Posted 10 Tháng 5, 2008 GIẢI MÃ NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNGMÙNG 10 THÁNG 3 Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh không coi việc giải mã cáctruyền thuyết huyền thoại là bằng chứng khoa học để chứng minh cholịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm văn hiến, ít nhất trong lúc này.Miễn phản biện. Sử sách và truyền thuyết không hề ghi lại ngày mất của vị vua Hùng đầu tiên hoặc cuối cùng. Vậy ngày giỗ Tổ vua Hùng mùng 10 tháng 3 xuất phát từ đâu?Hàng năm vào ngày giỗ Tổ Vua Hùng, là dịp để những người Việt Nam tưởng nhớ đến cội nguồn từ thời huyền sử.Những ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.Thời Hùng Vương đã trở thành huyền sử; còn sót lại chăng chỉ còn là những tục ngữ ca dao và truyền thuyết lưu truyền trong dân gian. Nhưng ngày giỗ Tổ Hùng Vương vẫn ăn sâu vào tâm linh người Lạc Việt. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc dưới ách đô hộ phong kiến Bắc phương; tiếp theo là 1000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của lịch sử; tâm linh của người Lạc Việt vẫn luôn nhớ về cội nguồn. Ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba là một trong những ngày lễ hội thiêng liêng nhất của người Lạc Việt.Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên của người Lạc Việt, lần đầu tiên được chép lại trong cuốn sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp với tựa đề là “Hồng Bàng Thị”. Người viết lời tựa trong cuốn sách này là Vũ Quỳnh, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An Hải Dương, sinh năm 1453 mất năm 1516, ông viết bài tựa vào năm 1492. Người viết lời tựa sau cho cuốn sách này vào năm 1493 là Kiều Phú người làng Lạp Hạ, huyện An Sơn, tỉnh Sơn Tây, sinh năm 1450. Hai ông đã thừa nhận những truyện chép trong Lĩnh Nam Chích Quái đã được lưu truyền trong dân gian từ lâu. Trong bài tựa của mình , ông Vũ Quỳnh đã viết:“Những truyện chép ở đây là sử ở trong truyện chăng ?”.Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên được các nhà sử học Việt Nam ghi lại trong các bộ chính sử và nằm ở phần ngoại kỷ vì sự huyền ảo của câu chuyện. Đã có rất nhiều học giả phân tích tìm hiểu nội dung kỳ bí của truyền thuyết về thuở ban đầu lập quốc của người Lạc Việt.Những số liệu trong truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên có một sự liên hệ và trùng khớp một cách kỳ lạ với hai đồ hình nổi tiếng thiêng liêng trong truyền thuyết của nền văn minh Hoa Hạ và liên quan đến ngày giỗ Tổ Hùng Vương; đó là Lạc Thư và Hà Đồ.Độ số của Lạc Thư – Hà Đồ là 100 vòng tròn, trong đó có 50 vòng tròn đen, 50 vòng tròn trắng. Từ hai đồ hình trên, tạo ra hai hình vuông gọi là Cửu Cung Lạc Thư và Cửu Cung Hà Đồ. ĐỒ HÌNH HÀ ĐỒ30 vòng tròn đen và 25 vòng tròn trắng. ĐỒ HÌNH LẠC THƯ25 vòng tròn trằng và 20 vòng tròn đen Qua đồ hình trên thì bạn đọc nhận thấy rằng:# 100 quả trứng tương ứng với 100 vòng tròn .# 50 người con theo cha tương ứng với 50 vòng tròn trắng, thuộc Dương, tượng là theo Cha (Dương).# 50 người con theo mẹ tương ứng với 50 vòng tròn đen, thuộc Âm, tượng là theo Mẹ (Âm).# 15 bộ mà truyền thuyết nói tới trùng khớp với số của Ma Phương Lạc Thư có tổng ngang dọc chéo đều bằng 15 .# 18 Thời hùng Vương trùng khớp với tổng số Cửu Cung Lạc Thư và Cửu Cung Hà Đồ (9 x 2 = 18).Còn ngày mùng 10 tháng 3 liên quan đến ngày giỗ tổ Hùng Vương? Đây lại là một con số trùng với trung cung Hà Đồ đó là 5 – 10 thuộc về ngôi Hoàng Cực. Trong đó:Tháng 3 là tháng Thìn (tượng là Rồng) – trùng khớp với biểu tượng của Lạc Long Quân (giống Rồng) chính là tháng thứ 5 kể từ tháng Tí (Tức tháng Một năm trước. Trong cách tính tháng của người Việt như sau:Tháng Một: Tý; Tháng Chạp: Sửu; Tháng Giêng: Dần; Tháng Hai: Mão; Tháng Ba: Thìn/ Rồng)(*). Tháng là tập hợp của ngày; ngày là phần tử trong tập hợp của tháng. Cho nến lấy ngày 10 (độ số 10 trong trung Cung Hà Đồ: Màu Đen) làm ngày giỗ; Lấy tháng Ba tức tháng thứ 5 kể từ tháng Một đã trình bày ở trên) làm tháng giỗ Tổ.18 thời Hùng Vương với nhiều vị vua, không thể giỗ chung một ngày. Nhưng ý nghĩa của ngày giỗ Tổ Hùng Vương chính la hướng về một giá trị có tính nguyên lý của nền văn hiến Việt: Trung Cung Hà đồ. Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng 3 chính là một biểu tượng của nền văn hiến vĩ đại của người Lạc Việt.Như vậy, truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên và ngày giỗ Tổ Hùng Vương hoàn toàn trùng khớp một cách kỳ lạ với nội dung của Lạc Thư – Hà Đồ.Vấn đề cũng chưa phải dừng ở đây.Trong truyền thuyết về thời Lập quốc của dân tộc Việt còn một chi tiết nữa là:50 người con theo Mẹ Ấu Cơ suy tôn người con trưởng lên làm vua. 49 người con còn lại đi cai trị khắp nơi.Đây chính là số Đại Diễn trong Kinh Dịch dùng trong Bói cỏ thi - một phương pháp bói tối cổ của Đông phương.Nếu bạn hỏi tại sao lại phải bớt đi một mà không dùng số 50? Tôi xin được trả lời rằng: Chính truyền thuyết Con Rồng - Cháu Tiên đã trả lời rất rõ ràng và người ta không thể tìm được câu trả lời trong các bản văn chữ Hán. Sự trùng khớp hợp lý đến kỳ lạ của các sản phẩm trí tuệ thuộc về văn minh Lạc Việt với một giá trị kỳ vĩ của văn hoá Đông Phương là thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái , đã cho thấy cội nguồn đích thức của những di sản văn hoá đó thuộc về văn minh Lạc Việt.Như vậy, cùng với những di sản văn hoá phi vật thể khác, tổ tiên ta muốn nhắc nhở cho con cháu về một nền văn minh kỳ vĩ của một đất nước gần 5000 năm văn hiến và Lạc Thư – Hà Đồ và Kinh Dịch có nguồn gốc từ nền văn minh Lạc Việt.Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị.Thiên Sứ------------------------ (*) Chú thích: Tháng Tí - tức tháng 11 âm lịch – trong dân gian còn gọi là tháng Một và phân biệt giữa số đếm 1 là số đầu tiên, nên gọi tháng đầu trong năm sau Tết là tháng Giêng. Tháng Một không phải là tiếng gọi tắt của tháng 11 mà là tháng đầu tiên theo thứ tự 12 con giáp. Cũng như tháng Sửu là tháng thứ 2 gọi là tháng Chạp để phân biệt với tháng 2 theo số đếm. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 6, 2008 GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG Hàng năm cứ vào ngày mồng mười tháng ba Aâm lịch nhân dân cả nước nô nức kéo về đền Hùng để dự lễ giỗ Tổ Hùng Vương, người khai mở nước Văn Lang xa xưa của Việt tộc. Truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây đã đi vào tâm thức Việt như một nguồn suối tâm linh làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người Việt. Ngay tự thuở xa xưa, người Việt cổ đã có một đời sống tâm linh siêu vượt. Người Việt cổ đã sớm nhận thức được cuộc sống thường nhật để tìm ra lẽ sống của cả một đời người nên không chỉ tin vào thần thánh mà còn tin vào chính con người. Chính vì vậy, từ xa xưa người Việt ngoài việc thờ cúng thần linh giúp cho cuộc sống còn thờ cả nhân thần là những người khi còn sống đã giúp dân giúp nước, giúp ích cho địa phương. Đặc biệt người Việt có truyền thống thờ cúng Tổ tiên, ông bà cha mẹ là những người trực tiếp sinh đẻ ra mình, nuôi dưỡng mình thành người. Ngay cả ông Trời, đối với người Việt là cư dân sống bằng nghề nông nên tôn thờ ông trời đã ban cho những giọt nước mưa tưới xuống đất để hạt giống nảy mầm, cây cối đâm chồi nảy lộc. Ông trời được dân gian Việt kêu cầu đến “Trời ơi” mỗi khi gặp sự đau buồn, dân gian còn nhân cách hoá ông trời thân thương từ chân trời, lưng trời đến mặt trời và nếu cần thì sẵn sàng bắc thang lên hỏi ông trời .. chứ không thần thánh hoá kiểu Hán tộc là có một ông Ngọc Hoàng Thượng đế toàn quyền ban phát, toàn quyền sinh sát trên thượng giới và cả ở dưới trần gian nữa. Một nhà Việt Nam học người Pháp Léopold Cadìere đã nhận định về tín ngưỡng và thực hành tôn giáo của người Việt Nam như sau:“Với người Việt, Trời không phải là một vị thần, ít nhất là trong quan niệm dân gian. Đó là ông Trời, đấng hình như thuộc về thế giới siêu việt. Hoàng đế tế trời một cách trọng thể còn dân gian thì cầu trời, kêu trời hàng ngày bằng ngôn ngữ thông thường. Ý niệm trời thấm sâu vào tâm tư người Việt và được biểu lộ thường xuyên mỗi ngày qua ngôn ngữ một cách minh nhiên đến nỗi ta không thể thấy rằng ý niệm trời chính là một nguyên lý cơ bản và cao cả nhất đối với đời sống tín ngưỡng của người Việt”. Trong khi phương Tây với nền văn minh hết duy thần, duy linh, duy tâm, duy lý rồi duy vật. Nền văn minh vật chất thái quá khiến con người cảm thấy bất an nên thường đặt ra những vấn nạn như chúng ta từ đâu đến rồi chết sẽ đi về đâu? Chính những câu hỏi xa vời không bao giờ giải đáp được nên con người trở nên vô thần hoặc phải tìm đến tôn giáo chấp nhận một cách vô thường. Với niềm tin đơn giản chân chất của người Việt cổ thì Tổ Tiên, ông bà cha mẹ đã sinh ra mình chứ không phải do một thần linh nào từ trên trời. Chính vì thế phải biết ơn cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục mình nên người. Bổn phận con người là phải hiếu thảo với cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau vì cùng một mẹ mà ra. Huyền thoại Rồng Tiên với Bố Lạc mẹ Aâu của Việt tộc, chúng ta cùng một bào thai mẹ Aâu, trăm họ cũng cùng từ một gốc Bố Rồng mẹ Tiên mà ra cả. Trên thế giới duy nhất chỉ có dân tộc ta mới có hai chữ “Đồng bào” nên đối với tha nhân chúng ta cũng dùng tình thân mà đối xử, mới gọi nhau là bà con cô bác như trong một nhà vậy. Khi sống phải biết tri ân thờ cúng ông bà cha mẹ để mai này khi ta có chết đi thì cũng về với ông bà cha mẹ mà thôi. Người Việt có một đời sống tinh thần tâm linh sâu thẳm, thể hiện tình cảm thiêng liêng cao cả mà không một dân tộc nào có được. Từ ý thức tôn thờ Quốc tổ Hùng Vương và các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá đến ông bà tiên tổ đã tập đại thành ý thức cao độ về lòng yêu nước thương nòi, tạo cho mỗi con dân đất Việt niềm tự hào về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của Việt tộc. Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn tôn thờ nhân thần và đạo thờ cúng ông bà vẫn còn trân trọng bảo lưu, đó chính là bản sắc văn hoá đặc trưng của dân tộc và cũng là đạo lý làm người của Việt tộc. Truyền thống cao đẹp này trải qua hơn sáu ngàn năm lịch sử vẫn thấm đậm trong lòng dân tộc với bao thăng trầm biến đổi của dòng vận động lịch sử. Cho tới nay và mãi mãi về sau, hàng hàng lớp lớp thế hệ trẻ Việt Nam vẫn tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc với tất cả lòng hãnh diện tự hào Việt Nam. Tự xa xưa, tiền nhân ta đã chọn ngay mồng mười tháng ba là ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Tháng ba là tháng Thìn, tháng của bố Rồng và ngày mười là ngày của mẹ Tiên vì giỗ quốc mẫu Aâu Cơ vào ngày mồng 5 tháng 5 hàng năm.(10) Đền Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh còn có tên là núi cả, núi cao nhất 175 mét trong quần thể 100 ngọn núi ở Vĩnh Phú. Theo Hùng triều Ngọc phả, Thần phả xã Tiên Lát huyện Việt Trì tỉnh Hà Bắc thì đến đời Hùng Vương thứ 16 là Hùng Tạo Vương huý Đức Quân Lang mới dời đô xuống Việt Trì, Phong Châu. Hùng Tạo Vương trị vì từ năm Tân Dậu 660 TDL đến năm Nhâm Thìn 569 TDL ngang với thời Chu Linh Vương đời Đông Chu. Theo học giả Trần Quốc Vượng thì “Việt Trì và vùng xung quanh Vĩnh Phú là đỉnh cao nhất của tam giác châu sông Hồng. Sông Hồng là tên gọi muộn màng ở cuối thế kỷ thứ XIX do màu nước của sông này. Sách Thuỷ Kinh chú ở thế kỷ thứ VI gọi nó là Tây Đạo, cái tên chữ “Hán Việt” này là sự phiên âm từ một tên Tày cổ:“Nậm Tao” mà tên Việt hiện nay còn giữ được ở Việt Trì là sông Thao. Tam giác châu sông Hồng được giới hạn bởi dải núi Tam Đảo ở rìa Đông Bắc và dải núi Tản Viên ở rìa Tây Nam. Nói theo ngôn ngữ Phong thuỷ cận địa lý học thì đất tổ với trung tâm điểm Việt Trì ở ngã ba Bạch Hạc ngoảnh mặt hướng biển hậu chấm xa là dải Hoàng Liên Sơn chất ngất trời Nam, tay “Long” là dải Tam Đảo với dưới chân nó là sông Cà Lồ. Tay “Hổ” là dãy Tản Viên với dưới chân nó là sông Tích, sông Đáy. Trước mặt là sự “Tụ thuỷ” rồi “Tụ nhân” trên đôi bờ nhị thuỷ với các đầm lớn trũng lầy như đầm Vạc Vĩnh Yên, ao Vua, suối Hai Sơn Tây … Thế đất đó bảo đảm một viễn cảnh phát triển ngàn năm, hơn bốn ngàn năn nếu tính từ người Việt cổ Phùng Nguyên đến ngày nay. Bao quanh điểm Việt Trì là những núi đồi lô nhô như bát cơm mà tư duy vũ trụ luận dân gian hình dung thành bầy voi trăm con mà tới 99 con chầu về đất tổ”. Đền Hùng gồâm Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng và Lăng vua Hùng. Từ dưới đi lên qua cổng Đền cao 8m1, nóc cổng hình dáng tám mái, hai bên là phù điêu hình 2 võ sĩ cầm đao và chùy bảo vệ đền. Khách hành hương chỉ bước lên 225 bậc đá là lên đến đền Hạ. Tương truyền nơi đây mẹ Aâu đã sinh ra bọc trăm trứng sau nở thành trăm người con trai. Bước thêm 168 bậc thang đá là đến Đền Trung toạ lạc ngang sườn núi Nghĩa Lĩnh, theo tương truyền thì đây là nơi Lang Liêu đã gói bánh dày bánh chưng dâng vua cha để cúng tiên tổ nhân ngày Tết. Chính tại nơi đây, vua Hùng thường hội các Lạc Hầu Lạc Tướng để bàn việc nước. Đền Trung thờ phượng các vua Hùng và dòng dõi, có cả bệ thờ công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Ngay ở gian giữa đền Trung treo bức đại tự “Hùng Vương Tổ miếu” nghĩa là miếu thờ Tổ Hùng Vương, gian bên phải treo một bức đại tự “Triệu Tổ Nam bang” nghĩa là Tổ muôn đời của nước Nam, gian bên trái treo bức “Hùng Vương Linh tích” nghĩa là Huyền tích linh thiêng của vua Hùng. Bước thêm 132 bậc thang đá nữa là tới đền Thượng. Đền Thượng có 4 nếp nhà:Nhà chuông trống, nhà Đại Bái, nhà Tiền Tế, Cung thờ. Trên vòm cung cửa chính ra vào được trang trí phù điêu hình 2 vệ sĩ phương phi làm nổi bật bức hoành phi 4 chữ “ Nam Việt Triệu Tổ” nghĩa là Tổ muôn đời của nước Việt. Trong nhà Đại bái có câu đối bất hủ : Thác thuỷ khai cơ, Tứ cố sơn hà qui bản tịch .. Đăng cao vọng viễn, quần phong la liệt tự nhi tôn ..!” Mở lối đắp nền bốn hướng non sông về một mối Lên cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con ..” Trong nhà Tiền tế đặt một Hương án trên để tráp thờ bên trong đặt một triện gỗ hình vuông có khắc 4 chữ:“Hùng Vương tứ phúc”. Đặc biệt có treo một bức hoành phi trong đó có câu “Quyết sơ dân sinh” nghĩa là cuộc sống của nhân dân là điều quyết định đầu tiên của người lãnh đạo. Ngay từ thời vua Hùng đã lấy dân làm gốc:“Tất cả vì dân, do dân và của nhân dân” còn giá trị mãi đến muôn đời. Bên phải đền Thượng là cột đá thề của An Dương Vương, bên trái đền Thượng là Lăng vua Hùng nhìn về hướng Đông Nam, kiến trúc theo hình khối vuông, trên có cổ diêm 8 mái, đỉnh chóp đắp hình rồng uốn lượn nổi lên 3 chữ khắc chìm : Hùng Vương Lăng. Trên mỗi mặt tường đều đắp mặt hổ phù, thành bậc đắp kỳ lân, cửa chính của Lăng nổi lên 2 câu đối tri ân Quốc Tổ Hùng Vương : “ Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà, non nước vẫn quay về đất Tổ … Văn minh đương buổi mới, con Hồng cháu Lạc, giống nòi còn biết nhớ mồ ông ..!” Hàng năm vào ngày mồng tám tháng ba là ngày lễ hội Hùng Vương được xem như Quốc lễ của cả một dân tộc. Thời xưa đích thân nhà vua đứng chủ tế với đủ nghi thức tế lễ long trọng. Lễ vật gọi là lễ “Tam sinh” gồm nguyên một con heo, một con bò và một con dê. Bánh chưng và bánh dày là lễ vật không thể thiếu được cũng như khi cử hành tế lễ phải có đầy đủ bộ nhạc cụ đặc biệt là chiếc trống đồng độc đáo của Việt tộc. Sau phần tế lễ là phần lễ hội với “cuộc rước bánh dày bánh chưng và rước cỗ chay”, “Rước voi” và cuối cùng là lễ “Rước kiệu bay” truyền thống của dân gian các làng xung quanh vùng đất Tổ. Mỗi làng đều đem theo kiệu riêng của làng mình từ các làng do vị bô lão dẫn đầu rồi đến thanh niên trai trẻ mặc võ phục thuở xưa tay cầm đủ loại cờ quạt sắc màu rực rỡ. Tất cả tề tựu dưới chân đền chờ cử hành tế lễ tạo nên một rừng người, rừng cờ hoa với đủ sắc màu. Mọi người nô nức dự lễ hội, già trẻ rộn rã tiếng cười nhưng khi tiếng chiêng tiếng trống khai lễ thì không khí trang nghiêm u mặc bao trùm cả một vùng đất Tổ. Sau phần tế lễ rước kiệu là phần hội hè với đủ mọi trò vui chơi cho nam thanh nữ tú tham dự thưởng ngoạn. Mở đầu là cuộc thi đua thuyền truyền thống của các đội thuyền Rồng của các làng trong hồ Đá Vao ngay cạnh chân núi. Dọc bờ hồ vòng quanh ven chân núi đủ các trò vui chơi nào là những rạp tuồng chèo, những cây đu tiên, những trò chơi dân gian như đánh cờ người, trò “tung còn” giữa thanh niên thiếu nữ ngày xuân, những phường “hát Xoan” của các nơi về tụ hội tổ chức hát Xoan với những làn điệu dân ca truyền thống mỗi độ xuân về. Việt tộc là cư dân nông nghiệp nên thường tổ chức lễ tết hội hè quanh năm suốt tháng nhưng lễ hội đền Hùng mang một ý nghĩa hết sức cao đẹp. Dự lễ hội đền Hùng chính là cuộc hành hương trở về nguồn cội dân tộc trong tâm thức mỗi con dân đất Việt. Lễ hội đền Hùng không đơn thuần là cuộc chơi xuân với những hội hè đình đám mà để chúng ta hướng vọng về Quốc tổ Hùng Vương, người truyền thừa sự sống và khai mở đất nước Văn Lang cho tất cả chúg ta. Trên thế giới ngày nay, có lẽ chỉ có dân tộc Việt Nam có Quốc tổ để tôn thờ và có một huyền thoại Rồng Tiên đẹp như áng sử thi để chúng ta có quyền tự hào gọi nhau là đồng bào, là anh em ruột thịt cùng một mẹ sinh ra : “ Bọc điều trăm họ thai chung, Đồng bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam” ĐỀN THỜ QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG Theo Ngọc phả Đền Hùng do Hàn lâm viện Đại học sĩ Nguyễn Cố phung soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên 1470, sau được Hàn lâm Thị Độc sao lại năm Hoàng Đinh Nguyên niên 1600 thì Đền Trung tức Hùng Vương Tổ miếu được xây vào thế kỷ XIV, bị quân Minh phá huỷ vào thế kỷ XV. Đến thời Lê (1427-1573) đền được xây dựng lại theo bố cục hình chữ nhất cùng với Gác chuông và Thiền Quang Tự nay chỉ còn 2 phần tiền tế. Đền Thượng cũng được xây dựng vào thời kỳ này. Đến thế kỷ XVII-XVIII đền Hạ mới được xây dựng. Năm 1823, vua Minh Mạng cho xây dựng Miễu “Lịch đại Đế vương” ngay tại kinh thành Huế. Nhà vua đã bà bạc kỹ lưỡng với bộ Lễ để đưa các nhân vật lịch sử vào thờ trong miếu. Bản tâu trình của bộ Lễ lên vua Minh Mạng như sau: “Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân thực là thuỷ tổ của nước Việt ta. Thế thì từ ngoại kỷ trở về trước phải lấy các vị sáng thuỷ mà thờ. Từ nhà Đinh về sau thì giềng mối mới rõ. Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Lê Thái Tổ thừa vận lần lượt nổi lên, đều là vua dựng nghiệp một đời. Trong khoảng ấy, anh chúa trung hưng như Trần Nhân Tông ba lần đánh bại quân Nguyên, hai lần khôi phục xã tắc. Lê Thánh Tông lập ra chế độ, mở rộng bờ cõi, công nghiệp rạng rỡ vang rền … đều nên liệt vào miếu thờ”. Đến năm Tự Đức thứ 27 (1874) ra sắc chỉ sửa chữa lại đền Thượng trên núi Nghĩa Lĩnh và cho khắc 2 bia đá dựng tại khu đền thờ. Năm Duy Tân thứ sáu (1912) cho trùng tu cung trong điên ngoài qui thứ như ngày nay. Năm Khải Định thứ 7 (1922) lại cho sửa sang thêm Lăng mộ và trùng tu đền Giếng thờ 2 công chúa Tiên Dung con vua Hùng thứ 3 lấy Chử Đồng Tử và công chúa Ngọc Hoa, con vua Hùng thứ 18 lấy Cao Sơn tức Sơn Tinh (Thánh Tản Viên). Năm 1935, vua Bảo Đại cho trùng tu và mở rộng thêm diện tích đền và cho dựng bia đá ngày 10 tháng 3 năm Canh Thìn do Bùi Ngọc Hoàn soạn ngày 15-4-1940 nội dung như sau:“Đền vua Hùng là nơi thờ các vua họ Hồng Bàng trong lịch sử tối cổ của nước Việt ta”. Thời xưa, hàng năm tổ chức quốc lễ vào mùa Thu nhưng đền đời vua Khải Định năm 1917, Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc xin bộ Lễ lấy ngày mồng 10 tháng 3 Aâm lịch hàng năm làm Quốc lễ, trước ngày giỗ vua Hùng thứ 18 một ngày.(11) ( Trích trong Huyền TÍCH VIỆT của Phạm Trần Anh sẽ xuất bản vào tháng 4/2008). * Theo cách tính ngày tháng Việt Lịch của dân tộc, thì tháng 3 là tháng Thìn, và đếm từ Tý trong 12 con giáp, thì ngày 10 là ngày Dậu. Theo 12 địa chi, Dậu là gà, thuộc loài chim, và chim là biểu hiệu của Tiên. Cũng vậy, địa chi Thìn đã mang nghĩa là Rồng nên tiền nhân đã chọn ngày 10 tháng 3 là ngày Tiên, tháng Rồng. Ngày 10 tháng 3 được Tổ Tiên chọn chính là để giúp con cháu dễ dàng nhận thức về nguồn gốc dân tộc của mình: Con Rồng cháu Tiên. Nguồn: www.anviettoancau.net Hà Hùng giới thiệu Share this post Link to post Share on other sites