thanhtrang

Nhật chủ, thiên nhiên và tính chất con người

1 bài viết trong chủ đề này

ThanhTrang sưu tầm được bài viết này đăng lên để mọi người cùng tham khảo. Tác giả Moclan, nguồn: nhantrachoc

--------------------------------------------------------------------------------

Việc chọn dụng thần ở bước sơ khởi tính từ những điều kiện kể ở các bài về âm dương ngũ hành sinh khắc. Bạn sẽ hỏi rằng như vậy có đến hàng vạn người có tứ trụ giống bạn, nhưng cuộc đời thì không ai giống ai? Quả đúng như vậy; vì Hình và Khí là 2 phạm trù hoàn toàn độc lập với nhau, vạn vật từ đấy sinh ra muôn hình muôn trạng do cách biệt về không gian và thời gian. Vậy cho dù là một cặp sinh đôi cùng giới tính, cùng cha cùng mẹ, ra đời cùng ngày tháng năm, nhưng giờ khắc vẫn là dị biệt dù là 1 tích tắc, nên vẫn sẽ có những cuộc đời trái ngược nhau. Đi sâu vào vấn đề này đồng thời với Tử bình có các môn như Nhân tướng học, Phong Thủy học và hiện nay là vấn đề của Xã hội và Tâm lý.

Bởi vậy từng bát tự có một hình ảnh riêng cho người đó mà thôi. Ở giới hạn này chỉ có thể đưa ra một nguyên lý căn bản của môn học để người quan tâm từ đó hiểu mình là chính và có thái độ với người chung quanh tương ứng với trạng thái khả quan nhất.

Đã đề cập đến rằng Tử bình lấy Ngày làm Chủ, Tháng làm Lệnh, Can là Khí Trời, Chi là Đất, Gốc nằm ở Can tàng trong chi, tức là tìm hiểu xem con người thụ khí có hài hòa với Trời Đấy hay không. Đủ khí âm dương, ngũ hành, sinh khắc thuận lợi là sức khỏe tốt. Có đủ sức khỏe là tâm trí phát triển tốt. Nếu nằm trong một môi trường có thể thúc đẩy được sức mạnh của bản thân thì mọi việc hài hòa. Nhưng dĩ nhiên chẳng có ai hoàn toàn được như thế cả. Mà cũng không cần thiết phải „hoàn toàn“, vì sự vận động của thiên nhiên và môi trường có bao giờ ngừng lại? Nếu chúng ta đòi hỏi phải hoàn toàn mỹ mãn ở một thời khắc nào đó, dĩ nhiên là đến khoảng khắc sau đã thành bất toàn ngay rồi.

Về Hình Khí tựu chung nhắc lại điểm chính:

Nhật chủ là Can ngày

(âm và dương khác nhau về chất)

Thí dụ tứ trụ: Bính Tý - Tân Sửu - Ất Mão - Canh Thìn

Ất là can của trụ ngày, là nhật chủ, có tính cách quyết định đầu tiên trong tứ trụ.

Sau đây là nhận định đối với thập can qua hình ảnh của thiên nhiên và sự hình thành tính khí tương đối của con người.

1. MỘC nhật chủ thường có tính nghiêm nghị nhưng lại dễ cảm. Khi đã chọn được địa bàn họat động, họ chỉ hướng về sự thành công và thường thích tự đối phó vấn đề. Giống như ta ít khi quan sát cây cối hàng ngày như thế nào; hình thì như tĩnh, nhưng khí chất của chúng vẫn luôn phát triển. Trong điều kiện tốt thì sự lớn mạnh và thịnh vượng là kết quả mỹ mãn nhất.

- GIÁP (dương mộc): cây cao, to, nhánh lớn, vững, dai sức, cứng rắn, cố chấp, vấn đề gay go không làm cản trở họ. Vì thể nên họ có khi bảo thủ và miễn cưỡng khi phải thay đổi.

- ẤT (âm mộc): hoa, nhánh nhỏ, lá, cỏ, dễ uốn, dễ sai khiến, thuyết phục được, linh hoạt, mềm mỏng, luồn cúi, thuận theo. Hình ảnh này cho thấy là 1 sự đối nghịch với Giáp, nhưng cùng là mộc nên tính khí vươn lên vẫn lộ rõ tuy với một cách kín đáo hơn. Khác với Giáp, Ất mộc chấp nhận thay đổi và thường tránh đụng chạm vấn đề. Ất mộc vì thế sống bền bĩ hơn trong thiên nhiên vì vậy.

2. HỎA nhật chủ là người luôn sôi nổi, nồng nhiệt, thân thiện, cởi mở, nếu thái quá thì dễ cáu, dễ giận, nhưng họ là những nhân vật mang lại không khí tràn đầy sức sống và dễ khiến cho người bộc lộ tình cảm. Trong điều kiện tứ trụ không thuận lợi, những cá tính trên đây sẽ lại là một chướng ngại cho chính họ và thường là những người tự mâu thuẫn nhất. Hỏa dương khác Hỏa âm và ít khi thành cộng sự tốt được.

- BÍNH (dương hỏa): mặt trời, ấm áp, nuôi nấng, giáo dục, nóng bức, đốt cháy, xung nộ. Thường là những người có niềm tin vững nhất và hay chia xẻ kiến thức của mình. Là hình ảnh của mặt trời, họ không thích yên ổn một nơi và giống như khi chan hòa được ánh sáng của mình lên đồng cỏ rộng mênh mông, họ sẽ buông thả hết công việc và hưởng thụ.

- ĐINH (âm hỏa): lửa nhỏ, âm ỉ, than hồng, ấm áp, chiếu sáng trong bóng tối, khai trí, thường là những người lãnh đạo tốt và có niềm kiêu hãnh riêng. Như lửa đèn cầy, có người hay chao động vì gió tức là không có lập trường, nhưng họ lại có khả năng làm được những việc kinh thiên động địa. Ở trạng thái bi quan, họ lại không thể tự vực mình lên được.

3. THỔ nhật chủ là người có lòng tín nhiệm cao, trách nhiệm nặng, kỳ vọng lớn. Giống như núi đã hiện diện từ bao lâu đời và sẽ còn ngự trị cho đến thời khắc cuối cùng của nhân loại, đấy là những người đi trước về sau trong công việc, lặng yên nhưng vận động tâm trí nhiều, và thường là giữ bí mật không bao giờ thố lộ.

MẬU (dương thổ): đá tảng, đập nước, núi lớn, vững vàng, kiên quyết, ổn định, không chịu nhượng bộ, trung thành tuyệt đối. Đó là mẫu người „cảnh vệ“, một người bạn mà ta dựa dẫm vào. Tuy nhiên, họ cũng rất bảo lưu ý kiến và ngoan cố trong nhiều tình huống nên đôi khi phải trả giá rất đắt cho cuộc đời.

KỶ (âm thổ): đất đồng bằng, ẩm, màu mở, khả năng sinh sản cao, thuộc tính của núi lửa nên nóng nảy, sục sôi, nổi lên bất ngờ, đất dễ bị ủng nên thường kỵ thủy. Tính tình tốt bụng của nhật chủ Kỷ thổ làm cho nhiều người có thể lợi dụng; vì họ chậm nhận ra những xấu xa của người khác. Nếu thái quá hay bất cập, nhật chủ này cũng có khi phạm phải nhiều thói xấu về cách cư xử như ngược đãi và lạm dụng quyền hành.

4. KIM nhật chủ có tính ưa bảo vệ kẻ yếu hơn mình, chịu đựng được những thách thức và cố gắng thuyết phục, dũng cảm trước tai ương, nhưng điều quan trọng đối với họ phải là sự công bằng và thẳng thắn. Lật ngược lại vấn đề là những trường hợp mất tự chủ không có gì ngăn cản được.

CANH(dương kim): kim lọai nặng, thô, thanh kiếm lớn, rìu bự, không chịu dưới quyền ai, cứng cỏi, phản ứng nhanh. Thường không phải là người thích vuốt ve hay nịnh bợ. Họ sẽ không ngần ngại khi muốn làm việc gì, đôi khi phải nhận lấy hậu quả xấu cho dù cảm thấy trước. Bạn bè và anh em đối với họ rất nặng tình nghĩa. Nếu bất cập thì sự yếu nhất của nhật chủ Canh là thiếu suy nghĩ chín chắn hoặc do dự thái quá trước một vấn đề.

TÂN(âm kim): vàng, bạc, kim loại trang sức nói chung, thanh tao, mảnh khảnh, dễ vỡ, tinh vi, lịch thiệp. Tân nhật chủ xuất hiện lôi cuốn thường dưới 2 dạng: vì dễ nhìn (người đẹp) hoặc sự thông minh lịch lãm. Đó là những người thích làm „trung tâm điểm“ của tất cả mọi nơi, mọi trường hợp. Nếu không phải là tứ trụ mạnh thì họ sẽ làm cho tình hình không khí trở nên tàn tệ. Muốn hòa hợp với Tân kim phải biết cách thuyết phục, tỉ mỉ và đôi khi rất huyền ảo là nên chuyện.

5. THỦY nhật chủ thường chứng tỏ sự thông minh tài trí của mình. Có hành nào mà thay đổi được vô số trạng thái của mình như thủy? Nước có thể sắc bén như dao, mềm mại như lụa, trong sáng như gương và trầm đục không nhìn thấy đáy, ở đại dương không thể nhận ra bến bờ. Giống như Mộc, đôi khi hình thì tĩnh, nhưng thực ra các tinh thể của nước đang chuyển động không ngừng, bốc lên thành hơi và đổ xuống thành mưa.

NHÂM(dương thủy): biển, đại dương, thác gầm lớn, luôn chuyển động, vồn vã. Nhâm nhật chủ không bao giờ ngồi yên và tinh thần hướng ngoại. Lúc nào họ cũng có vấn đề nào đó để giải quyết, đôi khi mạo hiểm, liều lĩnh và mất phương hướng. Nhưng họ là những người đi đầu, khi đã nhận nhiệm vụ thì không có sức mạnh nào ngăn trở được. Nếu thái quá hoặc bất cập, đây là những người bất tuân luật pháp, hành động không tính trước được.

QÚY(âm thủy): sương mù, màn che ánh sáng, mây đen, mưa nhẹ, dịu dàng, tế nhị, tinh vi, xảo quyệt. Giống như tính chất trên, Quý thủy không ngừng làm việc và học hỏi đào sâu về kiến thức. Các thầy cô giáo gương mẫu thường có Quý nhật chủ mạnh trong trụ. Tuy nhiên họ là mẫu người hướng nội nhiều hơn, thích mơ mộng, thích sáng tạo, nhưng đặc cách là không ra khỏi quy tắc. Họ luôn nghĩ đến điều gì tốt đẹp hơn nữa trong cuộc sống. Thế bất lợi nhất của Quý nhật chủ trong trường hợp ngược lại là thiếu nỗ lực và sự gắng sức.

Sau đây có một thí dụ về tứ trụ của một nam đang bị vận xấu định tự kết liễu đời mình, nhìn lại trụ ngày gặp chữ Đinh:

- ĐINH (âm hỏa): lửa nhỏ, âm ỉ, than hồng, ấm áp, chiếu sáng trong bóng tối, khai trí, thường là những người lãnh đạo tốt và có niềm kiêu hãnh riêng. Như lửa đèn cầy, có người hay chao động vì gió tức là không có lập trường, nhưng họ lại có khả năng làm được những việc kinh thiên động địa. Ở trạng thái bi quan, họ lại không thể tự vực mình lên được.

Tứ trụ càn tạo:

Canh Thân...Đinh Hợi...Đinh Mùi....Ất Tỵ

Tài.............Tỷ.................Thực...Ki� �u

Vận 3.....13......23......33...43.......53.....63

Thương.. Thực...Tài.....Tài...Quan...Sát....Ấn

Mậu.......Kỷ......Canh..Tân..Nhâm...Quý..Gi áp

Tý.........Sửu.....Dần...Mão..Thìn.....Tỵ....Ngọ

Những điểm tô mầu để dễ nhận ra khi vào vận, các tụ hội trên sẽ có sức công phá hoặc giúp sức cho thân chủ như thế nào dựa trên bản tính của can Ngày.

Nam Đinh âm hỏa sinh tiết Lập đông, Nhâm làm chủ, gốc ở Hợi, có Tỷ nhiều và mạnh, nằm dưới 2 trụ tháng và trụ ngày có Hợi Mùi bán tam hợp Mộc là ấn sinh thân, nên Đinh hỏa này được trợ giúp khả dĩ đúng mực. Tỷ Kiếp là anh em, họ hàng. Nói "khả dĩ" là vì có những tiêu chí khắc hại như sau.

Hỏa tử mùa đông nên không khắc nổi Kim, trong trụ là Tài. Kim tuy hưu tù nhưng lại có tượng tranh hợp và tiêu chí tam hình chờ sẵn:

- Canh Ất cùng trụ giờ hợp, Ất bị hợp là Mộc bị mất lực ở Mão nên tam hợp mộc bị đỗ vỡ, đây là tượng hợp mất lực. Nên nhớ Canh Ất hợp hóa Kim. Trong trụ này, Kim là kỵ thần.

- Thân Tỵ là 2 chi trong tam hình Dần Tỵ Thân nằm sẵn, chỉ chờ khi gặp Dần là sinh chuyện.

Thủy mùa đông vượng, trụ chỉ có Quan, không Sát, có nghĩa là Quan rất mạnh vì không bị hỗn tạp, nhưng nó tiết khí Canh rất nhiều và chính thủy vượng dập tan hỏa yếu ớt gặp ấn thụ "nửa chừng", nên thân Đinh đúng là như lửa đèn cầy lung linh mà thôi.

Nói về các thần sát thì để ý trụ này gặp sống dê ở trụ giờ là Kiêu thần. Loại thần sát này rất kỵ Tài, trong trụ Tài lộ tam hình nên thân nhược lại bị yếu hơn.

Chưa nói đến dụng thần mà kỵ thần đã gặp, đấy là vận Canh Dần 23-32. Dần Tỵ Thân có đủ, lại lộ Canh dẫn, sống dê gặp Tài là sát thần có môi trường hoạt động. Việc học bỏ dỡ, năm Mậu Tý, tháng Kỷ Mùi, tinh thần suy nhược, chán đời nên đã tự tử. Năm Mậu Tý là tượng thủy thổ tương tranh, Tý hại Mùi là chi ngày và tháng của năm 2008 (Kỷ mùi).

May là trong Dần (chi đại vận) có Giáp bản khí là Ấn, Bính là Kiếp nên được gia đình bạn bè cứu chữa thoát nạn chết đúng lúc. 2 tháng tiếp theo trong năm nay là Canh Thân, Tân Dậu còn rất phải thận trọng sức khỏe vì hậu quả vừa qua. Phải vượt qua đại hạn này thì Đinh thân chủ mới hồi sức được phần nào, nhưng trụ này rất cần tình cảm anh em bạn bè làm điểm tựa.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites