Thiên Sứ

Dựng Tượng Vua Hùng: Đừng Để Hao Hao Giống Vua Trung Quốc

2 bài viết trong chủ đề này

Dựng tượng Vua Hùng:
Đừng để hao hao giống vua Trung Quốc

(Tin tức thời sự) - Cần phải tổ chức một công trình nghiên cứu cấp quốc gia để nghiên cứu kỹ càng các cứ liệu lịch sử, khi đó mới dựng tượng Vua Hùng. 

GS Hoàng Chương – Giám đốc Trung tâm bảo tồn nghiên cứu văn hóa dân tộc tỏ ra bối rối khi được hỏi về 3 mẫu phác thảo dựng tượng Vua Hùng đang lấy ý kiến của dư luận.

Giám đốc Trung tâm bảo tồn nghiên cứu văn hóa dân tộc cho biết, Vua Hùng là một nhân vật, một vị vua chỉ tồn tại trong trí tưởng tưởng của người dân mà không có được một hình mẫu nào cụ thể, vì vậy dựng tượng Vua Hùng là rất khó.

 

dung-tuong-vua-hung-chua-du-cu-lieu-khon

Phác thảo tượng Vua Hùng tại Phú Thọ

 

“Tượng Vua Hùng được dựng tại Thác Đa từ cách đây 10 năm, cũng chỉ là dựa trên trí tưởng tượng, không một nhà điêu khắc nghệ thuật nào giám khẳng định đó chính là Vua Hùng”, ông nói.

Theo ông, ngay cả với những nhân vật lịch sử ở gần thời đại chúng ta hơn, có nhiều sử liệu và hình ảnh mà chúng ta vẫn chưa thể làm tốt như các vị vua thời Trần, thời Lý, thời Lê… Trong khi, Vua Hùng chỉ là nhân vật huyền thoại.

Vị chuyên gia thẳng thắn cho biết, đây sẽ là thách thức rất lớn với những người làm văn hóa, nghệ thuật, điêu khắc của VN. Tượng Vua Tổ không thể giống với tượng các nhân vật lịch sử khác, không thể xây lên rồi lại đập đi vì không đúng, không được người dân chấp nhận, như vậy là lãng phí, đồng thời còn gây ảnh hưởng về mặt chính trị.

Ông đã nghe nhiều ý kiến nói, tượng đài Lý Thái Tổ hiện nay lại hao hao giống Khổng Minh – Quan công của Lưu Bị nhiều hơn. Rồi chiếc mũ ông đội lại giống vời đời Hán chứ không phải đời Lý. Biết là sai đó nhưng đã đựng tượng lên rồi thì không thể sửa được nữa.

 

Hay Vua Quang Trung, một vị vua nổi tiếng chống quân xâm lược của Việt Nam nhưng khi tạc tượng ông, nhiều người lại nói đó không phải là Quang Trung mà là hình tượng người đóng thế cho Vua Quang Trung. Tức là, dựng tượng dựa trên bức họa của Vua Càn Long vẽ khi Quang Trung sang đi sứ nhưng thực tế đó không phải là Quang Trung mà là người đóng thế vua Quang Trung đi sứ.

Cuối cùng bức tượng đó phải bỏ và dựng lại theo mẫu phác họa dựa trên hình mẫu con người Quang Trung qua các giữ liệu sử sách ghi lại. Hiên nay chỉ có hai bức tượng vua Quang Trung rất lớn ở Gò Đống Đa và bảo tàng Vua Quang Trung (Bình Định) đã được người dân chấp nhận.

Theo ghi nhận, chỉ có tượng Trần Hưng Đạo ở Nam Định cũng tạm được coi là tạo mẫu thành công nhưng cho tới nay cũng đã có đến hàng chục phiên bản khác nhau trên cả nước.

''Vậy thì với Vua Hùng sẽ thế nào?'', ông đặt câu hỏi.

Để phác họa lên một chân dung, một hình tượng vị Vua Hùng vừa đảm bảo dấu mốc lịch sử, vừa thể hiện được vóc dáng, cốt cách, con người một vị Vua Tổ là vấn đề cực kỳ khó. Không thể tùy tiện muốn làm thế nào cũng được.

Ông cho biết, đến ngay việc xác định về trang phục thời kỳ đó thế nào? Là đóng khố hay là mặc quần áo, chất liệu ra sao… đều chưa có gì cụ thể. Hay Vua Hùng thời đó phải đội mũ thế nào? Có phải là mũ lông chim hay không? Tất cả còn quá mơ hồ, chưa có gì cụ thể.

Ngay cả khi muốn dựa vào tư liệu, sử sách để phác họa lên chân dung một ông Vua Tổ cũng vô cùng khó khăn. Theo ghi nhận, trang phục của những người nhảy múa được họa trên trống đồng có thể giúp các họa sĩ, nhà mỹ thuật hình dung ra một thời kỳ người dân chỉ biết mặc khố, đội mũ lông chim, đi chân đất...

Nhưng đó chỉ là phác họa về đời sống văn hóa của người dân thời kỳ đó không thể dựng lên một vị Vua Tổ lại mặc khố, nhưng cũng không thể dựng lên một Vua Hùng mặc áo bào, ông nói.

Ông cho rằng, nếu muốn dựng tượng Vua Hùng, VN có thể tham khảo thêm từ những văn hóa cổ từ Trung Quốc. Vì VN và Trung Quốc có hai nền văn hóa khá tương đồng về mặt thời gian và đều bị ảnh hưởng tới nhau rất nhiều.

Do đó, có thể tham khảo thêm về trang phục, hoặc dựa trên hình tượng các vị Vua cổ của Trung Quốc để phác thảo lên hình ảnh Vua Hùng. Ông Chương lưu ý, để chính xác hơn VN nên nghiên cứu thêm các dấu tích lịch sử, văn hóa cổ Trung Quốc tại bảo tàng Đài Loan.

Vị giám đốc đồng tình với quan điểm dựng tượng là cần thiết. Theo ông, ông tổ của dân tộc thì cần phải dựng để người dân chiêm ngưỡng, chiêm bái, tôn vinh trong ngày quốc giỗ là điều cần thiết. Nhưng ông khẳng định, phải cân nhắc rất kỹ, không thể lấy cái cớ vì không ai biết Vua Hùng là ai thì có thể tùy tiện tưởng tượng, tùy tiện vẽ lên một hình tượng na ná ông Vua Hùng.

Vì vậy, theo ông, cần phải tổ chức một công trình nghiên cứu cấp quốc gia để nghiên cứu kỹ càng các cứ liệu lịch sử, khi đó mới dựng tượng Vua Hùng. Một mình Phú Thọ không thể làm được.

Cá nhân ông cho biết, ông cũng từng tham gia dựng lại hình tượng các nhân vật Quang Trung và bà Trưng Trắc với vai trò là đạo diễn. Trên sân khấu, cái khó của ông là làm sao để người dân khi xem phải chấp nhận được đó là bà Trưng Trắc hay Vua Quang Trung dù không ai biết bà Trưng Chắc, Trưng Nhị hay Bà Triệu, Quang Trung là ai.

Ông lấy ví dụ như hình tượng bà Triệu, theo truyền thuyết dân gian và theo trí tưởng tượng của người dân bà Triệu phải là người phụ nữ có cặp tuyết lê dài một thước.

“Nhưng, khi đó bà Triệu còn trẻ, cặp tuyết lê không thể dài đến một thước được, như vậy làm sao bà đi đánh giặc.Tuy nhiên, qua trí tưởng tưởng của dân gian, người làm nghệ thuật phải hình dung ra một hình tượng bà Triệu với cặp tuyết lê săn chắc, căng đầy…”, ông nói.

Với hình tượng Vua Hùng, ông Chương cũng cho rằng tất cả chỉ là tưởng tượng, đó là cái khó với người thực hiện. Khẳng định, không thể vẽ lên một ông Vua Hùng giống chính xác với Vua Hùng, nhưng cần thiết phải dựa vào lịch sử, từ nền văn hóa, trang phục cho tới mũ mão… làm sao khi dựng lên bức tượng người dân, dư luận nhìn vào có thể hình dung ra đó là Vua Hùng, vị Vua Tổ của VN.

 

Ông cho biết thêm, ngay tại các nước trên thế giới như Ấn Độ, Hy Lạp họ vẫn dựng các vị thần như thần sấm, thần mưa… Các vị thần cũng chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của mỗi người, không có gì cụ thể, nhưng dựng tượng các vị thần để người dân nhìn vào có thể hình dung được đó là vị thần nào là rất khó.

Dựng tượng Vua Hùng: Đời nào, mặc gì, dáng dấp ra sao?

“Tôi vừa được đi xem bức tượng cổ cách đây cả mấy ngàn năm tại Bảo tàng Campuchia. Cho tới nay bức tượng đã bị hư hỏng nhiều, chỉ còn lại một phần thân và đầu của bức tượng nhưng người dân Campuchia vẫn chấp nhận đó là một trong các vị thống soái huyền thoại của nước họ. Dựng tượng Vua Hùng cũng vậy, VN cũng cần phải học hỏi kinh nghiệm, cần nhìn vào những hình tượng nước bạn để phục dựng lại”, ông nói.

Lấy ví dụ từ bài múa Chăm của tác giả, NSND Đặng Hùng, vị chuyên gia nhấn mạnh, tác giả không thể là người được tận mắt chứng kiến điệu múa này, càng không thể từng tham gia hay từng trực tiếp biểu diễn.

Sự thành công của tác giả là ông đã biết chắp nối, vẽ lên một điệu múa tuyệt đẹp dựa trên những di tích điêu khắc còn lưu dấu trên các đền tháp và hệ thống tượng cổ ở bảo tàng Chăm. Cho tới bây giờ điệu múa vẫn được chấp nhận đó là điệu múa cổ của Champa.

Ông khẳng định, một tác phẩm phải đảm bảo sự kỳ công về khoa học, phải nghiên cứu kỹ lưỡng không một ai có thể chấp nhận sự tùy tiện. Làm nghệ thuật mà tùy tiện, ăn xổi sẽ không bao giờ thành công, ông nhấn mạnh.

Lam Lam

=============================

 

Tạm thời đây là câu trả lời của tôi. Vì đang rất yếu trong người, nhưng tôi sẽ tìm tư liệu bổ sung thêm để làm phong phú bài viết này vào các bài viết tiếp theo.

Nếu những nhà nghiên cứu Việt Nam thực tâm tìm về cội nguồn dân tộc thì tôi sẵn sàng chỉ cho họ một chỗ để đến đó xem và tạc tượng vua Hùng. Còn nếu tiếp tục giữ quan điểm phủ nhận cội nguồn truyền thống của dân tộc "Ông cha ta ở trần đóng khố" và chỉ là "một liên minh bộ lạc" ....thì các người hãy tự thực hiện lấy. Cá nhân Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh luôn xác định rằng:

Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử và nền văn hiến Việt chính là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang tìm kiếm.

 

THỜI HÙNG VƯƠNG, TỔ TIÊN TA ĂN MẶC NHƯ THẾ NÀO?

Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Tuần Việt Nam (2009)


 

Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến, trải gần 5000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử.

 

LTS: Thời Hùng Vương, tổ tiên chúng ta ăn mặc thế nào đang là câu chuyện gây nhiều tranh cãi. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Có thể một vài thông tin trong bài cần được thảo luận thêm. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không phải quan điểm của Tuần Việt Nam.

 

Nhà Xuất Bản Giáo Dục đã cho phép in cuốn sách minh họa, hình ảnh tổ tiên ta vào thời An Dương Vương, ăn mặc như thời mông muội trong lịch sử nhân loại: Chung quanh người chỉ cuốn lá cọ. Mà vào thời đại tương đương, với thời gian lịch sử ấy, có thể nói rằng: Hầu hết các dân tộc khác trên mặt địa cầu này, đã có một nền văn minh phát triển. Điều này khiến tôi có thể chắc chắn rằng: Không phải chỉ một mình tôi cảm thấy đau lòng, vì sự miêu tả tổ tiên một cách thấp kém, của những cuốn sách truyện loại này.

Một trào lưu hạ thấp giá trị cội nguồn dân tộc

Tôi không có thành kiến riêng, với người họa sĩ minh họa cho bộ chuyện tranh này. Anh ta chỉ là một trong rất đông người, nằm trong trào lưu của quan điểm, phủ nhận những giá trị truyền thống, về cội nguồn trải gần 5000 năm văn hiến của dân tộc Việt.

 

ResizedImage450400-10156-114%281%29.jpg

 

Cách đây không lâu, trong cuộc thi thể hình ở Đài Loan, Nguyễn Tiến Đoàn - mệnh danh là Hoa vương của cuộc thi - cũng đã ăn mặc như truyện tranh trên miêu tả và hiên ngang phát biểu, trước tất cả các đại diện thi thể hình nam, của các dân tộc trên thế giới: "Đây là y phục dân tộc truyền thống của dân tộc Việt". Điều này khiến tôi - người viết bài này, thấy nghẹn ngào, khi y phục truyền thống của các dân tộc khác trên thế giới rất đẹp và chứng tỏ họ là một dân tộc văn minh.

Còn hình ảnh y phục truyền thống dân tộc Việt, theo như Nguyễn Tiến Đoàn công bố, thì chỉ "Ở trần đóng khố"!?. Sự việc cũng không chỉ mới ở Nguyễn Tiến Đoàn, và truyện tranh "An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc".

Từ năm 1996, Nxb Trẻ cũng in một bộ truyện "Lịch sử Việt Nam bằng tranh", khi miêu tả về thời Hùng Vương, thì chúng ta cũng lại chỉ gặp hình ảnh những người dân "ở trần đóng khố".

Dưới đây là hai hình minh họa của bộ truyện tranh "Lịch sử Việt Nam bằng tranh" về y phục thời Hùng Vương:

 

115.jpg

Vua Hùng và các quan lang (Lịch Sử Việt Nam bằng tranh - tập III. Nxb Trẻ 1998.

 

116.jpg

Vua Hùng và Chử Đồng Tử (Lịch sử Việt Nam bằng tranh - Nxb Trẻ - 1998.

 

Những bài viết về y phục dân tộc thời Hùng Vương miêu tả như những con người sống ở thời bán khai, nhan nhản, có thể không khó khăn lắm khi tìm những tài liệu này rải rác trên báo chí và sách, mạng...và ngay cả trong sách giáo khoa phổ biến từ trước 2004 từ cấp I đến Đại học.

Quan niệm về một hình ảnh thấp kém của tổ tiên không còn là một suy nghĩ riêng lẻ, một thứ tư duy lạc loài mà người ta quen gọi là "hiện tượng cá biệt". Nó đã trở thành một tư duy khá phổ biến.

Họ đã căn cứ vào đâu để có một nhận định như vậy về y phục dân tộc Việt thời Hùng Vương?

Có thể xác định rằng: Không hề có một căn cứ khoa học nào hết.

Nhưng ngược lại, tôi có thể xác định rằng: Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến trải gần 5000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. Nhưng bằng chứng mà tôi trình bày dưới đây, xác định quan điểm này.

 

Y phục thời Hùng Vương - cội nguồn lịch sử 5000 năm văn hiến Việt

1 - Y phục giới bình dân

Để chứng minh cho nhận định trên, bạn đọc so sánh những bức vẽ minh hoạ, những hình ảnh di vật khảo cổ và những luận cứ được trình bày sau đây:

117.jpg

 

Hình trên được chép lại từ cuốn "Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ 20" (Nxb Trẻ 1989 - Nguyễn Mạnh Hùng giới thiệu). Đây là công trình sưu tầm của một học giả người Pháp có tên là Henri Joseph Oger. Nói một cách khác, ngay ở thế kỷ 20 này người ta vẫn ở trần đóng khố, nhưng đó không phải là y phục phổ biến trong sinh hoạt xã hội ở thời gian này.

 

ResizedImage400550-10156-118.jpg
Hình lớn trong trên đây mà bạn đang xem là bức tranh dân gian nổi tiếng: "Đánh ghen", thuộc dòng tranh dân gian của làng tranh Đông Hồ. Đó là bức tranh giàu tính nhân bản, thể hiện ở hình người con chắp tay lạy cha mẹ.

 

Hình ảnh hai người phụ nữ trong tranh tuy không thuộc thời Hùng Vương, nhưng bạn đọc có thể so sánh với bức tranh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở góc trên bên trái, được in lại trong cuốn "Lịch sử Việt Nam bằng tranh" (Nxb Trẻ 1996, tập 3). Chắc chắn bạn sẽ ngạc nhiên về sự tương tự của người phụ nữ trong hai tranh. Đương nhiên bức tranh minh họa trong cuốn "Lịch sử Việt Nam bằng tranh" không phản ánh sự thật về y phục phổ biến trong sinh hoạt của thời Hùng Vương. Bởi vì nó không thể liên hệ được sự giống nhau trong khoảng cách gần 2000 năm, theo quan điểm lịch sử mới, về y phục thời Hùng Vương mà họ miêu tả, so với bức tranh dân gian Việt. Ngược lại, chúng ta so sánh y phục trong bức tranh "Đánh ghen" và y phục dân tộc truyền thống của phụ nữ miền Bắc, với hình người trên cán dao bằng đồng, trong hình mô tả dưới đây:

ResizedImage220350-10156-119%283%29.jpg

ResizedImage400300-10156-120.jpg

Ảnh Tượng chùa Dâu: Thiên Sứ; Ảnh người phụ nữ nông thôn: Võ An Ninh.

 

Hình trên mà các bạn đang xem là một cụm hình, được ghép bởi hình chiếc cán dao bằng đồng, từ thời Hùng Vương - có niên đại được xác định là 300 năm tr.CN, được tìm thấy ở Lãng Ngâm - Hà Bắc - trên có tạc người phụ nữ, với y phục thời Hùng Vương và hình vẽ miêu tả y phục của một phụ nữ miền Bắc (Ảnh Võ An Ninh) và ảnh Tượng chùa Dâu, do người viết ghép lại thành cụm hình để tiện so sánh.

Kiểu y phục của hình vẽ này, tuy không còn phổ biến, nhưng bạn vẫn có thể gặp ở một bà già cao tuổi, sống trong một vùng nông thôn xa thành thị nào đó, ở miền Bắc Việt Nam, ngay trong năm 2009 này. Đó là thế hệ cuối cùng, nằm trên võng ru con, bằng cách kể lại những câu chuyện cổ tích, từ thời xa xưa và truyền thuyết về một nước Văn Lang - nơi cội nguồn của người Việt - trước khi nhường lại cho những phương tiện thông tin đại chúng, và những người nghiên cứu thông thái nói lại, về những câu chuyện của họ.

Qua hình ảnh minh họa đã trình bày với bạn đọc ở trên, chúng ta cũng nhận ra sự trùng khớp hoàn toàn, bởi những đường nét chính, giữa y phục trên cán dao đồng, và y phục của người phụ nữ Việt hiện đại còn mặc, tuy không còn phổ biến.

Điều này chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: Y phục của người phụ nữ miền Bắc, còn mặc hiện nay, chính là sự tiếp nối truyền thống, y phục từ thời Hùng Vương, thể hiện trên chiếc cán dao đồng. Đồng thời, sự so sánh này cũng cho thấy: Từ 2300 năm qua trở lại đây - về căn bản - hình thức y phục phổ biến trong dân gian, không có sự thay đổi đáng kể.

Như vậy, có thể khẳng định: Dưới thời Hùng Vương, ông cha ta đã có những y phục phổ biến trong giới bình dân, tương tự như y phục dân tộc, còn tồn tại ở các vùng thôn quê Việt Nam.

Qua đó, chúng ta cũng nhận thức được rằng: Y phục của tầng lớp bình dân, trong xã hội thời Hùng Vương, đã mang tính văn hoá đặc thù của dân tộc Việt, và xã hội này, phải có một nền văn minh phát triển, để chế tác ra những cấu trúc y phục cầu kỳ đó. Chúng ta tiếp tục tìm hiểu về y phục, của tầng lớp trên, trong xã hội Việt thời Hùng Vương.

 

2 - Y phục tầng lớp trên trong thời Hùng Vương

Tất nhiên, khi mà trang phục phổ biến, của các tầng lớp bình dân đã hoàn chỉnh và đa dạng, thì y phục của tầng lớp trên cũng phải phù hợp với đẳng cấp của nó, vì sự trang trọng và việc thực hiện những nghi lễ quốc gia văn hiến. Để chứng minh điều này, bạn đọc tiếp tục xem xét các vấn đề và hiện tượng được trình bày sau đây:

121%283%29.jpg
 

Hình trên mà bạn đọc đang coi được chép lại từ bộ truyện tranh "Tam quốc diễn nghĩa" do chính các họa sĩ Trung Quốc thực hiện, Nxb Mũi Cà Mau in lại vào năm 1995, trọn bộ 30 tập. Đây là hình thứ 3795 trong tập 16. Hình người nổi bật trong tranh bên chính là Tôn Quyền (Thế kỷ II và III sau CN).

Hình người phụ nữ ở giữa cụm tranh này chính là Tôn Phu Nhân, em gái Tôn Quyền, vợ Lưu Bị cũng được chép lại từ bộ truyện tranh trên. Bạn hãy so sánh y phục của tất cả những nhân vật Tam Quốc, thể hiện nền văn hoá Hán trong các tranh trên với hình người trên cán dao bằng đồng của thời Hùng Vương có trước đó 500 năm (Tư liệu trong sách "Thời đại Hùng Vương" Nxb Khoa học Xă hội Hà Nội 1995).

Bạn sẽ thấy một sự tương tự trong y phục. Chỉ có khác chăng là tay áo thụng của các nhân vật Tam Quốc và tay áo bó của hình người trên cán dao đồng, còn phần y phục gần như hoàn toàn giống nhau. Nếu như y phục của các bậc vương giả thời Tam Quốc không phải là bắt chước y phục thời Hùng Vương, thì chắc chắn y phục của cô gái ở trên cán dao đồng thời Hùng Vương không thể bắt chước các nhân vật Tam Quốc. Bởi vì, chiếc cán dao này có niên đại trước thời Tam Quốc ít nhất 500 năm. Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây.

Về y phục của tầng lớp trên trong xã hội Văn Lang, người viết xin được trình bày một đoạn trích dẫn trong kinh Thư. Kinh Thư là một trước tác từ trước đến nay vẫn được coi là sản phẩm của nền văn minh Trung Hoa, nhưng lại có rất nhiều dấu ấn chứng tỏ thuộc về nền văn minh Văn Lang. Dấu ấn đầu tiên của người Lạc Việt trong kinh Thư được chứng minh trong sách "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại" (Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Nxb Văn Hoá Thông Tin tái bản lần thứ 2 - 2002) chính là Hồng phạm cửu trù, bản hiến pháp đầu tiên của người Lạc Việt.

Đoạn trích dẫn sau đây liên quan đến y phục dân tộc thời Hùng Vương được trích trong cuốn "Thượng Thư - sách ghi chép thời thượng cổ" (bản dịch Võ Ngọc Liên, Trần Kiết Hùng. Nxb Đồng Nai 1996, trang 156): "Ba loại như mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú thì làm tinh kỳ, rồng chỉ y phục của vua, hổ chỉ y phục của đại thần theo sự phân biệt ba loại y phục khác nhau: cổn miện (của vua), tệ miện, tuyệt mịch. Tên của ba loại quần áo là dựa vào hình vẽ trên y phục mà gọi, như "cổn" thì có long cổn, cổn miện có chín bậc trong đó có long cổn đứng đầu. Tệ tức là chim trĩ, tệ triều có bảy loại trong đó có hổ đứng đầu".

Qua đoạn văn trên, bạn đọc nhận thấy rằng "cổn miện" (tức là mũ của vua) có chín bậc. trong đó long cổn đứng đầu; "tệ miện tức là cái mũ có hình chim trĩ". Về hình ảnh mũ có hình tượng rồng của vua và mũ có hình chim trĩ của các quan - Oái oăm thay - nó lại được chứng tỏ trên trống đồng của nền văn minh Văn Lang.

122.jpg

123%281%29.jpg

 

Qua hình trên, bạn đọc cũng dễ dàng nhận thấy, trên mũ của những hình người trên trống đồng này thể hiện chiếc đầu rồng và đầu chim phượng đă được cách điệu để chứng tỏ địa vị của người đó trùng hợp với văn bản của kinh Thư.

Nếu như hình vẽ trên trống đồng và những vấn đề y phục của vương triều nói trên trong kinh Thư chỉ là một lần trùng hợp duy nhất thì có thể coi đó là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nhưng vấn đề lại không phải đơn giản như vậy! Khi mà một thiên được coi là quan trọng nhất của kinh Thư: Thiên Hồng phạm, lại hoàn toàn mang nội dung của người Lạc Việt và một lần nữa cũng không chỉ dừng lại ở đấy.

Người viết xin được đặt vấn đề để các bậc trí giả minh xét với đoạn trích dẫn sau đây (Việt Lý Tố Nguyên, Kim Định 1971):

"Trong mấy thiên đầu kinh Thư chữ "Viết" cũng đọc và viết là "Việt". "Viết nhược kê cổ" cũng là "Việt nhược kê cổ". Các nhà chú giải lâu đời nhất như Mã Dung và Khổng An Quốc cũng chỉ giải nghĩa rằng đó là câu nói giáo đầu (phát ngữ từ) nhưng không đưa ra lý do tại sao lại dùng câu đó, tại sao chữ viết với Việt lại dùng lẫn lộn... Vì thế mà có câu lập lờ mở đầu "Việt nhược kê cổ". Cả Mă Dung lẫn Khổng An Quốc đều cho chữ "nhược" là thuận, chữ "kê" là khảo. Và, câu trên có nghĩa rằng: "Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa". Nếu nói "Viết nhược kê cổ" thì ra câu văn thiếu chủ từ. Còn khi thay vào bằng chữ Việt thì có chủ từ là người Việt, nhưng phải cái phiền là ghi công người Việt vào đầu kinh Thư không tiện, nên cho rằng chữ "Việt" với "Viết" như nhau..."

Qua phần trích dẫn của ông Kim Định, người viết không cho rằng: "Việt nhược kê cổ" tức là "Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa" và càng không thể là người Việt có công chép lại kinh Thư cho nền văn minh Trung Hoa. Từ những sự phân tích trên, hoàn toàn có cơ sở để đặt một dấu hỏi hoài nghi về nguồn gốc đích thực của kinh Thư. Và câu trên có thể hiểu là: "Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt".

Như vậy, với những dấu chứng của văn minh Văn Lang trong kinh Thư; hoàn toàn không thể cho rằng: Y phục của các vị vua thời Nghiêu, Thuấn trùng hợp một cách ngẫu nhiên với những hình ảnh trên trống đồng. Hiện tượng này chỉ có thể giải thích một cách hợp lý rằng: Y phục của vương triều được nhắc tới trong kinh Thư, chính là y phục của vương triều Văn Lang. Việc gán ghép cho vua Nghiêu, Thuấn chế tác ra y phục cũng giống như sự gán ghép những học thuật của văn minh Văn Lang cho các vị vua cổ đại Trung Hoa, khi những hình ảnh của y phục vương triều lại được thể hiện trên trống đồng Lạc Việt. Kinh Thư chính là cuốn "Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt" mà điều này đã ghi rõ ngay trên câu đầu của cuốn sách "Việt nhược kê cổ" và nội dung của nó hoàn toàn trùng khớp với hình ảnh trên trống đồng của nến văn hóa Việt đã trình bày.

Nếu theo quan niệm mới cho rằng: Thời Hùng Vương chỉ tồn tại khoảng vài trăm năm (thế kỷ thứ VII tr.CN) và địa bàn nước Văn Lang chỉ vỏn vẹn ở miền Bắc Việt Nam, thì sẽ không thể liên hệ và có sự minh chứng một cách chặt chẽ về sự liên quan giữa y phục trên trống đồng Lạc Việt với vương triều của vua Nghiêu (khoảng 2000 tr.CN theo bản văn chữ Hán) thể hiện trong kinh Thư, bởi một khoảng cách hàng vạn dặm về địa lý và hàng thiên niên kỷ về thời gian.

Trở lại vấn đề y phục, qua sự so sánh trên cho thấy: Sự có mặt của vua Nghiêu (2253 tr.CN) trong việc quy định y phục vương triều, gắn với hình ảnh trên trống đồng Lạc Việt (là một di vật khảo cổ), đă chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: nền văn minh Văn Lang không những đã chế tác ra y phục phổ biến cho con người trong xã hội, mà ở tầng lớp trên đã có những y phục thể hiện sự trang trọng trong nghi lễ quốc gia và sự phân biệt ngôi thứ.

Điều này minh chứng bổ xung cho những vấn đề được đặt ra ở những phần trên và có sự liên hệ tiếp nối như sau:

* Hình người trên trống đồng mà giáo sư Nguyễn Khắc Thuần viết trong "Thế thứ các triều đại Việt Nam" cho rằng: "Hình người đang múa" thực ra đây là hình ảnh thể hiện những người đứng đầu nhà nước Văn Lang đang thực hiện những nghi lễ quốc gia. Điều này được minh chứng qua hình ảnh đầu rồng và đầu chim phượng trên những chiếc mũ của các ngài đang đội.

* Từ đó đặt vấn đề: Hình chữ nhật được cách điệu trên tay các ngài chính là những văn bản được đọc trong khi hành lễ. Tính văn bản được chứng tỏ bằng nếp gấp phía trên góc hình chữ nhật. Giả thuyết này bổ sung việc minh chứng cho sự tồn tại một hệ thống chữ viết của người Lạc Việt.

* Sự tồn tại hình ảnh những người đứng đầu nhà nước Văn Lang trên trống đồng là: Vua: đội mũ có hình đầu rồng; đại thần: đội mũ gắn hình chim phượng, đă khẳng định sự tồn tại một nhà nước có tổ chức chặt chẽ ở thời cổ đại, tương tự như các quốc gia cổ đại hùng mạnh khác vào thời bấy giờ. Chính những y phục đă tồn tại hàng thiên niên kỷ trước Công nguyên trong nền văn minh Văn Lang, đã trở thành căn nguyên cho bản sắc văn hóa thể hiện trong y phục truyền thống của người Việt Nam hiện nay. Những lập luận và hính ảnh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở trên được bổ trợ bằng một phát hiện của ngành khảo cổ như sau: 19.2.1.1 Trước hết, đó là tơ tằm. Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ rất sớm. Trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kỳ đá mới cách đây khoảng 5000 năm (như di chỉ Bầu Tró), đã thấy có dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung.

Đến giai đoạn Đông Sơn (cách nay khoảng 3000 - 2500 năm), hình người trên trống đồng đều mặc áo, váy và đóng khố. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang - đó là hai công việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của nền nông nghiệp Việt Nam. Người Hán từ xưa cũng luôn xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa phương Nam: đó chính là hai đặc điểm đầu tiên mà Từ Tùng Thạch kể đến trong cuốn Việt giang 178 lưu vực nhân dân (Kim Định 1971a: 108); trong chữ "Man" mà người Hán dùng để chỉ người phương Nam có chứa bộ trùng chỉ con tằm.

(Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam - Trần Ngọc Thêm).

Trong sách Luận ngữ, thiên Hiến vấn, khi nhận xét về vai trò của Quản Trọng đối với nước Tề và ảnh hưởng của nó tới xã hội Trung Hoa, chính Khổng tử đã nói: "Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải búi tóc và vắt vạt áo bên tả như người Man Di"

Bạn đọc có thể tìm thấy câu nói đã dẫn của Khổng tử ở trên trong hầu hết các sách dịch ra Việt ngữ liên quan đến Luận Ngữ, như:

"Luận Ngữ - thánh kinh của người Trung Hoa". Nxb Đồng Nai 1996, Hồ Sĩ Hiệp biên soạn, Trần Kiết Hùng hiệu đính, trang 208; hoặc ngay trong cuốn "Lịch sử văn minh Trung Hoa". tác giả Witt Durant, do Nguyễn Hiến Lê dịch. Nxb Văn Hoá Thông Tin - 1997. trang 32) ...

Quản Trọng - tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu - sống vào giai đoạn đầu thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, không rõ năm sinh, mất năm 654 tr.CN, người đưa nước Tề trở thành một cường quốc, bá chủ các chư hầu nhà Chu. Đây là thời điểm tương đương với thời kỳ mà không ít những nhà nghiên cứu đă căn cứ vào Việt sử lược, cho rằng: "Đó là giai đoạn khởi đầu của thời Hùng Vương".

Việt sử lược viết: Vào thời Trang Vương nhà Chu (698 - 682 tr.CN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương"

Như vậy, qua sự trích dẫn ở trên quí vị cũng nhận thấy sự tương đương sát sao về niên đại của thời Quản Trọng (mất năm 654 tr.CN và thời Trang Vương nhà Chu: 698 - 682 tr.CN) và thời điểm lập quốc của các Vua Hùng theo cái nhìn mới - mà họ cho rằng: "Thời Hùng Vương chỉ xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VII tr. CN". Thật là một sự vô lý, khi chính Khổng tử thừa nhận một nền văn minh phát triển ở ngay bên cạnh địa bàn cư trú của người Hoa Hạ, có khả năng ảnh hưởng và chi phối đến sự phát triển của nền văn minh này.

Đã có nhà nghiên cứu cho rằng: "Người Man di ở phía Bắc Trung Quốc" (?). Trên thực tế, trong các thư tịch cổ chữ Hán chưa lần nào dùng từ "Man di" để chỉ giống người phương Bắc Trung Hoa. Ngược lại, trong các thư tịch cổ chữ Hán, "Man di" là từ được dùng nhiều lần để chỉ người Việt. Từ "người Man" trong câu nói của Khổng tử không phải là một danh từ chung để chỉ những tộc người có trình dộ phát triển khác nhau, cư ngụ ở miền Nam sông Dương Tử. Ở đây, Khổng tử đă nói đến nền văn minh Lạc Việt. Bản văn sau đây do chính Tô Đông Pha, một danh sĩ thời Tống - sau Khổng Tử ngót 1500 năm xác nhận lại điều này:

Tô Đông Pha chép rằng: ...Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246 - 207 tr.CN), tuy có đặt quan chức cai trị, xong rồi trở lại t́nh trạng man di. B́ị Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông Hán, lại có người con gái là Trưng Trắc, khởi binh rung động hơn 60 thành.Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đă mỏi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc Quan từ tạ Tây Vực. Phương chi Nam Việt là chỗ hoang viếng, không đáng phiền lụy đến quân đội nhà vua nếu không phải Tuân Tức Hầu (Mã Viện) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ.*

* Chú thích: An Nam chí lược; Lê Tắc; Quyển đệ nhất; mục "Cổ Tích". Viện Đại hoc Huế 1961. Giáo sư Linh mục Cao Văn Luận.

Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta lại một lần nữa thấy tính hợp lý giữa các hiện tượng và vấn đề liên quan đến việc vạt áo cài bên trái của chín quận Nam Việt. Điều này chứng tỏ tính thống nhất về văn hóa ở vùng đất nam sông Dương Tử này hoàn toàn khác biệt với văn hóa Hoa Hạ.

Đây cũng chính là vùng đất: Bắc Giáp Động Đính hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba thục; Đông giáp Đông Hải của nước Văn Lang xưa. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đă chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 tr.CN, và xa hơn - Từ thời Tam Đại - nền văn hóa Lạc Việt đă là một nền văn hóa ưu việt cho khu vực. Ảnh hưởng của nền văn hóa này rất lớn, để "Nếu không có Quản Trọng thì người Hán đã phải cài vạt áo bên trái" .

 

124.jpg

 

Hình ảnh của việc cái vạt áo bên trái (Bên tả) cho y phục truyền thống Việt trong các bản văn trên, được minh chứng tiếp tục trong di sản văn hóa Việt tiếp nối qua các thời đại lịch sử đến tận ngày hôm nay. Bạn đọc tiếp tục so sánh với các hình ảnh dưới đây:

Hình bên đây là một hình khắc nổi tiếng trên một hang động ở tình Hồ Nam, thuộc Nam Dương tử, có niên đại trên 2500 năm, mà người sống ở vùng này vẫn tương truyền rằng: Đó là hình bà Nữ Oa và vua Phục Hy. Chúng ta lại nhận thấy vạt áo cài bên trái của vua Phục Hy và bên phải của bà Nữ Oa. Có thể nói: Đây là dấu chứng cổ xưa nhất minh chứng về y phục truyền thống Việt liên hệ đến câu nói của Không Tử trong sách Luận Ngữ viết về hiện tượng áo cài vạt bên trái vào thế klỷ thứ VII trước Công Nguyên.

 

125.jpg

 

Mối liên hệ này chúng ta sẽ còn tiếp tục tìm thấy những dấu chứng qua các thời đại, mà điển hình là hình tượng những con rối nước sau đây:

Hình ảnh mà người viết trình bày với bên đây được chép lại từ tạp chí Heritage số tháng 9/10 năm 1996 của Cục Hàng không Việt Nam. Hoàn toàn không có sử dụng kỹ thuật vi tính để lật ngược lại bức tranh. Bạn đọc có thể kiểm chứng điều này qua tay phải của một số nhân vật cùng đứng trong tranh.

Bạn đọc cũng thấy vạt áo của nhân vật rối nước này ở phía bên "tả" (trái) và mấy cái búi tóc của những hình rối nước này. Cho đến đầu thế kỷ 20, phần lớn đàn ông của dân tộc Việt vẫn búi tóc. Điều này chắc không cần phải chứng minh.

Hình tượng những con rối nước - một nghệ thuật dân gian truyền thống của người Việt - cái vạt áo bên trái sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi đó chính là sự tiếp nối của y phục dân tộc Việt từ hàng ngàn năm trước, khi liên hệ với câu của Khổng tử trong sách Luận ngữ: "Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải cài vạt áo bên tả và búi tóc như người Man di".

Rất tiếc! Những con rối nước cài vạt áo bên trái ngày nay rất hiếm gặp. Người ta đă hiện đại hoá nó bằng cách tạo cho nó một cái vạt áo bên phải. Đây là sự biến dạng của những di sản văn hóa phi vật thể. Nhưng cũng may mắn thay! Đây không phải bằng chứng duy nhất cho y phục dân tộc thời Hùng Vương.

Xin bạn đọc tiếp tục xem hình bên:

126.jpg

Y phục dân tộc Dao ở Phú Thọ (Trích từ bài "Cạy cửa tìm nhau"
Ngọc Vinh và Lương Ngọc An - Tuổi Trẻ 8/6/2002

 

Tất nhiên tác giả bài báo này không có nhã ý nhằm giới thiệu y phục dân tộc Dao và giúp minh chứng cho luận điểm của người viết. Dân tộc Dao là một dân tộc có nền văn hóa lâu đời tồn tại trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bởi vậy; y phục dân tộc này cũng còn giữ được những nét văn hoá cổ truyền của nước Văn Lang xưa: Trên y phục của cặp vợ chồng ở hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy người đàn ông áo vạt đưa sang bên trái, người phụ nữ vạt đưa sang bên phải.

Vấn đề cũng không chỉ dừng ở đây:

127.jpg

Đám cưới người Mông với y phục từ ngàn xưa Nam mặc áo bên tả,
nữ bên hữu (Ảnh chụp từ VTV 3).

 

Hình trên đây được người viết chụp trực tiếp hình ảnh trên chương trình truyền hình VTV3, có nội dung miêu tả đám cưới người dân tộc Mông. Chúng ta lại một lần nữa tìm thấy dấu ấn y phục từ ngàn xưa của tổ tiên với người nam mặc áo bên "tả" và nữ bên "hữu":

Dân tộc Dao và Mông sống trong vùng rừng núi hẻo lánh, cho nên ít chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán.

Do đó, hiện tượng cài vạt áo bên trái của người đàn ông trong y phục của những dân tộc này còn lại đến nay, cùng với các tư liệu đã trình bày ở trên cho thấy: Đó là những chứng cứ có sự tiếp nối văn hóa từ ngàn xưa và cho đến tận bây giờ - khi bạn đọc đang xem bài viết này - của nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ ở nam Dương Tử. Những chứng cứ rõ ràng đó và luận điểm trình bày hoàn toàn phù hôp với những tiêu chí khoa học: "Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng; nếu nó lý giải một cách hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó; có tính khách quan; tính hệ thống, tính quy luật và có khả năng tiên tri" .

Những vấn đề được hân hạnh trình bày với bạn đọc, nhằm chứng minh cho một nền văn hoá cao cấp tốn tại ở miền Nam sông Dương tử mà chính Khổng tử nói tới với sự tiếp nối, liên hệ của những giá trị đó trong những di sản văn hóa Việt Nam hiện nay.

 

Tính đa dạng trong y phục của Việt tộc thời cổ xưa

Sự đa dạng trong y phục của Việt tộc xác định qua sự liên hệ với hình ảnh những con rối nước là một minh à những y phục Qua sự liên hệ ở phần trước, sự minh chứng"Y phục dân tộc thời Hùng Vương"được tiếp tục qua những hình ảnh sau đây.

Hình bên là một hình ghép được chép lại trong sách Thời đại Hùng Vương (sách đã dẫn) chiếc cán dao bằng đồng miêu tả y phục thời Hùng Vương và hình nhân vật rối nước trong trò "Múa Tiên".

 

128.jpg

Qua hình ảnh trên, chắc quí vị sẽ nhận thấy một sự trùng hợp hoàn toàn về hình thức cái mũ trên đầu hình rối nước và cái mũ trên cán dao đồng. Ngoài sự trùng hợp về cái mũ, còn một số nét tiêu biểu khác trên y phục của hai vật thể này cũng trùng hợp gần như hoàn toàn. Từ đó có thể dẫn đến sự liên hệ hợp lý cho một cấu trúc đặc thù chung của y phục thời Hùng Vương qua y phục rối nước. Hay nói một cách khác: Hoàn toàn có căn cứ khoa học thực sự khi dùng những hình mẫu có chọn lọc của những con rối nước truyền thống để phục chế lại y phục thời Hùng Vương.

Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây, khi chúng ta tiếp tục so sánh chiếc mũ trên hình cán dao đồng - được khẳng định niên đại từ thời Hùng Vương - với chiếc nón trong hình rối nước "Múa Tiên" và chiếc nón trên hai bức tượng Tiên Dung và Ngọc Hoa công chúa hiện đang thờ ở đền Hùng Phú Thọ (ảnh bên):

129.jpg

 

Hiện nay, có rất nhiều trò rối nước được sáng tác ngay thời hiện đại, hoặc vào những thế kỷ trước. Nhưng trò "Múa Tiên" là một trò truyền thống có từ rất lâu trong nghệ thuật rối nước Việt Nam, tất cả các đoàn rối đều có trò này. Do đó, hình rối nước trong trò "Múa Tiên" chắc chắn đã xuất hiện từ thời xa xưa. Qua một khoảng cách thời gian của hơn 1000 Bắc thuộc, nghệ thuật rối nước được ghi nhận lần đầu tiên trong văn bia Sùng Thị Diên Linh - đời Lý - của chùa Đội Sơn (Huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà), tức là vào đầu thời hưng quốc của Đại Việt, cách đây cả ngàn năm. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng múa rối nước chỉ xuất hiện vào thời kỳ này. Đền thờ Tổ 18 thời Hùng Vương xác định xây dựng (hoặc được trùng tu vào thế kỷ XIV). Chiếc cán dao bằng đồng có cách đây khoảng 2500 năm và chỉ mới được phát hiện vài chục năm gần đây.

Trước hết chúng ta cần phải khẳng định rằng: Trò "Múa Tiên", tượng công chúa đền Hùng và chiếc dao đồng là những sản phẩm của trí tuệ sáng tạo. Tṛò "Múa Tiên" và tượng công chúa đền Hùng đều có trước khi tìm ra chiếc cán dao đồng với khoảng cách hơn 2000 năm cho sự sáng tạo ra hai vật thể này. Do đó, nó không thể được coi là sự sao chép từ chiếc cán dao đồng hoặc là một sự trùng khớp ngẫu nhiên. Hình thức tồn tại giống nhau của những di sản văn hoá nói trên với khoảng cách tính bằng thiên niên kỷ, đã xác định sự tiếp nối truyền thống xuyên thời gian của ý phục dân tộc Việt từ thượng tầng xã hội cho đến các tầng lớp bình dân là đa dạng và phong phú, thể hiện qua y phục của những con rối nước trong di sản văn hóa truyền thống Việt. Những hình thức y phục của những con rối nước Việt còn thấy tồn tại trong y phục dân tộc của các quốc gia láng giếng với Việt Nam ngày nay.

 

Lịch sử gần 5000 năm văn hiến qua y phục dân tộc

Qua y phục dân tộc thời Hùng Vương trình bày ở trên, chúng ta hoàn toàn có đầy đủ cơ sở khoa học để xác quyết về một truyền thống văn hóa sử được chính sử xác định: Thời Hùng Vương có niên đại 2879 BC và kết thúc vào 258 BC, có biên giới: Bắc Giáp Động Đình hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba thục; Đông giáp Đông Hải. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đã chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 tr.CN, và xa hơn - Từ thời Tam Đại - nền văn hóa Lạc Việt đã là một nền văn hóa ưu việt của phương Đông cổ đại. Và chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng thừa nhận. Bạn đọc xem đoạn trích dẫn dưới đây:

 

Phát hiện mộ cổ bí ẩn ở Trung Quốc

Các nhà khảo cổ nước này vừa khai quật một ngôi mộ hơn 2.500 tuổi, có thể thuộc về một vị vua của triều đại Ba (Ba Kingdom) bí ẩn. Ngoài 500 đồ vật bằng đồng, trong mộ còn có bộ xương của 2 người đàn bà và một người đàn ông, mặt ngửa lên trời và hướng về phía đông.

Nhóm nghiên cứu cho rằng đó có thể là những tuỳ tùng hoặc chư hầu được chôn cùng vị vua. Nếu được xác nhận, đây sẽ là phát hiện khảo cổ quan trọng nhất liên quan tới triều đại Ba. Ngôi mộ nằm ở Luo Jiaba, tỉnh Tứ Xuyên, mang đặc điểm điển h́ình của một ngôi mộ thuộc đẳng cấp cao nhất trong số các ngôi mộ thuộc triều đại Ba đã được tìm thấy. 31 ngôi mộ khác cũng đã được khai quật ở khu vực. Hầu hết các đồ đồng là vũ khí (như giáo, gươm, dao găm và rìu), hay các vật cúng tế tương ứng với vị trí tối cao của chủ nhân ngôi mộ. Triều đại Ba bao trùm các vùng Tứ Xuyên, Hồ Nam và nhiều nơi khác ở miền nam Trung Quốc trước khi biến mất một cách bí ẩn khoảng 2.000 năm trước đây. Người dân thời đại này được miêu tả là những chiến binh hiếu chiến và gan dạ. Tuy vậy, nguồn gốc, cấu trúc xă hội và văn hoá của họ vẫn còn là một điều bí ẩn.

Minh Thi theo Tân Hoa Xã (Nguồn VNexpress)

 

 

 

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

BỔ SUNG CÁC HIỆN VẬT LIÊN QUAN.

 

IMG_9087.jpg

Áo cài vạt bên trái - "Nam tả nữ hữu" - Đây là tinh thần của Dịch học Đông phương.

 

Bí ẩn nền văn minh đã biến mất ở Trung Quốc

Cập nhật lúc: 14:00 07/01/2015 (GMT+7)
 
(Kiến Thức) - Vào năm 1986, các nhà khảo cổ đã khai quật hai hầm làm lễ tế rất quy mô, làm rúng động cả thế giới khảo cổ.
T.B (tổng hợp)
 
  • bi-an-nen-van-minh-da-bien-mat-o-trung-q
    Được phát hiện năm 1929 ở thành phố Quảng Hán, tỉnh Tứ Xuyên, di chỉ Tam Tinh Đôi (Sanxingdui) là một trong những di chỉ khảo cổ học độc đáo nhất của Trung Quốc.
  • bi-an-nen-van-minh-da-bien-mat-o-trung-q
    Di chỉ này là đại diện cho nền văn minh đồ đồng của nước Thục cổ có niên đại từ 5000 đến 3000 năm trước, vốn là một khoảng tối trong lịch sử Trung Quốc do có quá ít dữ liệu lịch sử được lưu lại.

  • bi-an-nen-van-minh-da-bien-mat-o-trung-q
    Tại đây, vào năm 1986, các nhà khảo cổ đã khai quật hai hầm làm lễ tế rất quy mô, chứa hơn 1.000 cổ vật quý, làm rung động cả thế giới khảo cổ thời điểm đó.
  • bi-an-nen-van-minh-da-bien-mat-o-trung-q
    Điều này cũng góp phần hé mở diện mạo của một nền văn minh phát triển đến trình độ cao, với đời sống văn hóa mang đậm yếu tố huyền bí.
  • bi-an-nen-van-minh-da-bien-mat-o-trung-q
    Trong các cổ vật được tìm thấy, những chiếc bức tượng người bằng đồng thu hút sự chú ý hơn cả.
  • bi-an-nen-van-minh-da-bien-mat-o-trung-q
    Các bức tượng này miêu tả một khuôn mặt khác hoàn toàn với người đương đại, mắt to, mồm bẹp và rộng, lông mày rậm, không có cằm, khuôn mặt nửa như cười, nửa như giận dữ.
  • bi-an-nen-van-minh-da-bien-mat-o-trung-q
    Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn không hiểu những tác phẩm này có ý nghĩa gì

  • bi-an-nen-van-minh-da-bien-mat-o-trung-q
    Bên cạnh tượng người là nhiều tượng chim, thú được tạo hình sinh động.
  • bi-an-nen-van-minh-da-bien-mat-o-trung-q
    Gây choáng ngợp hơn cả những chiếc cây làm bằng đồng cao nhiều mét, được tạo tác cực kỳ tinh xảo. Hầu hết các hiện vật quý giá này đang được trưng bài tại bảo tàng Tam Tinh Đôi ở Tứ Xuyên để phục vụ nhu càu tham quan và nghiên cứu.
  • =====================.

 

  •  
Áo cài vạt bên trái trong di chỉ khảo cổ tìm được ở Nam Dương Tử. Thiên Hiến Vấn, sách Luận Ngữ được coi là của Khổng Tử viết: "Nếu không có Quản Trọng thì tất cả người Hán chúng ta cái áo vạt bên trái như người Man rồi". Dấu ấn "áo cài vạt bên trái" vẫn còn đến bây giờ ở đồng bào các dân tộc ít người ở Việt Nam và trong các di sản văn hóa của người Kinh. Xin xem "Y phục dân tộc thời Hùng Vương" Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh.
  • bi-an-nen-van-minh-da-bien-mat-o-trung-q

 
Chủ Nhật, 15/5/2016 1:20:49 GMT+7
(THVL) ‘Bảo tàng dưới lòng đất’ của tỉnh Quảng Tây
15-08-2008

Cán Giang là nhánh sông lớn thứ 2 của sông Trường Giang, chảy qua địa phận tỉnh Giang Tây. Tháng 9/1989, để bảo vệ con đê sông Cán Giang ở Trình Gia Thôn, trấn Đại Dương Châu, người dân đã lấy cát trên đống cát gần đó bồi đắp cho con đê và đã phát hiện một số đồ vật kỳ lạ trong đống cát. Các nhà khảo cổ phán đoán nơi đây là một di chỉ văn hóa cổ đại quan trọng.

Căn cứ theo ghi chép trong sách cổ, vào thời xa xưa, trung và hạ du sông Trường Giang là khu vực vắng vẻ, khảo cổ bao năm qua của tỉnh Giang Tây cũng thu được chút thành quả nhỏ. Năm 1989, những phát hiện khảo cổ ở Trình Gia Thôn gây kinh ngạc cho nhiều người. Trên đồi cát, đội khảo cổ phát hiện lớp cát màu hạt dẻ, 3 đống đồ vật phân bố bên trong bao gồm : một số lễ khí, binh khí, công cụ sản xuất bằng đồng kích thước nhỏ, ngoài ra còn có đồ gốm.

Công việc khai quật tiến hành 10 ngày, toàn bộ di vật đã lộ ra ngoài. Phía Đông là đồ gốm; ở gần phía Đông đặt một số đỉnh đồng, bình đồng hũ gốm; ở giữa đặt binh khí cỡ nhỏ, xung quanh có đặt lượng lớn đồ ngọc khiến mọi người hoa mắt. Ở phía Tây Nam và góc Tây Bắc cũng phân bố nhiều loại đồ vật. Trong đất cát ở 3 nơi khác nhau, các nhà khảo cổ đã tìm được 24 chiếc răng của con người. Đây là răng của nhiều cá thể khác nhau, gồm răng của phụ nữ trung niên, răng của trẻ con.

Sau khi kết thúc công việc khai quật, các nhà khảo cổ tìm được hơn 1.000 văn vật, trong đó có hơn 700 đồ vật bằng ngọc, hơn 100 đồ vật bằng gốm và 475 đồ vật bằng đồng. Giới khảo cổ ước đoán, chúng có niên đại lịch sử cách nay hơn 3.000 năm. Hơn 3.000 năm trước, nhà Thương cai trị Trung Quốc. Kinh đô An Khư của nhà Thương nằm ở lưu vực sông Hoàng Hà – phía Bắc Trung Quốc. Người đời sau cho rằng, An Khư là kinh đô phồn hoa nhất Trung Quốc lúc bấy giờ. Nhưng vào năm 1986, người ta đã khai quật được văn vật tại di chỉ văn hóa Tam Tinh Đôi ở tỉnh Tứ Xuyên thuộc trung du sông Trường Giang. Chúng không thua kém gì phát hiện ở An Khư. Điều này cho thấy, ở tỉnh Tứ Xuyên từng có một nước nhỏ tồn tại song song với nhà Thương.

Vào thời kỳ văn minh đồ đồng Trung Quốc, lễ khí đồ đồng tượng trưng cho thân phận, địa vị và quyền lực. Đồ đồng tỉ trọng lớn khai quật ở An Khư giúp người đời sau biết được khí thế của vương triều Thương cổ đại.

Đồ đồng tỉ trọng lớn khai quật ở Đại Dương Châu không thua kém gì An Khư. Nồi hông bằng đồng cao 105 cm, khai quật được ở Đại Dương Châu là dụng cụ chính nấu thức ăn. Với trọng lượng 78.5 kg, nó là cái nồi hông lớn nhất được tìm thấy ở Trung Quốc hiện nay và được gọi vua nồi hông Trung Quốc.

Thiết kế của cái nồi hông rất đặc biệt. Trên 2 quai cầm có hai con nai nhỏ quay đầu nhìn nhau, hoa văn trang sức của cái nồi hông hoàn toàn khác nhau, đường nét thô mà thanh thoát, trên tròn dưới vuông. Ngoài ra còn có nhiều loại hoa văn kỳ lạ làm cho đồ vật trang trọng mà không cứng nhắc, quí giá và giàu hơi thở cuộc sống.

Ở thời đại đồ đồng, binh khí hoa văn tinh xảo còn tượng trưng uy quyền. Ở Đại Dương Châu cũng đã khai quật một chiếc rìu lớn, lưỡi rìu rộng 36.3 cm, nặng 11.4 kg. Ở giữa chiếc rìu có chạm rỗng hình chữ nhật, trông giống như cái miệng lớn, bên trong có 11 chiếc răng sắc nhọn rất khí thế. Những đồ vật bằng đồng này cho thấy, chủ nhân của chúng có thế lực rất lớn, địa vị hiển hách.

Trên đồ đồng khai quật ở Đại Dương Châu, nhiều lần xuất hiện hoa văn hung tợn và bí ẩn – con thao thiết. Con thao thiết là hoa văn trang sức kinh điển nhất trên đồ đồng An Khư. Thao thiết là con thứ năm của rồng, là linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Thao thiết tham ăn vô độ, được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống như ngụ ý nhắc nhở người ăn đừng háo ăn mà trở nên bất lịch sự.

thao%20thiet.jpg Hoa văn hình con thao thiết – con thứ năm của rồng

Giống như An Khư, ở Đại Dương Châu cũng đã khai quật một lượng lớn dụng cụ ăn uống làm lễ khí. Đỉnh là đồ vật tiểu biểu quan trọng nhất của lễ khí đồ đồng Trung Quốc. Ở Đại Dương Châu, giới khảo cổ đã tìm thấy hơn 30 cái đỉnh, ngoài ra còn có 6 chiếc đỉnh vuông, trong đó có chiếc đỉnh trọng lượng lớn và chiếc đỉnh nhỏ xinh xắn.

Thú vị hơn, trên hai quai của những chiếc đỉnh tìm thấy ở Đại Dương Châu đều có gắn trang sức hình thú sinh động, hoạt bát tự nhiên, đặc biệt là hình tượng con hổ nằm xuất hiện rất nhiều lần. Hình tượng con hổ xuất hiện nhiều lần cho thấy, đây không phải là trang sức đơn giản, mà nó mang ý nghĩa rất sâu sắc.

Theo ghi chép chữ giáp cốt, vào đời Thương, ở khu vực trung và hạ du sông Trường Giang có một nước nhỏ tôn sùng con hổ tên gọi Hổ Phương. Nhà Thương xem Hổ Phương là đối thủ mạnh, nhiều lần xuất binh chinh phạt.

Năm 1973, các chuyên gia khảo cổ đã phát hiện một di chỉ văn minh cổ cách Đại Dương Châu 20 km. Trung tâm nền văn minh là thôn Ngô Thành nên được gọi là văn hóa Ngô Thành. Phần lớn đồ gốm và đồ ngọc và số ít đồ đồng đã phát hiện cho thấy sự phồn hoa xưa kia của thành phố này

Năm 1988, mọi người lại phát hiện một di chỉ cổ thành Ngưu Đầu với quy mô lớn cách Đại Dương Châu 3.5 km. Đứng trên cao nhìn xuống cổ thành, mọi người chỉ nhìn thấy bức tường thành có hình bậc thang, có 5 cổng thành, chiếm diện tích hơn 50 vạn mét vuông. Khu vực nội thành có dạng hình chữ nhật, nằm ở phía Tây Nam cổ thành.

Ngày nay, xung quanh nội thành cây mọc um tùm, bãi đất bằng phẳng ở giữa được người nông dân biến thành đất canh tác. Từ những văn vật tìm thấy, các chuyên gia suy đoán đây là tòa thành cổ được xây dựng vào cuối nhà Thương.

Các chuyên gia khảo cổ cho rằng, chủ nhân của văn vật Đại Dương Châu không phải ở di chỉ Ngô Thành, mà ở thành Ngưu Đầu. Cư dân thành Ngưu Đầu nắm vững kỹ thuật xây dựng tiên tiến, có thể họ là dân di cư đến từ Trung Nguyên.

Nhưng cũng có không ít chuyên gia cho rằng, người sáng tạo văn minh có lẽ là cư dân địa phương. Họ đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Nguyên. Tuy văn vật họ sáng tạo có điểm giống với văn hóa Trung Nguyên, nhưng nó thể hiện nhiều về đặc sắc bản địa.

Hồng Mẫn

5 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites