Duy Tuấn

Mối Tương Quan Giữa Sự Thay Đổi Mực Nước Ngầm Cơ Sở Với Ung Thư- Theo Góc Nhìn Y Sinh Và Địa Chất

1 bài viết trong chủ đề này

Theo số liệu của WHO, mỗi ngày có hơn 140 triệu người ở Nam và Đông Nam Á uống nước ngầm bị ô nhiễm asen. Hàng ngàn người dân ở Bangladesh, Campuchia, Ấn Độ, Myanmar và Việt Nam chết vì ung thư mỗi năm từ việc tiếp xúc với thạch tín mãn tính. Các nhà khoa học xác định chính xác nguồn gốc của ô nhiễm là ở dãy núi Himalaya, nơi các trầm tích có chứa asen tự nhiên được vận chuyển xuống các lưu vực sông ở hạ lưu đông dân cư bên dưới.Thạch tín thay vì bị giữ lại trong đất gần sông, lại ngấm vào trong các mạch nước ngầm có độ sâu 30m(phần lớn dân lấy nước ở tầng này) là do vi khuẩn (arsenic- bacteria).

 

1. Xét thạch tín xảy ra do sự tương tác sinh vật với môi trường:

Thông thường, vi khuẩn sử dụng oxy để thở. Nhưng trong môi trường yếm khí, nó có thể sử dụng các hóa chất khác, bao gồm gỉ sắt và asen. Khi các vi khuẩn chuyển hóa sắt và asen, vi khuẩn chuyển đổi hợp chất đó thành một dạng dễ hòa tan trong nước. Như vậy, mức độ vi khuẩn chuyển hóa thạch tín nhiều hay ít là do môi trường sống của chúng ở điều kiện gì (thoáng khí hay kị khí) và các điều kiện này lại phụ thuộc vào đặc điểm lên xuống của mực nước ngầm và nước mặt.
Do đó, việc con người xây đập chắn nước, khoan giếng, đào ao, hay sử dụng nước ngầm quá nhiều đều gây ra sự thay đổi môi trường oxy hóa- khử dưới đất và điều này làm ảnh hưởng đột biến đến hàm lượng thạch tín trong nước ngầm.
Chính vì lý do trên, sau khi chế độ thủy văn bị thay đổi, khiến tập tính và mức độ tồn tại của vi khuẩn ăn asen thay đổi thì việc có một số ngôi làng, thị trấn có số dân bị ung thư tăng đột biến trong vài năm cũng là điều dễ hiểu (kết hợp với sử dụng hóa chất trong nông nghiệp, thức ănv.v.) và thuật ngữ dân gian có lẽ do quá hoảng sợ thì gọi là động long mạch chăng?

 

2. Xét trên quan điểm địa chất:

Trong quá trình tìm tòi và nghiên cứu về địa chấn địa tầng, phân tích đặc điểm địa chất môi trường của khu vực đồng bằng Sông Hồng, tôi có một số kết luận như sau về tình hình hoạt động của các yếu tố kim loại nặng, phóng xạ ở Hà Nội và vùng phụ cận:

Trong lịch sử địa chất của Hà Nội nói riêng và khu vực đồng bằng Sông Hồng nói chung đã trải qua nhiều giai đoạn biển tiến, biển thoái qua đó hình thành mặt cắt dọc thay đổi từ môi trường sông đến đầm lầy và cuối cùng là biển. Qua đó, có những chu kỳ hình thành các lớp đầm lầy nằm xen kẹp trong các lớp cát kết, sét kết nối chồng lên nhau. Trong môi trường đầm lầy, tập trung nhiều vật chất hữu cơ tồn tại trong môi trường khử, qua đó các nguồn vật chất trong đó có các kim loại nặng như thủy ngân, chì, thạch tín; các nguyên tố phóng xạ như uranium được các hệ thống sông, nước ngầm vận chuyển và được hấp phụ vào các tầng đất đầm lầy. Tại đó xảy ra quá trình phản ứng hóa học tạo phức chất bền vững trong môi trường khử và các tầng đầm lầy này được coi là tầng sinh  ra các nguyên tố phóng xạ, kim loại nặng. Khi các kim loại nặng, các nguyên tố phóng xạ ở trạng thái phức được hình thành, nó sẽ chui vào các lỗ hổng của các tầng cát kết tạo ra tầng chứa của các nguyên tố phóng xạ và kim loại nặng.

Untitled.jpg

Qua hình ảnh trên cho ta cái nhìn tổng thể về hành vi di chuyển của các nguyên tố phóng xạ, chúng được lắng đọng tại các tầng cát kết, khi có sự hoạt động khai thác nước ngầm của con người hoặc bất cứ quá trình nào làm thay đổi trái tự nhiên mực nước ngầm cơ sở, môi trường khử bị phá vỡ, oxy được đưa vào. Qua đó, nó sản sinh ra các nguyên tố phóng xạ, kim loại nặng ở trạng thái độc hơn với cơ thể con người. Sự di chuyển của các nguyên tố phóng xạ theo dòng nước chỉ tạo ra bức xạ không đáng kể do có hàm lượng ít; chúng chỉ thật sự gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến con người phụ thuộc vào các yếu tố sau:

+  Các nguồn nước ngầm bị ô nhiễm, hàm lượng vật chất hữu cơ cao gây phản ứng kết tủa các nguyên tố phóng xạ với hàm lượng cao gấp nghìn lần so với khi chúng được di chuyển trong nước ngầm, tạo ra những ổ phát tia bức xạ mạnh mẽ gây ra cac hiện tượng người ở trong các ngôi nhà này thường ốm đau bệnh tật triền miên, sức khoẻ suy sụp v.v.

+ Sự giao lưu của các mạch nước ngầm gây ra sự chuyển động đối lưu làm lắng đọng các nguyên tố phóng xạ có tỉ trọng lớn xuống dưới.

+ Các lỗ khoan khoan sâu và rộng, cắt qua nhiều tầng cát kết chứa nguyên tố phóng xạ.

+ Sự thay đổi về độ sâu mực nước ngầm so với lỗ khoan hút nước tạo ra môi trường oxy hóa khác nhau theo chu kỳ mùa khô, mùa mưa.

Qua đó cho chúng ta thấy rằng, môi trường hiện nay của chúng ta không phải là không có các chất phóng xạ và kim loại nặng có hại, mà chúng ở đầy rẫy xung quanh chúng ta, do chúng ta mà trở nên ngày càng được sản sinh ra ở các trạng thái độc hơn với con người và do đó gây tác hại vô cùng lớn. Ngay từ bây giờ, việc kiểm soát tài nguyên nước, tôn trọng hơn các quy luật vận hành của nước trong tự nhiên lại là cách giúp cho sức khỏe của giống nòi được cải thiện.

Theo Thạc sĩ Địa chất Nguyễn Duy Tuấn- PGĐ Trung tâm Ứng dụng Công nghệ Địa Y Học- diayhoc.com

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay