phamhung

VÌ SAO NGƯỜI VIỆT KIÊNG CỮ Và CÁC NGHI LỄ TRUYỀN THỐNG LIÊN QUAN

1 bài viết trong chủ đề này

Thày Thiên sứ - Nguyễn Vũ Diệu viết

VÌ SAO NGƯỜI VIỆT KIÊNG CỮ Và CÁC NGHI LỄ TRUYỀN THỐNG LIÊN QUAN.
Thưa quý vị và các bạn.
Người Việt rất hay kiêng cữ. Nếu thống kê thì người Việt kiêng cữ nhiều nhất so với các dân tộc khác trong lịch sử văn minh nhân loại. Kiêng "ra ngõ gặp gái"; kiêng "chim sa, cá nhảy"; kiêng...kiêng....kiêng đủ thứ.


Tác giả Thích Tâm Hiệp đã đặt vấn đề rất chính xác:
["Vấn đề của chúng ta, của người sau là ghi nhận khách quan với sự trân trọng và tìm hiểu ngọn nguồn xem tại sao ông cha kiêng"].
Và tác giả cũng phê phán sự ấu trĩ, khoác áo khoa học:
["Thế mà, một thời, do cái thói tư duy chủ quan, tự cho mình có "khoa học" hơn người trước, nên chúng ta đã bôi bẩn, hủy hoại bao giá trị văn hóa của tiền nhân"].
Tôi cảm ơn tác giả và ủng hộ cách đặt vấn đề của ông. Nên tôi mới chia sẻ bài này. Tuy nhiên, tôi trình bày nguyên nhân cốt lõi của tục kiêng cữ của người Việt - theo cách hiểu của tôi - và chia sẻ với các bạn để cùng suy ngẫm.
Theo tôi có hai hính thức kiêng cữ.


1/ Kiêng cữ những hiện tượng xảy ra mang tính khách quan. Thí dụ: Kiêng chim sa, cá nhảy; kiêng gương vỡ; kiêng chuyển giương khi phụ nữ mang bầu....


2/ Thực hiện những nghi lễ truyền thống có tính kiêng cữ. Cúng 49 ngày, cúng 100 ngày, cúng cơm người mất, kiêng nói những điều xui xẻo....
Tất cả nhưng điều này, đúng như tác giả viết:
["Vấn đề của chúng ta, của người sau là ghi nhận khách quan với sự trân trọng và tìm hiểu ngọn nguồn xem tại sao ông cha kiêng"].
Thưa quý vị và các bạn.
Tất cả những nguyên nhân vì sao ông cha ta kiêng, đều xuất phát từ một nguyên nhân chính yếu: Đó chính là xuất phát từ hệ thống nhận thức vũ trụ và thế giới, cũng như cuộc sống, xã hội và con người, của một dân tộc đã tồn tại với danh xứng văn hiến trải gần 5000 năm lịch sử, một thời huy hoàng bên bờ Nam sông Dương tử.


Tôi xin bắt đầu phần I.
PHẦN I. Kiêng cữ những hiện tượng xảy ra mang tính khách quan.

Theo tôi, tất cả các tục kiêng cữ của người Việt đều có nguyên nhân thực tế. Thí dụ: Kiêng gương vỡ. Chính là hiệu ứng bức xạ không đồng đều tương tác lên người soi gương. Kiêng chuyển giường phụ nữ mang thai gần ngày sinh, chính là sự thay đồi sự tương tác ổn định của Khí trong môi trường chỗ nghỉ ngủ. Người phụ nữ khi mang thai thường yếu. Sự thay đổi này sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của họ. Hoặc khó hiểu hơn: Kiêng chim sa, cá nhảy, chính là sự tương tác của trường khí môi trường cụ thể, khi người nào đó đi ngang, bị chim sa, cá nhày lên bờ. Do trường khí thay đổi, nên chim đột ngột sa xuống, hoặc cá nhảy lên bờ. Đương nhiên là trường khí xấu, Và nó sẽ ảnh hưởng tới người đi qua môi trường đó....Tương tự như vậy, với các hiện tượng kiêng cữ.
Đương nhiên, với cách giải thích này, đã xác định, những tri thức tinh hoa của tổ tiên người Việt phải hiểu rất rõ về tương tác của "Khí" trong môi trường cuộc sống. Và khái niệm "Khí" cho đến hôm nay - trừ
nhân danh nền văn hiến Việt - vẫn còn là một khái niệm bí ẩn trong hệ thống tri thức của nền văn minh Đông phương.
 

PHẦN II. Những nghi lễ truyền thống có tính kiêng cữ.
Thưa quý vị và các bạn.
Ngoài những hiện tượng khách quan và phải kiêng cữ theo truyền thống, thì ông cha ta còn có những nghi lễ mang tính kiêng cữ. Thí dụ - được đề cập đến ngay trong bài viết của ông Thích Tâm Hiệp về nghi lễ Tang ma, như: lễ 49 ngày, 100 ngày. Căn cứ vào đâu để có nghi lễ này? Tại sao không 21 ngày, 36 ngày...? Mà cứ phải đúng 49 và 100?
Hoặc tại sao "Mùng 5/ 14/ 23" Âm lịch lại kiêng? Tại sao đám tang phải mặc áo sô trắng, con trai đội mũ rơm? Vì sao mẹ mất phải đi giật lùi trước quan tài, bố mất đưa đằng sau quan tài, đúng với câu "cha đưa, mẹ đón"? ,,,vv....
Những nghi lễ này mang tính chủ quan , do con người quy định. Vậy nó xuất phát từ cái gì để có nhận thức đó?


Thưa quý vị và các bạn.
Rất nhiều kẻ tự nhận mình là trí thức, là hiểu biết, thậm chí có học hàm, học vị và cả quyền lực học thuật, một thời ra rả như ve rằng: Văn hóa Việt ảnh hưởng của Tàu. Nhưng chính người Tàu lại không hiểu gì về nguyên nhân của nó (?!). Ví dụ như kiêng ngày Tam Nương, được giải thích do ba người đàn bà nổi tiếng Trung Hoa vào cung cấm, là Bao Tự, Đát Kỷ và Điêu Thuyền (Có vài dị bản khác nhau).
Vấn đề kiêng cữ trong truyền thống dân gian Việt, nhiều đến nỗi có hẳn những cuốn sách dày cộp viết về đề tài này. Do đó, nếu giải thích hết thì không thể là việc của một cá nhân và hoàn toàn không tưởng; hoặc phải mất cả đời, như cụ Lê Gia giải thích bản chất nội hàm các ca6un thành ngữ, tục ngự, phương ngôn....Việt Nam.
Nhưng tôi hy vọng rằng, tôi đưa ra được một định hướng cho các hiện tượng kiêng cữ này, và thế hệ sau tiếp tục.
Trước hết tôi cần xác định rằng: tất cả mọi hiện tượng văn hóa truyền thống Việt, chi tiết đến từng nghi lễ trong các phong tục truyền thống Việt, trong đời sống của người Việt, thâm chí trong cả ngôn ngữ Việt... đều là hệ quả của thuyết ADNH và kinh Dịch. Ngay cả những nghi lễ mà tôi đã trình bày ở trên. Tôi xin lần lượt trình bày những vấn đề đã nêu.
a/ Tục cúng cơm 49 và 100 ngày.
Tất cả người Việt chúng ta đều biết rõ câu chuyện "Con Rồng, cháu Tiên" trong đó bọc trứng có 100 quả, 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo Mẹ lên núi. Đây chính là mô tả độ số của vũ trụ với Hà Đồ - Lạc Thư. Tổng có 100 vòng tròn. 50 vòng đen (Âm) và 50 vòng trắng (Dương).
* Tục cúng 100 ngày.
Khi hết chu kỳ tính theo ngày của một năm là 100 ngày cúng cơm, thì sẽ chuyển bàn thờ người quá cố lên bàn thờ chung của gia đình.
* Tục cúng 49 ngày.
con số 50 ngày là hết một chu kỳ Dương (Dương trước), nhưng nếu vậy thì cô Dương, hay thuần Dương. Bởi vậy bớt một ngày là 49. Để không phạm vào Cô Dương.
b/ Các kiêng cữ mùng 5/ 14/ 23.
Đây là chu kỳ 9 với độ số của trung cung là 5. Trong đó, các ngày 14 = 5 + 9; 23 = 14 + 9. Tức Ngũ Hoàng nhập Trung theo Huyền không phi tinh. Hay nói cách khác: Nó cũng thuộc về hệ quả của thuyết ADNH. Ngũ hoành là một sao xấu. Nên nhập trung ứng với công việc sẽ không tốt.
c/ Kiêng cữ 6 ngày Tam Nương sát.
Gồm: mùng 3; 7; 13; 18; 22; 27 Âm lịch hàng tháng. Đây chính là điểm chết của chu kỳ Lục Khí trong sự vận động của 30 ngày. Hoàng Triệu Hải - GD TTNC LHDP đã có một bài viết chi tiết về vấn đề này.

Thưa quý vị và các bạn.
d/ "Cha đưa, mẹ đón" trong nghi lễ tang chế.
Cha là Dương, nên theo cha theo nguyên lý "Dương trước, Âm sau". mẹ là Âm nên con đi trước giật lùi, nhưng hướng về linh cữu. vì Mẹ là Dương so với các con, theo nguyên lý "Âm thuận tùng Dương", nên các con phải đi giật lùi để hướng về linh cữu của mẹ..
e/ Mặc áo sô trắng để chống bức xạ của Tử Khí.
Sau này những nhà khoa học cũng xác định màu trắng có tác dụng tán các bực xạ xáu. Nên trong các phòng có liên quan đến bức xạ, các người làm việc thường mặc áo Blu trắng. Nhất là trong các lò phản ứng hạt nhân.
h/ Con trai đội mũ rơm.
Hiện tượng này, anh chị em học viên các lớp Địa Lý Lạc Việt đều đã được biết rằng: Mọi vật thể xốp có tính hấp thụ và ngăn cản các bức xạ xấu. Mũ rơm là một dạng vật thể xốp. Và những người con trai phải đi sát quan tài. Nên đội mũ rơm để tránh bức xạ của Tử Khí xâm nhập vào não.
Thưa quý vị và các bạn.
Tất cả những điều mà tôi trình bày trên đây, chỉ là nhưng ví dụ, có tính định hướng nghiên cứu , khi xác định rằng:
Thuyết ADNH và kinh Dịch, chi phối tất cả đời sống và văn hóa truyền thống Việt. Bởi vì, dân tộc Việt chính là chủ nhân đích thức của nền văn minh Đông phương. Có thể có nhiều cách giải thích khác nhau, nhưng tôi không tranh luận. Nhưng cách giải thích của tôi, có tính hệ thống và nhất quán với mối liên hệ hợp lý cho tất cả các vấn đề liên quan đến nó. Đồng thời, nó cũng xác định câu nói nổi tiếng của SW Hawking, khi ông phát biểu - Đại ý - rằng:
"Khi xác định một lý thuyết thống nhất, thì những quy luật tự nhiên của vũ trụ được nhân thức, sẽ giúp điều hành xã hội của chúng ta".
Những nghi lễ, tập tục văn hóa truyền thống Việt, hoàn toàn thuận theo thuyết ADNH - chính là Lý thuyết thống nhất, mà nhân loại đang tìm kiếm.
Xin cảm ơn sự quan tâm và chia sẻ.

5 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites