Thiên Đồng

Gia Phả của Người Việt

1 bài viết trong chủ đề này

MÔN GIA PHẢ VÀ KINH NGHIỆM DỰNG PHẢ TỪ MỘT SỐ CHI HỌ PHAN PHÍA NAM.

Của VÕ NGỌC AN, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả Tp. Hồ Chí minh.

22. 1. 2007

MÔN GIA PHẢ.

Gia phả được xem là một môn khoa học, kết quả của qúa trình nghiên cứu và hoạt động thực tiển, đút kết thành những bài học, những kết luận về các nguyên lý, nguyên tắc, phương pháp, có mối quan hệ mật thiết với các ngành khoa học khác và là môn có thể làm cho người khác lĩnh hội được (qua giảng dạy hoặc bằng các hình thức phổ biến khác). Ở Việt Nam, hiện chứa có trường, viện khoa học nào nghiên cứu chuyên biệt về gia phả học; việc giảng dạy, phổ biến, cũng chưa thành nề nếp.

Đối tượng của gia phả học là dòng họ. Dòng họ có trước, gia phả có sau. Phải có dòng họ, có chữ viết, mới có gia phả. Quá trình hình thành con người, trải qua các thời kỳ, các chế độ xã hội, từ mộng muội, thị tộc mẫu hệ, phụ hệ...cho đến ngày nay; lúc nào là lúc xuất hiên các dòng họ, có tên người, lúc nào là có gia phả?. Đó là điều mà ngành gia phả quan tâm. Ở Việt Nam, có các công trình nghiên cứu ban đầu và trong những năm qua, bằng những nghiên cứu các di chỈ, mồ mả họ tộc, sắc phong, các nhà khoa học, các thành viên dòng họ đã xác định được một số vị nguyên tổ, thỉ tổ, tổ “đời 1” của mình., tức các vị tổ xuất hiện đầu tiên, lâu đời nhứt, được biết của họ tộc. Thí dụ:

  • Khởi tổ Chữ Vi Vân, từ truyền thuyết, gốc xã Tu Nhiên, huyện Châu Xá, tỉnh Hà Tây nay, khoảng 2000 năm trước công nguyên:
  • Khởi tổ chúng ta là Phan Tây Nhạc, di tích lịch sử, sắc phong đời vua Hùng Vương thứ 18, khoảng 258 năm trước công nguyên, làng Thị cấm, xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội:
  • Khởi tổ Đinh Hoàn, tức Đinh Bộ Lĩnh, Gia Viễn, Ninh Bình, năm 960, sau công nguyên.
  • Lê Hoàn, xã Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, năm 980 sau công nguyên.
Như htế, có thể kết luận: họ Việt Nam, xuất hiện từ thời sơ cổ, có thể vào khoảng 4000 năm trước đây.

Lịch sử gia phả Việt Nam: Xuất hiện ở phương Đông từ xa xưa. Trung Quốc thời Chiến Quốc với quyển “Thế Bản”. Thời Ngụy, thời Tần phát triển mạnh. Ở Châu Âu, gia phả xuất hiện sau Việt Nam 300 năm. Ở Việt Nam 1206, thời Lý, Lý Thái Tổ cho lệnh soạn ngọc điệp (phả vua) là “Hoàng Triều Ngọc Điệp”. Nhà Trần: “Hoàng Tông Ngọc Diệp”. Nhà Lê: “Hoàng Lê Ngọc Điệp”. Trải qua truều Trần, Lê, Trịnh, Nguyễn, đến khoảng năm 1919, Nho học bắt đầu tàn rụi, các khoa thi Hán - nôm chấm dứt, thì gia phả cũng tàn rụi theo.

Ở miền Bắc, sau 1954, Nhà nước ta chỉ quan tâm tới gia đình, chưa quan tâm tới dòng họ. Gia phả càng bị quên lảng, vì cho nó là sản phẩm của chế độ phong kiến. Ỏ miền Nam, chế độ cũ không cấm, song do chiến tranh, do sự rình rập, bắt bớ, không ai dám khai có họ hàng, thân thích với ai, vì vậy gia phả cũng không có điều kiện để phát triển. Chỉ có một vài vị có quan tâm, như cụ Dã Lan Nguyễn Đức Dụ, đã soạn sách “Nghiên cứu và Thực hành Gia phả” và đã được in ấn, phát hành sau giải phóng. Trong chiến tranh, vượt núi rừng, có những người vẫn mang gia phả dòng họ theo bên mình, như người cha của đồng chí Trần Trọng Tân..

Năm 1992, Trung tâm Gia Phả được thành lập, trên nền tảng nghiên cứu các bộ gia phả cổ và qua thực tế dựng thử một số bộ gia phả, để đi tới đề xuất phương pháp dưng phả hiện nay, với các quan điểm mới, tích cực, bỏ các quan điểm lạc hậu, lỗi thời cũ. Và dẫn tới kết luận như sau:

  • Đề ra nhiệm vụ phục hồi ngành gia phả Việt Nam là cấp thiết và đúng đắng. Nổ lực động viên, quảng bá ngành gia phả cho mọi người, cụ thể cho các chi họ nông dân Việt Nam; và tập trung dựng phả cho những chi họ có yêu cầu, là điều thiêng liêng và cấp bách..
  • Nội dung, cấu trúc (tức bố cục) bộ gia phả phải chặc chẽ và họp lý, không dư, không thiếu. Gồm: phần chính phả, có phả ký, phả hệ và phả đồ. Và phần ngoại phả hay phụ khảo. Phả ký ghi ông bà tổ xuất phát mà người trong chi họ còn biết. Và ghi lịch sử tổ quán. Phả hệ: ghi tên tuổi, thứ thế, năm sanh, năm mất (tức ngày giỗ), mô chôn những người đã quá cố. Ghi thành từng chi hoặc tiểu chi, theo “lhương pháp ngang” hoặc “phương pháp dọc”. Ghi kỷ sự từng người với hình ảnh, tư liệu sưu tầm được. Phần ngoại phả ghi về nhà thờ tổ, việc cúng bái, khấn, việc chôn cất, khu mồ mả họ tộc; ghi hội đồng gia tộc...Đây chính là bộ lịch sử về dòng họ, là điểm tụa để truy lên, tìm ông/bà viển tổ, thỉ tổ của tộc họ mình. Đây chính là cái nhìn toàn diên một dòng họ với những ưu việt cần nâng niu, (kể cả những khuyết điểm cần chỉ ra để tránh) để nâng lên trong việc giáo dực rèn luện dòng họ văn hóa. Và đây cũng chính là văn bản chính thức, thiêng liêng của dòng họ, ghi nhận đúng mức công lao, công trạng và thành tích xuất sắc mỗi người trong họ.
Tác dụng của ngành gia phả trong sự nghiệp văn hóa Việt Nam: Nghiên cứu để thấu hiểu, đồng bào, dân tộc, dòng họ, gia đình và cá nhân là một đường dây liên thông. Trong gia phả học phương Đông, người ta quan niệm vị trí của đồng bào ở bên trên, gia đình và cá nhân ở bên dười. Còn ở phương Tây, lại xếp khác: cá nhân ở vị trí trung tâm, sau đó mới tới gia đình, dòng họ. Trong quan hệ hôn nhơn, một dòng họ, cưới gả với nhiều dòng họ khác. Bên nội gọi là thân, bên ngọai gọi là thích. Họ Phan, gả hoặc cưới con họ Nguyễn, Lê, Võ, Trần...bao đời, thì mối quan hệ thân thích: Phan – Nguyễn, Lê, Võ, Trần, các hậu duệ, con cháu về sau, trong huyết thống đã có một phần gen của các họ ghi trên. Chữ “đồng bào” Nguyễn Trãi sử dụng trước tiên, sau đó Bác Hồ dùng tiếp, có nghĩa: ở trong đó có các dòng máu, huyết thống của các họ Việt Nam!. Đó là cách nhìn nhận của ngành gia phả học. Vị tổ - bà mẹ đầu tiên của loài người xuất phát từ một hay hai, ba và xuất phát từ đâu? Các nhà khoa học đang đeo đuổi để giải đap. Chúng ta biết. các vị tổ của chúng ta, là từ Bắc vào Trung và sau cùng vào Nam, theo dòng Nam tiến. Đó là sự thật lịch sử. Truyền thuyết “Một họ trăm con”, cũng hàm ý: chúng ta là con một gốc, là nước một nguồn, là đồng bào. Sự nghiệp đoàn kết dân tộc, đoàn kết Bắc, Trung, Nam, để xây dựng và bảo vệ đất nươc, nếu đứng ở gốc độ gia phả học, chúng ta cũng có cơ sở để nêu. Ngành sử, cũng dựa vào gia phả để làm một cứ liệu vững chắc cho mình. Bản đò di dân vào đất Nam bộ, ngành gia phả cũng có thể vẽ chi tiết ai vào trước, ai vào sau...Ở Đại Hàn, có Viện Nghiên cứu Quốc Gia về Gia phả, nơi đó là kho thống kê về người sống và người chết, theo dòng họ, từ bao đời.

Nhìn chung, ai cũng nhận thưc được: có gia phả, hiểu được đích xác tổ tiên, ông bà mình, là điều phúc đức. Có thể phân loại: có những người nhận thức rất sâu về dòng họ và gia phả. Đây là nơi mà chúng ta xem như những nhân tố tích cực trong việc xây dựng dòng họ và phục hồi ngành gia phả. Có những người hiểu được, song không toàn diện, phương pháp dựng phả chua đuợc trang bị đầy đủ, hoặc có thực hiên, song không đeo bám tới cùng. Có những người không quan tâm. Tất cả các ưu điểm và khuyết điểm nêu trên là do việc tuyên truyền, quảng bá của chúng ta chưa đủ mạnh. Ta tuyên truyền tốt, phát huy được ưu điểm và ngược lại.

Hiên nay, trong ý tưởng phục hồi ngành gia phả Việt Nam, ta có nhiều điều kiện thuân lợi. Thứ nhứt, các dòng họ đã kết nói lại với nhau từ Bắc chí Nam. Thứ hai, các tổ chức chuyên môn về gia phả đã hình thành, như Chương trình nghiên cứu gia phả Việt Nam thuộc Viên Việt Nam học và Khoa học phát triển ở Hà Nội; Chương trình nầy, có mục tiêu góp phần thu thập và bảo tồn các gia phả cổ; tuyển dịch ra quốc ngữ một số gia phả có giá trị; nghiên cứu một số đề tài liên quan đến gia phả, đặc điểm gia phả Việt Nam, các gia đình – dòng họ, đạo thờ cúng tổ tiên... CLB UNESCO các dòng họ và Trung tâm Nghiên cứu và Thục hành Gia phả, tại Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc Hội khoa học Lịch sử Thành phố, với nhiệm vụ góp phần phục hồi ngành gia phả Việt Nam; nghiên cứu dòng họ và gia phả; dựng phả cho các dòng họ.

Ở Nam bộ, qua quá trình Nam tiến, các đợt di dân từ Bắc vào Trung rồi vào Nam, với các thời kỳ khác nhau, sinh sôi nảy nở và đã hình thành khối cư dân Nam bộ (Hiên nay, có một bảng tạm kê những dòng họ ở Viêt Nam từ xưa đến nay là 576 họ - sách “Tân Phả Kỷ Yếu” của Phạm Côn Sơn, NXB Văn Hóa Dân Tộc) Gia phả họ tộc Nam bộ, chứa đựng nhiều nhứt chỉ 12 - 13 đời, khoảng 3 đến gần 4 trăm năm nay.

Trong Thư viện của Viên nghiên cứu Hán – nôm, Hà Nội, còn lưu trử khoảng 300 bộ gia phả gốc, bằng chữ Hán, trong đó có những bộ có giá trị. Trung tâm nghiên cứu và Thực hành gia phả với 60 bộ mới dựng, sớm nhứt khoảng 12 năm nay. Trong một số gia đình Bắc, Trung và Nam, còn giữ nhiều bộ gia phả, như ở Bến Tre có khoảng 300 bộ.

KINH NGHIỆM DỰNG PHẢ HỌ PHAN.

Trong 60 bộ gia phả các chi họ, do Trung tâm dựng, thì có 3 bộ gia phả chi họ Phan;

  • Gia phả Phan (Công Hớn) ở Bà Điểm;
  • Gia phả họ Phan (Văn Khải) ở ấp Chánh, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi;
  • Gia phả họ Phan ở Gò Công.
Qua đây có thể nêu một số kinh nghiệm bước đầu:

  • Đây là dòng họ ở Nam bộ, gắn với cuộc Nam tiến, như đã nêu. Việc xác định ông / bà tổ đời 1, tại tổ quán đương thời và truy gắn ra tới miền Trung, Bắc là điều rất khó. Lý do: trong họ không còn ai biết đích xác điều gì, chỉ nêu: “ông tổ ở miền ngoài vào”. Có trường hợp tìm được như: qua gia phả cổ, truy được họ Trương Minh (Trương Minh Giảng, Trương Minh Ký, Trương Minh Đạt - tức Hòa thượng Thích Thiên Hào), trong bộ “Trương gia từ đường thế phổ toàn tập”,từ Quảng Bình vào Bình Định và sau cùng vào Hanh Thông, Gò Vấp, tới nay. Thí dụ gia phả họ Nguyễn (Chơn Trung) ở Long An, truy tìm được các vị tổ ở phường Bàu Lầy, huyên Tư Nghịa, tỉnh Quảng Ngải xưa...
  • Phải xác định hợp lý cấu trúc bộ gia phả để khi bắt tay vào dựng là hoàn chỉnh được ngay.
  • Viết phả ký là khó nhứt do phải vân dụng nhiều loại kiến thức tổng hộp. Viết phả hệ là phải sâu sát thực tế, phải tiếp cân những người đang sống, khảo sát mồ mả...và khi viết phải theo phương pháp “ngang hoặc dọc”. Kỷ sự (tiểu sử) từng người, cũng phải quan tâm ghi chép ngay từ đầu. Việc quan sát, phân tích, tổng hợp, chỉ ra đúng tính ưu việt của dòng hô và các mục tiêu xây dựng dòng họ văn hóa, là phần quan trọng của phả ký.
  • Trình bày tên của bộ gia phả, ghi như mẫu sau: “Gia phả họ ...” (đang dưng); ghi địa danh, theo địa danh hành chánh hiên nay; tránh không dùng từ Hán – nôm. Thí dụ
GIA PHẢ HỌ PHAN

Ấp Chánh, xã Tân Thông Hội

Huyện Củ Chi, Thành Phố Hồ Chí Minh

5. Lời tựa bộ gia phả thường do người đại diện họ tôc viết với nội dung lỉnh hội vị trí của gia phả, thực hiện để ra tác phẩm. đánh giá cộng sức nguời đi làm, kêu gọi con cháu bổ sung, tu sửa... In ấn phải theo một qui cách trong sáng, nghiêm túc. Có thể có chương trình quản lý gia phả năng động hơn, đi kèm để xem với máy vi tính hiện nay.

6. Các chi họ Phạn đã dựng, đều theo các kinh nghiêm nêu trên, tuy nhiên mỗi bộ có những đặc điểm riêng phải tôn trọng và có cách ứng xử riêng.

Việc Hội Đồng Liên tộc Phan ra đời là rầt sớm, hoạt động theo hướng: “Vì cộng đồng tộc Phan trong cộng đồng các dòng tộc Việt Nam” hiện nay là rất đung đắng, rất được trân trọng. Thay mặt cho Trung tâm nghiên cứu và Thực hành gia phả, tôi xin có lời chúc chân thành: tộc phan Việt Nam (trong đó có tộc Phan phía Nam), trường tồn và phát triển. Hãy cố tâm động viên các chi họ Phan, bên cạnh nhiệm vụ công dân, không ngừng chăm lo việc họ, khuyến học, khuyến nghiệp. Phải bắt tay vào việc dựng phả cho chi họ mình. Hãy luôn luôn ứng xử có văn hóa với mọi ngườ. Luôn xứng đáng là dòng họ tiêu biểu, là người công dân tiêu biểu của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam./.

nguồn:vietnamgiapha.com

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay