Lê Bá Trung

Phong Thủy Thiên Tâm Thập Đạo

2 bài viết trong chủ đề này

Dùng số 10 để thông với ngũ hoàng (5) ở trung cung của cửu cung, là nơi giao hội, xuất nhập của Nhật Nguyệt mà tạo thành thế “Thiên tâm Thập đạo” của Lạc thư và Hậu thiên Bát quái. Vì Thập (10) là âm Kỷ, thuộc Địa, còn Ngũ (5) là dương Mậu, thuộc Thiên, nên khi lấy Thập (10) ở tám cung mà phối với Ngũ (5) tại Thiên tâm (chính giữa) thì sẽ tạo thành sự kết hợp giữa Thiên- Địa, Phu – Phụ, Âm – Dương. Thiên tâm thập đạo có thể thông khí giữa 8 cung gọi là “thông quái” Giúp cho nhà dù ở thế suy bại ( trường hợp bị thướng sơn hà thuỷ) cũng chuyển thành vượng mà phát phúc, lộc dồi dào.

Thiên-Tâm Thập-đạo chĩ áp dụng cho các sao về Vận, Tọa và Hướng mà thôi.

Có nhiều loại Hợp thập:

• Tổng số là 10 của Tọa của các cung tọa và hướng.

• Tổng số là 10 của Hướng của các cung tọa và hướng.

• Tổng số là 10 của Hướng hay Tọa của các cặp cung (1, 6), (2, 7), (3, 8) và (4, 9).

• Hợp thập quái: là tổng số của Tọa và Hướng ở Trung-cung là 10, chủ phát vượng nhanh chóng.

• Tổng số là 10 của Hướng hay Tọa của các cặp cung đối xứng qua Trung-cung.

Vì đây là cách cục đặc biệt, nên chỉ có 6 trường hợp, và đều xảy ra trong Vận 5 cho những nhà có tọa-hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN, THÂN-DẦN, DẦN-THÂN, GIÁP-CANH, CANH-GIÁP mà thôi.

Thí dụ: nhà tọa CẤN hướng KHÔN vận 5. Nhìn vào trạch bàn ta thấy:

- Sơn tinh 5 ở phía TÂY NAM + Hướng tinh 5 ở phía ĐÔNG BẮC = 10;

- Sơn tinh 1 ở phía TÂY + Hướng tinh 9 ở phía ĐÔNG = 10.

- Sơn tinh 9 ở phía TÂY BẮC + Hướng tinh 1 ở phía ĐÔNG NAM = 10.

- Sơn tinh 4 ở phía BẮC + Hướng tinh 6 ở phía NAM = 10.

- Sơn tinh 2 ở phía ĐÔNG BẮC + Hướng tinh 8 ở phía TÂY NAM = 10.

- Sơn tinh 6 ỏ phía ĐÔNG + Hướng tinh 4 ở phía TÂY = 10.

- Sơn tinh 7 ở phía ĐÔNG NAM + Hướng tinh 3 ở phía TÂY BẮC = 10.

- Sơn tinh 3 ở phía NAM + Hướng tinh 7 ở phía BẮC = 10.

Ngoài ra nếu nhìn vào trung cung thì thấy Sơn tinh 8 + Hướng tinh 2 = 10, nên đây là cách Hợp thập giữa Sơn tinh và Hướng tinh tức "Hợp thập quái".

• Hợp thập số là tổng số là 10 của một cặp Tọa, Hướng hay Vận trong mổi cung xung quanh Trung cung, chủ về hưng vượng. Đây là các cuộc toàn bàn Hợp thập

1)_ Sơn tinh và Vận tinh có 7 trường hợp:

- Vận 1: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.

- Vận 3: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.

- Vận 4: Tọa CANH hướng GIÁP.

- Vận 6: Tọa GIÁP hướng CANH.

- Vận 7: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.

- Vận 8: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.

- Vận 9: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.

2)_ Hướng tinh và Vận tinh có 7 trường hợp:

- Vận 1: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.

- Vận 2: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.

- Vận 3: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.

- Vận 4: Tọa GIÁP hướng CANH.

- Vận 6: Tọa CANH hướng GIÁP.

- Vận 7: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.

- Vận 9: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI

Bất kể sự kết hợp giữa hướng tinh với vận tinh hay giữa sơn tinh với vận tinh thì khi đã được thiên tâm thập đạo thì toàn bàn đã được thông khí, 2 khí âm-dương Mậu-Kỷ đã tác hợp nên Sơn vượng thì Hướng cũng vượng và ngược lại.

Trong cách cục Thiên Tâm Thập Đạo tuy toạ hướng có thể lâm vào tình trạng “:thướng sơn há thuỷ” tức suy bại về tài lộc và nhân đinh nhưng chỉ cần cung có sao sinh khí hoặc tiến khí được phù hợp hình thế mà trở lên vượng thì toàn bàn đều trở lên vượng mà không sợ “thướng sơn há thuỷ” nữa. Thí dụ nhà toạ TÝ hướng NGỌ vượng phát trong vận 7, qua vận 8 thì trở lên suy bại vì hướng tinh 7 đã trở thành thoái khí. Nhưng nếu cung hướng NAM (có hướng tinh 8 là vượng khí) hay cung hướng ĐÔNG BẮC (có hướng tinh 9 là sinh khí) có thuỷ, trống thoáng hay đường đi hoặc cung hướng TÂY NAM (có sơn tinh 8) hay cung hướng ĐÔNG (có sơn tinh 9) có núi, đồi, nhà cao hay cây cao thì nhà này vẫn vượng phát như thường (dĩ nhiên những khu vực này cần có cửa để đón nhận vượng khí)

Tóm lại

Thiên tâm thập đạo là sự kết hợp thành 10 để tạo nên sự thông khí giữa các cung còn gọi là thông quái và chỉ cần một cung được vượng thì toàn bàn đều vượng. Đây là những cách cục tốt nhất trong các cách cục thông khí.

Tam ban quái & Thất tinh đả kiếp

Các bộ số (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9) được gọi là bộ số của quẻ tam ban.

Phép dùng Tam ban quái và Thất tinh đả kiếp (đả kiếp là cướp đoạt khí của tương lai) là phép dùng quẻ Tam ban để cướp đoạt khí của tương lai như Thượng nguyên thì cướp đoạt khí của Trung nguyên, Trung nguyên thì cướp đoạt khí của Hạ nguyên...

Có 3 loại tam ban quái:

1)_ Tam ban quái liên châu.

2)_ Tam ban xảo quái.

3)_ Phụ mẫu tam ban quái. Trong đó lại chia làm hai loại:

a_ Ly cung đả kiếp (đả kiếp thật)

b_ Khảm cung giả kiếp (đả kiếp giả)

Tam ban quái liên châu

Tam ban quái liên châu được cho là quý trong các cuộc đặc biệt và có thể đem tới nhiều điều tốt cho chủ nhà ( dĩ nhiên là loan đầu phải phù hợp )

Liên Châu Tam Ban Quái là cuộc bao gồm 9 cung mổi cung đều có sơn tinh, vận tinh, và hướng tinh liền nhau. 3 sao liền nhau , tức là 3 sao đều là (1-2-3) hoặc (2-3-4) hoặc (3-4-5) hoặc (4-5-6) hoặc (5-6-7) hoặc (6-7-8) hoặc (7-8-9) hoặc (8-9-1)

Tam ban xảo quái

Tam ban xảo quái là trong mổi cung đều xuất hiện một trong các bộ số tam ban (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9)

Cũng gần giống như các cuộc thiên tâm thập đạo. Các cuộc Tam ban quái liên châu và Tam ban xảo quái tuy có thể phạm vào cuộc “thướng sơn há thuỷ”, nhưng chỉ cần một cung hướng vượng và một cung sơn vượng thì toàn bàn đều vượng (dĩ nhiên vẫn cần có cửa để thu nhận khí ờ các cung vượng này). Còn nếu không được cung nào vượng thì thật là nguy hiểm, vì lúc đó khí bị cướp đi hết mà sinh ra tai hoạ khó lường

Khi xem xét một căn nhà, trước hết ta coi về hình thế bên ngoài kết hợp với trạch bàn để biết sự vượng suy của sơn tinh và hướng tinh như thế nào. Nếu ở Hướng có hướng tinh là sao suy tử và sơn tinh và sao sinh vượng (trường hợp "thướng sơn há thuỷ") mà ở đây lại có núi, đồi, nhà cao hoặc cây cao thì đây là cách "thoát sát" mà vẫn luận là vượng. Hoặc trường hợp ở hướng có hướng tinh là sao sinh vượng khí mà ở đây lại trống thoáng, có đường đi thì cũng luận là vượng. Kế đến coi tới sự kết hợp giữa hai sao sơn tinh và hướng tinh ở hai cung toạ và hướng để luận những sự việc đã, đang và sẽ sảy ra trong nhà đó.

Ở cung hướng thì hướng tinh là chủ, sơn tinh là khách. ở cung toạ thì sơn tinh là chủ và hướng tinh là khách.

Xem xét về ngũ hành của hai sao sơn, hướng xem sự sinh khắc của chúng với nhau. Như nhà được vượng sơn vượng hướng và có loan đầu phù hợp, nhưng nếu xét về tương quan ngũ hành của hai sao sơn tinh, hướng tinh tại hai cung toạ và hướng là hung thì khi ở vận hiện tại còn ở tạm được, vì tuy tiền bạc và nhân đinh thuận lợi nhưng vẫn có những việc không hay sảy ra, đến khi qua vận kế thì tai hoạ sẻ đến dồn dập nhiều khi gia chủ trở tay không kịp. Trường hợp nhà được vượng sơn vượng hướng và có loan đầu phù hợp, nếu xét về tương quan ngũ hành của hai sao sơn tinh, hướng tinh tại hai cung toạ và hướng là cát thì khi qua vận kế bị suy sẽ đỡ hơn nhiều. Các trường hợp khác cứ thế mà suy

_ Tỵ hoà: hai sao cùng hành như nhất với nhất (thuỷ), nhị với nhị (thổ),... Luận là tốt

_ Sinh nhập : Khách sinh cho chủ. Luận tốt

Thí dụ: ở toạ có sơn- hướng là 6-8. Thổ sanh kim

_ Sinh xuất : chủ sinh cho khách. Luận xấu

Thí dụ: Hướng có 7-2. Thổ sanh kim

_ Khắc nhập : Chủ khắc khách. Luận tốt

Thí dụ: Hướng có 3-8. Thổ khắc mộc.

_ Khắc xuất : Khách khắc chủ. Luận xấu

Thí dụ: Hướng có 2-4. Thổ khắc mộc

Sự luận tốt xấu này còn dựa vào nhiều yếu tố như hình thế bên ngoài và bố trí bên trong..., người luận đoán cần có nhiều kinh nghiệm thì mới có thể luận đoán chính xác được

Phụ mẫu tam ban quái

Khi các hướng tinh thuộc bộ số tam ban: (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9) phân bổ vào các cung lần lượt là LY-CHẤN- CÀN và KHẢM –ĐOÀI-TỐN kết hợp với cặp song tinh là vượng tinh ở đầu hướng thì đây là phép thất tinh đả kiếp hoặc Phụ mẫu tam ban quái

Điều cần biết là vị trí của các số trong mỗi nhóm cung định chiều quay của khí trong nhóm này, chẳng hạn như các sao Hướng của nhóm Khảm là Đoài, Khảm và Tốn có số hướng tinh xắp theo thứ tự là (1,4, 7) cho biết chiều quay của khí trong nhóm này là theo chiều kim đồng hồ. Chiều quay của khí trong nhóm Ly phải theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Hai chiều khí này phải ngược với nhau để có thể được coi là đồng liệt. Như vậy trường hợp trên đây được coi như có 2 bộ số tam ban .

_ Song tinh đáo hướng ở một trong các cung: LY-CHẤN-CÀN thì đây là LY cung đả kiếp (phép đả kiếp thật)

_ Song tinh đáo hướng ở một trong các cung: KHẢM-ĐOÀI-TỐN thì đây là KHẢM cung giả kiếp (phép đả kiếp giả)

Sau đây là một vài loại Thất Tinh Đả Kiếp khác:

• Các sao Tọa và Hướng của các cung tọa và hướng hợp thành 2 cặp số của Thất Tinh Đả cuộc hợp thành quẻ Tam ban tức là Vận, Tọa và Hướng của mổi cung hợp nhau lại thành Tam ban quái. Trường hợp này không cần điều kiện song tinh đáo hướng. Thí dụ: Vận 2, sơn Cấn hướng Khôn.

• Các sao Tọa và Hướng của mổi cặp cung tọa và hướng có các số cung hợp với nhau thành

một cặp số sinh thành của Hà đồ như là (1, 6), (2, 7), (3, 8) và (4, 9). Cả 4 sao của các cặp cung này hợp lại thành 2 cặp số Thất Tinh Đả Kiếp như thí dụ trên.

• Cả 4 sao Tọa và hướng của mổi cặp cung đối xứng nhau qua Trung-cung hợp nhau thành 2 cặp số Thất Tinh Đả Kiếp.

Ngoài ra còn có trường hợp Toàn bàn Thất Tinh Đả Kiếp mà người ta còn gọi là Tam-Ban Xảo quái (đã khảo sát ở phần trên).

Điều quan trọng cần chú ý là các phép MƯỢN KHÍ làm khí trong nhà được đưa lên rất cao nên có thể đưa tất cả các điều tốt xấu lên cao độ khiến cho rất thịnh vượng hoặc rất suy bại tùy theo tình trạng phong-thủy tốt xấu. Như vậy, khi Ngũ-hành của sao và cung kỵ nhau, kỵ thủy và kỵ sơn, ta vẫn phải tìm cách giải cho thỏa đáng để triệt tiêu cho bằng hết tất cả chuyện xấu.

Trong phép THẤT TINH ĐẢ KIẾP thì những điều kiện sau đây cũng cần có:

1)_ Hướng tinh hoặc sơn tinh là sinh vượng khí cần được đắc cách

2)_ Ngũ-hành trong các cung đều phải sửa đổi cho tốt.

3)_ Kỵ Sơn và thủy cũng cần phải giải quyết cho thỏa đáng ở các nơi cần thiết.

4)_ Hình thế bên ngoài phải không kỵ hay được an bày để không kỵ.

5)_ Cung Càn là Thiên-môn, cung Tốn là Ðịa-hộ là 2 cung quan trọng trong phép đả kiếp. Do đó về hình thế bên ngoài nhà: Đối với LY cung đả kiếp thì cung CÀN cần có thuỷ. Đối với KHẢM cung giả kiếp thì cung TỐN cần có thuỷ để thu nhận và làm thông khí.

6) Không bị Tù tức là vượng tinh của hướng không được nằm trong Trung-cung (trường hợp tam ban xảo quái và các trường hợp khác)

Hậu quả có thể vô cùng tai hại nếu các điều kiện trên không đuợc toàn chỉnh.

sau đây là bảng tổng hợp Thất Tinh đả kiếp Trong các vận. Trường hợp bị phản, phục ngâm nếu giải được thì vẫn có thể dùng, tuy nhiên qua vận kế thì lúc đó trở lên rất nguy hiểm nên phải cẩn thận.

Nguồn:nhantrachoc.net.vn

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài này còn rất dài và có hình dẫn chứng nhưng tiếc rằng không biết làm cách nào để post lên diễn đàn được. Mong mọi người thông cảm.

Lê Bá Trung

Share this post


Link to post
Share on other sites