Bích Duyen

Gõ cửa THIỀN

11 bài viết trong chủ đề này

1- TÁCH TRÀ

Nan-in là một thiền sư Nhật sống vào thời đại Minh Trị (1868-1912). Ngày kia, ngài tiếp một giáo sư đại học đến tham vấn về thiền.

Thiền sư rót trà mời khách. Ngài rót đầy tách trà của khách rồi nhưng vẫn tiếp tục rót.

Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách trà tràn ra mãi, cho đến khi không dằn lòng được nữa phải kêu lên :

– “Đầy qúa rồi, không thể rót thêm vào được nữa !”

Thiền sư nói :”Cũng giống như tách trà này, trong lòng ông đang chứa đầy những quan điểm và định kiến. Làm sao tôi có thể trình bày với ông về thiền nếu như trước tiên ông không làm trống cái tách của ông đi ?”

Lời bình :

Mỗi chúng ta đều có một tách trà, và phần lớn là những cái tách đã đầy ắp. Vì thế, qúa trình tiếp thu mỗi một tư tưởng mới thường bao giờ cũng là sự đối chọi, xung đột và tranh chấp với các tư tưởng cũ, chen chúc nhau trong một tâm thức ngày càng thu hẹp.

Thiền không chấp nhận tiến trình này. Các thiền sư không bao giờ tranh biện hay thuyết phục người khác tin theo mình. Họ chỉ giản dị sống và thể hiện thiền qua chính cuộc sống. Vì thế, sẽ không có bất cứ phương cách nào để bạn tiếp nhận thiền trừ phi bạn buông bỏ những quan điểm, định kiến sẵn có. Khi tách trà của bạn đã được làm trống, tâm thức bạn sẽ tự nhiên rộng mở và dòng nước thiền cũng tự nó dạt dào tuôn chảy. Tách trà ấy tự nó có thể chứa đựng cả ba ngàn đại thiên thế giới !

(Trích từ Gõ Cửa Thiền của Nguyễn Minh)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đức Phật nói:

Tất cả những gì ta đã nói với các người, chỉ như nắm lá trên tay ta. Còn những điều cần hiểu biết như lá trong rừng Kỳ Đà đằng sau ta.

Nếu không có trí huệ, không có hiểu biết chân chính thì mọi tri kiến đều là chấp. Bởi vậy trong tám điều bát chính có một điều là Chính Tư Duy - Thành thực mà suy nghĩ.

Chính vị thiền sư ấy đã chấp vào tính trống rỗng của tri thức.Một con robo khi chưa nạp vào bộ nhớ của nó những điều cần phải nạp, thì bộ nhớ của nó cũng trống rỗng. Nhưng dù có nhét vào đó toàn bộ Kinh Phật và nó có khả năng suy luận trên cơ sở dữ liệu ấy. Nó cũng không thể thành giác ngộ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

2- CHUỘT TRẮNG - CHUỘT ĐEN

Có người đàn ông nọ đang đi rong chơi trong rừng, chợt thấy một con hổ đói gầm lên và lao về phía mình. Anh ta kinh hỏang vội vàng cố sức bỏ chạy. Lão hổ cứ đuổi riết không tha, bức người đàn ông đến cùng đường. Đứng trước vực thẳm, người đàn ông nghĩ bụng : “Nếu để con hổ kia vồ được, thời ta chết chẳng tòan thây, chi bằng nhảy xuống vực là hơn, không chừng còn cơ may sống sót”. Thế là người đàn ông nhắm mắt nhảy xuống vực. May mắn là anh ta mắc vào một cành mơ trĩu qủa vươn ra chênh vênh trên vách đá.

Đang vui mừng hớn hở, người đàn ông bỗng nghe tiếng rống kinh khủng ở đâu vọng đến. Nhìn xuống đất, anh ta muốn rụng tim khi thấy một con tử to lớn đang ngẩng đầu nhìn mình. Anh ta nghĩ : “Sư Tử cũng hung dữ chẳng khác gì Hổ, rơi vào miệng nó thì chỉ có chết”. Đang khi ấy, người đàn ông lại nghe tiếng “rột rẹt, rột rẹt”. Nhìn kỹ phía gốc cành, anh ta hỏang sợ khi thấy hai con chuột, một trằng một đen, đang nhăn nanh gậm cành mơ !. Người đàn ông nghĩ : “Bị chuột gậm gãy cành mơ té chết con hơn bị Sư Tử xẻ thịt”. Sau khi lấy lại bình tĩnh, người đàn ông cảm thấy đói bụng, bèn hái vài qủa mơ đang chín mọng bên cạnh mình và ăn ngon lành.

Anh ta cảm thấy cả đời mình chưa từng được ăn thứ gì ngon như những qủa mơ này. Lần đến một cành chạc ba, người đàn ông lại nghĩ :”Sớm muộn gì cũng chết, chi bằng trước khi theo ông bà, ta cứ ngũ một giấc cho ngon lành cái đã”. Thế là anh ta thiếp đi trên cành cây. Lúc tỉnh lại, người đàn ông chẳng thấy Chuột Trắng, Chuột Đen, Hổ, Sư Tử đâu nữa. Anh ta bèn thận trọng lựa thế, men theo cành cây bám vào vách núi và từ từ xuống đến mặt đất an tòan.

Thì ra, khi người đàn ông ngủ, lão Hổ trên đỉnh núi đói qúa chịu không nổi, bèn gầm lên một tiếng, lao xuống vực. Hai con Chuột nghe tiếng Hổ gầm kinh sợ bỏ chạy. Lão Hổ lao xuống vực quần nhau với Sư Tử, cuối cùng cả hai thọ thương rồi bỏ chạy mỗi con một nơi.

Người ta nói :

Khi con người sinh ra, là bắt đầu của khổ nạn, tựa như con Hổ đói kia cứ tuy đuổi chúng ta. Và cái chết luôn chực chờ chúng ta như con con Sư Tử nọ. Ngày rồi lại đêm (thời gian) không ngừng bào mòn cái thân giả tạm của chúng ta, giống như hai con Chuột Trắng và Chuột Đen không ngừng gặm nhấm cành mơ đó. Một ngày kia, chúng ta sẽ phải rơi vào miệng Sư Tử. Đã biết sinh mệnh con người mong manh như vậy, thì chỉ có con đường duy nhất là hãy yên tâm hửơng những trái ngọt ngay bên mình, hãy yên tâm ngủ say, hãy bớt ham muốn và sống giản dị đơn sơ như tấm lòng trẻ thơ. Như vậy, chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc thực sự ở trong cuộc đời này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

3- NGỤ NGÔN CỦA PHẬT

Trong một lần thuyết pháp, Phật kể :

– “Có anh lái buôn giàu có nọ lấy được bốn cô vợ. Cô thứ nhất nhanh nhẹn đáng yêu, lúc nào cũng ở bên chồng như hình với bóng. Cô thứ hai là một mỹ nhân, anh lái buôn dùng tiền để mua về. Cô thứ ba tận tình lo những chuyện vặt vãnh trong nhà để chồng yên tâm làm ăn. Cô thứ tư tháo vát, đảm đang, lo toan mọi việc, nhưng anh chồng gần như quên mất sự tồn tại của cô “.

Lần nọ, anh lái buôn chuẩn bị đi xa, bèn quyết định chọn một người đi theo mình. Cô thứ nhất nói : “Anh hãy đi một mình, tôi không thể theo hầu hạ anh được”. Cô thứ hai nói :”Tôi bị ép buộc lấy anh, chứ có thật lòng yêu anh đâu !”. Cô thứ ba nói :”Tôi tuy là vợ anh nhưng không thể dầm mưa dãi nắng nơi đất khách quê người cùng anh được; vì tình nghĩa vợ chồng, tôi chỉ có thể tiễn anh một quãng thôi”. Cô thứ tư nói :”Tôi là vợ anh, anh đi đâu, tôi theo đó”. Thế là anh lái buôn dẫn cô vợ thứ tư đi”.

Kể xong câu chuyện, Phật giảng giải :

– “Anh lái buôn cũng như các ngươi. Người vợ thứ nhất chỉ nhục thể của các ngươi; khi các ngươi sống, nó gắn liền với thân thể các ngươi, nhưng khi các ngươi chết, nó cũng rời xa các ngươi. Người vợ thứ hai chỉ gia tài, sản nghiệp của các ngươi; khi chết, các ngươi cũng không thể mang nó theo được. Người vợ thứ ba chỉ vợ con các ngươi; khi các ngươi sống, họ gần gũi với các ngươi, còn khi các ngươi chết, cũng cách chia đôi đường. Người vợ thứ tư chĩ tự tính của các ngươi; lúc bình thường các ngươi không để ý đến sự tồn tại của nó, nhưng nó thực sự là cái vĩnh viễn gắn liền và đi theo các ngươi suốt cả cuộc đời”.

(Theo Chan Gushi của Ma Trí)

Share this post


Link to post
Share on other sites
  Bích Duyen said:

3- NGỤ NGÔN CỦA PHẬT

Trong một lần thuyết pháp, Phật kể :

– “Có anh lái buôn giàu có nọ lấy được bốn cô vợ. Cô thứ nhất nhanh nhẹn đáng yêu, lúc nào cũng ở bên chồng như hình với bóng. Cô thứ hai là một mỹ nhân, anh lái buôn dùng tiền để mua về. Cô thứ ba tận tình lo những chuyện vặt vãnh trong nhà để chồng yên tâm làm ăn. Cô thứ tư tháo vát, đảm đang, lo toan mọi việc, nhưng anh chồng gần như quên mất sự tồn tại của cô “.

Lần nọ, anh lái buôn chuẩn bị đi xa, bèn quyết định chọn một người đi theo mình. Cô thứ nhất nói : “Anh hãy đi một mình, tôi không thể theo hầu hạ anh được”. Cô thứ hai nói :”Tôi bị ép buộc lấy anh, chứ có thật lòng yêu anh đâu !”. Cô thứ ba nói :”Tôi tuy là vợ anh nhưng không thể dầm mưa dãi nắng nơi đất khách quê người cùng anh được; vì tình nghĩa vợ chồng, tôi chỉ có thể tiễn anh một quãng thôi”. Cô thứ tư nói :”Tôi là vợ anh, anh đi đâu, tôi theo đó”. Thế là anh lái buôn dẫn cô vợ thứ tư đi”.

Kể xong câu chuyện, Phật giảng giải :

– “Anh lái buôn cũng như các ngươi. Người vợ thứ nhất chỉ nhục thể của các ngươi; khi các ngươi sống, nó gắn liền với thân thể các ngươi, nhưng khi các ngươi chết, nó cũng rời xa các ngươi. Người vợ thứ hai chỉ gia tài, sản nghiệp của các ngươi; khi chết, các ngươi cũng không thể mang nó theo được. Người vợ thứ ba chỉ vợ con các ngươi; khi các ngươi sống, họ gần gũi với các ngươi, còn khi các ngươi chết, cũng cách chia đôi đường. Người vợ thứ tư chĩ tự tính của các ngươi; lúc bình thường các ngươi không để ý đến sự tồn tại của nó, nhưng nó thực sự là cái vĩnh viễn gắn liền và đi theo các ngươi suốt cả cuộc đời”.

(Theo Chan Gushi của Ma Trí)

Sự thực thì con người không quên mất tự tính. Mà chỉ hiểu nhầm nó thôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

4 - BỎ XUỐNG !...

Khi Phật còn tại thế, có một vị Bà la môn tên Hắc Chỉ hai tay mang hai chiếc bình hoa đến ra mắt.

Phật thấy vậy bèn nói : “ Bỏ xuống !”

Hắc Chỉ đặt chiếc bình bên tay trái xuống.

Phật lại nói : “ Bỏ xuống !”

Hắc Chỉ ngạc nhiên nói : “ Có hai chiếc bình hoa, tôi đã bỏ hết, chỉ còn hai tay không, đâu còn gì để bỏ xuống nữa. Xin hỏi ngài bảo tôi bỏ cái gì ?”

Phật nói : “ Ta hòan tòan không bảo ngươi bỏ hai chiếc bình hoa kia xuống. Cái ta bảo ngươi bỏ xuống là bỏ cái lòng tự đắc, cái tâm kiêu ngạo, là lục trần lục thức của ngươi kia. Khi ngươi buông bỏ tất cả những thứ ấy xuống, lúc ấy ngươi mới giải thóat khỏi xiềng xích sinh tử”

Người ta nói :

“ Bỏ xuống” nghe đơn giản là vậy, nhưng thực sự là chuyện hết sức khó khăn của con người. Người có công danh thì có thể bỏ công danh không ? Người có tiền bạc thì có thể bỏ tiền bạc không ? Người có ái tình thì có thể bỏ ái tình không ? Người có sự nghiệp thì có thể bỏ sự nghiệp không?

Gánh nặng trên vai con người, áp lực trong lòng con người nào có khác gì hai bình hoa của Hắc Chỉ ?. Đó là nguồn gốc khiến cuộc sống con người phiền não, đau khổ. Vậy, muốn được thanh thản nhẹ nhàng, hãy quẳng những gánh lo ấy đi ! Hãy biết “Bỏ xuống” để được hạnh phúc !.

(Theo Chan Gushi)

Share this post


Link to post
Share on other sites
  Thiên Sứ said:

Đức Phật nói:

Tất cả những gì ta đã nói với các người, chỉ như nắm lá trên tay ta. Còn những điều cần hiểu biết như lá trong rừng Kỳ Đà đằng sau ta.

Nếu không có trí huệ, không có hiểu biết chân chính thì mọi tri kiến đều là chấp. Bởi vậy trong tám điều bát chính có một điều là Chính Tư Duy - Thành thực mà suy nghĩ.

Chính vị thiền sư ấy đã chấp vào tính trống rỗng của tri thức.Một con robo khi chưa nạp vào bộ nhớ của nó những điều cần phải nạp, thì bộ nhớ của nó cũng trống rỗng. Nhưng dù có nhét vào đó toàn bộ Kinh Phật và nó có khả năng suy luận trên cơ sở dữ liệu ấy. Nó cũng không thể thành giác ngộ.

Hay cho cái câu không có trí huệ thì mọi tri kiến đều là chấp, Phật giáo cũng cho rằng trí huệ không do cái học từ chương, không do sự tích luỹ của kinh nghiệm mà ra. Trí huệ là cái biết của trực giác, cái biết về sự vật NHƯ THỊ mà không qua lăng kính của sự tích lũy kinh nghiệm về sự vật đó.

Ý của vị thiền sư đó là, khi tiếp xúc với trần cảnh, lúc nào cũng phải toàn tâm toàn ý quán sát như thể đây là lần đầu tiên ta tiếp xúc với trần cảnh đó, hay gọi nôm na là sống trong từng sát na ... Hày, nhưng đại đa số chúng ta không có cái khả năng này, cho nên chỉ có thể suy diễn dựa theo lời giảng của người khác.

Bát chánh đạo trong đó có chánh tư duy chính là 1 trong cách phương pháp sống để đạt được trí huệ, không có nghĩa là sống theo bát chánh đạo là tự động có trí huệ.

Chưa có trí huệ thì đường về CHÂN LÝ vẫn còn ... xa vời ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ý của vị thiền sư đó là, khi tiếp xúc với trần cảnh,blah blah blah

Cái này cho tui xí sửa là chút xíu là : Ý của vị thiền sư đó là, khi nói đến thiền, đến trí huệ hay là cái biết trực chỉ chân tâm, thì khi tiếp xúc với trần cảnh blah blah blah ...

Bác Thiên Sứ đã lẫn lộn cái Phật giáo gọi là trí huệ với lại trí hiểu biết dựa trên sự tích lũy kinh nghiệm của con người ... nên mới cho là ông Thiền sư kia sai ...

Anmay em xin chấm hết ...

Share this post


Link to post
Share on other sites
  anmay said:

Ý của vị thiền sư đó là, khi tiếp xúc với trần cảnh,blah blah blah

Cái này cho tui xí sửa là chút xíu là : Ý của vị thiền sư đó là, khi nói đến thiền, đến trí huệ hay là cái biết trực chỉ chân tâm, thì khi tiếp xúc với trần cảnh blah blah blah ...

Bác Thiên Sứ đã lẫn lộn cái Phật giáo gọi là trí huệ với lại trí hiểu biết dựa trên sự tích lũy kinh nghiệm của con người ... nên mới cho là ông Thiền sư kia sai ...

Anmay em xin chấm hết ...

Anmay có vẻ như hiểu thấu Phật pháp nhỉ? Cứ Thiền Sư thì luôn luôn đúng chăng? Không hiểu cái trực chỉ nhân tâm, thoạt nhiên hạnh ngộ là gì? Anmay có thể cho biết để bỉ phu khỏi đường tăm tối.

Xin cảm ơn.

Share this post


Link to post
Share on other sites
  Thiên Sứ said:

Anmay có vẻ như hiểu thấu Phật pháp nhỉ? Cứ Thiền Sư thì luôn luôn đúng chăng? Không hiểu cái trực chỉ nhân tâm, thoạt nhiên hạnh ngộ là gì? Anmay có thể cho biết để bỉ phu khỏi đường tăm tối.

Xin cảm ơn.

Anmay cảm thấy may mắn là được sống ở thời buổi kỹ thuật thông tin cao nên muốn tìm hiểu gì là có thể được dễ dàng nhanh chóng. Cứ Thiền Sư thì không phải luôn luôn đúng, và anmay cũng quan niệm rằng không có cái gì ta đọc được hay nghe được là đúng hoàn toàn hay là sai hoàn toàn. Nhưng trong khía cạnh đã bàn, thức là khi bàn đến thiền định, trí huệ, thì vị thiền sư trong câu truyện kia không sai, nghĩa là ”Cũng giống như tách trà này, trong lòng ông đang chứa đầy những quan điểm và định kiến. Làm sao tôi có thể trình bày với ông về thiền nếu như trước tiên ông không làm trống cái tách của ông đi ?”

Trước hết nếu muốn biết ông Thiền Sư này đúng hay sai theo cái nhìn của Phật Giáo, thì phải hiểu Phật Giáo quan niệm về "Vọng Tâm" và Chân Tâm như thế nào:

Theo NĂNG LỰC TRÍ TUỆ

Những Lời Dạy Căn Bản Của Phật Giáo

Nguyên tác: WISDOM ENERGY, BASIC BUDDHIST TEACHINGS

Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche - Vô Huệ Nguyên dịch

Wisdom Publications xuất bản

Mục đích của thiền định là để có trí tuệ hầu chấm dứt tất cả những ảo tưởng và u mê. Trước tiên, sự chấm dứt này tùy thuộc vào ta có nhận ra được đặc tính và sự làm việc của vọng tâm hay không. Thêm vào đó, cần phải hiểu rằng có rất nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến sự phát sinh một tâm huyễn ảo.Theo quan niệm này, Je Tsongkhapa ( Đại Lạt Ma của Tây Tạng sống vào thế kỷ 15, Ngài sáng lập ra các truyền thống tu tập Lamrim và Ngagrim --Dg) liệt kê sáu yếu tố, sáu động lực có ảnh hưởng mạnh đến việc phát sinh ra ảo tưởng: (1) nghiệp lực, (2) đối tượng, (3) ảnh hưởng của xã hội, (4) tuân theo những lời dậy bảo sai lầm, (5) thói quen và (6) do những ý niệm sai lầm.

http://www.thuvienhoasen.org/nangluctritue-04.htm

Câu nói của vị Thiền Sư có liệt kê ra > 2 yếu tố mà ông giáo sư kia mắc phải đó là định kiến (kiến thức dựa trên sự tích lũy của kinh nghiệm hay là thói quen của chính mình hay là của xã hội => điều (5)) và quan điểm (sự chủ quan do nghiệp lực, thói quen gây ra khi tiếp xúc với trần cảnh).

Hình ảnh làm trống tách trà có nghĩa là lắng nghe mà không bị vướng mắc vào định kiến hoặc thói quen của mình, điều này nói thì dễ, làm được thì có mấy ai.

Nếu gạt bỏ được vọng tâm, thì chân tâm tự nhiên hiển lộ, Phật giáo gọi nôm na là "kiến tánh thành Phật" . Chân Lý chỉ có ở mức độ này, còn thì "Ở trong vọng điều gì cũng vọng."

Nói như vậy thì bác sẽ bảo là cháu chấp KHÔNG, thực ra thì không phải vậy, như hiện tại bây giờ, vì cũng ta ai cũng còn vọng tâm (ít nhất là bác với cháu), nên cái chân lý của cháu sẽ khác với cái chân lý của bác sẽ khác với cái chân lý của vạn vạn người khác.

Theo suy diễn của cháu, khi ai đã bỏ được hết vọng tâm, họ sẽ cảm nhận được cái thứ chân lý như là ... đối với tất cả các đối tượng có liên quan, nghĩa là họ sẽ cảm được cái chân lý của bác, của cháu và của vạn vạn sinh linh khác có liên quan, nhưng chúng ta, khi còn trọng vọng, không cảm thể cảm được cái chân lý mà người khác đang cảm.

Ngôn bất tận ý, cái gì còn có thể dùng lời để nói ra thì không phải là Chân Lý.

Share this post


Link to post
Share on other sites

5- Tật trời sinh

Thiền sư Bàn Khuê thuyết pháp không những rõ ràng dễ hiểu, mà trước khi kết thúc ông thường để cho người nghe hỏi tất cả những điều còn nghi hoặc, thắc mắc và sư trả lời luôn tại chỗ. Bởi vậy, tín đồ phương xa đến bái kiến rất đông.

Ngày nọ, có một tín đồ đến nói : “Tôi trời sinh tật tính nóng nảy, vậy không biết phải sửa đổi thế nào ?”

Sư Bàn Khuê :” Cái gì Trời sinh ? Người đem nó ra đây cho ta xem thử, ta sẽ giúp ngươi sửa đổi nó” .

Tín đồ :”Không ! Bây giờ thì không có, nhưng khi đụng chuyện thì nó mới nhảy ra”

Sư Bàn Khuê :”Nếu bây giờ không có, mà nó chỉ xuất hiện khi nào gặp chuyện, vậy thì lúc ngươi tranh chấp với người khác cũng chính là lúc ngươi tạo ra nó. Thế mà người lại đổ tội ấy cho Trời sinh là sao?”

Người ta nói :

Mọi vật trên thế gian này đều hình thành từ Duyên, không có cái gì do “Trời sinh”, mà chính bởi tự tâm ta tạo nên. Bản tính con người bao gồm cả thiện và ác, cho nên mới nói : “ Tâm sinh tắc chủng chủng pháp sinh, tâm diệt tắc chủng chủng pháp diệt” ( Tâm sinh tất mọi pháp đều sinh, tâm diệt thì mọi pháp cũng không còn). Vậy chỉ cần người ta hiểu được điều đó và có chí định, thì không tất xấu nào là không thể sửa đổi được.

(Sưu tầm)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay