Thiên Sứ

Tục nhuộm răng đen ở Đông Á và Đông Dương

6 bài viết trong chủ đề này

Tục nhuộm răng đen ở Đông Á và Đông Dương


Posted Image Trong khi tục cà răng có thể thấy trên khắp thế giới thì nhuộm răng đen chỉ khu trú trong một vùng tam giác của Đông Á. Đỉnh của tam giác tới tận phía Nam Nhật Bản; cạnh phía Đông, chạy qua quần đảo Mariannes và kết thúc ở quần đảo Salomon; cạnh đáy qua các đảo Timor, Java và tận cùng ở đảo Sumatra; cạnh phía Tây chạy qua bán đảo Đông Dương.

Trên toàn khu vực này, dân bản xứ nhuộm răng đen với các kỹ thuật rất khác nhau và các kiểu rất khác nhau, có nơi người ta chỉ nhuộm riêng, có nơi kết hợp vơi cà răng (dũa, đục), một tục đặc biệt thịnh hành với các tộc theo văn hoá Indonexia.

Tại Đông Dương, tục này rất phổ biến nhưng không vượt quá vĩ tuyến 28035 Bắc. Đường phân chia này trùng với đường phân chia khu vực Bắc của người Thái ở phía Bắc với khu vực của người Khạ, nơi dân chúng dùng nanh dưới của lợn để cài đầu (theo Guibaut)

Không thể thiết lập chính xác bản đồ nhuộm răng đen ở Đông Dương. Theo dõi, người ta thấy răng đen ở người An Nam (hiểu là Việt - LĐT), Thái, Mường, Mán, Kh'me, Mọi (thuật ngữ dân tộc học người Pháp dùng để chỉ các dân tộc ở Tây Nguyên - NĐT) và một số người Khạ. Các tộc người không nhuộm răng đen có người Sinoide ở vùng cao, người Trung Quốc, người Chăm và một số người Mọi bị Chăm hoá.

Ngay ở người An Nam, tục này càng ngày càng mất dần. Xu hướng này biểu hiện trước hết ở Nam Kỳ dưới tác dụng của hai ảnh hưởng: một là ảnh hưởng của số kiều dân Trung Quốc đông đảo, một nữa là sự phát triển rất nhanh của văn minh phương Tây. Ở Bắc Kỳ, nhuộm răng đen đang m

Posted Image
Những cô hàng xén răng đen,
Miệng cười như mùa thu toả nắng.
(Hoàng Cầm)

ất dần ở các đô thị lớn, nhưng vẫn được ưa chuộng ở thôn quê.


Theo yêu cầu khảo sát của chúng tôi mấy năm trước đây, trong số 1430 lính bản xứ tuyển mộ ở nông thôn có 1037 người răng đen.Vì thế có thể tạm rút ra 80% dân quê ở Bắc Kỳ nhuộm răng đen. Trong số đó, 60% có độ tuổi từ 22 tới 26 tuổi. Người ta nói rằng quanh Hà Nội vẫn còn người nhuộm răng đen. Chúng tôi đã thấy ở các chợ vùng quê những em bé răng đen nhánh.

Về phương pháp nhuộm răng đen, đã có nhiều mô tả sai lầm. Trầu là thứ lá làm cho môi đỏ thắm và làm cho răng, theo cách của người An Nam, như răng cải mả. Từ đó nói rằng, răng người An Nam đen là do ăn trầu, chỉ cần một bước nhỏ mà một số tác giả nhanh chóng vượt qua.

Một số tác giả khác, tiếp nối suy nghĩ của Pierre Loti trong tác phẩm Chuyện lưu đầy (Propos d' exil), nghĩ rằng răng nhuộm đen được là nhờ trát lên một lớp sơn. Như Mondière cho thấy năm 1873, thực tế không phải như vậy. Răng không phải là sơn đen mà là nhuộm đen. Không cần đi sâu vào kỹ thuật chúng tôi đã nghiên cứu, chúng tôi chỉ nêu ở đây thoạt tiên người ta bôi lên răng một thứ thuốc cắn màu đỏ gọi là thuốc nhuộn răng đỏ (stick - lack hay gomme - laque). Thứ thuốc này chẳng có gì liên quan đến một loại sơn đen chiết từ cây trẩu. Như vậy nói sơn răng là một sai lầm. Phải thay thuật ngữ này bằng thuật ngữ An Nam răng nhuộm đen.

Sau khi răng được nhuộm đỏ, người ta đắp lên răng một hỗn hợp gồm sắt và tananh gọi là thuốc nhuộm răng đen để cho răng có màu đen vĩnh viễn.

Trên đây là kỹ thuật của người An Nam. Tuy nhiên còn có nhiều cách khác cùng đi tới kết quả răng đen.

Tại sao người An Nam nhuộm răng đen? tục đó biểu hiện điều gì về mặt nhân loại học?

Posted ImageGiống như nhiều tục lệ khác, tục nhuộm răng đen bắt nguồn từ huyền thoại về ông vua, chồng của một nữ thần biển. Vị nữ thần biển này đẻ được 100 trứng nở ra 100 người con trai. Chẳng bao lâu, hai người chia tay nhau vì xích mích. Nữ thần biển muốn mang 100 người con trai theo mình về biển. Ông vua tìm cách giấu được 50 người con và, để đánh lạc hướng người mẹ nhất định tìm con, ông vua đã xăm da và nhuộm đen răng lũ trẻ để không thể nhận ra được. Tuy nhiên, thật khó xác định tục này bắt đầu từ khi nào.

Ở Đông Dương, người ta không bao giờ tìm thấy răng đen ở các sọ cổ cho phép xác định tuổi tối thiểu của tục lệ này. Tuy nhiên, các biên niên đời Chu bên Trung Quốc và các văn bản được gán là của Tư Mã Thiên đã nói tới tục nhuộm răng đen từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên.

Hình như vào hậu kỳ thời kỳ đồ đồng, Đông Dương nằm kín trong nền văn minh biển gồm Đông Nam Á và Indonesia. Theo Przyluski, nền văn minh này được các thuỷ thủ dũng cảm truyền bá lên phía Bắc tới Nhật Bản và về phía Nam tới tận Madagasca, hai khu vực chắc chắn có sự hợp huyết giữa dân bản địa và người Mã Lai. Như vậy, việc nhuộm răng đen riêng, hoặc đi theo với cà răng có thể xem là dấu tích của văn hoá đại dương. Sau khi phát triển rực rỡ ở Nhật, Insulinde (thuật ngữ chỉ khu vực gồm Indonesia và Philippin) và khu vực Hindoustan (Ấn Độ hiện nay - LĐT), nền văn minh đó đang chậm chạp kết thúc chu trình của nó và không cưỡng nổi ảnh hưởng của văn minh phương tây sau nhiều thế kỷ chống đỡ với văn minh Trung Hoa ở Đông Dương.

Lưu Đình Tuân dịch (Theo tuần báo Indochine

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tục nhuộm răng của người Việt Nam

Tác giả: Võ Quang Yến

Posted Image

Trong các truyện cổ tích thì từ hàng nghìn năm trước người nước ta đã có tục nhuộm răng, theo truyền thuyết tục này đi cùng với tục xăm mình và ăn trầu. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 133 chỉ ghi lại lời vua Hùng về tục xăm mình chứ tục nhuộm răng thì không thấy “... rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái vào mình. Từ đấy không thấy thuồng luồng đến cắn hại nữa”. Không chỉ người Việt mới có tục nhuộm răng mà các dân tộc khác như Thái , Si La ... cũng có tục này nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thẩm mỹ, sức khỏe và chất liệu sử dụng trong lúc nhuộm như người Thái ở Việt Bắc thì họ nhuộm răng và ăn trầu là làm cho răng bền chắc tránh sâu răng.

Suốt trong thời niên thiếu thì người con gái Thái chưa, chỉ sau khi lấy chồng mới nhuộm răng và ăn trầu. Cách nhuộm răng của họ cũng khác với người kinh, để làm sạch răng họ phải chà sát nhiều lần bằng một miếng cau khô sau đó dùng lưỡi dao hoặc lưỡi thuổng cùn hơ cho vừa nóng, rồi rắc bột cánh kiến lên để bột nhựa cánh kiến nóng chảy ra mà không cháy thành than. Chờ cho bột nhựa cánh kiến vừa nguội mới lấy nhựa đó miết vào răng. Miết cho đến lúc chất nhựa này bọc hết hai hàm răng mới thôi. Trong vòng 7 dến 10 ngày sau không được dùng thức ăn uống nóng, không nhai đồ ăn cứng, khi răng trở nên màu ngà họ sẽ nhuộm đen bằng nhựa cây mét non.

Tục nhuộm răng là tục cổ xưa của dân tộc Việt, có từ thời các vua Hùng với tục ăn trầu. Sứ thần của nước Văn Lang (Giao Chỉ) trả lời vua nhà Chu (Trung Quốc) về tục ăn trầu "Chúng tôi có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen...".

Về thời Hùng Vương, ai cũng xăm mình. Ai cũng búi tó hoặc cắt tóc ngắn (nhưng cũng có người bỏ xoã tóc hoặc tết đuôi sam). Ai cũng thích đeo hoa tai và nhiều vòng tay. Người ta nhuộm răng, ăn trầu (Lịch sử Việt Nam, tập 1, Khoa Học Xã Hội, 1971, tr. 48).

Trong bài hịch của Quang Trung năm 1789, trước lúc xuất quân có câu liên quan đến tục nhuộm răng

Đánh cho để dài tóc

Đánh cho để đen răng

Đánh cho nó chích luân bất phản

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn

Còn trong văn chương, ca dao thì tục nhuộm răng và răng đen của người phụ nữ được ca ngợi tôn vinh như một nét đẹp không thể thiếu được. Răng đen là nét đáng yêu được xếp vào hàng thứ tư trong cái duyên của người con gái:

Một thương tóc bỏ đuôi gà,

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,

Ba thương má lúm đồng tiền,

Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua

Và để hấp dẫn, để sửa soạn, để trang điểm người con gái bao giờ cũng rất chú trọng đến hàm răng đen gợi cảm của mình:

Lấy chồng cho đáng tấm chồng,

Bỏ công trang điểm má hồng răng đen.

Năm quan mua lấy miệng cười

Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.

Trong truyện Kiều có những câu liên quan đến cái răng nhưng không phải bởi cái màu răng đen hạt huyền mà là bởi trận bão ghen tuông của Hoạn Thư :

Vội vàng xuống lệnh ra uy

Đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng.

Trong những thói tục của người dân quê nước ta thì trẻ con bị gãy răng, nếu là răng hàm dưới thì vứt răng xuống gầm giường, nếu là răng hàm trên thì vứt lên mái nhà và hô 3 tiếng cho “ ông thiêng ” nó tha đi để cho mau mọc răng.

Thầy nhuộm răng

Thông thường người ta chỉ nhuộm răng sau khi đã thay toàn bộ răng sữa, thời gian đó là thích hợp nhất để nhuộm vì lúc ấy răng còn non, độ thấm cùa thuốc nhuộm dễ gắn chặt vào men và ngà răng hơn. Người bình dân thường nhuộm theo phương pháp đơn giản, nhưng giới giàu có hay quý tộc, quan lại lại nhuộm răng theo nhiều lối cầu kỳ với những phương pháp gia truyền khác nhau. Huế là nơi còn lưu giữ được nhiều công thức chế thuốc nhuộm răng cũng như các thứ thuốc để duy trì mầu đen bóng của răng.

Tục nhuộm răng đen có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc. Từ thuở mười ba, mười bốn tuổi, trai gái đều thích nhuộm răng. Việc nhuộm răng nhiêu khê, phải trải qua nhiều giai đoạn, kéo dài một tuần có khi đến nửa tháng và những thứ thuốc gia truyền thường được xem như một thứ gia bảo, người ngoài khó biết đưọc công thức pha chế của họ.

Xưa ở nông thôn có thầy nhuộm răng, ông ta đi từ làng này sang làng khác để hành nghề như người làm nghề thiến heo, thiến gà chó... Ở Huế lại có các "bà thầy" nhuộm răng thường hành nghề cố định trong các chợ, như chợ Đông Ba có đến 5 , 6 người hành nghề này. Họ có một cái sạp ngay giữa lồng chợ, còn như các chợ nhỏ như chợ Bến Ngự, chợ Bao Vinh, chợ An Cựu chỉ có một hai bà thầy nhuộm răng mà thôi

Cách đây 70 năm có một bà thầy nhuộm răng nổi tiếng nhất ở kinh đô Huế không ai là không biết đó là bà thầy Thại ở làng Sư Lỗ cách cầu Ngói Thanh Toàn một con sông. Bà thầy vừa hành nghề nhuộm răng vừa sản xuất thuốc nhuộm, thuốc xỉa, cao dán mắt, cao no hơi dầy bụng cho trẻ sơ sinh... Muốn nhuộm răng các cô chiêu, cậu ấm phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng trời mới tới phiên mình được nhuộm. Mỗi đợt nhuộm là 15 người ăn ở luôn tại nhà bà thầy trong suốt thời gian nhuộm khoảng từ 12 ngày đến nửa tháng. Chiều chiều bà thầy thường cho các cô chiêu câu ấm leo lên một đồi nhỏ trong làng quay mặt ra hướng đông, bảo họ há miệng to để gió biển thổi vào cho thuốc nhuộm mau khô (!) và bà cũng kể cho các cô chiêu cậu ấm đó nghe về những chuyện cổ tích, danh nhân lịch sử , lòng yêu nước, hiếu thảo với cha mẹ. Đặc biêt có một ông già mù phụ thêm hát vè Mụ Đội, vè Phạm Công Cúc Hoa, vè Lục Vân Tiên, vè thất thủ Kinh Đô ... để mua vui cho các cô các cậu và những người hiếu kỳ đến xem. Thuốc nhuộm răng của bà thầy Thại càng ngày càng nổi tiếng vang khắp cả một vùng Trung kỳ, có mấy cái đại lý của bà ở chợ Đông Ba, Quảng Trị, Đông Hà vô tới Quảng Nam, Quảng Ngãi... Đến năm 1949, không hiểu tại sao ông già mù hát vè bị Tây bắt và lôi ra bắn chết dứơi dốc cầu An Cựu. Cả nhà bà thầy Thại dọn đi đâu mất trong ngày hôm ấy, nghe đâu mấy năm sau có người gặp bà ở cửa Tranh Đề.

Cách nhuộm răng :

Việc nhuộm răng phải tuân theo từng giai đoạn làm sao cho răng đạt mầu đen bóng. Để khởi đầu cho việc nhuôm răng thì miệng và răng phải được làm vệ sinh, phải chuẩn bị hàm răng cho thật sạch. Không được có bợn, bả răng trong các kẻ và chân răng phài lấy hết cho đến khi lấy tay sờ vào thân răng phải trơn láng mới được.

Trong ba ngày đầu phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn với muối sống hầm chín thành bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai ngậm chanh hoạc hạnh, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh. Tác dụng của nước cốt làm cho lớp men ngoài răng "mềm" đi, tính acid của chanh sẽ bào mòn tạo thành những vệt lõm sần sùi trên men răng. Thơi gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm răng, môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong vòm họng sưng tấy, hai hàm răng lung lay gần như muốn rụng. Thuốc nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến được điều chế trước đó 7 –10 ngày theo đúng công thức với tỷ lệ bột nhựa cánh kiến và nước cốt chanh tùy theo mỗi người, chất sền sệt đó được trét lên một mảnh vải thô trắng hay lụa. Ở thôn quê, người ta trét lên lá dừa, cau hay lá ngái sau đó mới áp lên hai hàm răng. Việc áp thuốc nhuộm răng được thực hiện vào sau buổi ăn chiều, đến giữa đêm sẽ được thay bằng một miếng áp mới.

Đến sáng bà thầy sẽ gỡ ra thật nhẹ nhàng tránh bị bong tróc lớp nhựa sơn mới phủ lên đêm trước. Sau khi lấy thuốc ra phải súc miệng bằng nước mắm, có nơi dùng nước dưa chua để thải hết chất thuốc còn sót lại. Người nhuộm răng gần như phải ngậm miệng suốt đêm, tránh tối đa miếng thuốc nhuộm rơi bong ra, phải làm như vậy mỗi đêm 2 lần trong 7 đêm. Khỏang thời gian đó người nhuộm răng chỉ được nuốt trửng thức ăn chứ không được nhai. Thông thường các bà thầy cho các người nhuộm răng ăn bún trộn với mỡ heo và nước mắm để dể nuốt trửng. Khi thấy răng có mầu đỏ già, mầu của cánh kiến thì việc nhuộm răng sẽ bước qua giai đoạn 2 là giai đoạn nhuộn đen răng bằng cách phết dung dịch bôi đen lên răng. Thuốc bôi đen là hỗn hợp phèn đen trộn với nhựa cánh kiến, dung dịch này được phết trong 2 ngày.

Sau đó phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là thuốc xỉa nước. Giai đoạn cuối cùng là cố định bằng nhựa của gáo dừa được đốt hay nấu chảy, chất nhựa này tạo thành một lớp men trên thân răng. Người ta gọi giai đoạn này là “giết răng”. Khi hoàn tất giai đoạn này người nhuộm răng sẽ có một hàm răng đen bóng như hột mãng cầu.

Công thức pha chế của thuốc nhuộm răng

Thuốc nhuộm răng gồm các thành phần căn bản như sau :

- Bột nhựa cánh kiến.

- Nước cốt chanh

- Phèn đen

- Nhựa của gáo dừa

Nhựa cánh kiến

Hình nhựa cánh kiến

Posted Image

Nhựa cánh kiến đã được chế biến và có mặt trên thị trường ở dạng này.

Posted Image

Sâu cánh kiến đỏ còn gọi là bọ rùa cánh kiến đỏ hoặc rệp cánh kiến đỏ có tên khoa học là Laccifer lacca Kerr thuộc họ sâu cánh kiến (Lacciferidae).

Sâu cánh kiến đỏ chích và hút nhựa cây chủ tiết ra một loại nhựa gọi là nhựa cánh kiến đỏ. Đây là một loại đặc sản quý có giá trị kinh tế cao, hiện tại được sử dụng trong một số ngành công nghiệp cao cấp và y học…

Sâu cánh kiến đỏ còn gọi là bọ rùa cánh kiến đỏ hoặc rệp cánh kiến đỏ có tên khoa học là Laccifer lacca Kerr thuộc họ sâu cánh kiến (Lacciferidae).

Sâu cánh kiến đỏ chích và hút nhựa cây chủ tiết ra một loại nhựa gọi là nhựa cánh kiến đỏ. Đây là một loại đặc sản quý có giá trị kinh tế cao, hiện tại được sử dụng trong một số ngành công nghiệp cao cấp và y học…

Ở nước ta có gần 60 loài cây trong rừng tự nhiên hay rừng trồng có thể làm cây chủ để sản xuất ra nhưa cánh kiến có chất lượng tuyệt hảo như các cây họ phèn, cọ khiết, muồng đen, sung, vả, vải, nhãn, đậu thiều, táo... trong đó cọ phèn, cọ khiết và nhất là đậu thiều cho cánh kiến có chất lượng cao nhất.

Người ta chọn những cành cây chủ có sâu cánh kiến định cư phát triển tốt, không bị nấm mốc sâu bệnh. Cánh có lớp nhựa dày, sáng màu và đã chín thành thục. Khoảng 1 tuần trước khi kiến nở tiến hành cắt kiến giống, đem buộc thả ngay lên cây chủ, hoặc trải mỏng trong sọt tre thông thoáng để nơi râm mát ít ngày rồi đem buộc lên cây chủ. Trước khi buộc thả giống phải phát luỗng cây cỏ xâm lấn, tỉa cành, tạo tán cho cây có nhiều cành bánh tẻ càng tốt. Thời vụ: tháng 4-5, thu hoạch vào tháng 8-9. Thời điểm thu hoạch: tốt nhất trước khi kiến nở 2-4 tuần.

Tục nhuộm răng đen là một nét văn hóa để phân biệt với các tộc người khác. Hầu như tất cả ngừơi ngừơi dân Việt Nam từ kẻ nghèo cho đến người giàu, từ giai cấp nông dân cho đến giới quan lại, điền chủ, hoàng thân quốc thích, vua chúa ai ai cũng nhuộm răng. Kể từ khí nền văn minh tây phương xâm nhập mạnh mẽ vào nước ta (1862) nhất là đầu những năm của thế kỷ 20, nhiều phụ nữ đã để răng trắng hay cạo hàm răng đen được nhuộm từ thuờ mới thay răng để trở thành người phụ nữ mới nhằm tham gia vào công cuộc cải cách xã hội, phong trào đòi nữ quyền, giải phóng, phong trào tiễn phát đang râm rộ trong thời đại canh tân. Thuở ấy trong xã hội có hai phái kình chống nhau kịch liệt, một nhóm cho rằng để răng trắng, hớt tóc là bè lũ theo tây, làm me tây... còn nhóm kia thì cho rằng bối tóc củ hành, răng đen, áo the quần vải là hủ lậu, kém văn minh... Bấy giờ người ta chỉ thấy, chỉ đánh giá cái bề ngoài mà không chú trọng cái nhân cách, tư tưởng ở bên trong... Đấy là giai đoạn đánh dấu sự suy tàn của tục nhuộm răng ở nuớc ta.

Riêng cá nhân tôi thì hàm răng óng ả hạt huyền là một hình ảnh đẹp nhất trong đời niên thiếu, bởi vì mẹ tôi và các dì tôi là những người có những hàm răng với những chiếc răng đều đặn, óng ả đen mượt tựa hạt huyền, cho đến khi bà cụ 92 tuổi bà vẫn còn lại được 6 cái răng đen. Nét duyên dáng, móm mén với những chiếc răng thế kỷ làm cho khuôn mặt của bà đôn hậu và vui hơn, tôi nghĩ có lẽ khi ba tôi cưới mẹ tôi phần nào có thể là :

Răng đen ai nhuộm cho mình

Cho duyên mình đẹp, cho tình anh say ?

(Nguồn: http://www.thanhda.com/community/index.php...threadid=11168)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Răng đen hột huyền

Tác giả: Võ Quang Yến

Răng đen ai nhớ cho mình

Để duyên mình thắm, để tình ra say

Ca dao

Bác sĩ Hocquard kể chuyện vào cuối thế kỷ 19, một vị quan ta được mời dự một dạ hội tại dinh Thống sứ Pháp ở Sài Gòn. Thấy vị quan mãi ngắm quan khách khiêu vũ, một sĩ quan Pháp lại thì thầm hỏi ý kiến ông ta về các phụ nữ Pháp. Vị quan thành thật trả lời : "Các bà đẹp lắm, có điều răng các bà giống như răng chó !". Ý ông muốn nói răng các bà quá trắng. Lẽ tất nhiên, viên sĩ quan Pháp rất ngạc nhiên nhưng ông ta không hiểu đuợc một người Việt hồi đó không thể hình dung một người đẹp mà không có hàm răng đen lánh đã được hằng bao thế hệ văn, thi, họa sĩ ca tụng.

Nhớ hàng tre thẳng đọt măng

Nhớ cô con gái hàm răng đen huyền

Phong tục nhuộm răng, xâm mình khởi đầu từ thuở thượng cổ xa xăm, truyền thuyết đặt vào thời đại Hùng Vương. Nếu thói xăm mình về sau được bỏ, tục nhuộm răng thành công tồn tại qua nhiều thời buổi, ngay cả lúc quân đô hộ Trung Quốc bắt dân ta bãi bỏ. Nhưng tục nhuộm răng cũng như tục búi tóc không chống cự lại đuợc ảnh hưởng Tây phương và chỉ hơn một nửa thế kỷ là dần dần các cụ chịu cắt tóc, các bà cạo răng trắng. Nghe nói những cô giáo là những người đầu tiên không muốn giữ răng đen nữa nhưng sáng đi sớm, chiều về muộn, luôn phải tìm cách lẫn tránh cha mẹ còn cho đàn bà con gái có răng trắng là không đứng đắn. May mà các bác lính thợ tùng chinh sang Mẫu quốc còn giữ răng đen. Nghe nói lính ta nhỏ con, thường bị quân Maroc, Sénégal cao to hành hung, áp bức. Một sĩ quan Pháp, để tránh lôi thôi, phiền nhiễu, bèn phao tin đồn mà ông bịa đặt : những người có răng đen ăn thịt người ! Từ đấy lính thợ ta được yên thân…

Tôi còn nhớ hồi nhỏ, mỗi khi mẹ tôi hay chị tôi nhuộm răng là cả nhà rộn rịp vì các bà tự nhuộm lấy, không qua tay các thầy nhuộm như ở các gia đình quan lại, ông hoàng bà chúa, cung tần mỹ nữ,… Những người ngoại quốc, ngay cả bây giờ, thường tin ăn trầu thì có răng đen. Họ không dè muốn có hàm răng đen đẹp phải mất biết bao công phu, chịu đựng, chuẩn bị kỹ càng, chế biến chất thuốc, kiên nhẫn nhuộm răng rồi sau đó còn phải săn sóc, bảo dưỡng cho lớp sơn luôn được láng bóng. Nhuộm răng cũng như sơn mài, trước cần phải có một mặt nền sạch sẽ. Thường trong luôn hai, ba ngày, các bà phải đánh răng, xỉa răng với vỏ cau khô hay than bột trộn với muối sống hầm chín, nhai chanh lát, rồi súc miệng với rượu trắng pha nước chanh. Các bà không biết nhưng từng trải qua kinh nghiệm, đã tìm ra trong chanh citric acid là một acid nhẹ có khả năng đánh gỉ, chùi sạch men răng. Tuy nhẹ, acid cũng tác dụng ít nhiều lên môi, lưỡi, nếu răng,…gây nhức đau tưởng như hai hàm răng lung lay, rụng được. Trong giai đoạn chuẩn bị nầy cũng như các giai đoạn sau, các bà không được nhai đồ ăn dai, cứng như thịt mà phải nuốt trửng cho nên thường người ta cho ăn bún trộn mỡ heo hay ăn cháo và trái chua, uống nước nóng.

Kỹ thuật nhuộm răng nhiều đợt

Nhuộm răng có nhiều phương pháp, tùy theo từng vùng. Ở miền Trung, nhất là ở Huế, nơi có nhiều vua chúa, quan lại, ăn chơi lịch sự, liều thuốc rất nhiều, lắm khi gia truyền cần giữ bí mật (2). Nói giản tiện, thường răng đuợc nhuộm làm hai đợt. Đợt đầu xem như là lớp sơn lót, nhuộm với một hỗn hợp cánh kiến, nước chanh vắt, rượu trắng, cho nấu thành hồ, phết lên lá chuối hay lá dừa, lá cau, có khi lên vải thô hay lụa, rồi cho áp vào răng, nhiều lần trong một đêm, cho đến lúc răng nhuốm màu cánh gián, giữa đỏ và nâu đậm như màu cánh con gián. Sáng hôm sau phải cẩn thận lột lá hay vải ra, súc miệng với nước mắm hảo hạng hay nước dưa chua để loại trừ mọi căn bả. Bây giờ có thể qua đợt thứ nhì, nhuộm với một hỗn hợp hắc phàn, thanh phàn, bầu bí, lựu bì, quế chỉ, đại hồi, đinh hương được nấu nóng, trộn với gạo nếp và rượu trắng rồi cũng cho áp lên răng nhiều lần, nhiều ngày cho đến lúc răng trở thành đen huyền. Lần nầy cũng lại phải súc miệng kỹ càng như sau đợt đầu để thải bỏ chất nhuộm dư thừa. Và sau nhiều ngày phải tránh nhai nhiều, nhai mạnh để khỏi làm tróc lớp sơn đang còn non, mềm.

Răng nhuộm xong còn cần phải chiếc để củng cố lớp sơn. Thường người ta dùng một lớp nhựa chảy ra từ một sọ dừa đốt cháy đặt trên một cái rựa sắt, đem bôi thành một lớp lên trên răng. Ở Huế, hai liều thuốc xỉa có tiếng để chiếc là cố xỉ tán và cố xỉ cao (2). Cố xí tán gồm có thanh phàn, hắc phàn, ngũ bội, cam thảo, bình lang, tế tân, bạch chỉ, tam lăng, nhũ hương, nghiền thành bột rồi dùng que tăm đập nát một đầu để tô lên răng. Cố xí cao gồm có những chất vừa kể, thêm vào sinh địa, tật lê, cánh kiến, một dược, đương qui nấu trong nước sôi, cô lại thành cao trước khi dùng. Hắc phàn, thanh phàn là những sulfat sắt và đồng có nhiệm vụ ổn định chất sơn. Bầu bí hay ngũ bội, (hay ngũ bội tử, là túi con sâu Schlechtendalia sinensis Bell trên cây muối hay diêm phu mộc Rhus semialata Murray), lựu bì (tức là vỏ cây Punica granatum L. đem lại tannin có tính chất làm xẩm màu lá hái như chè, thuốc lá, cà phê , chống oxi nên bảo quản gỗ được lâu ngày và nhất là tác dụng lên da, gây tê, cầm máu, giải độc, kháng sinh). Còn những chất quế chi (cây Cinnamomum loureirii Nees hay C. zeylanicum Nees, chữa cảm mạo, tê mỏi), đinh hương (cây Syzygium aromaticum (L.) Merr. et Perry., chữa cam răng, đau bụng), cam thảo (thân rễ cây Glycyrrhiza uralensis Fish. hay G. glabra L., chữa ho hen, loét dạ dày), bình lang (trái cây cau Areca catechu L., chữa giun sán, viêm ruột lỵ), tế tân (cây Asarum sieboldii Miq., chữa đau răng, cảm lạnh), bạch chỉ (rễ cây Angelica dahurica Benth. et Hook., chữa lở mồm, hôi miệng), nhũ hương (nhựa cây Pisticia lenticus L., chữa đau sưng, tiêu nhọt), sinh địa (thân rễ cây Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Lobosh, chữa đau răng, chóng mặt, ho khan, bệnh lao), tế tân (trái cây Tribulus terrestris L., chữa đau mắt, kinh nguyệt không đều), một dược (nhựa cây Commiphora momol Engler, thuốc điều kinh, giảm đau, tiêu thủy), đương qui (cây Angelica sinensis (Oliv.) Diels, chữa thiếu máu, cơ thể suy nhược), đại hồi (trái cây Illicium verum Hook., thuốc trung tiện, giúp tiêu hóa), ngoài tính chất dược liệu, là những chất thơm cống hiến hương vị cho liều thuốc nhuộm. Được bảo vệ cẩn thận, răng nhuộm có thể tồn tại mươi, hai mươi năm, màu đen huyền luôn lóng lánh giữa hai đôi môi, không thì những lớp sơn tróc ra, những vết vàng lạt hiện lên răng gọi là răng cải mả, phải nhuộm lại. Trái lại, từ răng đen muốn trở lại trắng cũng không phải dễ vì những phương pháp dùng acid mạnh hay mài răng đều không thích hợp, có thể làm hư răng.

Ngày nay người trẻ tuổi khó lòng cảm xúc trước một nụ cười với hai hàm răng đen. Nhưng nhuộm răng không phải chỉ là một vấn đề mỹ quan mà còn có một lý do thực dụng : từ lâu người ta đã nhận thấy răng nhuộm đen ít bị sâu răng. Vì vậy có vài luận án nha y quan tâm đến đề tài nhuộm răng. Ngoài công trình của nha sĩ Vũ Ngọc Huỳnh ở Hà Nội, trong số những luận án tồn trữ ở Trường Đại học Nha y Paris, phần lớn các tác giả cốt yếu chú trọng đến phong cách, tập quán nhuộm răng. Hai nha sĩ Phùng Thị Cúc (sau nầy trở thành nhà điêu khắc có tiếng Điềm Phùng Thị) và phu quân Bửu Điềm (thầy cũ Anh văn của tôi ở Trường Trung học Khải Định) thì dựa lên công tác của nhóm Nguyễn Dương Hồng ở Hà Nội để đề nghị dùng nhựa sơn trong việc phòng ngừa bệnh sâu răng. Nhưng đi sâu vào khoa học nhiều nhất có lẽ là luận án của nha sĩ Trần Văn Phú, dùng nhựa sơn để lấp bít những khoảng trống tí hon trong răng. Thì ra, ông cha ta xử lý rất khoa học. Trước hết, như đã thấy, muốn thuốc dính chặt vào men răng, cần phải gây một mặt răng sần sùi. Vì men răng không xốp, một dung dịch acid yếu như citric acid trong chanh đủ để mài mà không đào những lỗ quá sâu làm hư men răng. Bên phần nhựa sơn cũng cần một trạng thái dễ trải với những hột sơn kích thước hiển vi có thể lọt vào bất cứ khoảng trống ở nào. Với một đường kính 17-20 angstrom, hột sơn nhỏ hơn một con trùng như streptocoque đến 250-500 lần, dễ dàng trám hết mọi lỗ hết còn chỗ cho vi trùng.

(Nguồn: http://www.thanhda.com/community/index.php...threadid=11168)

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thành phần hóa học của chất thuốc nhuộm răng

Bọ cái phát tiết sáp nhựa

Từ lâu người ra đã biết cây sơn Rhus vernicifera sp. hay R. succedana L., thuộc họ Xoài Anacardiaceae, có nhựa nhưng không dùng được trong miệng vì chất laccol rất độc. Nhựa trong thuốc nhuộm răng được lấy ra từ một côn trùng cánh nửa hemiptere tí hon (0,60-0,70mm) sống ký sinh từng tập đoàn từ 80-100 con (ở Việt Nam trung bình 170 con) trên thân, cành nhiều loại cây ở Đông Nam Á. Con sâu nầy tùy tác giả được gọi Tachardia lacca R. Bld., Carteria lacca Sign. hay Coccus laccae Kerr, trước khi mang tên thông dụng ngày nay Laccifer lacca Kerr, thuộc họ Sâu cánh kiến Lacciferidae Cockerell. Tachardia, Carteria từ Tachard (1709), Carter (1861) là tên những nhà khoa học đã khảo cứu và miêu tả nhựa sâu như Kerr (1781), Roxbary (1796). Lacci nguồn gốc từ tiếng Ấn Độ lakh hay Phạn tự laksha nghĩa là trăm ngàn vì số lượng sâu trên cây nhiều vô kể, từ đấy phát xuất những danh từ Âu Mỹ lak, lac, laque.

Sâu chọn làm giống được buộc vào cây, có thể cho vào sọt tre nhỏ hay túi lưới rồi mắc lên cành, ở chỗ phân nhánh để sâu bò sang nhiều cành. Sâu hút nhựa cây mà sống, trưởng thành lớn lên thành bọ mới phân hóa đực, cái. Cả hai loại (hai phần ba là cái) cùng nhau làm tổ trong vỏ cành cây, tổ loại đực hình thoi, mỏng và nhỏ, tổ loại cái hình tròn, lớn hơn. Bọ đực thoát xác, mọc chân, mọc cánh, có thể di động được để đến với bọ cái. Trong lúc đó bọ cái nằm yên trong tổ, chỉ lòi bộ phận sinh dục ra ngoài để giao cấu. Làm xong nhiệm vụ, bọ đực kiệt lức chết đi, hy sinh cho giống nòi. Bọ cái có chửa, phồng lớn, cho phát tiết sắc tố và và sáp, nhựa để nuôi nấng và bảo vệ bầy con sắp đẻ. Mỗi bọ cái có thể mang đến một ngàn trứng (ở Việt Nam, trung bình từ ba đến bốn trăm trứng) hình bầu dục nhỏ, dài, chen lấn trong một túi dung dịch nhuộm màu đỏ son rất đẹp. Ấu trùng từ trứng nở ra, ăn sắc tố mà lớn lên làm dung dịch đặc lại, khô dần. Oái ăm thay, sâu càng trưởng thành thì tổ mẹ càng chật ra, bọ cái dần dần bị ngạt chết, cũng hy sinh cho giống nòi như bọ đực, sâu con không chịu đựng được nữa, luồng qua xác mẹ để thoát ra ngoài, bắt đầu một chu kỳ khác. Mỗi năm có hai chu kỳ. Những bọ đực mùa đông nhờ có cánh có thể bay qua thụ tinh những bọ cái ở các cành xa. Theo nguyên tắc, mỗi năm có thể lấy nhựa hai lần, song ở Việt Nam vì khí hậu ít ôn hoà nên chỉ thực hiện được một lần. Ở Mộc Châu, thả 5kg giống trên cây vải, nhựa thu hoạch được là 200 kg. Còn sắc tố cấu tạo trong tổ cho sâu con có thể thu hoạch cùng lúc với nhựa, nhiều khi trước khi trứng nở nhưng như vậy thì mất đi một lứa sâu mới.

Bản chất của các cây trú sâu có ảnh huởng rất lớn lên nhựa sơn. Chúng phải mọc ở những vùng không quá nóng, không quá lạnh, cần ẩm ướt nhưng đừng mưa quá nhiều. Ấn Độ là nước sản xuất nhựa nhiều nhất trên thế giới, khoảng 50.000 tấn mỗi năm, xuất cảng qua Hoa Kỳ, Indonexia, Canada, Đức, Nhật, Pháp, Nga ,… Bên nước ấy, nhựa sơn hảo hạng được lấy từ những cây kusum Schleichera trijuga Willd., dhak Butea frondosa Roxb., arhar Cajanus indicus Sprengl hay C. cajan (L.) Mills. Ở Việt Nam, cây trú sâu mọc trong khoảng cao độ 400-700m. Ta cũng có cây kusum gọi là dầu trường hay cọ phèn (lúc trước dầu dùng để gội dầu, nhân hạnh thế đào lạc trong bánh trái), cây dhak gọi là giêng giêng (vỏ cây tán với gừng để đắp lên vết rắn hay bò cạp cắn), cây arhar gọi là cây đậu thiều hay đậu săng (cây thường được dùng để chữa đau xương mỏi chắc). Ngoài ra sâu nhựa cũng ăn bám trên các cây chưng bầu Combretum quadrangulare Kurz (trái và vỏ cây được dùng làm thuốc trừ giun), dầu dầu Schleichera oleosa (Lour.) Oken., bồ đề Ficus religiosa L., sen cát Shorea cochinchinensis Pierre, lá ngón Pterocarya tonkinensis Dode, ba chế Desmodium cephalotes Wall., hay một số cây ăn quả như vải Litchi sinensis Radk., táo Ziziphus mauritiana Lamk., nhãn Euphoria longan (Lour.) Steud.,… Nhựa sơn bên ta tùy theo địa phương được gọi cánh kiến (hay cánh kiến đỏ), cành kiến, kiền kiến,… nên có sự ngộ nhận : có người cho là cánh con kiến, có người hiểu là cành cây kiến, có người lại tưởng là thân con sâu kiền kiến hay kiến vương,…

Thành phần cấu tạo nhựa sơn

Ngày nay trên thị trường người ta phân biệt ba loại nhựa sơn : nhựa thô lấy từ thân, cành cây ra còn chứa tạp chất như vỏ cây, lá cây, sâu non, xác bọ, đậm màu, gọi là sticklac tức là nhựa thỏi. Dùng nước chiết xuất để đào thải sắc tố, đem phơi khô, giã nát rồi rửa lọc các tạp chất thì được nhựa màu đỏ vàng, còn chứa chút ít sáp, gọi là seedlac tức là nhựa hột. Lại tiếp tục rửa nước, làm ròng, lọc sạch, có khi tẩy trắng với một dung dịch alcali hypochlorit (11) thì nhựa tinh khiết màu vàng lạt mang tên shellac tức là nhựa vẩy. Làm lớp sơn lót trong giai đoạn nhuộm thứ nhất, nhựa sơn đóng vai trò chủ chốt vì trực tiếp kết dính men răng. Tuy được chú ý từ những thế kỷ 18, 19, nhựa sơn chỉ bắt đầu được khảo cứu tường tận từ đầu thế kỷ 20 rồi bật tung vào những thập niên 70, 80. Chính vào những năm nầy mà nảy nở những luận án nha y đề cập đến vấn đề dùng nhựa sơn để nhuộm răng (4-7) .

Khi khảo sát seedlac của cây palas, nhóm Mhaskar-Sukh Dev (18) dùng ethanol pha nước khử sáp rồi lấy ether làm kết tủa "nhựa cứng" tách nó ra khỏi phần "nhựa mềm". Phần "nhựa cứng" còn gọi "nhựa ròng", chiếm 70% tổng số nhựa cây, được đem phân tích qua các phương pháp sắc ký lớp mỏng và giấy (18de). 12 acid đã được xác định (18d) : butolic (14b,18b,20) , aleuritic (12ab,13,18b), jalaric (18ab), shellolic (10,12a,24), epishellolic (18ab,24a), laksholic (18b), epilaksholic (18b), laccijalaric (18c), laccishellolic (18c), epilaccishellolic (18c), laccilaksholic (18d) và epilaccilaksholic (18d) acid cùng 18 amin acid (22). Nếu những tên shellolic, lacksholic, laccishellolic, laccilaksholic acid dĩ nhiên từ shellac, lakh mà ra, những tên butolic, jalaric acid lấy gốc từ những tên cây trú sâu Butea monosperma Lamk., jalari Shorea talura Roxb. Hai aleuric và butolic acid là những phân tử dài, mở, những acid khác đều là những dẫn xuất của một vòng terpen. Bên cạnh các acid nầy, nhóm Gardner (12) còn chiết xuất ra được những kerrolic acid (12d), laccolic lacton (12cd), periolic acid (12c).

laccaic acid A

Posted Image

laccaic acid B

Posted Image

laccaic acid C

Posted Image

laccaic acid D

Posted Image

Còn hai hóa chất quan trọng trong nhựa sơn là hai sắc tố màu vàng erythrolaccin và màu đỏ laccaic acid (8ab,15,23b). Cấu tạo cả hai có đồng sườn anthraquinon mang ba hoặc bốn nhóm hydroxy ; laccaic acid có thêm hai nhóm acid và một nhóm keton. Sắc tố nầy được khai thác trong thực phẩm, mỹ nghệ. Vải bô nhuộm với sắc tố nhựa sơn có khả năng khử trùng chống Escherichia coli, Bacillus subtilis, Klebsiella pneumoniae, Proteus vulgaris, Pseudomonas aeruginosa. Gần đây cây đậu săng Cajanus cajan (L.) Mills được khảo cứu tường tận hơn. Lá cây chứa một số hóa chất như vitexin, salicylic acid, henritriacontan, laccerol, longistylin, pinostrobin, b-sitosterol, b-amyrin,… . Mục đích các nhà khảo cứu là tìm một cây trú sâu cống hiến đủ điều kiện để có nhựa sơn tốt. Theo đông y, nhựa sơn có tác dụng làm thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, cầm máu, đậu chẩn, tuy vậy ít được dùng làm thuốc. Sách xưa có nói đến chống thổ tả, trừ nôn mửa, tiêu chảy. Shellac phát triển nhiều hơn trong mặt kỹ nghệ. Được nói nhiều nhất là nguyên liệu để làm dĩa hát, bắt đầu với những dĩa 78 vòng mà phần lớn chúng ta đều biết cách đây một nửa thế kỷ, ngày nay khó chóng chỏi với nhựa nhân tạo. Nhựa sơn là một chất chịu acid, cách điện, chống tia cực tím, còn được dùng để làm vec ni, mực in, thuốc xức tóc, khuôn răng giả, bao chống ẩm, tô nón nỉ, đánh bóng sàn nhà, đồ gỗ, tre, vải, da,…

Ngày nay, nha y dùng nhiều nhựa nhân tạo để lấp bít các lỗ hổng trong răng. Những nha sĩ tôi gặp không có ai chịu hưóng về nhựa sơn dù là một hóa chất thiên nhiên có nhiều tính chất tốt về sức kết dính, độ thấm nước (rất cần để xử lý trong miệng luôn có nước miếng), thêm vào một kích thước khá nhỏ để dành chỗ các enzym, vi khuẩn có thể làm hư răng. Ngành nha y ta có nên chăng tiếp tục khảo cứu để dùng trong công cuộc phòng ngừa bệnh sâu răng ? Nhựa sơn tẩy trằng có thể là một thuốc nhuộm răng trắng, bảo vệ men răng.

Trích Thông tin Khoa học và Công nghệ (4) (1997) 61-66 (có sữa chữa và bổ túc tài liệu)

Tham khảo

(*) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 676

1- Dr Hocquard, Une campagne au Tonkin, Hachette, Paris (1882) ; Arlea, Paris in lại (1999) 122

2- A. Sallet, Les laquages des dents et les tinctures dentaires chez les Annamites, Bull. Amis Vieux Hué (4) 15 (1928) 223

3- Nguyễn Văn Ký, La société vietnamienne face à la modernité, l’Harmattan, Paris (1995) 231

Vài luận án nha y vế nhuộm răng

4- Vũ Ngọc Quỳnh, Le laquage des dents en Indochine, Hà Nội 1937

5- Bửu Điềm, Phùng Thị Cúc, Le laquage des dents auVietnam. Le shellac en dentisterie préventive, Paris 1973

6- Trần Văn Phú, La résine gomme laque. Orientation des recherches vers son emploi dans l’obturation des micro-espaces des dents, Paris 1975

7- Tô Huệ Mỹ (bà Lê Văn Lý), Le laquage des dents. Contribution à l’étude des mœurs et coutumes de l’ancien Viet Nam, Paris 1973 ; Trân Thị Phùng Giao (bà Hồ Võ Tuân), Réflexions sur le laquage des dents au Vietnam, Toulouse 1978 ; Claude Bosq, Noircissement des dents en Asie orientale, Paris 1982 ; Cyril Bourgaux, Pratiques traditionnelles, culturelles et rituelles intéressant les tissus durs et mous de la cavité buccale en Asie et Océanie tropicales, Bordeaux 1989

Nhựa sơn

8- Nhóm Burwood : a) R. Burwood, G. Read, K. Schofiels, D.E. Wright, J. Chem. Soc. (1965) 6067-73 ; :P id. (1967) 842-54

9- D. Chen, H. Li, H. Lin, Zhongcaoyao (10) 16 (1985) 2-7

10- Nhóm Cookson-Morisson : a) R.C. Cookson, N. Lewin, A. Morisson, Tetrahedron 18 (1962) 547-58 ; :) R.C. Cookson, A. Melera, A. Morisson, id. 1321-3

11- M.O. Faruq, M.I.H. Khan, M.M. Alam, M.Z. Haque, M.A. Rahman, Bangladesh J. Sci. Ind. Res.(3-4) 27 (1992) 134-40

12- Nhóm Gardner : a) B.B. Schaeffer, Wm.H. Gardner, Ind. Eng. Chem. 30 (1938) 333-6 ; :rolleyes: B.B. Schaeffer, H. Weingerger, Wm.H. Gardner, id. 451 ; c) H. Weingerger, Wm.H. Gardner, id. 454-8 ; d) Wm.H. Gardner, Official Digest Federation Paint and Varnish Production Clubs (1938) 473-8 ; e) P.M. Kirk, P.E. Epoeri, Wm.H. Gardner, J. Amer. Chem. Soc. 63 (1941) 1243-6

13- B.S. Gidvani, J. Chem. Soc. (1944) 306

14- Nhóm Gunstone : a) W. Caruthers, J.W. Cook, N.A. Glen, F.D. Gunstone, J. Chem. Soc.(1961) 5251-4 ; :rolleyes: W.W. Chritie, F.D. Gunstone, H.G. Prentice, id. (1963) 5768-71

15- K. Harada, R. Higuchi, A. Ohwa, T. Ohtsubo, Japan 75 13,298 (1975) 3 tr.

16- M.G. Hussain, M.H. Ali, M.M. Ali, F.K.N. Chowdhury, J. Acad.Sci. (2) 11 (1987) 231-2

17- F. Liu, P. Yi, S.Li, Linye Kexue (1) 24 (1988) 106-12

18- Nhóm Mhaskar-Sukh Dev : a) M.S. Wadia, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, Tetr. Letters (8) (1963) 513 ; :lol: M.S. Wadia, R.G. Khurana, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, Tetrahedron 25 (1969) 3841-54 ; c) A.N. Singh, A.B. Upadhye, M.S. Wadia, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, id. 3855-67 ; d) R.G. Khurana, A.N. Singh, A.B. Upadhye, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, id. 26 (1970) 4167-75 ; e) A.B. Upadhye, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, id. 4177-87

19- M. Matsumoto, Y. Yehara, Japan Kokai 78 29,965 (1978) 2 tr.

20- Nhóm Sen Gupta : a) S.C. Sen Gupta, P.K. Bose, J. Sci. Ind. Res.11B (1952) 458-61 ; :D S.C. Sen Gupta, id. 18B (1959) 210-2

21- R. Singh, A. Jain, S. Panwar, D. Gupta, S.K. Deepti, Dyes and Pigments (2) 66 (2005) 99-102

22- P.N. Srivastava, R.K. Varshney, Entom.Exp. Appl.(2) 9 (1966) 209-12

23- Nhóm Venkataraman : a) N.S. Bhide, A.V. Rama Rao, K. Venkataraman, Tetr. Letters (1) (1965) 33-5 ; :P E.D. Pandhare, A.V. Rama Rao, R. Srinivasan, K. Venkataraman, Tetrahedron Suppl. (1) 8 (1966) 229-39

24- Nhóm Yates : a) P. Yates, J. Amer. Chem. Soc. 82 (1960) 5764-5 ; :lol: P. Yates, A.C. Mackay, L.M. Pande, M. Amin, Chem. Ind. (1964) 1991 ; c) P. Yates, G.F. Field, Tetrahedron 26 (1970) 3135-58 ; d) P. Yat’es, P.M. Burke, G.F. Field, id. 3159-7

(Nguồn: http://www.thanhda.com/community/index.php...threadid=11168)

Share this post


Link to post
Share on other sites

[b]Vài nét về tục nhuộm răng đen

[/b]GS.TS NGUYỄN LÂN DŨNG

Theo BS. Hồ Đắc Duy thì trong các truyện cổ tích, từ hàng nghìn năm trước người nước ta đã có tục nhuộm răng, theo truyền thuyết tục này đi cùng với tục xăm mình và ăn trầu. Không chỉ người Việt mới có tục nhuộm răng mà các dân tộc khác như Thái, Si La... cũng có tục này nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thẩm mỹ, sức khỏe và chất liệu sử dụng trong lúc nhuộm. Như người Thái ở Việt Bắc thì họ nhuộm răng và ăn trầu là làm cho răng bền chắc tránh sâu răng.

Posted Image

Chiết răng

Suốt trong thời niên thiếu thì người con gái Thái chưa làm, chỉ sau khi lấy chồng mới nhuộm răng và ăn trầu. Cách nhuộm răng của họ cũng khác với người Kinh, để làm sạch răng họ phải chà sát nhiều lần bằng một miếng cau khô sau đó dùng lưỡi dao hoặc lưỡi thuổng cùn hơ cho vừa nóng, rồi rắc bột cánh kiến lên để bột nhựa cánh kiến nóng chảy ra mà không cháy thành than. Chờ cho bột nhựa cánh kiến vừa nguội mới lấy nhựa đó miết vào răng. Miết cho đến lúc chất nhựa này bọc hết hai hàm răng mới thôi. Trong vòng 7 đến 10 ngày sau không được dùng thức ăn uống nóng, không nhai đồ ăn cứng, khi răng trở nên màu ngà họ sẽ nhuộm đen bằng nhựa cây mét non.

Tục nhuộm răng đen có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc. Một câu chuyện về nghệ thuật nhuộm răng thường được nhiều người ở Huế nhắc đến là cách đây 70 năm có một bà thầy nhuộm răng nổi tiếng nhất ở kinh đô Huế là bà thầy Thại ở làng Sư Lỗ, cách cầu Ngói Thanh Toàn và làng Đồng Di Tây Hồ một con sông. Muốn được bà nhuộm răng các cô chiêu, cậu ấm phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng trời mới tới phiên mình được nhuộm. Mỗi đợt nhuộm là 15 người ăn ở luôn tại nhà bà thầy trong suốt thời gian nhuộm khoảng từ 12 ngày đến nửa tháng.

Chiều chiều bà thầy thường cho các cô chiêu cậu ấm leo lên một đồi nhỏ trong làng quay mặt ra hướng đông, bảo họ há miệng to để gió biển thổi vào cho thuốc nhuộm mau khô (!) và bà cũng kể cho các cô chiêu cậu ấm đó nghe về những chuyện cổ tích, danh nhân lịch sử, lòng yêu nước, hiếu thảo với cha mẹ. Đặc biệt có một ông già mù phụ thêm hát vè Mụ Đội, vè Phạm Công Cúc Hoa, vè Lục Vân Tiên, vè thất thủ Kinh Đô... để mua vui cho các cô các cậu và những người hiếu kỳ đến xem. Thuốc nhuộm răng của bà thầy Thại càng ngày càng nổi tiếng vang khắp cả một vùng Trung kỳ, có mấy cái đại lý của bà ở chợ Đông Ba, Quảng Trị, Đông Hà vô tới Quảng Nam, Quảng Ngãi... Đến năm 1949, không hiểu tại sao ông già mù hát vè bị Tây bắt và lôi ra bắn chết dưới dốc cầu An Cựu. Cả nhà bà thầy Thại dọn đi đâu mất trong ngày hôm ấy, nghe đâu mấy năm sau có người gặp bà ở cửa Tranh Đề.

Kể từ khi nền văn minh tây phương, nền văn minh răng trắng xâm nhập mạnh mẽ vào nước ta (1862) nhất là vào những thập niên 30 thế kỷ 20. Thuở ấy trong xã hội có hai phái kình chống nhau kịch liệt, một nhóm cho rằng để răng trắng, hớt tóc là bè lũ theo tây, làm me tây... còn nhóm kia thì cho rằng bối tóc củ hành, răng đen, áo the quần vải là hủ lậu, kém văn minh... Lúc mà phong trào để răng trắng thắng thế cũng là tục nhuộm răng bắt đầu đi vào lãng quên.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Quan niệm về cái đẹp ở Nhật qua các thời kỳ [/color]

04/11/2008 - 23:48

Phụ nữ Nhật hồi xưa rất thích nhuộm răng đen, hơn thế nữa, họ còn thích cả...xăm mình?

Tag:

Quan niệm về cái đẹp ở thời Nara (710 - 793) là làn da trắng trẻo. Cũng trong thời Nara, phụ nữ Nhật bắt đầu biết dùng phấn trắng để trang điểm mặt và thích xăm mình. Giới quý tộc thời ấy còn khởi xướng phong trào nhổ lông mày, nữ cũng như nam. Nam giới thích cột tóc đuôi gà hay búi thành lọn, trong khi các cô gái lại thích xõa tóc ngang vai. Nhuộm răng đen là dấu hiệu cho thấy quý bà đó thuộc tầng lớp thượng lưu và người ta cho rằng tục nhuộm răng ở xứ Phù Tang có nguồn gốc từ Đông Nam Á chứ không phải Trung Hoa.

Posted Image

Phái nam thuộc giới quý tộc không những nhuộm răng mà còn "đánh má hồng" song song với việc cạo trọc nửa đầu (phần trán)

Posted Image

Phong trào nhuộm răng đen lan mạnh đến thế kỷ 11, thời Nhật hoàng Shirakawa (1072-1086). Phái nam thuộc giới quý tộc không những nhuộm răng mà còn ''đánh má hồng'' song song với việc cạo trọc nửa đầu (phần trán). Ở thời này, phụ nữ tiếp tục thích để tóc dài và buông rủ lững lờ như những con suối ở Kyoto. Da trắng cộng với tóc đen là công thức làm đẹp của phụ nữ Nhật trong giai đoạn này.

(Trích từ nguồn: Xem tại đây)

Share this post


Link to post
Share on other sites