Posted 9 Tháng 8, 2016 GÓP PHẦN GIẢI MÃ DI CẢO CỦA SỬ GIA TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG Tác giả: Hà Văn Thùy Không biết có phải vì tôi ba lần “thưa chuyện” với ông mà trong Di cảo, sử gia họ Tạ cũng ba lần nhắc tới tôi. Thực lòng, khi thưa chuyện với ông, tôi chỉ muốn cung cấp những phát hiện lịch sử mới để mong rằng với danh tiếng của mình, ông giúp bạn đọc nhìn nhận lại lịch sử. Thật buồn, do “không có duyên” nên trong Di cảo, ông vẫn băn khoăn trăn trở đẩy những cánh cửa… mở. Nay ông đã thành người thiên cổ. Mọi chuyện luận bàn với ông là vô nghĩa, nhưng thể theo lời đề nghị chí tình của Diễn Đàn Thế Kỷ*, tôi xin mạo muội góp phần giải mã những “u ẩn” của người đã khuất. Có thể dẫn ra những “u ẩn”nổi cộm trong Di cảo như sau: 1. Về Hồng Bàng thị truyện. Tài liệu truyền thống cho rằng, truyện họ Hồng Bàng vốn được lưu truyền từ xa xưa trong ký ức người Việt. Tới đời Trần được ghi lại trong Lĩnh Nam chích quái. Nhưng L. Kelley dựa vào việc những biến thể của câu chuyện có mặt trên đất Trung Hoa như Liễu Nghị truyện hay trong Hoa Dương Quốc chí nên cho rằng, vào thời Trung đại, những trí thức người Việt được Hán hóa đã sao chép câu chuyện đó vào LNCQ để tô vẽ cội nguồn dân tộc Việt. Ông Tạ Chí Đại Trường ủng hộ quan điểm này. Tuy nhiên, có thể thấy, khi làm việc đó, Kelley đã thực hiện một thao tác suy luận theo logic hình thức đơn giản, chỉ dựa trên sách vở mà bỏ qua sự thực lịch sử. Ông không biết rằng, trong quá khứ, dân cư từ Nam Dương Tử xuống tới Việt Nam đều là người Việt, cùng một chủng tộc, cùng tiếng nói, văn hóa, cùng chung một lịch sử. Từ năm 1936, khảo cổ học Trung Quốc phát hiện di chỉ văn hóa Lương Chử vùng Thái Hồ.[1] Sau nhiều năm khảo cứu, đã kết luận, có một nhà nước cổ đại tồn tại từ 3.300 – 2.200 năm TCN, mà kinh đô là Lương Chử, còn ranh giới gần khớp với địa giới nước Xích Quỷ truyền thuyết. Chủ nhân nhà nước này là người Việt cổ. Những vật khắc bằng ngọc cho thấy, dân cư Lương Chử được gọi là Vũ nhân (羽人)hay Vũ dân (羽民). Điều này cho thấy có mối liên hệ với chim, với Hồng Bàng (洪龐).Khám phá trên cho ta lý do để kết nối nhà nước Lương Chử với nhà nước Xích Quỷ huyền thoại. Như vậy, Xích Quỷ là một thực thể quốc gia từng tồn tại. Câu chuyện Lạc Long Quân lấy tiên nữ con Động Đình Quân đã trở thành truyền thuyết mang ý nghĩa cội nguồn của người dân trong nước. Khi Xích Quỷ tan rã, dân cư sống trên đất cũ Chiết Giang, Vân Nam và Việt Nam vẫn giữ truyền thuyết Hồng Bàng thị như dấu ấn của nguồn cội. Về sau, truyện dân gian được ghi vào sách. Do không hiểu quá trình lịch sử này, L. Kelley chỉ căn cứ vào biên giới quốc gia hiện tại mà chia tách người Việt Nam và người Trung Quốc trong quá khứ một cách khiên cưỡng. Sai lầm của Kelley thuộc về trình độ học thuật. Tiếc là sử gia họ Tạ hiểu lịch sử dân tộc không khác gì người ngoài! [2] 2. Trong Di cảo, ông Tạ Chí Đại Trường dành nhiều câu chữ phủ định Hùng vương và thời kỳ Hùng vương trong lịch sử. Muốn biết tổ tiên người Việt là ai cần phải biết quá trình hình thành của người Việt trong lịch sử. Khảo cổ học cho thấy, suốt thời đồ đá, dân cư trên đất nước ta thuộc chủng Australoid. Nhưng sang thời kỳ kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở nên chủ thể của dân cư Việt Nam. Tại nhiều di chỉ thời Phùng Nguyên phát hiện di cốt của người Australoid lẫn người Mongoloid. Đặc biệt tại di chỉ Mán Bạc tỉnh Ninh Bình có tuổi 2000 năm TCN, tìm được nghĩa địa chôn chung 30 di hài của hai chủng người này. Các nhà khảo cổ Việt-Úc đưa ra kết luận: “Trên đất Việt Nam có quá trình chuyển hóa dân cư từ người Australoid sang chủng Mongoloid phương Nam và được hoàn thành khoảng 2000 năm TCN.” Phát hiện này cho thấy, có việc người Mongoloid từ nơi khác tới, chung sống lâu dài, đã chuyển hóa di truyền của người Việt từ Australoid sang Mongoloid phương Nam. Như vậy, đây là việc “diễn biến hòa bình” mà không phải là “xâm lăng diệt chủng” như người Arian thực hiện ở Ấn Độ 2000 năm TCN. Câu hỏi thứ hai: người Mongoloid từ đâu tới? Do suốt thời đồ đá, ở Đông Nam Á có duy nhất người Australoid sinh sống nên người Mongoloid phương Nam chỉ có thể từ phương Bắc xuống. Khảo cổ học xác nhận, người Mongoloid phương Nam xuất hiện đầu tiên tại văn hóa Ngưỡng Thiều 7.000 năm trước. Đó là sản phẩm hòa huyết giữa người du mục Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid) và người Việt chủng Australoid ở Nam Hoàng Hà. Người Ngưỡng Thiều tăng nhân số, trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà, là chủ nhân của đồng bằng Trong Nguồn và vùng Thái Sơn. Khoảng 4.000 năm TCN, tại đây xuất hiện các vị vua huyền thoại của người Việt là Phục Hy, Nữ Oa. Khoảng 3.300 năm TCN, nhà nước của Thần Nông ra đời mà kinh đô tại Lương Chử vùng Thái Hồ. Khoảng năm 2879 TCN, kế tục quốc thống của Thần Nông, nhà nước Xích Quỷ ra đời. Thời gian này người Mông Cổ du mục tăng cường đánh phá phía nam Hoàng Hà. Trong trận Trác Lộc năm 2698 TCN, liên quân Việt của Lạc Long Quân và Đế Lai thất bại. Lạc Long Quân dùng thuyền đưa đoàn quân dân vùng Núi Thái-Trong Nguồn xuôi Hoàng Hà, ra biển, đổ bộ vào Nghệ An. Như truyền thuyết và Ngọc phả Hùng vương ghi nhận, đoàn người của Lạc long Quân được người bản địa đón tiếp và tôn Hùng vương làm vua nước Văn Lang. Trong tiếng Việt cổ, bố -> bua -> vua cùng có nghĩa là cha. Khi người dân tôn Hùng vương làm vua cũng có nghĩa coi ngài là cha rồi thành tổ chung của cộng đồng. Cố nhiên, không phải vua Hùng sinh ra tất cả mà những người Mongoloid di cư trở về lai với người tại chỗ sinh ra người Mongoloid trên đất Nghệ An. Không chỉ vậy, những đợt di cư tiếp theo, người Mongoloid phương Nam từ Núi Thái- Trong Nguồn, từ vùng Động Đình Hồ trở về hòa huyết với dân nhiều nơi khác, tiếp tục sinh ra người Mongoloid phương Nam. Cho tới khoảng 2000 năm TCN, toàn bộ dân cư Việt Nam thành chủng Mongoloid phương Nam. Tất cả đều coi người di cư về đầu tiên Lạc Long Quân và Hùng vương là quốc tổ. Do vậy, không chỉ người Kinh mà tất cả các tộc người trên đất Việt Nam mang mã di truyền Mongoloid phương Nam đều là con cháu vua Hùng. Cùng nhận được nguồn gen Mongoloid từ con cháu vua Hùng thì việc người Tây Nguyên, người Khmer Nam Bộ thờ vua Hùng có gì là trái lẽ? [2] Nếu ai để ý, sẽ thấy hiện tượng là, trong cổ tích về cội nguồn của các sắc dân thiểu số phía Bắc như người Dao, Mường… đều cho rằng, người Kinh là con út. Trong khi đó, cổ tích nhiều sắc dân Tây Nguyên lại gọi người Kinh là anh cả. Phải chăng điều này phản ánh thực tế phát sinh dòng giống từ xa xưa đã in sâu trong ký ức cộng đồng? 3. Chuyện “người Việt vào Trung Hoa trước” Không hiểu vì sao, cho đến nay ông Tạ Chí Đại Trường vẫn căng thẳng với cụ Kim Định về ý tưởng “người Việt vào Trung Hoa trước”? Nói cho cùng, đó đâu phải là hư cấu của Kim Định? Chính là ông dựa vào sách của hai học giả Trung Quốc Vương Đồng Linh và Chu Cốc Thành. Không những thế, cho tới năm 1924, trong một bài giảng cho đảng viên cao cấp của Quốc dân đảng, Tôn Dật Tiên cũng cho rằng, khi người Trung Quốc từ phía Tây xâm nhập, họ đã gặp những người man di ở đây rồi. Không chỉ vậy, tới năm 2005, học giả Trung Quốc Zhou Jixu cũng cho rằng, khi người Trung Quốc Indo-Europian từ phía Tây vào thì họ là khách, chiếm vị trí người chủ đã sống ở đó từ trước. Đấy là chuyện sách vở. Nhưng sự thực lịch sử còn đẹp hơn mong ước của Kim Định: đúng là người Việt vào Trung Quốc trước nhưng không phải từ Nam Thiên Sơn xuống mà lại từ Việt Nam lên. Do vậy, thuyết Việt nho của Kim Định càng có cơ sở vững chắc. [3] 4. Về chuyện “người Lê Mường”, “Trịnh Lào” Trong Di cảo, ông Tạ cho rằng, khi nhấn mạnh vai trò nam tiến của người Việt, người cộng sản bỏ qua vai trò của 53 cộng đồng khác! Có một thực tế: Sử học là khoa học nghiên cứu hoạt động xã hội của con người trong quá khứ. Do vậy, điều tiên quyết cho thành công của Sử học là phải xác định được đối tượng nghiên cứu. Nếu không xác định đúng đối tượng nghiên cứu: một tập đoàn người, một chủng tộc, một quốc gia đang nghiên cứu là ai, có nguồn gốc thế nào và có quá trình hình thành ra sao, mọi nghiên cứu cầm chắc thất bại. Nhưng đó lại là công việc của Nhân học. Sử học là cái nghề ăn theo bén gót Nhân học. Thật không may, Nhân học thế kỷ XX chỉ dựa vào những hòn đá, những mẩu xương hóa thạch nên thất bại trong việc khảo cứu nguồn gốc loài người cũng như các tộc người. Do vậy, suốt thế kỷ trước, các sử gia luôn nói về người Việt, người Hoa, người Mường, người Lào, người Thái… nhưng thực sự chẳng hiểu họ là ai nên hầu hết chỉ là nói mò! Jared Diamond, nhà nhân học danh tiếng nước Mỹ có câu nói đáng suy ngẫm: “Giờ không còn là lúc chơi với những mẩu xương và những hòn đá nữa. Những gì thuộc về con người mà chưa được di truyền học xác nhận thì không đáng tin.” Chỉ sang kỷ nguyên mới, khi công nghệ di truyền vào cuộc, ta mới có hiểu biết minh xác về các chủng người. Tuy Việt Nam chưa bỏ đồng xu nhỏ cho việc này nhưng do đất Việt là nơi phát tích của dân cư châu Á nên nhiều nghiên cứu di truyền học đề cập tới dân cư Việt Nam. Những tài liệu đó cho thấy rằng, 2000 năm TCN, toàn bộ dân cư trên đất Việt Nam đều thuộc chủng (race) Mongoloid phương Nam. Người Kinh, người Mường, người Thái, Người Tày, người Dao… chỉ là những sắc tộc (ethnicity) của dân tộc Việt Nam. Cho đến nay chúng ta vẫn lầm khi cho rằng, đồng bằng sông Hồng là nơi phát tích của dân tộc Việt Nam. Sự thực là, muộn nhất thì 50.000 năm trước, tổ tiên chúng ta đã định cư tại vùng Thanh Nghệ rồi lan ra toàn Đông Dương và đất Trung Hoa. Khoảng 500 năm TCN, khi đồng bằng sông Hồng hình thành, người Việt từ phía bắc Đông Dương và Nam Dương Tử kéo về khai phá đất mới. Do cùng nòi giống, tiếng nói và văn hoá nên con người sống với nhau hòa hợp. Nhờ điều kiện môi trường sống thuận lợi, cộng đồng dân cư đồng bằng ra đời, được gọi là người Kinh. Như vậy, người Kinh là lứa con út của dân tộc Việt. Người Việt vốn do người Lạc Việt đa số lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ nên tiếng nói chung là đa âm, vô thanh. Do người Việt từ Trung Quốc trở về như người Thái, Tày, người Hẹ (Hakka) mang theo tiếng nói đơn âm, hữu thanh nên người đồng bằng dần dần chuyển sang tiếng nói đơn âm hữu thanh. Cũng do suốt quá trình lịch sử dài, người từ Nam Dương Tử trở xuống thuộc cùng chủng tộc, cùng văn hóa, cùng quốc gia nên việc di chuyển của con người trong một nước là chuyện bình thường. Vì vậy, dòng chuyển dịch của người Việt từ phía bắc về diễn ra lâu dài. Sau này, dù quốc gia chia ranh giới nhưng máu huyết và văn hóa giữa con người không dễ phân lìa. Người Việt từ Trung Quốc như tổ tiên của Lý Bôn, thân phụ Đinh Bộ Lĩnh, nhà Lý, nhà Trần… trở về sinh sống, xây dựng đất Việt- mảnh đất cuối cùng còn tự chủ của tộc Việt- là xu hướng tất yếu của tâm linh và lịch sử…[4] 5. Ai là chủ của thơ lục bát? Dẫn việc nhà văn Võ Phiến “buột miệng” nói rằng, thơ lục bát là của người Chăm, ông Tạ khơi ra cuộc tranh chấp “bản quyền” thơ lục bát giữa người Chăm và người Kinh. Thực ra, không chỉ ở người Chăm mà trong nhiều câu ca của người Mường, người Dao cũng có bóng dáng của thơ lục bát. Vấn đề này cần được tìm hiểu sâu hơn. Ta biết rằng, người Việt từ xa xưa có thói quen hay hát, múa: hát Ghẹo, hát Xoan, hát Đối, hát Đúm… Ngoài âm nhạc cho mỗi loại hình ca hát mà chủ đạo là nhịp tương đối cố định thì lời bài hát lại rất thay đổi, linh động tùy theo hoàn cảnh. Vì vậy, sáng tạo lời cho bài hát là cuộc đua trường kỳ giữa trai tài gái sắc trong lễ hội hay những cuộc vui. Từ kinh nghiệm hàng nghìn năm của cuộc đua này, người Việt nhận ra, những bài vè lần lượt 6 tiếng rồi 8 tiếng nối nhau theo vần chân hay vần lưng rất dễ chuyển thành những bài hát theo các điệu khác nhau. Do vậy, dần dần thể vè 6-8 ra đời. Cố nhiên thời đó ngôn ngữ đa âm, vô thanh nên số tiếng trong mỗi câu ca không cố định, thường nhiều hơn 6-8. Những bài vè như vậy trở thành tài sản chung của cộng đồng Lạc Việt. Bài ca lục bát được ghi lại sớm nhất là Việt nhân ca trong sách Thuyết uyển 2800 năm trước. Đó là bài ca của người người Việt chèo thuyền cho vị quân vương nước Sở. Cảm vì lời ca hay nhưng mình không hiểu, vị quân vương yêu cầu dịch sang tiếng Sở. Nhờ vậy bài ca được ghi lại bằng chữ Sở. Sau này được sao lại bằng chữ Hán trong sách Thuyết uyển. Hơn 2000 năm qua đi, bài ca thở thành quốc bảo của Trung Hoa nhưng không ai hiểu đúng nghĩa của nó. Chỉ mới đây, nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thành phục nguyên bài ca trở lại tiếng Việt thì phát hiện ra đó là bài thơ lục bát. [5] Điều này chứng tỏ, thơ lục bát là tài sản chung của các bộ tộc người Việt từ xa xưa. Đến nay một số sắc dân vẫn giữ được hình thức thơ này nhưng thể hiện bằng ngôn ngữ đa âm của mình. Trong khi đó, nơi người Kinh, do tiếng nói được đơn âm hóa triệt để cùng với thanh điệu phong phú, nói như hát nên người Kinh sáng tạo được những câu ca lục bát có vần điệu tuyệt vời mà đỉnh cao là Truyện Kiều. . Sài Gòn, 28.5.2016 *www.diendantheky.net/.../di-cao-cua-nha-su-hoc-ta-chi-ai-truong.html Tài liệu tham khảo1. Hà Văn Thùy. Di chỉ văn hoá Lương Chử Là kinh đô nước Xích Quỷ - www.vanhoahoc.vn2. Hà Văn Thùy. Tôi khẳng định Kinh Dương vương là thủy tổ người Việt Namhttp://trannhuong.ne...i-viet-nam.vhtm3. Hà Văn Thùy. XỨ NGHỆ NƠI PHÁT TÍCH CỦA NGƯỜI VIỆT HIỆN ĐẠI thuyhavan.blogspot.com/.../xu-nghe-noi-phat-tich-cua-nguoi-viet.html4. Hà Văn Thùy. Thêm một lần buộc phải tranh biện với GS L. Kelley - ChúngTa.com www.chungta.com › Tư liệu nguồn & tra cứu5. Hà Văn Thùy. TRUY TÌM GỐC TÍCH NGƯỜI KINHthuyhavan.blogspot.com/2016/01/truy-tim-goc-tich-nguoi-kinh.html 6. Đỗ Ngọc Thành. PHÁT HIỆN LẠI VỀ VIỆT NHÂN CA (越人歌) - Việt Văn Mới Newvietart newvietart.com/index4.606.html Tôi ghi chú: Nếu chúng ta không nhận biết và phân tích một cách logic và cần phải nhấn mạnh ở đây - đó là chứng cứ vật chất được khám phá (thấu hiểu chúng tức những gửi gắm về mặt tư tưởng, triết học, sử học, tâm lý tình cảm...) - nó có thể làm đảo ngược hoàn toàn 100% kết luận của chúng ta trong thời đại ngày nay (tức kết luật của chúng ta sai hoàn toàn), do vậy thực sự phải có đầy đủ dữ liệu liên quan đến mọi mặt kinh tế, văn hóa... trong tiến trình lịch sử, ít nhất là 5.000 năm -> nếu không thì sẽ bị tẩu hỏa nhập ma trong phần kết luật về bất cứ một sự kiện nào liên quan đến nước Văn Lang hay trước đó như Xích Quỷ chẳng hạn, cũng như sau này là nước Âu Lạc thời An Dương Vương hay thời Trưng Vương nữa... Do vậy, những vấn đề cần xác định như dưới đây: - Cấu trúc quốc gia theo dòng chảy lịch sử được xác định: Quốc gia thời Đế Minh và trước đó? -> Xích Quỷ -> Văn Lang ->Âu Lạc -> Nam Việt -> Hậu Âu Lạc thời Trưng Vương (tạm gọi vậy đã). - Tại thời Đế Minh có một sự kiện cực kỳ quan trọng là chia đôi nước, ranh giới đôi bên là sông Dương Tử, chi tiết chỉ rất rõ trong truyện Hồng Bàng Thị của Lĩnh Nam Chích Quái, tất nhiên còn có thần tích, gia phả, ngọc phả bí ẩn khác nữa... Đặc biệt, sự kiện Đế Lai chu du Nam Dương Tử là cần phải thấu hiểu chi tiết này của tác giả khi viết về Hồng Bàng Thị... - Huyền thoại và truyền thuyết về tổ tiên dân tộc Trung Hoa là Thần Nông và Hoàng Đế, giai đoạn Hoàng Đế thay dòng Thần Nông trị vì và có trận chiến khốc liệt với bộ tộc có thủ lĩnh Suy Vưu tại di chỉ Trác Lộc thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc ngày nay, vậy nó có liên quan đến truyện Hồng Bàng thị hay không? Rất quan trọng! - Về mặt thời gian và không gian lịch sử được định vị tại mốc Âm lịch tối quan trọng: năm lên ngôi của Kinh Dương Vương 2879 TCN, năm Ngài bao nhiêu tuổi phải tra cứu lại thần phả, ngọc phổ... - Nội dung cuốn sách Nguồn gốc người Việt người Mường của tác giả Tạ Đức là rất quan trọng, nếu chúng ta không thấy được mối quan hệ lịch sử về mặt huyền thoại và cổ vật Bắc - Nam Dương Tử là không bao giờ tìm ra mắt xích kể từ thời Hạ Vũ trở về trước, khi mà vua Hạ Vũ người tỉnh Chiết Giang, Nam Dương Tử, thuộc bộ Ư Việt của Văn Lang lại đi làm vua Bắc Dương Tử, được truyền ngôi từ Đế Thuấn - người Đông Di tức vùng Sơn Đông hay các tỉnh thuộc phương này, có thể cả Triều Tiên hay Nhật Bản nữa? Thời kỳ Hạ Vũ sử gọi là nhà Hạ (hè, phương nam). - Mắt xích lịch sử thời vua Hạ Vũ sẽ kéo theo dòng chảy lịch sử Nghiêu, Thuấn và trước đó của Bắc Dương Tử -> Điều này sẽ định vị được kinh đô Nghiêu - Thuấn - Vũ và sẽ chỉ ra kinh đô Văn Lang? - Đến đây, vậy quan hệ cổ vật thời Hạ Vũ - tức Lương Chử tại bộ Ư Việt với các bộ khác của Văn Lang là như thế nào? Điều này sẽ dẫn đến Cửu Trù Hồng Phạm... -> dẫn đến biểu tượng Văn Lang trước trống đồng Đông Sơn! - Tiếp tục xử lý bang giao thời vua Nghiêu, thời Thương với chiến tranh thời Hùng Vương VI và bang giao thời Chu - hiến trĩ trắng... -... Chẳng hạn chi tiết sử được nhận định sai là: Làm sao mà Lạc Long Quân lại từ núi Thái thuộc Bắc Dương Tử lại di chuyển về Nghệ An được? Một chi tiết sai thỉ dẫn đến hàng loạt các nhận định khác cũng sẽ sai lệch lớn. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 8, 2016 Phát hiện chấn động về người Việt cổ cách nay 80 vạn năm ở Gia Lai Thứ hai, 11/04/2016 - 21:29 Dân trí Sáng nay (11/4), Viện Khảo cổ, Viện Hàn Lâm Khao học Xã hội Việt Nam đã công bố kết quả sơ bộ những phát hiện về sự xuất hiện của người Việt cổ tại thị xã An Khê, Gia Lai. Được triển khai từ tháng 6/2014, đoàn cán bộ của Viện Khảo cổ học cùng với Viện Khảo cổ học - Dân tộc học Novosibirsk, Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa Liên bang Nga, đã khảo sát và phát hiện trên 20 di tích, trong đó có 5 di tích thời đại Đá cũ ở thị xã An Khê, huyện Gia Lai.Tháng 11/2015, khi khai quật di tích Gò Đá (phường An Bình, thị xã An Khê), các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 58 hiện vật đá gồm: 9 công cụ mũi nhọn, 5 công cụ chặt kiểu chopper, 9 nạo, 2 hòn ghè, 6 công cụ mảnh tước, 3 công cụ hạch không địa hình, 12 mảnh tước, 12 hạch đá cùng với 21 mảnh hóa thạch (tectit) phân bố trong lớp văn hóa chứa công cụ đá, được cho là rơi từ vũ trụ xuống khi các tầng văn hóa đã và đang hình thành. Toàn cảnh buổi công bố kết quả khảo cổ học sơ kỷ thời đại Đá cũ ở Việt Nam. Ảnh: HTL. Ở cụm di tích Rộc Tưng (xã Xuân An, thị xã An Khê), đoàn khảo cổ đã khai quật 2 địa điểm gồm Rộc Tưng 1 (diện tích 48m2) và Rộc Tưng 4 (diện tích 20m2) cũng tìm thấy tổng cộng 123 hiện vật đá các loại cùng 127 mảnh tectit. Trong thời gian khai quật năm 2016, đoàn đã khảo sát một số di tích đã biết trước đây như Rộc Hương, Rộc Giáo, Rộc Lớn và Gò Đá; phát mới di tích Rộc Nếp (xã Cửu An) và phát hiện mới 2 rìu tay (handaxe) - điển hình cho rìu tay sơ kỳ Đá cũ thế giới. Đáng chú ý nhất là đã phát hiện 11 di tích Đá cũ sơ kỳ nằm xung quanh khu vực Rộc Tưng, chúng tập hợp thành một quần thể di tích tập trung trong thung lũng bồn địa xã Xuân An, thị xã An Khê. Cảnh các chuyên gia khai quật khảo cổ tại các điểm khảo sát di tích ở An Khê. Ảnh: HTL. Đánh giá bước đầu, các nhà khoa học cho rằng, các phát hiện di tích sơ kỳ Đá cũ ở An Khê là bằng chứng khẳng định thượng lưu sông Ba, vùng An Khê là địa bàn sinh sống của cộng đồng dân cư cổ cách đây khoảng trên dưới 80 vạn năm. Đây cũng tạm thời được xem như là mốc mở đầu cổ nhất hiện biết về sự xuất hiện của con người và di tồn văn hóa của họ trên lãnh thổ Việt Nam. Những phát hiện công cụ ghè hai mặt và rìu tay ở An Khê không chỉ bác bỏ quan điểm: “Ở phương Tây sớm xuất hiện rìu tay, thể hiện cho sự tiến bộ, năng động của con người; còn phương Đông bảo lưu lâu dài công cụ cuội ghè đẽo thô sơ dạng chopper, thể hiện cho khu vực bảo thủ, trì trệ, lạc hậu và hầu như không có đóng góp gì cho nhân loại” mà còn bổ sung tư liệu mới vào bản đồ phân bố sự xuất hiện và tiến hóa của loài người trên thế giới. PGS.TS Nguyễn Giang Hải - Viện trưởng Viện Khảo cổ học khẳng định, đây là niềm vui lớn của ngành khảo cổ học Việt Nam, có ý nghĩa không chỉ trong phạm vi quốc gia và còn là niềm tự hào của cả khu vực Đông Nam Á. Nó có ý nghĩa bản lề trong việc nhận thức về sự tồn tại về thời Đá cũ ở khu vực Đông Nam Á, bổ sung điểm trống mà rất nhiều năm qua các nhà khoa học chưa thể làm rõ. PGS.TS Nguyễn Giang Hải cũng cho biết, tháng 3/2017, Viện Khảo cổ học sẽ tiếp tục khai quật và mở rộng vùng nghiên cứu các di tích khảo cổ học sơ kỳ Đá cũ ở khu vực An Khê, Gia Lai. Ông cũng kiến nghị Bộ VH,TT&DL xem xét công nhận đặc cách di tích An Khê, Gia Lai là Di tích quốc gia đặc biệt. Các hiện vật bằng đá khai quật được trong cuộc khai quật ở An Khê. GS.TSKH Lưu Trần Tiêu cũng chia sẻ rằng, đây là phát hiện cực kỳ quan trọng. Đứng về mặt niên đại, đây là những hiện vật thời đại đồ Đá cũ mà chúng ta có thể tự hào. Tuy nhiên, theo GS.TSKH Lưu Trần Tiêu cần xem lại niên đại tuyệt đối bởi niên đại cụ thể mà chỉ dựa vào tectit là chưa chuẩn. “Cần phải đưa các nhà địa chất vào xác định địa tầng. Ngoài ra, cần phải xác định bằng các phương pháp khác. Rìu tay và các hiện vật đồ đá… cần căn cứ vào đó để tìm niên đại chính xác. Cần phải chờ thời gian để nghiên cứu tiếp. Nghiên cứu kỹ thuật rèn bằng cách phóng đại dưới kính hiển vi. Nên mời các chuyên gia địa chất vào cuộc vì trong nhiều cuộc địa chất tìm niên đại, địa tầng rất tốt”, GS.TSKH Lưu Trần Tiêu nhấn mạnh. Các hiện vật thu được chứng minh sự có mặt của người Việt cổ cách đây 80 vạn năm ở An Khê. Ảnh: HTL. TS Ngô Thế Phong - Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng rất xúc động khi nghe công bố những phát hiện về sự xuất hiện của người Việt cổ tại thị xã an Khê, Gia Lai. Ông chia sẻ rằng, bản thân hiện vật thời kỳ đồ Đá cũ còn lại rất ít và những gì chúng ta tìm được là cực quý. Và những hiện vật đồ Đá cũ đã phát hiện không thể nghi hoặc được nữa rồi bởi các nhà khảo cổ có kinh nghiệm cầm trong tay thì không thể nghi hoặc. Tuy nhiên, ông hơi tiếc là về mặt địa tầng, mới phát hiện được công cụ, chưa phát hiện được cổ nhân, cổ sinh. Nếu năm tới, khi mở rộng khai quật mà tìm thấy dấu vết cổ nhân và cổ sinh sẽ cực kỳ thuyết phục. Hà Tùng Long ======================== CĂN CỨ VÀO TIÊU CHÍ NÀO ĐỂ XÁC ĐỊNH DI SẢN CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ? Nguồn Fb Thiên Sứ Thông tin được chia sẻ dưới đây cho biết phát hiện về dụng cụ đồ đá ở thị xã An Khê, Gia Lai. Xem hết bài báo, tôi chưa thấy phát ngôn chính thức nào của một nhà khoa học xác định đây là di vật của người Việt cổ. Nhưng từ cái "tít' của bài báo cho đến một đoạn trong nội dung, cứ xưng xưng đó là của người Việt cổ có cách đây 800. 000 năm (Tám mươi vạn năm). Vấn đề được đặt ra:Họ căn cứ vào cái gì để xác định đó là của người Việt cổ? Mà không phải của một chủng tộc người khác đã từng đến đây, sống và tồn tại ở đây, rồi đã di chuyển, hoặc bị tiêu diệt từ cách đây tám mươi vạn năm trước? Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 8, 2016 Phát hiện chấn động về người Việt cổ cách nay 80 vạn năm ở Gia Lai Thứ hai, 11/04/2016 - 21:29 Dân trí Sáng nay (11/4), Viện Khảo cổ, Viện Hàn Lâm Khao học Xã hội Việt Nam đã công bố kết quả sơ bộ những phát hiện về sự xuất hiện của người Việt cổ tại thị xã An Khê, Gia Lai. Hà Tùng Long ======================== CĂN CỨ VÀO TIÊU CHÍ NÀO ĐỂ XÁC ĐỊNH DI SẢN CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ? Nguồn Fb Thiên Sứ Thông tin được chia sẻ dưới đây cho biết phát hiện về dụng cụ đồ đá ở thị xã An Khê, Gia Lai. Xem hết bài báo, tôi chưa thấy phát ngôn chính thức nào của một nhà khoa học xác định đây là di vật của người Việt cổ. Nhưng từ cái "tít' của bài báo cho đến một đoạn trong nội dung, cứ xưng xưng đó là của người Việt cổ có cách đây 800. 000 năm (Tám mươi vạn năm). Vấn đề được đặt ra: Họ căn cứ vào cái gì để xác định đó là của người Việt cổ? Mà không phải của một chủng tộc người khác đã từng đến đây, sống và tồn tại ở đây, rồi đã di chuyển, hoặc bị tiêu diệt từ cách đây tám mươi vạn năm trước? Có đúng là người Việt cổ? Với nhan đề “Người Việt cổ cách nay 80 vạn năm ở Gia Lai”, báo Dân Trí đã thu hút sự quan tâm của chúng tôi. Đọc bài báo, chúng tôi rất mừng với thành công của các nhà khảo cổ Nga-Việt về phát hiện khảo cổ này. Tuy nhiên, theo chúng tôi, phát hiện này là bình thường, không có gì gọi là “chấn động” vì nó thực sự không phải là đóng góp mới cho khảo cổ học thế giới. Bởi lẽ, như chúng ta đã biết, khoảng 2 triệu năm trước, người Đứng thẳng Homo erectus xuất hiện ở châu Phi. Họ đã có mặt ở Indonesia (người Java) 1,9 triệu năm trước, ở Trung Quốc 1,7 triệu năm trước (người Nguyên Mưu) và tại Chu Khẩu Điếm 600.000 năm trước (người Vượn Bắc Kinh). Tại Việt Nam, đã phát hiện răng hóa thạch và công cụ thuộc Trung kỳ Đồ Đá Cũ của người Đứng thẳng Homo erectus tại Núi Đọ với tuổi 300.000 năm cách nay. Khảo cổ học cũng xác nhận, khoảng 250.000 năm trước, người Homo erectus hoàn toàn biến mất khỏi châu Á. Phát hiện An Khê có ý nghĩa tô đậm thêm tấm bản đồ phân bố của người H. erectus ở châu Á. Nó cũng chứng minh dự đoán từ lâu của giới khảo cổ: trên đất Đông Dương cũng như Đông Nam Á có nhiều khả năng tìm được thêm vết tích người H. erectus vì nằm trên cầu nối từ hải đảo Đông Nam Á tới Trung Quốc. Từ khám phá An Khê, ta có thể hy vọng tìm được những di chỉ khác của H. erectus tại Tây Nguyên. Tuy vậy có điều chúng tôi phân vân: gọi chủ nhân của di chỉ An Khê là người Việt cổ liệu có thỏa đáng? Theo định nghĩa nhân chủng học, người Việt cổ chỉ có thể cùng loài Homo sapiens với chúng ta hiện nay. Trong khi đó, di truyền học học xác nhận, H. sapiens chỉ xuất hiện tại châu Phi khoảng 200.000 năm trước và di cư sang Việt Nam khoảng 70.000 năm cách nay. Mặt khác, do người Việt trải qua hai giai đoạn phát triển: giai đoạn đầu, thuộc loại hình Australoid tồn tại suốt thời Đồ Đá (khoảng 70.000 tới 45000 TCN), được nhân chủng học gọi là người Việt cổ. Giai đoạn sau (khoảng 4500 TCN tới nay) thuộc chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại [1]. Chủ nhân di chỉ An Khê do khác loài nên không thể gọi là người Việt! Do vậy, một cách khoa học, chỉ có thể gọi họ là người cổ An Khê hay người Đứng thẳng An Khê. Hà Văn Thùy 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites