Posted 16 Tháng 2, 2009 Lịch pháp là cơ sở của mọi phương pháp bói toán phương Đông. Tất cả môn dự báo đều phải lấy dữ liệu đầu vào là giờ, ngày, tháng, năm âm lịch. Hơn nữa Đông Á vốn là nền văn hóa lúa nước, nơi mà khí hậu trở thành điều quan trọng nhất cho nông gia, cho nên việc dự báo và tìm chu kỳ của thời tiết đã được nghiên cứu rất kỹ từ lâu thông qua Âm Dương Lịch. Sử Ký chép: đời vua Đường Nghiêu, có sứ giả Việt Thường vào chầu dâng con Thần Quy trên lưng có chép chữ khoa đẩu về lịch. Nghiêu sai chép lại rồi dùng nó để làm lịch và gọi là Quy Lịch, lúc bầy giờ tháng nhuận mới được thêm vào. Thuấn sau này sai quan Thái Sử quan sát chuyển động mặt trời và mặt trăng để định ra tiết khí và định quy tắc thêm tháng Nhuận. Tức là thời Nghiêu Thuấn theo như Sử Ký đã biết đến khái niệm tháng Nhuận và sau này Thuấn (vốn là dòng Bách Việt-Kinh Thư (Thuấn điển)) đã vận dụng những hiểu biết về thiên tượng để tìm quy tắc thêm vào các tháng nhuận. Những khám phá khảo cổ thì lại chỉ chứng minh rằng những di tích sớm nhất về lịch được ghi trên những tấm giáp cốt từ thời nhà Thương. Các tấm này chỉ ra 1 năm có 12 tháng, thỉnh thoảng có thêm tháng 13 và thậm chí là tháng 14. Ngày tháng trong lịch sử Đông Á được biết đến sớm nhất bắt đầu từ năm 841 TCN (thời kỳ Cộng Hòa của nhà Tây Chu) (841-828). Do Chu Lệ Vương là một hôn quân, cho nên nhân dân đã làm loạn đánh vào kinh đô bức Lệ Vương phải lưu vong, hai đại thần có uy tín là Chu Công và Thiệu Công đã được cử lên làm nhiếp chính thay Vua. Hai ông này đã đem con của mình ra chết thay cho Thái Tử Cơ Tịnh để giữ lại dòng dõi cho nhà Chu, và để chứng tỏ sự vô tư hai ông đã cho mời Sử Quan hàng ngày ghi chép lại cụ thể thời gian những việc làm của họ để thông báo cho toàn dân biết và giám sát. Việc chép sử bắt đầu từ đây, và chỉ từ năm 841 TCN trở về sau ngày tháng mới được rõ ràng còn thì trước đó không ai kiểm chứng được. Nhưng qua những ghi chép của Sử Ký thì thời nhà Chu lịch được sử dụng với tháng nhuận được thêm vào một cách tùy tiện không có quy tắc nào. Lịch Tứ Phân bắt đầu được dùng khoảng từ năm 484 TCN thời Chiến Quốc là Lịch đầu tiên được tính toán cẩn thận ở Trung Quốc. Gọi là Tứ Phân vì nó cho biết 1 năm có 365 1/4 ngày (365.25 ngày) và có những đặc điểm rất quan trọng đáng chú ý như sau: 1. Quy tắc chu ký 235 tháng (=19 năm) tức là chu kỳ Meton ở Lịch La mã xưa 2.Tháng nhuận được chèn thêm vào sau tháng 12 3. Ngày Đông Chí nằm ở tháng đầu tiên của năm. Từ điều thứ ba ta có thể thấy lịch Tứ Phân là lịch Kiến Tý tức là năm bắt đầu bằng tháng Tý. Ngày xưa việc xác định ngày Đông Chí là công việc quan trọng nhất của thiên quan. Đông Chí là ngày mà đêm dài nhất và ngày ngắn nhất, tượng là nhất dương sinh vạn vật bắt đầu hinh thành từ tịch diệt, cho nên Đông Chí là ngày mà Thiên Tử phải tế trời để cầu chúc cho thiên hạ vạn vật sinh linh được an hòa hưởng phúc của Trời ban (Chu Lễ). Xác định sai ngày Đông Chí chức Quan phải bị chém không tha. Và vào ngày Đông Chí thì Mặt Trời mọc lên từ cung Thìn, và do mãi nó ko mọc (ngày ngắn nhất) cho nên họ tin là ở đó có Thiên Cương sát thần kéo giữ không cho mặt trời lên do đó cung Thìn là Rồng tượng cho Thiên Tử ( vì phải tế trời) và còn có tên là Thiên La (lưới trời) do nó kèo bắt Mặt Trời ko cho mọc. Từ năm 256 TCN, Tần Chiêu Vương (307-250) diệt nhà Chu dời Cửu đỉnh về Hàm Dương thì ông ta cũng cho sửa lại quy tắc Lịch để chứng tỏ quyền uy của mình. Tháng nhuận được thêm vào là tháng phụ đứng sau tháng thứ 9 của năm, năm mới bắt đầu vào tháng thứ 10 của Năm và Đông Chí rơi vào tháng thứ 11. Tức là năm mới bắt đầu trước Đông Chí một tháng. Sau Tần Thủy Hoàng (247-210) cho dời năm mới vào tháng sau Đông Chí tức là dùng lịch Kiến Sửu, và từ đây nó được dùng cho đến tận năm 104 TCN. Tuy nhiên quy tắc chi tiết về tháng Nhuận chỉ được biết đến chặt chẽ với lịch Thái Sơ vào năm 104 TCN dưới thời Hán Vũ đế (141-87). Lịch Thái Sơ có những đặc điểm: 1.Đông Chí rơi vào tháng thứ 11 của năm 2.Tháng nhuận có thể được thêm vào bất cứ tháng nào miễn là trong tháng đó Mặt Trời không đi qua điểm Trung Khí ( quy tắc Trung Khí của lịch Thái Sơ). Qua đó có thể thấy lịch Thái Sơ là lịch Kiến Dần ( năm mới bắt đầu từ tháng Dần). Lịch Thái Sơ được dùng cho đến tận năm 1645 khi giáo sỹ Thang Nhượng Vọng theo chỉ dụ của vua Thuận Trị (1644-1661) soạn lại Lịch dựa vào tính toán bằng Hàm Lượng Giác của Toán học Tây Phương. Lịch này có đặc điểm sau 1. Đông Chí rơi vào tháng thứ 11 của năm 2.Chuyển động thực của Mặt Trời đc dùng để tính tiết khí thay vì chuyển động biểu kiến như trước kia. Từ 1645 đến tận 1929 không có 1 chỉnh sửa quan trọng nào đối với Lịch. 1929 thì Trung Hoa Dân Quốc công nhận lịch Gregory làm lịch chính thức nhưng những ngày lễ cổ truyền vẫn dùng theo Âm dương lịch. Chính vì do sử dụng công cụ và khái niệm từ phương Tây đưa vào từ lịch Gregory mà lịch âm dương của Tàu có rất nhiều tiền bộ và đơn giản hóa các quy tắc nhất là về tiết khí và tháng nhuận nhưng mà nó đã đem đến những chuyện rất hi hữu xảy ra mà không ai biết phải làm thế nào. Hiện nay các nhà nghiên cứu về lịch của Tàu họ tin rằng tính toán với những khái niệm của lịch 1645 sẽ cho ra sai số và họ tìm cách đo đạc để chỉnh sửa . Vì lí do áp dụng lịch Gregory với quy định mỗi ngày bắt đầu từ 0h và chia ra mỗi giờ của Đông Á bằng 2 h của Tây phương mà ngày bắt đầu chênh 14,3 phút so với giờ chuẩn đo tại đài thiên Văn Tử Kim Sơn của Nam Kinh. Điều đó dẫn đến 1. Năm 1978, Trung Thu điểm sóc khi đó là 3 tháng 9 lúc 0:07 phút giờ chuẩn Trung Quốc dựa theo múi giờ từ Greenwich, trong khi đó tại Hồng Kong, Việt Nam lịch truyền thống vẫn được dùng với quy tắc tính giờ ko theo giờ phương Tây thì điểm sóc rơi vào 23:53 phút ngày 2 tháng 9. Kết quả là Đại lục ăn tết Trung Thu vào ngày 17.9 còn các vùng phía Nam trong đó có Việt Nam ăn tết Trung Thu ngày 16.9 sớm hơn 1 ngày. 2. 1984-1985 năm mới Mặt Trời nằm trong cung Ma Kết và Bảo Bình trong tháng 11. Sau đó thì đi vào cung Song Ngư trong tháng kế tiếp lẽ ra đó phải là tháng 1, nhưng mà sau đó Mặt Trời lại ko đi vào cung nào trong tháng kế tiếp thành ra để giữ cho Đông Chí vào tháng 11 , các nhà làm lịch của Tàu buộc phải đổi tháng Dần thành tháng Sửu và tháng Dần lùi đi 1 tháng, cho nên năm 1985 Đại lục ăn tết chậm hơn 1 tháng so với Việt Nam và Hồng Kong. Qua đó có thể thấy: -Nhà Chu sử dụng lịch kiến Tý với quy tắc tháng nhuận tùy tiện -Nhà Tần lại dùng kịch kiến Sửu với quy tắc về tháng nhuận -Nhà Hán từ Vũ Đế mới dùng lịch kiến Dần với quy tắc chặt chẽ về tháng nhuận -Việc tính toán lịch với công cụ và khái niệm của Tây Phương đã đưa đến những sai số và sự kiện gây tranh cãi vào năm 1978, 1985 và gần đây nhất là năm 2007 giữa VN ta ( nơi mà lịch truyền thống vẫn được sử dụng) và Trung Quốc. Vài dòng về lịch sử Lịch pháp hi vọng có thể giúp ích được mọi người. Tôi viết bài này cũng vì qua PM trao đổi với anh Vô Trước. Việc dùng lịch Kiến Tý, Kiến Sửu hay Kiến Dần ko liên quan gì đến trục quay do tuế sai cả anh ạ, tất cả là do ý chí chủ quan của nền quân chủ mà thôi. Chỉ duy nhất có lịch Thái Sơ là được làm dựa trên quan trắc thiên văn cẩn thận có ghi chép lại trong Sử Ký và do Tư Mã Thiên có tham gia cho nên ông đã đặc biệt ghi chép lại cẩn thận để hậu thế có thể biết. Mong rằng bài viết của tôi có thể giúp ích được cho anh Vô Trước ít nhiều. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 2, 2009 Rất cám ơn anh Mộc Công! Bài viết giúp ích cho tôi nhiều. Tuy nhiên, theo tôi có lẽ đó chỉ là những hiện tượng, sự việc trong lịch sử được ghi chép lại, chưa chắc đã là bản chất của lịch pháp. Tôi luôn nghĩ rằng, lịch ADNH lấy vận động của trường khí ADNH làm cơ sở chứ chưa chắc là do các quan trắc mặt trời hay mặt trăng. Nhiều người cho rằng học thuyết ADNH ra đời dựa trên quan sát thiên văn. Còn tôi lại cho rằng, quan sát thiên văn phù hợp với học thuyết ADNH chú học thuyết này dựa trên cơ sở tổng quát hơn nhiều.... Có như vậy nó mới có thể đóng vai trò của một lý thuyết thống nhất. Tất cả chỉ mới là giả thuyết. Còn rất nhiều việc phải làm! Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 2, 2009 Lịch nhà nước tôi đã kiểm chứng và thấy chuẩn nên mọi người có thể an tâm lập quẻ Mai Hoa. Share this post Link to post Share on other sites