Trần Phương

"Người Việt xấu xí"

2 bài viết trong chủ đề này

Nghĩ về những thói hư tật xấu của người mình

Dương Trung Quốc

Không biết có phải vì được chứng kiến những bước tiến mạnh mẽ của nước Trung Hoa trong cuộc cải cách mà dư luận hâm nóng một cuốn sách được xuất bản cách đây hai thập kỷ. Đó là cuốn “Người Trung Hoa xấu xí” của Bá Dương.

Dường như có sự liên tưởng cho rằng sự dũng cảm nhìn nhận ra những yếu kém sẽ mang lại sức vươn lên mạnh mẽ cho một dân tộc. Nhưng cũng chưa ai chứng minh được mối liên hệ giữa sách của Bá Dương và thực tiễn cải cách thành công của nước Trung hoa mới.

Người ta cũng từng nhắc đến Lỗ Tấn cách đây cả thế kỷ cũng đã từng quất ngọn roi phê phán vào lòng tự ái của người Trung Hoa để thức tỉnh một dân tộc còn đang ngái ngủ trước nguy cơ lạc hậu và mất nước...

Cũng không hẳn như anh Thúy Toàn cho rằng “Người Việt Nam bắt đầu dám nói”. Người Việt Nam thế hệ chúng ta thì có thể, chứ các bậc tiền bối thì không hẳn. Do vậy cái đáng tự vấn chính là thế hệ chúng ta chứ không phải là “Người Việt chúng ta".

Những công bố gần đây của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn lục tìm trong sách báo cũ cho thấy, người Việt Nam ta đâu phải không biết tự phán. Ngay trong thời cận đại cũng từng có hai nhà chính trị, cũng đáng là hai nhân vật lịch sử quan trọng đã tự tay viết sách tự phê bình đường lối chính trị của mình. Tác giả “Tự phán” là nhà ái quốc nổi tiếng Phan Bội Châu, còn “Tự chỉ trích” là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương Nguyễn Văn Cừ...

Nhưng tự phán và tự trào tính cách của dân tộc thì phải nói đến một nhân vật nổi danh trên trường văn học và báo chí là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) ở đầu thế kỷ XX mà năm nay chúng ta sẽ kỷ niệm 70 năm ngày mất của ông.

Khi còn bỉnh bút cho tờ báo quốc ngữ ra đời sớm nhất ở Bắc Kỳ “Đăng cổ tùng báo” (1907) Nguyễn Văn Vĩnh dưới bút danh giả nữ là Đào Thị Loan, ông đã viết những bài phê phán mạnh mẽ những thói hư tật xấu như tục đốt vàng mã, thói hư danh, nạn cờ bạc...

Đến khi trở thành chủ bút tờ “Đông Dương Tạp chí” trong 2 năm 1913 và 1914, ông mở một chuyên mục mang tên là “Xét tật mình” lấy cảm hứng từ một câu của văn hào Pháp Emile Zola: “Nói hết, để biết hết, để chữa hết” (Tout dire pour tout connaitre, pour tout guérir) và giải thích thêm rằng: “Các nết xấu, các hủ tục của người Việt Nam ta, cần nói hết ra, đừng có giấu giếm, ai cũng biết thì mới sửa được. Luân lý là phải dạy người ta biết gốc rễ điều ác để tự nguyện tránh, mầm mống điều thiện để tự giác làm điều thiện”.

Bằng một ngòi bút trào lộng sắc cạnh, Nguyễn Văn Vĩnh đã bàn tiếp đến nhiều thói hư tật xấu thường thấy ở người nước ta như tính ỷ lại, tính ăn gian nói dối, thói ăn uống thành nợ miệng, tính bán tín bán nghi, thói đồng bóng, tính vay mượn kém sáng tạo, tính cơ hội đục nước béo cò, thói “gì cũng cười”, tệ cờ bạc v.v...

Cách viết tự trào và tự phán ấy sau này còn được tờ “Phong Hóa”, “Ngày Nay” tiếp tục bằng ngôn ngữ trào lộng đề cập tới những vấn đề của cuộc sống. Đó là thời điểm của những biến chuyển quan trọng trong đời sống xã hội diễn ra trong quá trình đô thị hóa và phong trào “vui vẻ trẻ trung”. Đối tượng chính là những thói tệ thường thấy trong cơn chuyển đổi từ “người nhà quê” lên lớp thị dân, sự xuất hiện tính cách trọc phú trong lớp người mới giàu có... Đó là thời kỳ xuất hiện những nhân vật như Xuân Tóc Đỏ, Nghị Hách trong văn học, những Xã Xệ, Lý Toét, Nang Bạnh trong biếm họa của báo chí v.v...

Lại còn phải nhắc đến các học giả khi bàn về phong hoá của đất nước cũng lưu tâm đến những mặt hạn chế, thói xấu của người Việt Nam như để góp phần giải thích cái thân phận thấp kém của một quốc gia vừa bị mất nước và bị lạc hậu. Những đánh giá của Phan Kế Bính, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh... thật nghiêm khắc.

Các nhà hoạt động chính trị cũng không né tránh. Những bài viết của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, Lương Văn Can, Ngô Đức Kế...có tác dụng thức tỉnh hướng vào khát vọng phục hưng dân tộc. Ngay Nguyễn Ái Quốc từng nói thẳng với những đồng chí trẻ trong những lớp đào tạo cán bộ cách mạng ở Quảng Châu về những thói tệ như tính sĩ diện, giấu dốt , thích làm quan của người mình (qua báo “Thanh niên”) v.v...

Như vậy là việc dám nhìn vào gương để tự soi mình, vạch ra những thói hư tật xấu để phê phán và khắc phục đâu phải là chưa từng có ở ta. Tự phê phán đã từng được coi là một vũ khí để tu thân...

Công cuộc Đổi mới được khởi động bằng nguyên lý: “Hãy nhìn thẳng vào sự thật” hoàn toàn phù hợp với tinh thần tự phê phán, tự chỉ trích mà chuyên mục này của báo Tiền phong đang đề cập tới. Tuy nhiên, theo tôi, vấn đề là phải nhìn nhận những thói hư tật xấu một cách biện chứng trong tính cách của mỗi con người, cũng như mỗi dân tộc, tranh phiến diện và tuyệt đối hóa.

Tôi nhớ đến một cách quảng cáo của một bà chủ cửa hàng tiên phong trong việc mở mỹ viện tại Hà Nội: “Không có người đàn bà xấu, chỉ có người đàn bà chưa biết cách làm đẹp”. Một con người đã vậy, với một dân tộc có vậy không?

Tôi lại nhớ đến nỗi băn khoăn của cố Viện trưởng Viện Sử học Nguyễn Hồng Phong. Ông thăm nước Đức và nói lên nỗi bàng hoàng khi tham quan di tích một trại tập trung của Đức quốc xã. Điều làm ông bàng hoàng hơn cả không phải là sự chết chóc thảm khốc của những tù nhân Do Thái mà lại chính là vẻ mặt trí thức và khả ái của những viên trùm chỉ huy các trại tập trung ấy. Thật là nghịch lý, một dân tộc sản sinh ra những thiên tài của sự nhân ái như Goeth hay Beethoven lại có những người đồng bào khát máu như vậy?!

Cũng như khi nói về biểu tượng “con cá gỗ” gắn với một xứ sở nổi tiếng nghèo nhưng cũng nổi tiếng có học ở miền Trung nước ta. Cái biểu tượng ấy có thể gắn với tính bủn xỉn, keo kiệt ở người này nhưng lại là một phần của tính hiếu học, ý chí phấn đấu vượt khó ở người khác...

Vì vậy khi nói về một sự khác biệt trong tính cách của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng ta có thể nói về một số tính trội hay những tiềm năng mang các khuynh hướng khác nhau chứ không nên hiểu như những hằng số phản ảnh một tính cách tuyệt đối, bất di bất dịch.

Trong sách du ký “Hành trình Xứ Đàng Trong năm 1621” của cố đạo Alexandre de Rhodes có thuật lại trải nghiệm của một thương nhân Bồ Đào Nha. Ông ta đến Đàng Trong (vùng Hội An) và được nhiều người nước ngoài khác cảnh báo về một thói xấu của người bản địa là hay xin xỏ. Rằng người Đàng Trong rất chuộng của lạ, thấy ai có cái gì cũng ngỏ lời “Xin một cái”, do vậy ai có gì thì chớ để lộ ra kẻo họ lại xin mất.

Sự việc diễn ra đúng như vậy. Nhưng một lần, ông thương gia này quyết định thử xem có đúng hoàn toàn như vậy không, bèn đến một gia đình thuyền chài nghèo và để tay lên cái rổ đầy cá rồi nói bằng tiếng bản địa “Xin một cái!”. Điều bất ngờ là người thuyền chài chẳng nói chẳng rằng đưa luôn cả cái rổ cá cho người ngỏ lời xin mặc dù có thể đó là cả bữa ăn của gia đình mình. Thế là ông thương gia người Bồ lại phát hiện một tính cách đối lập với những thiên kiến về người Đàng Trong...

Từ những câu chuyện ấy, suy cho rộng ra thì phải trở về cái nguyên lý “nhân chi sơ, tính bản thiện”. Những cái xấu, những cái đi ngược lại với thiện tính của con người không thuộc về tính cách của một dân tộc mà chủ yếu chỉ là biểu hiện của những con người trong những hoàn cảnh cụ thể đã để mất cái thiện căn của mình. Biết nhận thức cái xấu, biết tự phê phán là thái độ khôn ngoan không chỉ với một cá nhân, một cộng đồng mà có thể của cả một dân tộc. Và đó cũng là ý niệm cốt lõi của hai chữ “giáo dục” như bài thơ “Nửa đêm” (Dạ bán) của Cụ Hồ”:

“Ngủ thời ai cũng hiền lương

Tỉnh ra mới rạch hai phương dữ lành

Dữ lành bá tánh trời sanh

Thường do giáo dục mà thành thói quen”

(Bản dịch của Quách Tấn)

Theo Tiền Phong

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhà văn hóa Hữu Ngọc

Quan trọng nhất là phải biết nhìn ra nhược điểm của chính mình

Trong cuộc gặp gỡ mới đây với chúng tôi, nhà văn hóa Hữu Ngọc đã chia sẻ những suy nghĩ của ông về một chủ đề mang tính thời sự: tính cách Việt trong thời buổi hội nhập...

Người ta gọi ông là “nhà xuất nhập khẩu văn hóa”. Bởi lẽ, hầu như cả cuộc đời ông đã dành cho sự nghiệp giới thiệu văn hoá Việt Nam ra nước ngoài và tìm hiểu, giới thiệu các nền văn hoá thế giới. Ông là Hữu Ngọc, một nhà văn hóa được biết đến nhiều ở trong và ngoài nước.

Nhà văn hóa Hữu Ngọc sinh năm 1918 tại Hà Nội, gốc gia đình ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Tốt nghiệp tú tài, Hữu Ngọc vào học trường Luật. Tốt nghiệp, ông lại rẽ ngang sang nghề dạy học. Kháng chiến 9 năm chống Pháp, ông làm Trưởng ban giáo dục tù, hàng binh Âu – Phi, có dịp lặn lội đi khắp các trại để làm công tác địch vận, giúp cho những người lính Âu – Phi trong đội quân xâm lược của thực dân Pháp hiểu về cuộc kháng chiến chính nghĩa và nền văn hóa của Việt Nam. Sau năm 1954, có dịp đi công tác, hội thảo ở nhiều nước trên thế giới, ông đem tiếng nói chính nghĩa, yêu lao động, yêu hoà bình của dân tộc Việt Nam đến với bạn bè quốc tế, làm cho họ hiểu đất nước và nền văn hoá của Việt Nam hơn.

Nhà văn hóa Hữu Ngọc đã được Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Chiến công và Huân chương Độc lập, Chính phủ Thụy Điển tặng Huân chương “Ngôi sao phương Bắc”, Chính phủ Pháp tặng Huân chương Cành cọ Hàn lâm và “Lời Vàng” cùng nhiều danh hiệu cao quý khác.

Với tri thức sâu rộng, lại sử dụng thành thạo tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, sử dụng được chữ Hán, hơn 50 năm cầm bút, nhà văn hóa Hữu Ngọc đã cho ra đời một loạt tác phẩm viết về kho tàng văn hóa phong phú của nhiều dân tộc. Đó là “Phác thảo chân dung văn hóa Pháp”, “Mảnh trời Bắc Âu”,”Văn hoá Thuỵ Điển”, “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, “Chân dung văn hóa Nhật Bản” “Chìa khoá để biết và hiểu Lào”. Để giới thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, ông viết đều đặn hơn chục năm trời mục “Mạn đàm truyền thống” cho Le Courrier Viet Nam (tiếng Pháp) và Vietnam News (tiếng Anh). Những bài viết đó đã được tập hợp thành một cuốn sách quý “Phác thảo chân dung văn hoá Việt Nam” bằng hai thứ tiếng Anh và Pháp.

Ở tuổi 88, nhà văn hóa Hữu Ngọc vẫn được tín nhiệm giữ chức Chủ tịch Quỹ văn hóa Thụy Điển - Việt Nam và Quỹ văn hóa Đan Mạch - Việt Nam. Quỹ do ông phụ trách đã giúp cho 11 phường rối nước khỏi bị mai một; tài trợ trùng tu gần 70 đền chùa, nhà thờ họ một số gia tộc nổi tiếng có công với nước, sửa chữa và làm mới nhiều bia mộ, tượng của các anh hùng, danh nhân, giúp nhiều học bổng cho con em các dân tộc. Hoạt động của Quỹ đã vươn tới những vùng sâu, vùng xa: phục chế tháp Mường Luân ở Lai Châu, tu bổ công trình kiến trúc cổ Thala Pangxay của đồng bào Khơ-me ở An Giang...

* Thưa ông, có nên chăng đặt ra một vấn đề trong thời buổi hội nhập hiện nay: người Việt Nam “chất lượng cao”?

- Tôi hiểu ý ngầm của thuật ngữ này. Đó là một khái niệm khá thú vị, nhưng theo tôi, ở đây không thể khu biệt những tính cách “chất lượng cao” cho một nhóm người nào đó mà phải lan toả nó ra toàn xã hội. Có nghĩa là đụng đến một vấn đề đang làm đau đầu xã hội hiện nay: giáo dục toàn dân. Chỉ có giáo dục cho đại đa số người dân những tri thức hiện đại, đồng thời cả về ý thức công dân nữa thì chúng ta mới hy vọng đưa đất nước hội nhập vào với thế giới được. Chứ nếu chỉ có một tầng lớp người nào đó trong xã hội thì đó chỉ là những cố gắng manh mún nhỏ lẻ và không mang lại được hiệu quả cho cả xã hội.

* Vậy theo ông, những tính cách “chất lượng cao” của người Việt trong thời buổi hội nhập là gì?

- Để bàn về vấn đề này, cần phải nói rộng ra một chút. Nếu như so với các nước trong khu vực thì chúng ta hội nhập với thế giới chậm hơn nhiều. Những nước như Thái Lan, Singapore, Malaysia... đều đã hội nhập sớm; kinh tế của họ phát triển chủ yếu dựa trên cơ sở sức lao động rẻ, hoạt động dịch vụ...

Bây giờ, nếu ra sân chơi quốc tế, chúng ta lại đua tranh với họ trên chính những lĩnh vực mà họ đã có lợi thế do có kinh nghiệm, có thị trường... thì chúng ta sẽ chỉ gặp nhiều bất lợi mà thôi. Bởi vậy, để đua tranh trên lĩnh vực phát triển kinh tế, chúng ta phải dựa vào nội lực của mình. Nói như thế thì nghe có vẻ mông lung, sách vở quá nên tôi nói cụ thể hơn như thế này. Nền kinh tế của chúng ta sẽ phát triển dựa trên và chủ yếu là trông vào sức tiêu thụ của dân mình là chính! Có nghĩa là phải nâng cao được tỉ lệ tiêu thụ hàng hóa của người mình lên thì kinh tế mới phát triển được.

Mà người mình ở đây là ai? Là người nông dân! Bởi tỉ lệ nông dân ở ta vẫn còn lớn lắm, lên đến 80% dân số. Một bộ phận người ở thành thị đâu có tiêu thụ hàng hóa đáng kể cho nền kinh tế mà phải là người nông dân thì tỉ lệ tiêu thụ hàng hóa mới cao được. Vòng quay tiêu thụ hàng hóa càng nhanh thì nền kinh tế mới càng phát triển.

Ở đây, như vậy có một sự liên quan giữa “Hàng Việt Nam chất lượng cao” với “Người Việt Nam chất lượng cao”!

Tôi thấy rằng khẩu hiệu người Việt Nam dùng hàng Việt Nam chính là toát lên cái tinh thần vì quốc kế dân sinh và người Việt Nam thời hội nhập phải là người biết vì quốc kế dân sinh như vậy.

Bên Nhật Bản hàng năm có một ngày chính phủ kêu gọi người dân hãy dùng hàng nước ngoài vì dân Nhật chỉ thích dùng đồ do họ làm ra thôi. Còn ở ta thì ngược lại. Dân mình chỉ thích dùng hàng ngoại và như thế thì nền kinh tế sẽ khó mà phát triển sánh với các cường quốc năm châu được.

* Đó là đặc trưng mang tính kinh tế. Còn về tính cách cá nhân thì sao, thưa ông?

- Từ trước đến nay, chúng ta chỉ chủ yếu nói về những mặt tích cực trong tính cách người Việt: yêu nước, thương nòi, dũng cảm, cần cù, chịu khó... Việc cổ vũ những tính cách như vậy rất có ích lợi trong thời kỳ kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Nhưng chúng ta thường “kiêng” nói đến những mặt tiêu cực trong tính cách Việt.

Theo tôi, một tính cách quan trọng của người Việt trong thời kỳ hội nhập chính là phải khiêm tốn, chặt chẽ, biết nhìn ra những nhược điểm, yếu kém của chính mình thì từ đó mới vươn lên được.

Một trong những đặc trưng quan trọng nhất của người Việt trong thời kỳ hội nhập, theo tôi, là phải có ý thức công dân. Chúng ta có thể anh dũng chết trước mặt kẻ thù, nhưng phê phán cấp trên thì không! Có thể nhẹ nhàng nhận cái chết trên chiến trường, nhưng cũng sẵn sàng xéo lên vườn hoa, cây cỏ. Ai phê bình thì tự ái.

Tôi nhớ trong một cuộc họp, có người nói rằng dân mình thiếu chữ tín, không tôn trọng lời hứa; thế là một nhà văn có tên tuổi đứng lên gay gắt bảo rằng nếu như dân ta không thật thà thì làm sao đánh thắng được quân Nguyên! Đại loại là như thế...

* Trung Quốc có xuất bản cuốn Người Trung Quốc xấu xí của nhà văn Bá Dương, có rất nhiều ý kiến khác nhau. Vậy theo ông, có cần phải có một cuốn sách tương tự như thế cho người Việt chúng ta hay không?

- Nên quá đi chứ! Nhưng tôi thích một cuốn sách khác của Trung Quốc hơn, cuốn Người Trung Quốc tự trào. Cần phải biết tự trào về những thói hư tật xấu của mình. Không nên coi đó như là chuyện “vạch áo cho người xem lưng”. Có bệnh thì chữa và đó chính là sức mạnh.

Ở nhiều nước, người ta có những số liệu điều tra nghiên cứu về xã hội học rất thú vị, chẳng hạn như tỉ lệ người nói dối trong xã hội, tỉ lệ người biết quan tâm đến người khác... Tôi nghĩ ở Việt Nam cũng nên tiến hành những điều tra xã hội học như thế.

* Một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là tính cạnh tranh, còn mục tiêu tối hậu của nó là làm ra lợi nhuận. Theo ông, trong bối cảnh đó, liệu văn hóa có phải và nên như một cái “phanh” hãm bớt những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường hay không?

- Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, ngoài cuộc đua tranh về tiềm lực quân sự, cả hai bên Đông-Tây đều lao vào cuộc đua tranh về kinh tế với quan niệm cho rằng sự vượt trội về tiềm lực kinh tế sẽ có ý nghĩa quyết định đối với thành bại về đại cục!

Đến thập kỷ 80 của thế kỷ trước, lần đầu tiên nhân loại đã nhìn nhận lại ý nghĩa của văn hoá thông qua thập kỷ văn hoá UNESCO, nhận thức lại cái tương quan giữa văn hoá và kinh tế trong đời sống con người. Người ta hiểu ra rằng sự phát triển đơn thuần về kinh tế không có nghĩa là một bảo đảm chắc chắn cho cái gọi là “chất lượng sống”.

Nên nói văn hóa là cái động cơ cho một xã hội vận hành, còn kinh tế chính là nhiên liệu của xã hội đó. Văn hóa là mục tiêu của kinh tế chứ không phải ngược lại. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng. Nó như cái kén của con tằm, được tạo ra cho chính nó chứ không phải cho ai khác. Cần tôn trọng sự khác biệt về văn hóa, không áp đặt những quy chuẩn chung cho tất cả; mà có áp đặt cũng không được. Người Hàn Quốc vẫn ăn thịt chó và World Cup vẫn được tổ chức ở Hàn Quốc, bất chấp những sự phản đối của một số người... Những người Việt của thời hội nhập cần phải nhận thức rõ những điều này và điều đó tạo nên nội lực cho người Việt trong thời kỳ hội nhập.

* Là người làm công việc thường xuyên tiếp xúc với người nước ngoài, ông nói gì với họ về nước Việt Nam hiện nay?

- Có lần tôi dành ra cả một buổi để thuyết trình cho nhiều người nước ngoài hiểu về khẩu hiệu của chúng ta: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Sau buổi thuyết trình, một người Mỹ tới gặp tôi và bảo: “Khẩu hiệu này cũng hợp với nước chúng tôi!”.

* Xin cảm ơn ông!

Theo Báo Quân đội nhân dân

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay