại nhau): - Thìn Tuất (cùng là +Thổ); Sửu Mùi (cùng là -Thổ) 2. Đồng hành mà khác cực thì hút nhau (tương trợ cho mạnh lên): - Giáp Ất (+ - Mộc) - Bính Đinh (+ - Hỏa) - Mậu Kỷ (+ - Thổ) - Canh Tân (+ - Kim) - Nhâm Quý (+ - Thủy) - và các Chi: Tý Hợi, Tỵ Ngọ, Dần Mão, Thân Dậu 3. Khác hành mà nghịch nhau (hành này hủy diệt hành kia): - Thủy khắc Hỏa - Hỏa # Kim - Kim # Mộc - Mộc # Thổ - Thổ # Thủy 4. Khác hành mà tương sinh (hành này sinh lợi cho hành kia): - Thủy sinh cho Mộc - Mộc > Hỏa - Hỏa > Thổ - Thổ > Kim - Kim > Thủy 5. Khác hành mà đồng cực thì càng sinh hoặc khắc mạnh hơn! Nếu là tương sinh thì hành đi sinh lợi sẽ bị hao tổn khí lực, hành được sinh sẽ vững mạnh. Nếu là tương khắc thì hành đi khắc cũng hao mòn rất nhiều và hành bị khắc đã yếu lại còn yếu hơn, mau chóng lụi tàn! 6. Khác hành mà khác cực: Tốt hay Xấu thì tùy theo tính âm dương của 2 đối tượng. - Nếu chủ thể là dương mà bị thể là âm thì sự sinh hay khắc bình thường, thuận lý âm dương. - Nếu chủ thể là âm, bị thể là dương thì sinh/khắc yếu đuối. Đôi khi chủ thể âm trường hợp này còn đau đầu xứt trán là khác nếu không có cứu giúp! Các thí dụ thì phải tìm trong các bảng Can/Chi hợp/xung/hình/hại sẽ viết sau. Chủ yếu là mình biết đó là những trường hợp cần chú ý nhất khi chọn dụng thần sau này. Trong tử bình có nhiều từ ngữ riêng, thí dụ như "chế"; "hóa"..., nhưng đơn giản để hiểu là như Hỏa mà yếu thì không chế được Kim mạnh (lửa của cây đèn cầy làm sao đúc được một thanh kiếm?); Mộc âm thì sinh thế nào cho Hỏa dương (gỗ ướt nhẹm làm sao đốt thành lửa?)... 6 trường hợp trên sẽ gặp phải trong những cách xung, hợp, khắc, hại của Can và Chi như sau: * CAN hợp nhau: - Giáp +mộc hợp Kỷ -thổ (hóa Thổ) - Ất -mộc hợp Canh -kim (hóa Kim) - Bính +hỏa hợp Tân -kim (hóa Thủy) - Đinh -hỏa hợp Nhâm +thủy (hóa Mộc) - Mậu +thổ hợp Quý -thủy (hóa Hỏa) Những cặp trên gặp nhau có HỢP nhưng không phải lúc nào cũng HÓA được (tức là 2 hành hợp lại chỉ còn 1 hành và rất mạnh). Cũng vậy, khi Chi gặp nhau mà tương hợp cũng sẽ có khi hóa được nếu gặp điều kiện đúng: * CHI hợp nhau - Các bạn để ý có 2 trường hợp khác biệt cần chú ý vì hay nhầm lẫn: 1)- Lục hợp âm dương (1 âm và 1 dương khác hành, hợp nhau gặp đúng điều kiện sẽ hóa chung lại thành 1 hành): - Tí +thủy hợp Sửu -thổ (hóa Thổ) - Hợi -thủy hợp Dần +mộc (hóa Mộc) - Mão -mộc hợp Tuất +thổ (hóa Hỏa) - Thìn +thổ hợp Dậu -kim (hóa Kim) - Tỵ -hỏa hợp Thân +kim (hóa Thủy) - Riêng Ngọ +hỏa là Thái Dương và Mùi -thổ là Thái Âm có hợp mà không bao giờ hóa. 2)- Nhị hợp âm dương (1 âm và 1 dương cùng hành): - Tý Hợi (+ - thủy) - Dần Mão (+ - mộc) - Tỵ Ngọ (+ - hỏa) - Thân Dậu (+ - kim) - Cặp Thìn Tuất và cặp Sửu Mùi (+ - thổ) * CAN xung khắc (theo cơ chế đồng cực mà khác hành): - Giáp Mậu (+mộc +thổ) - Ất Kỷ (-mộc -thổ) - Bính Canh (+hỏa +kim) - Đinh Tân (-hỏa -kim) - Mậu Nhâm (+thổ +thủy) - Kỷ Quý (-thổ -thủy) - Canh Giáp (+kim +mộc) - Tân Ất (-kim -mộc) - Nhâm Bính (+thủy +hỏa) - Quý Đinh (-thủy -hỏa) Khi Can xung khắc nhau mà ở giữa có Can hóa giải theo lý "tham sinh kỵ khắc" thì không còn xảy ra xung khắc nữa. Thí dụ: Giáp can năm khắc Mậu can ngày, nhưng có can tháng là Bính hỏa thì Giáp sinh cho Bính, không khắc Mậu nữa. Để ý là Bính dương hỏa mới tốt, chứ Đinh âm hỏa lại không cứu giải được trường hợp này. * CHI xung nhau là các chi trên biểu đồ đối nghịch nhau và có hành tương phản tạo thành "lục xung" rất mạnh: 1)- Tứ Xung (đồng cực khác hành) - Tý Ngọ (cùng là dương, thủy khắc hỏa) - Tỵ Hợi (cùng là âm, thủy khắc hỏa) - Mão Dậu (cùng là âm, kim khắc mộc) - Dần Thân (cùng là dương, kim khắc mộc) 2)- Nhị xung (đồng cực đồng hành; chỉ có Thổ; nhưng xung mà không có khắc): - Thìn Tuất - Sửu Mùi Ngoài ra còn có loại HẠI nhau, như ỷ mạnh hiếp yếu vậy, cho dù là tương sinh như Ngọ hỏa sinh cho Sửu thổ; Ngọ là dương, Sửu là âm, nhưng Ngọ và Sửu đứng đối nhau trên đồ hình tính theo cực âm-dương nên hại nhau chứ không sinh cho nữa. Điều này không theo cơ chế Khác Hành Sinh Khắc (điểm 4 bài đầu tiên), các bạn nên chú ý, loại tương hại này chỉ để tham khảo thêm mà thôi: - Tí Mùi - Sửu Ngọ - Dần Tỵ - Mão Thìn - Thân Hợi - Dậu Tuất Còn tiếp 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 17 Tháng 5, 2008 Ðề: Tứ trụ thật dễ hiểu Các bạn có để ý rằng khi nói đến Địa Chi thì không đề cập đến quan hệ tương sinh (thí dụ như không nói Tí sinh Mão, hay Thìn sinh Dậu..) mà chỉ luận đến quan hệ KHẮC, XUNG, HÌNH, HẠI của các chi lẫn nhau mà thôi. Nhưng các Chi có hợp lại thành HỘI hay thành CỤC, cũng là nằm trong ý nghĩa của sự tương trợ, tương sinh cho nhau và chỉ có ảnh hưởng mạnh khi chúng tụ họp lại. Khi xét trong Tử bình, đầu tiên là xét Tam hội, sau đó là Tam hợp Cục, vì lý do khí của tam hội mạnh hơn khi chúng dồn về 1 phương hướng, khí của chúng "thuần" nên rất mạnh, còn Tam Cục thì do vòng trường sinh tạo thành, lẫn nhiều tạp khí. Cát hay Hung của Hội hay Cục là tùy theo tứ trụ. Có khi cần phải cần giải tán Hội, Cục để cứu lấy thân. * Tam Hội 1) Phương Đông Mộc = Dần Mão Thìn 2) Phương Nam Hỏa = Tị Ngọ Mùi 3) Phương Tây Kim = Thân Dậu Tuất 4) Phương Bắc Thủy = Hợi Tý Sửu Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là thổ trung ương, theo tiết trời là những tiết cuối của 4 mùa. * Tam Cục 1) Thủy Cục = Thân Tí Thìn 2) Mộc Cục = Hợi Mão Mùi 3) Hỏa Cục = Dần Ngọ Tuất 4) Kim Cục = Tị Dậu Sửu Theo bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt của ngũ hành, thí dụ như hành Thủy trường sinh ở Thân (kim sinh thủy), vượng ở Tí (thủy đồng hành) và mộ ở Thìn (thổ cuối mùa Xuân), cho nên Thân-Tí-Thìn hợp lại thành Cục Thủy. Các Thiên Can có quan hệ với nhau thì đầy đủ, có Sinh, có Khắc, có Hợp và Hóa. Chính vì thế mà dưới các Chi lại phải tìm Can tàng trong nó, tức là bản khí trời sinh ra của nó. Có Chi thuần khí, có Chi bị tạp khí. Nhưng chung quy là Tử bình xét qua Địa nguyên (CHI) tìm lại bản chất khí ban đầu của Thiên nguyên (CAN), và như thế cũng là tìm được Nhân nguyên (NGƯỜI). Đó là thuyết Tam Tài. Thiên Can là trời cho, Địa nguyên là do sinh khí của đất, của cha mẹ tổ tiên, còn Can tàng ẩn trong địa chi đó chính là con người của ta nằm trong môi trường đang có. Vì thế nên luôn luôn có sản sinh ra cái mới mặc dù có sự lập lại của tứ trụ. Đây là mấu chốt để hiểu tứ trụ là quan niệm của Tam Nguyên Vận Khí là như vậy. Tử bình lấy ngày làm chủ và tiết tháng làm lệnh. Hai trụ này là không gian chính của thời điểm một người sinh ra đời. Trụ năm đã được tính theo vòng 60 niên mệnh, còn trụ giờ có tầm ảnh hưởng nhất định theo ngày. Con người quá bé nhỏ trước một nguyên vận 180 năm, đối với 60 năm trung bình một đời người còn khả dĩ xem xét được, nên 12 tiết lệnh của tháng trong năm có tầm quan trọng lớn nhất của tứ trụ. Còn trụ giờ bổ sung vào làm cho sự tính toán có thể "nhìn thấy" được. Nếu bạn nào đã có kinh nghiệm, thường thì khi có đủ 3 trụ là có thể suy ra được trụ giờ cho một cá thể thông qua vài phương pháp khác như nhân tướng học và xã hội học. Quá trình từ sinh cho đến tử của vạn vật có thể chia ra làm 5 giai đoạn lớn hợp với sự sinh khắc của 5 Hành: -Vượng: giai đoạn đang trên đà phát triển mạnh -Tướng: giai đoạn đã phát triển, nhưng đứng yên -Hưu: giai đoạn nghỉ ngơi, không còn sức phát triển nữa -Tù: giai đoạn suy giảm, sa sút -Tử: giai đoạn bị khắc chế hoàn toàn, sự vật chết Trung bình cho 1 năm nếu tính gọn là 360 ngày thì mỗi một giai đoạn trên chiếm 72 ngày. Một năm chia ra làm 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông có 24 tiết khí thì mỗi tiết trung bình chiếm 15 ngày. Nhưng theo các địa chi hành quyền trong 12 tháng có tàng chứa bản khí, trung khí và khí thừa khác nhau thì số ngày này được tính tùy theo tháng với 12 khí chính như sau (can cuối cùng là bản khí): Tháng Giêng - Dần - Lập Xuân - Mậu và Kỷ chung 7 ngày, Bính 7 ngày, Giáp 16 ngày Tháng Hai - Mão - Kinh trập: - Giáp 10 ngày, Ất 20 ngày Tháng Ba - Thìn - Thanh Minh: - Ất 9 ngày, Quý 3 ngày, Mậu 18 ngày (thổ cuối mùa) Tháng Tư - Tỵ - Lập Hạ: - Mậu 5 ngày, Canh 9 ngày, Bính 16 ngày Tháng 5 - Ngọ - Mang Chủng: - Bính 10 ngày, Kỷ 9 ngày, Đinh 11 ngày Tháng 6 - Mùi - Tiểu Thử: - Đinh 9 ngày, Ất 3 ngày, Kỷ 18 ngày (thổ cuối mùa) Tháng 7 - Thân - Lập Thu: - Mậu và Kỷ chung 10 ngày, Nhâm 3 ngày, Canh 17 ngày Tháng 8 - Dậu - Bạch Lộ: - Canh 10 ngày, Tân 20 ngày Tháng 9 - Tuất - Hàn Lộ: - Tân 9 ngày, Đinh 3 ngày, Mậu 18 (thổ cuối mùa) Tháng 10 - Hợi - Lập Đông: - Mậu 7 ngày, Giáp 5 ngày, Nhâm 18 ngày Tháng 11 - Tý - Đại Tuyết: - Nhâm 10 ngày, Quý 20 ngày Tháng 12 - Sửu - Tiểu Hàn: - Quý 9 ngày, Tân 3 ngày, Kỷ 18 (thổ cuối mùa) Các bạn nhận thấy rằng Thìn Tuất Sửu Mùi có vị trí chuyển giao mùa rất rõ và chúng hành quyền vào những ngày cuối mùa rất mạnh. Khi đã sang mùa, hành Thổ đó còn lại vài ngày gọi là "dư khí". Bản khí là hành cùng với địa chi, sang tháng sau, hành đó đọng lại vài ngày nhưng chỉ là dư khí. Thí dụ như cuối Lập Xuân, dương mộc (Giáp) mạnh, sang tháng Hai, 10 ngày đầu vẫn còn khí thừa của Giáp, nhưng không mạnh bằng. Những tháng giữa mùa như tháng Mão (2), tháng Ngọ (5), tháng Dậu (8) và tháng Tý (11) thường được cho là thuần khí nhất vì là cao điểm của mùa nên có thể chỉ tính bản khí mà thôi. Thí dụ như tháng Mão thuần Ất mộc, âm tính mạnh. Khi xét đoán lệnh tháng, cần nhớ những điều này để chọn dụng hỉ thần, vì nếu bản khí không mạnh thì không nên chọn, dụng thần sẽ không có lực. Tháng sinh trong năm là một trong những quy ước của Tử bình để tính ra được thân vượng hay nhược. Nó là bước đầu tiên quan trọng khi bạn nhìn vào một tứ trụ. Tiết Khí trong tháng đó chứa những nhân nguyên (can tàng độn) chính mà chúng ta gọi là "Lệnh". Từ Lệnh này mà suy ra được sự vượng, suy của 3 trụ kia, cho nên tháng sinh có yêu cầu cao khi xem xét. Xin nhắc lại vài từ cho quen cách dùng trong Tử bình: - Vượng: thịnh vượng, hưng vượng, sáng sủa, tốt đẹp - Nhược: suy, yếu, tàn - Tiết Khí: một năm có 24 Tiết Khí, trong đó chia ra 12 Tiết và 12 Khí được tính theo dương lịch (kinh độ mặt trời). Thường thì người ta hay nói chung là tiết khí, nhưng đúng ra thì gọi Tiết Lập Xuân, Khí Vũ Thủy. - Nhân nguyên: như đã có trình bày, mỗi một Chi đều có đủ 5 hành, nhưng chỉ có các Can tàng có ngũ hành hữu dụng trong Chi đó mới được nêu ra. Có khi bạn chỉ thấy Can bản khí mà thôi, thí dụ như tiết Kinh Trập, can tàng chính là Ất, nhưng thật ra còn có Giáp hành quyền 10 ngày đầu, sau đó mới tới Ất. Lý do là Giáp từ Khí của Tiết Lập Xuân còn lại. - Lệnh: tức là hành chính của khoảng thời gian đó, nói rõ hơn là Can nào đại diện chính để biết nhật chủ (Can ngày) có tính cách vượng hay suy. Có 5 Can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm 5 Can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý Vòng trường sinh của vạn vật không thay đổi theo chu kỳ đi tới: 1. Trường sinh: mọc nầm, nảy sinh 2. Mộc dục: vừa được sinh ra, lố dạng 3. Quan đái: dần dần mạnh lên 4. Lâm quan: trưởng thành 5. Đế vượng: thành thục, mạnh mẽ cực độ 6. Suy: bắt đầu giảm chất lượng 7. Bệnh: khốn đốn, cơ cực 8. Tử: bị diệt, suy tàn 9. Mộ: trở về nơi tàng trữ 10. Tuyệt: tất cả các khí bị mất hết 11. Thai: khí lại bắt đầu giao nhau, kết thành thai 12. Dưỡng: đang phát mầm mống Can dương thì đi thuận, can âm tính ngược trong vòng Trường sinh. Nói thế không phải là can âm bị tính từ Dưỡng trở về Trường Sinh, mà tính từ Ngọ là thời điểm dương đã lên cao, bắt đầu trở về quy trình âm. Một ngày bắt đầu từ giờ Tí cho đến giờ Ngọ giữa trưa là đã thấy bắt đầu âm sinh trưởng, chiều tối đến giờ Hợi là chấm dứt một vòng. Vì thế các can âm trường sinh (bắt đầu lố dạng) tại nơi mà các can dương ở giai đoạn Tử. Còn tiếp 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 8, 2008 Bài viết rất bổ ích chị ơi, mong chị tiếp tục sưu tầm những bài hay như vậy, giúp mọi người tiếp cận Tử bình dễ hơn. Cảm ơn chị ! Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 8, 2008 Ðề: Tứ trụ thật dễ hiểu -------------------------------------------------------------------------------- RPV: Cho tớ hỏi là trong các can thì can ngày là đại diện của người đó còn các can khác như can tháng năm và giờ thì của người đó đối với xã hội và với cái khác . Thế nếu tính 2 người hợp tuổi thì xét giữa can nào với can nào ? Mộclan: Mãi đến hôm nay, moclan mới viết tiếp được chủ đề này, hy vọng các bạn ham thích môn học này không nản chí mà theo dõi tiếp. Các câu hỏi của nhiều bạn trong thời gian qua, moclan không trả lời được, xin thứ lỗi cho. Trước khi trở lại "chương trình" xin trả lời ngắn gọn bạn RvP. Chắc là bạn muốn nói đến nhân duyên vợ chồng? Tứ trụ căn bản đã là tìm sự cân bằng, tránh bất cập, tránh thái quá, không quá khô nóng, không quá nhuận mát... nên khi so sánh 2 tứ trụ với nhau, rõ là mình phải tìm được cái mình thiếu hoặc lấp được sự dư thừa của mình. Vậy nên so sánh cả bát tự với nhau là hợp lý nhất và xem kỹ phần thiên khắc địa xung. Tuy nhiên, sự tác hợp ngẫu nhiên giữa 2 tứ trụ vạn vạn sa số, điều này dễ nhận ra trong khi so sánh 2 tứ trụ, thế nhưng không phải vì vậy mà ăn đời ở kiếp với nhau được hoặc phải hy sinh một vấn đề nào đó. Muốn xem kỹ hơn, đời xưa còn phải xem dụng hỉ kỵ thần và nhất là xem trọng nam hơn nữ, nên phần luận về 10 thần khác nhau. Nữ chỉ được xem Thực thần (con cái) và Quan Sát (chồng), nếu là hành kỵ của nam thì kể như không thành. Hiện tại thì điều này có thay đổi rất nhiều. Thí dụ để tham khảo: Chồng:.....Bính Thân, Bính Thân, Quý Hợi, ..Canh Thân Vợ:..........Đinh Dậu, .Nhâm Tí, ..Đinh Mão, Canh Tuất - không có thiên khắc địa xung - có tam hội Thân Dậu Tuất (phía tây) - Thân Tí bán tam hợp thủy - Hợi Mão bán tam hợp mộc - hội lý tương sinh kim-thủy-mộc - tứ trụ chồng nhiều Canh mà không có Đinh dẫn thì số nghèo khổ, cô đơn; gặp trụ vợ có nhiều Đinh nên từ khi lấy vợ nhà cửa vững chắc, làm lương khá ra - ngược lại vợ tứ trụ Đinh hỏa sinh mùa đông, phải chọn Canh hay Giáp tương trợ, hòa được với số của chồng nên thuận thảo - cả hai đều vượng ở chữ Nhâm, vợ thấu Nhâm, chồng tàng địa chi là hữu duyên hữu tình, vợ chồng tương đắc - duy chỉ có đường con cái là không được hài lòng; vì vợ Đinh hỏa mùa đông lại kỵ Kỷ thổ (Thực) nên sinh con khó, đến nay chưa được lần nào mẹ tròn con vuông. Nhân vậy viết thêm về thí dụ của 1 cặp tứ trụ gặp nhau cũng như duyên nợ định sẵn. Nhìn vào phải ngạc nhiên vì từng can từng chi ăn khớp với nhau hệt như ông bà bảo là có sợi chỉ bạc cột chặt vậy. Chồng:...Quý Mão...Ất Sữu...Nhâm Tuất...Quý Mão Vợ:........Mậu Thân..Kỷ Mùi...Đinh Hợi.....Bính Ngọ Ta thấy có 2 cặp Can hợp hóa: Mậu-Quý và Đinh-Nhâm Chi hợp tốt nhất trong trụ: tam hợp mộc Hợi Mão Mùi Do có tam hợp nên Mão nằm trong tam hợp rồi không phá Ngọ nữa. Lại có bán hợp Hỏa Tuất-Ngọ (Ngọ vì thế cũng không hình phá Mùi nữa). Vậy cặp vợ chồng này chung nhau một sức mạnh là Mộc. Vận Ất Mão của vợ là vận lên cao nhất của gia đình vì cũng gặp tam hợp Mộc trở lại. Mộc là ấn thụ của Đinh hỏa (nhật chủ vợ), là Thực Thương của Nhâm thủy (nhật chủ chồng). Hai vợ chồng làm ăn từ 10 năm nay vì thế rất phát, lên như diều gặp gió. Riêng từng tứ trụ thì chồng thiếu Hỏa, nương vào lực Hỏa vượng của vợ; vợ thì lấy Thủy làm dụng thần (là quan tinh Nhâm trong chi ngày). Trụ ngày của chồng là Nhâm chính là chi Hợi (tàng Nhâm) của vợ. Thế nhưng đấy là bề ngoài, nhìn cả 2 tứ trụ để hiểu tại sao họ lại kết duyên nợ, nhìn từng tứ trụ thì mới thấy được nhân cách và công việc làm của mỗi người. Nói đến người vợ, tính cách của Đinh âm hỏa sinh mùa hạ, gốc kiến lộc tại giờ Ngọ, Hợi Mùi bán hợp ở trụ tháng là anh chị em giúp đỡ tận tình (không quên Mộc là ấn sinh thân). Nhưng Đinh hỏa thường phải là âm nhu, khí thì phải trung chính, lại thấu Thương và Quan nên nắm đầu chủ trong gia đình. Đinh hỏa phải có Tân kim để bớt xung nộ, nhưng trong trụ không có nên tính lấn lướt chồng con kể như "thoải mái". Còn trụ ngày của chồng có gì? Nhâm Tuất, tàng Mậu, là Sát. Nam nhi mà có Sát đóng chi ngày là thường dưới quyền "bà"! Tử bình có nhiều tiêu chí tương hợp để gắn bó, cũng như thiếu sót để bù lấp, nhưng cũng không thiếu cảnh hình, xung, khắc, hại, phá lẫn nhau... mà nếu so sánh sẽ thấy rõ trước mắt, còn các đại vận thì có khi nhờ vận tốt lẫn nhau mà sống đời. nói ngắn về tứ trụ của Diana. Công nương xứ Wales sinh 1.7.1961, 19:45 SÁT........KIẾP............TÀI....THƯƠNG Tân Sửu - Giáp Ngọ - Ất Mùi - Bính Tuất Vận: Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất Sinh tháng Ngọ, hỏa vượng, thổ tướng, thân Ất âm mộc vừa cạn kiệt đang hưu tù, thủy cũng bốc hơi tan biến nên phần ấn sinh cho rất yếu. Tất cả can trong trụ đều không có khí gốc hỗ trợ (bản khí tàng trong chi). Thổ trong trụ là Tài vượng, lộ ở chi ngày, nhưng Quan tinh không có, kể như một thí dụ của việc có chồng cũng như không, hoặc là tình yêu thực sự không có. Hàm trì Đào Hoa nói lên được tính cách không thuận vợ thuận chồng trong tứ trụ này. Trụ năm và trụ ngày rất kém lại thiên khắc địa xung, không có cát thần tạo phúc, nên mệnh rất mỏng manh, không vững. Xấu nhất là trụ có tam hình Sửu Tuất Mùi chực sẵn. Ngọ Tuất vượng hỏa sinh Tài khắc thân. Kỵ thần tất nhiên là Thổ, trong khi dụng thần (khả dĩ) là Quý không có lực. Vậy ta biết là chuyện gì sẽ xảy ra khi vận Thổ lên, một điều không tránh khỏi! Hỏa Thổ tương sinh cùng vượng làm tứ trụ quá nóng, không thích hợp với Ất mộc. Vận Bính Thân, Bính hợp Tân hóa thủy, mọi việc êm đẹp, cuối vận lấy chồng lên ngôi công chúa. Vận Đinh Dậu bắt đầu khổ sở tinh thần từ 90, vì Đinh hỏa khắc Tân kim trụ năm, Kỷ thổ đáng lý ra là can hóa giải giữa Đinh và Tân, nhưng vì Thổ là kỵ thần nên ngược lại còn làm tình thế trầm trọng hơn. Đầu vận Mậu Tuất, Tài vận lên bị Kiếp đoạt (trụ tháng), đấy là tượng hôn nhân đổ vỡ, ly thân, ly dị. Điều xấu nhất trong vận này như đã nói là tam hình gặp đủ: Sửu Tuất Mùi. Năm Sửu gặp vận Tuất cùng với ngày Mùi, bị tai nạn xe năm Đinh Sửu dưới hầm đường xe chạy. Cái nạn Thổ đã tự biểu lộ quá đầy đủ trong các tiêu chí vừa kể: - các chi đều thổ - nơi xảy ra tai nạn cũng là 1 loại thổ vì đường hầm đào ở dưới đất - hành Kim tử mùa Hè ở đây chính là chiếc xe hơi Nói thêm về tam hình Sửu Tuất Mùi, đây là loại hình thường cho thấy người trong cuộc gặp một trường hợp không thể tự mình thoát ra được, một vấn đề vô phương cứu chữa, mà nguyên nhân là chuyện không đề phòng, không cẩn thận của chính họ. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 12, 2008 Chị Thanhtrang viết rất rễ hiểu và nhiều kiến thức tổng hợp, chứng tỏ chị đã nghiên cứu lâu và đã thu nhận được nhiều kiến thức. Mong chị rành nhiều thời gian hơn để nhiều người được học tập. Tôi cũng đang nghiên cứu học tập về môn này, phải nói là càng ngày càng thấy hay khi hiểu được các nguyên lý như chị nêu trên, cho dù vẫn còn nhiều thắc mắc mà tự mình nghiên cứu chưa lý giải được như: cơ sở ước lượng sự vượng suy của mỗi hành trong ngũ hành, đặc biệt là can ngày để khi sét với các hành khác. Vì thấy các sách đều nói đây là điểm quan trọng trước nhất phải đánh giá đúng thì mới tìm được dụng thần ..v.v.. Mong sớm được đọc tiếp các bài viết của chị. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 12, 2008 ThanhTrang đã ghi rõ: Đây là bài viết của Moclan mà ThanhTrang sưu tầm được... Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 12, 2008 tiếc là nhantrachoc bị tử, vì ngoại trừ bài trên đây của chị moclan còn có bài của một người viết lại "Tử bình chân thuyên bình chú" cho rõ qua các đồ hình, không biết có ai lưu lại không? đó cũng là 1 công trình tuy hơi khó theo dõi nhưng rất là căn bản. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 12, 2008 Đọc bài sưu tầm của chị thật bổ ích, cảm ơn chị và tác giả:lol:, em cũng rât muốn rõ hơn về tử bình mà chưa biết đọc sách nào:( Nhờ có lý thuyết âm dương ngũ hành này mà em luận tử vi cũng khá hơn trước:D Cụm 1 ly với anh chị:lol: Share this post Link to post Share on other sites
Posted 20 Tháng 12, 2008 Chủ yếu là mình biết đó là những trường hợp cần chú ý nhất khi chọn dụng thần sau này. Trong tử bình có nhiều từ ngữ riêng, thí dụ như "chế"; "hóa"..., nhưng đơn giản để hiểu là như Hỏa mà yếu thì không chế được Kim mạnh (lửa của cây đèn cầy làm sao đúc được một thanh kiếm?); Mộc âm thì sinh thế nào cho Hỏa dương (gỗ ướt nhẹm làm sao đốt thành lửa?)... thieukim muốn nói luôn là cách xem bình thường hay bị quên điểm này, đúng là phải tính âm/dương trong trụ như là một yếu tố có trọng lực để xác định dụng thần có lực hay không. Định luật âm dương thì âm bao giờ cũng bị yếu thế hơn dương vì tính cách của âm là: giáng (chiều hướng đi xuống), yếu, lạnh, nhu mềm, nhược, bóng tối, tiểu nhân....v.v... bởi thế nên chọn dụng thần là can âm (ất, đinh, kỷ, quý, tân) nên xem nó có lực trong mùa sinh hay không, khi tới vận thì có bị hợp mất không hay được hỗ trợ cho mạnh thêm lên (thường là nhờ các chi hợp lại, như lấy ất làm dụng thì có hợi, mão, mùi...) ngoài ra còn nên "đo" chiều dương tính và âm tính của tứ trụ xem bên nào "nặng ký" hơn, tứ trụ ngã về âm nhiều thì không nên chọn dụng thần âm tính nữa, đó là vì định luật vượng quá hóa suy, tức là không phải âm nhiều quá thì trở thành dương :lol: nhưng là tính âm quá nhiều thì phải có dương khí thu thập vào để cân bằng âm dương có những tứ trụ thuần dương hay thuần âm thì lại là phản cách, dĩ nhiên phải hiểu là phải tòng theo âm khí hay dương khí đó luôn, vì một chút xíu khác tính vào là lại làm cho tứ trụ bị yếu ngay, tưởng tượng như dòng nước đang chảy mạnh theo chiều nào thì đi ngược lại rất khó Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 3, 2009 Tứ trụ thật dễ hiểu. sưu tầm. tác giả : Mộc Lan ------------ Hợp hóa giữa các CAN Giáp - Kỷ hóa Thổ Ất - Canh hóa Kim Bính - Tân hóa Thủy Đinh - Nhâm hóa Mộc Mậu - Quý hóa Hỏa Những trường hợp trên có khi hóa thật, có lúc hóa giả, tùy theo Chi. Nếu Can được thông gốc thì hóa thật, ngoài ra là hóa giả. Khi 2 can được yểm trợ đúng từ gốc thì sự hợp hóa hữu tình, thuận lý; hóa giả là chỉ có bề ngoài. Khi can đại vận hợp hóa với 1 can trong tứ trụ mà hóa giả, nên cẩn thận trong quan hệ với nhau, vì hình thức bề ngoài sẽ không phản ánh đúng bản chất đối xử. Mức độ nặng nhẹ tùy theo tứ trụ, tùy theo hóa ra dụng thần hay kỵ thần, hóa ra Quan hay Tài. Cụ thể hóa hợp thật và giả như sau: 1- Giáp Kỷ Giáp phải có chi thuộc Thổ hay Hỏa. Quan hệ được sinh ra là hành Thổ, thuộc tính trung chính, tiến triển vững mạnh. Thí dụ: Giáp Tuất và Kỷ Mùi: hóa thật Nếu Giáp có chi thuộc thủy, mộc hay kim thì Giáp sẽ chú ý đến các quan hệ của cha mẹ, bạn bè hoặc sự nhọc nhằn của công việc và mối quan hệ với Kỷ sẽ lỏng lẻo gượng ép. Thí dụ: Giáp Tí với Kỷ Tỵ: hóa giả 2- Ất Canh Ất cần có gốc là Thổ hay Kim để hỗ trợ hành hóa là Kim. Nếu hóa thật, Ất sẽ hết lòng phụ trợ cho Canh, gọi là có nhân có nghĩa thật sự. Thí dụ: Ất Sửu và Canh Thìn. Hóa giả là khi Ất có chi thuộc mộc hay thủy. Thí dụ như Ất Mão và Canh Tí. Đấy là "giả nhân giả nghĩa". 3- Bính Tân Bính và Tân đều phải có cùng chi thuộc thủy, kim hoặc Thìn. Nếu hóa thật thì hành thủy sẽ được tận dụng khả quan. Đây là hóa uy lực, vào vận cần có Quan hay Sát thì quyền uy vào bậc nhất. Thí dụ Bính Thìn và Tân Hợi. Bính mà gặp chi thuộc hỏa sẽ khắc Tân kim. Tân mà không có thủy hoặc kim làm gốc thì Tân sẽ phản lại Bính. Thí dụ Bính Ngọ và Tân Sửu. Khi gặp vận này hoặc ngay chính tứ trụ thì làm việc tầm thường, kém thế, phận mỏng. 4- Đinh Nhâm Đinh và Nhâm cả hai đều phải có mộc hay thủy trợ lực cho hành hóa là Mộc. Quan hệ sẽ rất sâu đậm. Thí dụ như Đinh Hợi và Nhâm Dần. Hóa giả tạo là khi Nhâm gặp chi thủy và Đinh gặp chi hỏa. Cả hai ngược lại sẽ đấu đá nhau sau một thời gian có hấp lực ngắn ban đầu. Thí dụ Đinh Tỵ và Nhâm Tí. 5- Mậu Quý Mậu thổ và Quý thủy phải có chi mộc hoặc hỏa làm gốc. Như vậy hành hóa là Hỏa sẽ được mạnh mẽ. Thí dụ Mậu Ngọ với Quý Tỵ. Cả Mậu lẫn Quý đều gặp chi thủy thì ngược lại, hành thủy quá nhiều, quá hàn lạnh nên hành hóa là hành Hỏa sẽ sớm nguội tan. Vì thế mới nói rằng quan hệ hóa giả này là quan hệ vô tình. Qua các thí dụ và kiểm nghiệm thực tế sẽ hiểu được tính chất thật của quan hệ hợp hóa; không giống như trong sách chỉ viết ngắn gọn và không giải thích tại sao. Tóm lại, quan trọng là có Chi trợ đúng lực nên Can mới vững. Sự hợp hóa nào cũng thành, tức là có xảy ra, nhưng chỉ khác nhau ở sự phân biệt hóa hữu tình hay hóa vô tình mà thôi. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 3, 2009 Tứ trụ thật dễ hiểu. sưu tầm. tác giả : Mộc Lan ------------ Xin trả lời nhuphuong. Trích: Ví dụ như như về phần hợp giữa các can có hóa thật và hóa giả, vậy theo chị thì MẬU NGỌ hợp với QUÝ HỢI thì là hóa hỏa là thật hay chỉ là hóa giả (trong tứ trụ: MẬU DẦN, KỶ MÙI, MẬU NGỌ, QUÝ HỢI). Theo tứ trụ này thì có sự hợp hóa vì lệnh tháng tàng trữ dư khí ĐINH. Ngoài ra, trụ này có sự hóa khí HỎA rất mạnh do NGỌ (bán tam hợp Dần-Ngọ và hội tụ khí phương nam Ngọ-Mùi. Kiêu Ấn vì thế rất mạnh. Tuy nhiên cần phải cân bằng lại tứ trụ về hành Kim thì Tài Quan mới phát thực sự. Sự hợp hóa moclan viết ở trên nếu tính cho tứ trụ thì suy theo lệnh tháng sinh, nếu tính cho đại vận hoặc lưu niên thì suy theo Vận. Trả lời namnhvp. Tìm kiếm hành thiếu trong tứ trụ và cân bằng lại tứ trụ là các điểm chính của môn này. Bạn đọc lại các trang đầu để hiểu thêm cách tìm. Trả lời tinhle. Hiện thời không hề có sách nào cho biết rõ lời giải cho sự kiếm khuyết hay bất cập của tứ trụ. Chúng ta phải tự tìm hiểu qua việc hiểu biết về Dịch lý. Tùy theo tứ trụ và phong thổ hiện thời nơi người đó sinh sống mà tự giải, chính vì thế mà moclan có tham vọng làm điều này, vì nếu không tự hiểu chính mình thì không thể nào có lời giải được. ---------------- Đã quá lâu rồi không viết thêm, nay moclan trả lời namnhvp, nhuphuong, mindy, cuuan... cũng như nói chung với các bạn điều này. Khi một hành yếu kém hoặc thiếu hẳn trong tứ trụ, nhắc lại là có những mấu quan trọng: - hai hành hai bên trực tiếp có tác động mạnh, thí dụ như kim thiếu thì thổ và thủy "lên tiếng", có nghĩa là: a/ Thổ không có chỗ để tiết khí (để sinh cho) thì sẽ đi khắc Thủy mạnh hơn; giả dụ như ăn học ra trường mà không có chỗ làm thì sẽ làm gì? Có người ra kinh doanh, có người thành công, người thất bại. Trong số thành công mấy ai thích thú thực sự với chuyện mình làm? Người thất bại đổ thừa số phận, hay là xoay trở khó khăn hơn. Nói chữ "khắc" hiểu là như vậy, tức là giải thích nhiều khía cạnh về tâm lý không hài lòng, phải cam tâm gắng chịu, hoặc thiếu phúc đức hơn thì suốt đời lao khổ. b/ Thủy không có Kim hỗ trợ thì bị lực khắc của Thổ làm cho yếu đi và vì thế mà sinh cho Mộc không đủ, giống như mẹ mà bịnh thì con nhỏ bị lây trước hết. Giống như trên, thí dụ cho thấy điều thiếu may mắn như thế. Trong tử bình lực đối xung không phải luôn luôn là xấu, ngược lại cần có chúng để sinh tồn (như Thổ và Thủy vậy), tuy vậy, nếu không có bảo hộ thì giống như nhà không có nóc vậy, bạn chạy đi đâu cũng không khỏi nắng. Khi thiếu 1 hành trong trụ, nói về tính cách của con người là điều trước tiên vì chủ nhân của tứ trụ sẽ kiếm khuyết hẳn đặc điểm đó và sẽ có khuynh hướng "nghịch đảo", đơn giản thôi, đó là vì bản năng sinh tồn của con người là vậy, nếu không được sinh cho thì phải "khắc", phải vất vả, phải tìm kiếm, lao tâm lao lực mới sống được. Tính cách được hình thành dần dần từ bản khí như thế đậm sâu qua môi trường sinh sống là xã hội, trong đó có gia đình, trừong học, bạn bè. Từ tính cách đó mới tạo nên số phận của bạn, không có gì khó hiểu. Khi chúng ta còn nhỏ, rất hiếm khi hiểu được Dịch lý, chẳng có ai chỉ dạy điều thuận nghịch của trời đất, xã hội ngày nay Nho học đã tàn nên những điều này xem như là khách quan. Từ một nhân hai, nhân bốn, tiếp nối như vậy, một thế hệ nhanh chóng hình thành một tính cách đại chúng rồi. Có nói nhiều đi chăng nữa, thì lý luận cuả người học Dịch ngày nay khác xa thời trước, vì thế nên mà luận tính cách và số phận tùy thuộc vào môi trường sinh hoạt, cội rễ của nó là gia đình và phương hướng sinh sống, làm việc. Vậy bậc cha mẹ tìm hiểu Dịch lý rất muốn cân bằng lại cho con cái điều kiếm khuyết này. Như thế nào? - qua cách đặt tên cũng được, nhưng phải tìm thầy đồ, thầy Nho viết sang tiếng Hán, có ý nghĩa bổ sung thôi, quan trọng là không dài quá, không ngắn quá, không cần "nổ", "kêu" quá cũng không quá khiêm nhường. Để ý đến cách đọc tên, vần bằng trắc có đủ, ý nghĩa của tên là quan trọng nhất. - lúc còn nhỏ thì cách ăn uống và chỗ ngủ là quan trọng vì thời gian của nó ở phương hướng đó chiếm nhiều nhất. Thiếu hành nào thì chú ý phương hướng của hành đó; thiếu mộc thì ngã về đông, đông bắc, thiếu kim thì để giường ngủ vào cung Đoài, phía Tây mà khỏi cần phải di chuyển hẳn đi nơi khác. Tránh gió lùa ở mé nào thì tùy theo nơi ở, và những điều căn bản nhất về vệ sinh, nhà ở thì cũng tùy chỗ sinh hoạt, nên theo đó là làm để khỏi lệ thuộc thái quá đâm ra "mê tín". - sức khỏe của những trụ thiếu ngũ hành thường hay mất cân bằng, đầu tiên là hành thiếu, sau đó là hành nó đi khắc và hành khắc nó. Thí dụ: kim thiếu thì mộc và hỏa có tác động lên sức khoẻ, nên trẻ nhỏ hay đau đầu, suy nhược, mạch loạn, nổi ban sớm... - tìm người có hành thích hợp mà ta thiếu để nương tựa vào, âm thì tìm dương, dương thì tìm âm. Bởi thế nên lâu nay có nhiều cách nói là "bán khoán", "làm con nuôi họ khác"... cũng không ngoài mục đích này. Nhưng phải là một thời gian dài và ở gần mới được. Vì tính cách của người kia sẽ điều hòa lại sự kiếm khuyết bên này. Rất dễ hiểu là ta hay nói đến chữ "đền bù", "lấp đầy"... và cảm thấy rất hài lòng. Vì khi nói đến sự kiếm khuyết của một người, tại sao không nói đến sự dư thừa của người khác? Cả hai đều có "khuyết điểm" và khi kết hợp được với nhau thì rất tốt cho cả hai. Tất cả mọi việc trong trời đất hài hòa và duy trì được sự sống không ngoài hai mặt khác biệt, nhưng dựa vào nhau mà tồn tại: có nóng có lạnh, có sáng có tối...Không có thái cực nào mà lâu bền. Tử bình giải thích vòng trường sinh âm dương, thuận nghịch là như vậy. Tại sao không thuận mà nghịch lại để làm gì? Nếu ai nhìn vào Bát quái đồ cho kỹ thì rõ ràng là thấy được điểm "gặp gỡ" của 1 ngũ hành trong vòng âm dương này: chúng tập hợp lại ở cung Đế vượng và Lâm quan. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 3, 2009 Tứ trụ thật dễ hiểu. sưu tầm. tác giả : Mộc Lan ------------ Một trong những cách nâng đỡ hành thiếu một cách tự nhiên là VẬN. Kiểm tra xem đại vận đi theo chiều nào. Nếu hành đại vận là hành thiếu có ngay từ thuở nhở thì thân thể sẽ được bồi dưỡng thêm lên. Giả tỉ như thiếu Kim, hành Thổ cường vượng, hành vận từ Canh, Tân là 2 vận đầu tiên trong đời thì sang đến trung vận sẽ gặp Nhâm, Quý, lúc đấy sẽ có đủ lực để chống chọi với Thổ. Các bạn nên nhớ trên đây là những thí dụ đơn giản nhất để hiểu căn bản, vì chưa tính Hợp, Hóa, xung khắc của Chi. Những phần này phải đi từng tứ trụ mới có lời giải chính xác được. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 10, 2009 Chào chị Thanh Trang Đọc các bài viết của chị thật dễ hiểu . Cảm ơn chị nhiều . Tôi đang tìm hiểu về tứ trụ ,mong chị hướng dẫn giúp,về sự hợp hóa của can ngày . Ví dụ : Mậu Tí - Đinh Tị - Quý Sửu - Mậu Ngọ . Theo tứ trụ này thì Quý Mậu hóa Hỏa . Vậy chị làm ơn cho hỏi ,khi can ngày hóa Hỏa ,thì ta sẽ xét mối quan hệ với can Ngày như thế nào , can Ngày có là Thủy nữa không ? hay là Hỏa ? Lúc đó các đại vận có thay đổi gì không ? nếu thay đổi thì sắp xếp như thế nào ? Rất mong hồi âm của chị . 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites