matrix

Một số vấn đề khác biệt trong cách lập lá số

13 bài viết trong chủ đề này

Xin kính chào các bác, các anh chị ! Tôi là người thích nghiên cứu về tử vi và đã đọc một số sách, lên vài trang mạng xem xét. Tôi thấy có rất nhiều khác biệt trong cách lập thành lá số, dẫn đến sự giải nghĩa không đúng. Mong các vị cao thủ chỉ giáo thêm.

1. Xác định Mệnh cục

Ở trang mạng này (http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaSoTuVi), vietshare.com và tuviglobal.com có sự khác nhau về xác định cục và mệnh. Điều này sẽ dẫn đến giải thích sai toàn bộ lá số.

Ví dụ đương số: Nam mạng, sinh ngày 29/12/1982, 17h30 (tức là giờ Dậu, ngày 15 tháng 11 năm Nhâm Tuất)

Kết quả Lyhocdongphuong: Phú Đăng Hỏa, Kim Tứ Cục

Kết quả tại vietshare và tuviglobal: Đại Hải Thủy, Kim Tứ Cục

Tương tự cho đương số: Nam mạng, sinh ngày 25/12/1975, 20h00 (tức là giờ Tuât, ngày 23 tháng 11 năm Ất Mão)

Kết quả Lyhocdongphuong: Sơn Hạ Hỏa, Thổ Ngũ Cục

Kết quả tại vietshare và tuviglobal: Đại Khuê Thủy, Thổ Ngũ Cục

Tôi nghĩ mệnh Thủy mới đúng cho cả 2 người này. Liệu ở đây có sai sót gì về lập trình cơ sở dữ liệu không?

2. An vòng Tràng Sinh

Đương số: Nam mạng, sinh ngày 25/12/1975, 20h00 (tức là giờ Tuât, ngày 23 tháng 11 năm Ất Mão)

Vietshare: an Tràng Sinh tại Thân (cung Thiên Di)

Tuviglobal: an Tràng Sinh tại Tý (cung Phu Thê)

Lyhocdongphuong: an Tràng Sinh tại Tị (cung Điền Trạch)

Không biết cái nào là đúng? An sai thì luận đoán cũng sẽ sai.

Xin cảm ơn các bác, anh chị vì mọi đóng góp quí báu

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xin kính chào các bác, các anh chị ! Tôi là người thích nghiên cứu về tử vi và đã đọc một số sách, lên vài trang mạng xem xét. Tôi thấy có rất nhiều khác biệt trong cách lập thành lá số, dẫn đến sự giải nghĩa không đúng. Mong các vị cao thủ chỉ giáo thêm.

1. Xác định Mệnh cục

Ở trang mạng này (http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaSoTuVi), vietshare.com và tuviglobal.com có sự khác nhau về xác định cục và mệnh. Điều này sẽ dẫn đến giải thích sai toàn bộ lá số.

Ví dụ đương số: Nam mạng, sinh ngày 29/12/1982, 17h30 (tức là giờ Dậu, ngày 15 tháng 11 năm Nhâm Tuất)

Kết quả Lyhocdongphuong: Phú Đăng Hỏa, Kim Tứ Cục

Kết quả tại vietshare và tuviglobal: Đại Hải Thủy, Kim Tứ Cục

Tương tự cho đương số: Nam mạng, sinh ngày 25/12/1975, 20h00 (tức là giờ Tuât, ngày 23 tháng 11 năm Ất Mão)

Kết quả Lyhocdongphuong: Sơn Hạ Hỏa, Thổ Ngũ Cục

Kết quả tại vietshare và tuviglobal: Đại Khuê Thủy, Thổ Ngũ Cục

Tôi nghĩ mệnh Thủy mới đúng cho cả 2 người này. Liệu ở đây có sai sót gì về lập trình cơ sở dữ liệu không?

2. An vòng Tràng Sinh

Đương số: Nam mạng, sinh ngày 25/12/1975, 20h00 (tức là giờ Tuât, ngày 23 tháng 11 năm Ất Mão)

Vietshare: an Tràng Sinh tại Thân (cung Thiên Di)

Tuviglobal: an Tràng Sinh tại Tý (cung Phu Thê)

Lyhocdongphuong: an Tràng Sinh tại Tị (cung Điền Trạch)

Không biết cái nào là đúng? An sai thì luận đoán cũng sẽ sai.

Xin cảm ơn các bác, anh chị vì mọi đóng góp quí báu

Anh Matrix thân mến.

Anh lấy tiêu chí gì để cho rằng:

Tôi nghĩ mệnh Thủy mới đúng cho cả 2 người này. Liệu ở đây có sai sót gì về lập trình cơ sở dữ liệu không?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Quả thật là tôi không nắm được nguyên lý lập mệnh, ví dụ: Đại hải Thủy, Lô trung Hỏa, v.v... như thế nào. Tôi chỉ kiểm tra so sánh các tài liệu khác nhau thì thấy hầu hết đều có kết quả giống nhau. Vậy xin anh giải thích giùm, nhân tiện giải đáp luôn các câu hỏi còn lại.

Xin đa tạ anh

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào bác Matrix,

Vấn đề Hỏa và Thủy đổi chỗ cho nhau thì không phải bây giờ bác mới thắc mắc. Khi Hải Trung Kim mới đọc các bài viết trên Việt lý số (diễn đàn này bác Thiên Sứ cũng tham gia) cũng có thắc mắc như vậy nhưng do không biết nhiều về lý học đông phương nói chung nên chưa dám thắc mắc. Sau đọc các bài viết, thấy mọi người thắc mắc cũng nhiều, và cũng đọc được giải thích của bác Thiên Sứ nên HTK không còn thắc mắc nữa. Nay HTK xin mạn phép copy lại một bài của bác Thiên Sứ có nói về vấn đề này trên diễn đàn Việt lý số (HTK mới gia nhập diễn đàn này nên chưa đọc được nhiều trong diễn đàn để tìm bài của bác Thiên Sứ gửi cho bác).

Bác đọc tham khảo:

"Về nguyên lý lý thuyết căn để của Tử Vi Lạc Việt khác với các bản Tử Vi lưu truyền trong sách Hán là:

* Từ vi Lạc Việt khẳng định một thực tại là cơ sở lý thuyết của nó chính là những hiệu ứng tương tác của vũ trụ ảnh hưởng tới Địa cầu và con người.

* Có nguyên lý căn để là Hậu Thiên Lạc Việt liên hệ với Hà Đồ. Tính quy luật làm nên khả năng tiên tri từ đồ hình biểu lý căn để này.

* Tử Vi Lạc Việt giữa trên nạp âm của Lạc Thư Hoa giáp

Trên cơ sở nguyên lý này, sẽ dẫn tới sự hiệu chỉnh một số dữ kiện của lá số Tử Vi, chứng tỏ tính nhất quán và hoàn chỉnh của một lý thuyết liên hệ tới một phương pháp ứng dụng.

* Không có sự thay đổi về tính chất các sao trong sự tương tác cụ thể trong luận đoán.

* Không thay đổi về nguyên tắc an sao mà chỉ là hiệu chỉnh một số sao theo nguyên lý của nó.

Thí dụ:

Hoả cục Trường Sinh ở Dần thì nguyên tắc không đổi. Nhưng người Hoả Lục cục theo sách Hán, do đổi thành Thuỷ Lục cục theo Lạc Thư Hoa Giáp, nên Trường Sinh an từ Thân.

* Có một số tiểu tinh được an lại cho phù hợp với tính qui luật đã chứng minh trên nguyên lý:

Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ

NGUYÊN TẮC NẠP ÂM LẠC THƯ HOA GIÁP

Sách của người Lạc Việt viết về chu kỳ 60 năm

Cũng căn cứ trên Hà Đồ - PHÁP ĐẠI UY NỖ của người Lạc Việt và nguyên lý THUẬN chiều kim đồng hồ của đồ hình này, Vẫn ứng dụng qui luật Cách bát sinh tử; và chu kỳ Sinh - Vượng - Mộ như cũ, chúng ta sẽ có bảng Lạc thư hoa giáp.

Qui luật sắp xếp của Lạc thư hoa giáp chỉ khác bảng lưu truyền qua cổ thư chữ Hán ở hai hành Thuỷ Hoả. Điều này được trình bày như sau:

Bắt đầu từ hành Kim:

1) Hành Kim

Giáp Tí- Ất Sửu = Hải trung Kim: Kim Sinh (Mạnh); cách 8 năm (Cách bát sinh tử) đến Nhâm Thân-Quý Dậu = Kiếm phong Kim: Kim Vượng (Trọng); cách 8 năm đến Canh Thìn-Tân Tỵ = Bạch Lạp Kim: Kim Mộ (Quý).

* Kết thúc chu kỳ Sinh - Vượng - Mộ của Kim - tổng cộng 24 năm, Thuận theo chiều kim đồng hồ trên Hà Đồ; cách 8 năm tiếp theo tới hành Thuỷ

Quí vị lưu ý:

Thuỷ là con do Kim sinh.

Theo bảng Lục thập hoa giáp từ cổ thư chữ Hán thì sau hành Kim là Hoả. Điều này không mang tính qui luật "Cách bát sinh tử". Bởi vì Hoả khắc Kim và không phải con (Tử) của Kim.

2) Hành Thuỷ:

Mậu Tí - Kỷ Sửu = Giản hạ Thuỷ (Sinh), cách 8 năm đến: Bính Thân - Đinh Dậu = Tuyền trung Thuỷ (Vượng), cách 8 năm đến: Giáp Thìn-Ất Tỵ = Trường lưu Thuỷ (Mộ).

* Kết thúc chu kỳ Sinh - Vượng - Mộ của hành Thuỷ - Tổng cộng 24 năm, Thuận theo chiều kim đồng hồ trên Hà Đồ; cách 8 năm tiếp theo tới hành Mộc (Mộc là con do Thuỷ sinh) là:

3) Hành Mộc:

Nhâm Tí-Quý Sửu = Tang đố Mộc (Sinh), cách 8 năm đến Canh Thân-Tân Dậu = Thạch Lựu Mộc (Vượng), cách 8 năm đến Mậu Thìn-Kỷ Tỵ = Đại Lâm Mộc (Mộ).

* Kết thúc chu kỳ Sinh - Vượng - Mộ của hành Mộc - Tổng cộng 24 năm, Thuận theo chiều kim đồng hồ trên Hà Đồ; cách 8 năm tiếp theo tới hành Hoả (Hoả là con do Mộc sinh) là:

4) Hành Hoả

Bính Tí-Đinh Sửu = Lư trung Hoả (Sinh), cách 8 năm đến: Giáp Thân-Ất Dậu = Sơn đầu Hoả (Vượng), cách 8 năm đến: Nhâm Thìn-Quý Tỵ = Tích lịch Hoả (Mộ).

* Kết thúc chu kỳ Sinh - Vượng - Mộ của hành Hoả - Tổng công 24 năm, thuận theo chiều kim đồng hồ trên Hà Đồ; cách 8 năm tiếp theo tới hành Thổ (Thổ là con do Hoả sinh)là:

5) Hành Thổ

Canh Tí-Tân Sửu = Bích thượng Thổ (Sinh); cách 8 năm đến: Mậu Thân-Kỷ Dậu = Đại dịch Thổ (Vượng); cách 8 năm đến Bính Thìn-Đinh Tỵ = Sa trung Thổ (Mộ).

* Kết thúc chu kỳ Sinh – Vượng – Mộ của hành Thổ.

Đến đây là kết thúc một kỷ 30 năm của Lạc thư hoa giáp.

Qui luật cách bát sinh tử được lặp lại với nguyên tắc thuận chiều kim đồng hồ trên Hà Đồ ở trên bắt đầu từ Giáp Ngọ - Ất Mùi = Sa Trung Kim (Sinh) tiếp tục cho đến hết tạo thành bảng Lạc thư Hoa giáp với chu kỳ 60 năm. Nguyên tắc thuận theo chiều kim đồng hồ trên Hà Đồ (Chiều Ngũ hành tương sinh) và vẫn ứng dụng qui luật Cách bát sinh tử với Sinh - Vượng - Mộ, được minh hoạ bằng hình dưới đây:

NGUYÊN TẮC NẠP ÂM LẠC THƯ HOA GIÁP

Theo chiều tương sinh thuận chiều kim đồng hồ trên Hà Đồ

Posted Image

Bảng LẠC THƯ HOA GIÁP là kết quả của sự sắp xếp theo lý tương sinh của Hà Đồ và qui luật Cách bát sinh tử. Theo nguyên lý này thì hành Thuỷ Hoả sẽ thay thế chỗ cho nhau.

Qua những chứng minh ở trên; người viết đã chứng tỏ rằng:

Chính Hà Đồ là nguyên lý của chu kỳ hoa giáp 60 năm trong Lý Học Đông phương; dù theo cách nào: Hán cổ hay Lạc thư hoa giáp.

Hà Đồ là một đồ hình căn bản trong lý học Đông phương và được chứng minh trong luận đề "Hà đồ và văn minh Lạc Việt", đồng thời cũng được chứng tỏ trong di sản văn hoá dân gian Lạc Việt là bức tranh thờ Ngũ Hổ của phướng Hàng Trống với danh xưng:Pháp Đại uy nỗ. Đây là điều không hề có trong các bản văn Hán cổ.

Kính thưa quí vị quan tâm.

Như vậy; người viết đã chứng minh nguyên tắc của bảng nạp âm trong lục thập hoa giáp lưu truyền từ cổ thư chữ Hán và sai lầm của nó. Đồng thời cũng chứng minh tính hợp lý cho sự liên hệ nội tại của những vấn đề liên quan đến sự lập thành bảng Lạc thư hoa giáp từ văn minh Lạc Việt. Xin xem chi tiết trong bài "Bí ẩn Lục thập hoa giáp". Văn hiến Lạc Việt. Vietlyso.com

Đây là bằng chứng nữa về cội nguồn văn hoá phương Đông thuộc về văn minh Lạc Việt; cơ sở của niềm tự hào về truyền thống lịch sử gần 5000 năm văn hiến của dân tộc Việt Nam.

Đây cũng là nguyên lý căn để trong Tử Vi Lạc Việt

Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị."

Nguồn: http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?t=5441

HTK thì chưa thể hiểu hết các thuật ngữ trong bài trên của bác Thiên Sứ (chỉ gọi là hiểu sơ sơ thôi) vì HTK chỉ mới tiếp xúc với bộ môn này nhưng HTK tin bác Thiên Sứ đúng. Nhưng mong là bác Matrix - một người thích nghiên cứu về tử vi và đã đọc sách về tử vi - sau khi đọc bài trên của bác Thiên Sứ thì có thể tự giải thích được những thắc mắc của mình.

Trân trọng,

HTK

Share this post


Link to post
Share on other sites

HaiTrungKim mến,

Bạn mới học qua quy luật Sinh Vượng Mộ nhưng bạn chưa nắm vững quy luật thượng và hạ. Vì vậy bạn không thể hiểu được cái năm nào là năm Thượng Sinh, Thượng Vượng, Thượng Mộ và năm nào là Hạ Sinh, Hạ Vượng, Hạ Mộ.

Vì vậy khi bạn cho năm Mậu Tý là Giản Hạ Thủy (Thượng Sinh). Sau khi cách bát sinh tử hay 8 năm là đến năm Bính Thân (Hạ Vượng). Nếu bạn không biết Đại Khe Thủy hay Tuyền Trung Thủy là Thượng Vượng hay Hạ Vượng, thì làm sao bạn chắc năm Bính Thân là năm Đại Khe Thủy hay Tuyền Trung Thủy.

Đào Hoa

Share this post


Link to post
Share on other sites

HaiTrungKim mến,

Bạn mới học qua quy luật Sinh Vượng Mộ nhưng bạn chưa nắm vững quy luật thượng và hạ. Vì vậy bạn không thể hiểu được cái năm nào là năm Thượng Sinh, Thượng Vượng, Thượng Mộ và năm nào là Hạ Sinh, Hạ Vượng, Hạ Mộ.

Vì vậy khi bạn cho năm Mậu Tý là Giản Hạ Thủy (Thượng Sinh). Sau khi cách bát sinh tử hay 8 năm là đến năm Bính Thân (Hạ Vượng). Nếu bạn không biết Đại Khe Thủy hay Tuyền Trung Thủy là Thượng Vượng hay Hạ Vượng, thì làm sao bạn chắc năm Bính Thân là năm Đại Khe Thủy hay Tuyền Trung Thủy.

Đào Hoa

Chào anh,

Anh có thể cho thông tin sách nào viết về vấn đề này được không ạ. Cảm ơn anh !

Share this post


Link to post
Share on other sites

HaiTrungKim mến,

Bạn mới học qua quy luật Sinh Vượng Mộ nhưng bạn chưa nắm vững quy luật thượng và hạ. Vì vậy bạn không thể hiểu được cái năm nào là năm Thượng Sinh, Thượng Vượng, Thượng Mộ và năm nào là Hạ Sinh, Hạ Vượng, Hạ Mộ.

Vì vậy khi bạn cho năm Mậu Tý là Giản Hạ Thủy (Thượng Sinh). Sau khi cách bát sinh tử hay 8 năm là đến năm Bính Thân (Hạ Vượng). Nếu bạn không biết Đại Khe Thủy hay Tuyền Trung Thủy là Thượng Vượng hay Hạ Vượng, thì làm sao bạn chắc năm Bính Thân là năm Đại Khe Thủy hay Tuyền Trung Thủy.

Đào Hoa

Chào bác DaoHoa,

Có lẽ bác đọc chưa kỹ phần HTK viết, HTK viết là "HTK xin mạn phép copy lại một bài của bác Thiên Sứ có nói về vấn đề này trên diễn đàn Việt lý số". Và HTK cũng có trích cả nguồn (nơi bác Thiên Sứ viết bài và mọi người cũng tham gia thảo luận): http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?t=5441 để bác Matrix tham khảo thêm chứ HTK không phải là người đưa ra những ý kiến trên.

HTK chưa được học những quy luật Sinh - Vượng - Mộ, có thể nói là HTK mù tịt về những vấn đề này, nhưng khi đọc các bài viết trên diễn đàn thì cũng có thắc mắc như bác Matrix nên cũng chịu khó theo dõi diễn đàn để nghe mọi người nói và HTK đọc được bài đó của bác Thiên Sứ. HTK mù tịt về vấn đề này nên chỉ nhìn thấy câu bác Thiên Sứ viết có nói đến "sự hiệu chỉnh một số dữ kiện", "điều này được trình bày như sau....", "người viết đã chứng minh nguyên tắc của bảng nạp âm trong lục thập hoa giáp lưu truyền từ cổ thư chữ Hán và sai lầm của nó. Đồng thời cũng chứng minh tính hợp lý cho sự liên hệ nội tại của những vấn đề liên quan đến sự lập thành bảng Lạc thư hoa giáp từ văn minh Lạc Việt." thì HTK nghĩ rằng không phải là có sự nhầm lẫn mà việc thay đổi đó là có lý do và đã được chứng minh. Vì vậy khi thấy bác Matrix có thắc mắc giống HTK thì HTK copy lại bài của bác Thiên Sứ để bác Matrix tham khảo bởi vì thắc mắc này quá nhiều người hỏi bác Thiên Sứ rồi.

HTK

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xin cảm ơn các bạn đã có các ý kiến. Tôi nghĩ rằng:

1. Số phận/hành vi/tính cách/mệnh con người bị tác động bởi các hành tinh trong vũ trụ là hoàn toàn có cơ sở khoa học.

2. Các qui luật vận hành theo các sách cổ thư thì mới chỉ nói lên hiện tượng (tích lũy kinh nghiệm), mà chưa có diễn giải thuyết phục. Về cơ bản, tử vi hiện nay mới chỉ chứa đựng các nguyên lý về mặt Triết học phương đông, và bị thay đổi từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Để chứng minh tính khoa học của tử vi thì phải dựa trên Toán học và Vật lý Thiên văn, tức là các qui tắc vận hành của các sao, các hành phải có logic nhất định, và phải định lượng được. Không thể giải thích chỉ theo định tính.

3. Trên thực tế, số phận con người chỉ có MỘT. Do đó, qui luật phải đúng cho mọi trường hợp. Và tôi tin chắc chỉ có toán học mới giải quyết được. Nếu tưởng tượng rằng số phận con người là một hệ 12 phương trình cơ bản ứng với 12 cung, bao gồm hàng trăm ẩn số và tham số, thì kết quả giải ra sẽ chính xác cho đương số. Để xây dựng được 12 phương trình này thì phải xây dựng được các phương trình phụ có liên hệ trực tiếp với phương trình cơ bản. Như vậy, chỉ cần đương số cho chính xác năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh, giới tính thì có thể giải đoán được đúng ít nhất 90% số phận người đó, mà không cần đương số cung cấp thêm bất kỳ thông tin nào (như: làm gì, bố mẹ là ai, đã trải qua các sự kiện gì trong đời, v.v...).

Bạn nào làm được việc này thì có lẽ sẽ trở thành một nhà khoa học Toán-Tử Vi siêu hạng (có khi còn nhận giải Nobel nữa). Và việc giải đoán sẽ không còn lờ mờ, khác nhau, xung đột giữa người này người kia, lệ thuộc vào kinh nghiệm tổng kết của các cụ ngày xưa, hoặc thậm chí là bói dựa. Để giải đoán chính xác ở mức 99.9% thì cần căn cứ vào bối cảnh xã hội, gia đình, cuộc sống, công việc của đương số, và tất nhiên là có cả kinh nghiệm, trình độ hiểu biết, và linh cảm đặc biệt của người giải đoán.

Tôi mới chỉ có ý tưởng như vậy, hiềm nỗi là trình độ toán học ở mức sơ đẳng nên chẳng biết làm thế nào.

Share this post


Link to post
Share on other sites

PhamThaiHoa,

Có vài sách trong cổ thư có ghi những quy luật về sinh vượng mộ. Ngũ hành có 5 và sinh vượng mộ là 3 .

5x3=15 năm. Cho nên phải có quy luật Thượng và Hạ để có 15 x 2 = 30 bản mệnh cho 60 hoa giáp

Những sách đó thì hiện nay không có in thêm trong trang giấy, huống gì mà có copy trên mạng. :P Hôm nào anh rãnh thì anh sẽ ghi lại quy luật thượng hạ để em tham khảo.

------------------------------------------------------------

Matrix,

2. Các qui luật vận hành theo các sách cổ thư thì mới chỉ nói lên hiện tượng (tích lũy kinh nghiệm), mà chưa có diễn giải thuyết phục. Về cơ bản, tử vi hiện nay mới chỉ chứa đựng các nguyên lý về mặt Triết học phương đông, và bị thay đổi từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Để chứng minh tính khoa học của tử vi thì phải dựa trên Toán học và Vật lý Thiên văn, tức là các qui tắc vận hành của các sao, các hành phải có logic nhất định, và phải định lượng được. Không thể giải thích chỉ theo định tính.

Matrix nói vậy thì cũng không hẳn đúng. Các sách cổ thư có ghi rõ quy luật các sao trong Tử Vi và còn có ghi rõ nơi an vị các sao trên giải thiên hà. Các ngôi sao đều đứng yên tương đối trên bầu trời, và hằng đêm cả “tầng trời Liệt Túc” đó đều từ từ xoay quanh một điểm cố định, mỗi ngày lại dịch đi một chút, và sau một năm thì quay trọn một vòng. Đồ hình Thiên tượng ở giữa là Tam viên, xung quanh là 28 Tinh tú. Ngũ phục là 5 vùng tính từ Trung tâm ra. Ba khu vực ở giữa là Tam Viên, gồm Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị Viên, tiếp đó là vòng của Nhị thập bát Tú, các chỗ trống còn lại là Thiên Cương Địa sát.

Nếu đêm quy luật ngày xưa mà so sánh với toán học ngày nay thì trên thế gian nầy có mấy ai làm nổi. Ngay cả những khu vực Tam Viên, như khu vực Tử Vi Viên gồm có Bắc Cực, Tứ Trụ, Câu Trần, ..., Thiên Bồi mà so với các độ thời nay thì cũng còn khó kiếm người để học.

Thí dụ như trong Thái Vi Viên: Thái Vị Viên Tả Viên và Thái Vị Viên Hữu Viên gồm có 10 sao. Tả Chấp Pháp với độ thời nay (Longitude angular distance) là 01°15'52" và Hữu Chấp Pháp với Longitude angular distance là 23°31'14" , vv...

có khi còn nhận giải Nobel nữa

Danh vọng là chuyện ngoài thân.

Đào Hoa

Share this post


Link to post
Share on other sites

PhamThaiHoa,

Có vài sách trong cổ thư có ghi những quy luật về sinh vượng mộ. Ngũ hành có 5 và sinh vượng mộ là 3 .

5x3=15 năm. Cho nên phải có quy luật Thượng và Hạ để có 15 x 2 = 30 bản mệnh cho 60 hoa giáp

Những sách đó thì hiện nay không có in thêm trong trang giấy, huống gì mà có copy trên mạng. :lol: Hôm nào anh rãnh thì anh sẽ ghi lại quy luật thượng hạ để em tham khảo.

------------------------------------------------------------

Tôi đã đọc và hiểu rằng TƯVILACVIET có những cơ sở trong cách an sao lập mệnh của TVLV Nhưng tôi có điều thắc mắc vấn đề sau xin được các cao nhân giải thích giúp:

Tôi lập lá số của tôi :Nam mạng, 09:00h ngày 01/04/1969(sinh ở Hà nội) thì theo: tinvietonline lá số này mệnh lập tại Hợi và 2 sao KHÔI VIỆT ở Tý và Thân. Nhưng TƯVILACVIET lập lá số này mệnh tại cung Tuất, Còn 2 sao KHÔI VIỆT lại an ở Sửu Mùi. Tôi rất băn khoăn mà không biết hỏi ai vậy kính mong cao nhân nào biết xin trả lời giúp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ahug,

Năm 1969 đồng hồ VN có vặn lên 1 tiếng đồng hồ. Nếu bạn sinh lúc 21:50 tối thì giờ sinh Tử Vi của bạn là 21:50 - 1 = 20:50 tối. Vì vậy theo tại hạ bạn có thể sinh giờ Tuất chớ không phải giờ Hợi

Còn về chuyện nơi an vị của Thiên Khôi và Thiên Việt, trong Tử Vi Lạc Việt có thay đổi vị trí của Thiên Khôi và Thiên Việt. Nếu bạn nhớ lại tên của những chàng trai VN với tên Khôi và Việt. Thường thường cha mẹ đặt tên con trai trưởng là Khôi và con trai thứ là Việt

Trong Tử Vi, Thiên Khôi và Thiên Việt không phải là 2 sao thiệt trên thiên hà, mà là 2 phần trên dưới của giải thiên hà, lấy trục Thìn Tuất phân chia 2 phần. Thiên Khôi tượng trưng cho phần trên hay phần trên từ cung Thìn đến Tuất và Thiên Việt tượng trưng cho phần dưới của giải thiên hà. Vị trí của Thiên Khôi và Thiên Việt sẽ tùy theo vòng trong của những ngũ hành tinh quay quanh mặt trời.

Ahug có thể coi lại những bài viết của Mr Thiên Sứ để hiểu biết thêm về nơi an vị của Thiên khôi và Thiên Việt

Đào Hoa

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ahug,

Năm 1969 đồng hồ VN có vặn lên 1 tiếng đồng hồ. Nếu bạn sinh lúc 21:50 tối thì giờ sinh Tử Vi của bạn là 21:50 - 1 = 20:50 tối. Vì vậy theo tại hạ bạn có thể sinh giờ Tuất chớ không phải giờ Hợi

Còn về chuyện nơi an vị của Thiên Khôi và Thiên Việt, trong Tử Vi Lạc Việt có thay đổi vị trí của Thiên Khôi và Thiên Việt. Nếu bạn nhớ lại tên của những chàng trai VN với tên Khôi và Việt. Thường thường cha mẹ đặt tên con trai trưởng là Khôi và con trai thứ là Việt

Trong Tử Vi, Thiên Khôi và Thiên Việt không phải là 2 sao thiệt trên thiên hà, mà là 2 phần trên dưới của giải thiên hà, lấy trục Thìn Tuất phân chia 2 phần. Thiên Khôi tượng trưng cho phần trên hay phần trên từ cung Thìn đến Tuất và Thiên Việt tượng trưng cho phần dưới của giải thiên hà. Vị trí của Thiên Khôi và Thiên Việt sẽ tùy theo vòng trong của những ngũ hành tinh quay quanh mặt trời.

Ahug có thể coi lại những bài viết của Mr Thiên Sứ để hiểu biết thêm về nơi an vị của Thiên khôi và Thiên Việt

Đào Hoa

Tôi tiếp tục có một số thắc mắc mong các anh chị và các bạn giải đáp tiếp:

1. Luận về giờ sinh

Một số tài liệu cho rằng giờ Tý khởi từ 24h - 2h, một số khác cho là từ 23h - 1h. Ai là người đúng? Vì sao?

Theo tài liệu Tử vi Hàm số: Từ năm 1960 trở đi thì giờ sinh phải trừ đi 1 giờ (tương tự như cách giải đáp của a Đào Hoa). Vậy có 2 câu hỏi:

> Mỗi chế độ chính trị thì sẽ có qui định về thời gian riêng. Vậy căn cứ vào điểm gốc (cơ sở) nào để điều chỉnh những sai biệt đó để coi giờ tử vi âm lịch là chuẩn? Căn cứ giờ GMT?

> Nếu việc điều chỉnh để tìm giờ âm lịch xem tử vi cho đúng đắn, vậy tại sao các phần mềm trực tuyến lấy lá số vẫn không thể hiện sự điều chỉnh đó? Hay là người lấy lá số phải tự điều chỉnh thủ công? Ví dụ: Các phần mềm ghi rõ option giờ Tý từ 23-1h, người lấy lá số phải chuyển sang option giờ Dậu (21-23h)? Người mà không để ý thì sẽ nhầm lẫn ngay ??!!!

2. Luận về tính chất của vị trí an sao (miếu, đắc, ...)

Căn cứ vào nguyên lý nào để định tính chất của một chính tinh tại một cung là hãm, miếu, vượng, đắc, bình hoà? Ví dụ: Thiên Đồng là Thuỷ, an tại Dậu là Kim thì lại là hãm địa, Vũ Khúc an tại Tuất là miếu địa (theo qui tắc Ngũ hành thì cung sinh cho chính tinh phải là tốt, trong khi đó cái thì hãm, cái thì miếu. Thật không hiểu ra làm sao nữa).

3. Luận về hành của sao

Về cái này rất lung tung. Nguyên tắc nào định hành của sao? Nếu không có nguyên tắc (tức là mặc định phải như vậy, miễn bàn cãi) thì dù ai viết sách tử vi cũng phải giống nhau khi xác định cái này!!!??? Đằng này mỗi ông một kiểu. Ví dụ: Có người cho sao Không Kiếp là Hoả, người thì cho là một Thủy một Hoả, người thì cho là Thuỷ. Lấy lá số tại Lyhocdongphuong thì cho đó là Thuỷ;

Hoặc như sao Thiên cơ, người cho là Mộc, người cho là Thổ. Nếu là mộc, tại sao lại đắc địa tại Sửu Mùi (thổ)

4. Luận về hành của mệnh

Tôi cũng đưa ví dụ một vài đương số thì thấy có nhiều khác biệt. Anh Thiên Sứ có hỏi là dựa vào đâu để biết. Tôi đọc các sách dùng bài Nạp âm (Ngân đăng giá bích câu, ....) để tìm hành. Tôi nghĩ hẳn phải có nguyên tắc nhất định, rồi sau đó người xưa chuyển thể thành 1 bài thơ cho dễ nhớ mà thôi.

5. Luận về Cục

Có 5 loại cục. Nguyên lý xác định cục nào thì căn cứ vào cung an mệnh. Các bước thực hiện, kết hợp bài thơ Nạp âm thì các sách đều nêu rõ. Vấn đề là điều gì nằm phía sau Nguyên lý kia?

Trân trọng cảm ơn mọi ý kiến trả lời.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi tiếp tục có một số thắc mắc mong các anh chị và các bạn giải đáp tiếp:

1. Luận về giờ sinh

Một số tài liệu cho rằng giờ Tý khởi từ 24h - 2h, một số khác cho là từ 23h - 1h. Ai là người đúng? Vì sao?

Theo tài liệu Tử vi Hàm số: Từ năm 1960 trở đi thì giờ sinh phải trừ đi 1 giờ (tương tự như cách giải đáp của a Đào Hoa). Vậy có 2 câu hỏi:

> Mỗi chế độ chính trị thì sẽ có qui định về thời gian riêng. Vậy căn cứ vào điểm gốc (cơ sở) nào để điều chỉnh những sai biệt đó để coi giờ tử vi âm lịch là chuẩn? Căn cứ giờ GMT?

> Nếu việc điều chỉnh để tìm giờ âm lịch xem tử vi cho đúng đắn, vậy tại sao các phần mềm trực tuyến lấy lá số vẫn không thể hiện sự điều chỉnh đó? Hay là người lấy lá số phải tự điều chỉnh thủ công? Ví dụ: Các phần mềm ghi rõ option giờ Tý từ 23-1h, người lấy lá số phải chuyển sang option giờ Dậu (21-23h)? Người mà không để ý thì sẽ nhầm lẫn ngay ??!!!

2. Luận về tính chất của vị trí an sao (miếu, đắc, ...)

Căn cứ vào nguyên lý nào để định tính chất của một chính tinh tại một cung là hãm, miếu, vượng, đắc, bình hoà? Ví dụ: Thiên Đồng là Thuỷ, an tại Dậu là Kim thì lại là hãm địa, Vũ Khúc an tại Tuất là miếu địa (theo qui tắc Ngũ hành thì cung sinh cho chính tinh phải là tốt, trong khi đó cái thì hãm, cái thì miếu. Thật không hiểu ra làm sao nữa).

3. Luận về hành của sao

Về cái này rất lung tung. Nguyên tắc nào định hành của sao? Nếu không có nguyên tắc (tức là mặc định phải như vậy, miễn bàn cãi) thì dù ai viết sách tử vi cũng phải giống nhau khi xác định cái này!!!??? Đằng này mỗi ông một kiểu. Ví dụ: Có người cho sao Không Kiếp là Hoả, người thì cho là một Thủy một Hoả, người thì cho là Thuỷ. Lấy lá số tại Lyhocdongphuong thì cho đó là Thuỷ;

Hoặc như sao Thiên cơ, người cho là Mộc, người cho là Thổ. Nếu là mộc, tại sao lại đắc địa tại Sửu Mùi (thổ)

4. Luận về hành của mệnh

Tôi cũng đưa ví dụ một vài đương số thì thấy có nhiều khác biệt. Anh Thiên Sứ có hỏi là dựa vào đâu để biết. Tôi đọc các sách dùng bài Nạp âm (Ngân đăng giá bích câu, ....) để tìm hành. Tôi nghĩ hẳn phải có nguyên tắc nhất định, rồi sau đó người xưa chuyển thể thành 1 bài thơ cho dễ nhớ mà thôi.

5. Luận về Cục

Có 5 loại cục. Nguyên lý xác định cục nào thì căn cứ vào cung an mệnh. Các bước thực hiện, kết hợp bài thơ Nạp âm thì các sách đều nêu rõ. Vấn đề là điều gì nằm phía sau Nguyên lý kia?

Trân trọng cảm ơn mọi ý kiến trả lời.

Anh có thể vào trang chủ xem cuốn: Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt - gần như trả lời tất cả các câu hỏi của anh.

Share this post


Link to post
Share on other sites