Posted 7 Tháng 1, 2009 ÂM DƯƠNG VẬN HÀNH TRONG LẠC THƯ: Số Dương thì đi từ dưới lên trên, từ Trái quá Phái: 1 ở Bắc, lên 3 Ðông, vào giữa 5, qua 7 Tây, lên 9 Nam. Dương cục ở số 9 (nên hào Dương được gọi là Hào Cửu, và số 9 được gọi là Lão Dương) Số Âm thì đi từ trên xuống dưới, từ trái qua phải: 2 ở Tây Nam, qua 4 Ðông Nam, xuống 8 Ðông Bắc, qua 6 Tây Bắc. Âm cục ở số 6 (nên hào Âm được gọi là Hào Lục, và số 6 gọi là Lão Âm như trên đã viết) Ở Hà Ðồ thì tất cả các số Sinh Thành đều thuận hành, sự chuyển động của Âm Dương Ngũ Hành mới về cái nguyên lý tự nhiên của Thái Cực. Ở Lạc Thư thì số Dương Sinh (1, 3) thì thuận hành mà số Dương Thành (7, 9) thì nghịch hành, còn số Âm Sinh (2, 4) lại nghịch hành, còn số Âm Thành (6, 8) lại thuận hành. Sự chuyển động của Âm Dương Ngũ Hành ở Lạc Thư nói về cái nguyên lí của Thái Cực đã phân tán và chuyện động rộng rãi để tạo nên các vật NGŨ HÀNH SINH HÓA TRONG LẠC THƯ: hai hành Hoả và Kim thay đổi vị trí với nhau Số 1 - 6 thuộc Thuỷ ở hướng Bắc Số 3 - 8 thuộc Mộc ở Ðông Số 5 thuộc Thổ ở giữa Số 2 - 7 thuộc Hoả ở Nam cuả Hà Ðồ chuyển qua Tây Số 4 - 9 thuộc Kim ở Tây cuả Hà Ðồ được chuyển qua Nam Sự kiện nay làm cho Phương Vị sinh khắc của Ngũ Hành nơi Lạc Thư trái ngược với Ngũ Hành nơi Hà Ðồ: hai hành đối nghịch nhau thì lại tương sinh, còn hai Hành đi theo vòng tròn mà lại đi nghịch (nghịch hành) thì lại tương khắc. Sự thay đổi này thể hiện sự thay đổi từ Tỉnh qua Ðộng, Từ Sinh qua Hoá, từ Thể qua Dụng, từ Lý qua Biểu, từ Thái Cực qua Vũ Trụ. Ở Hà Ðồ, hai nhóm số 2 - 7 thuộc hoả ở Nam và 4 - 9 thuộc Kim ở Tây cung giao nhau ở giữa là Thổ mà tương sinh. Ở Lạc Thư thì hai nhóm số ấy đối chọi cho nhau thành ra Hoả khắc Kim theo chiều nghịch ở vòng ngoài. Ðối là Ngũ Hành đã ra ngoài mà hoạt động nên có khác che. Nếu ta lấy 2 - 7 cộng lại thì là số 9 thuộc Kim vẩn còn an ở đó, và lấy số 9 chia ra thì 2 - 7 thuộc Hoả cũng còn bóng dáng ở đó Hà Ðồ tượng trưng cho Nôi Giới (Thiện), Lạc Thư tương trưng cho Ngoại Giới (Ðiạ), Hà Ðồ thuộc về lí Thái Cực, vô hình. Lạc Thu thuộc về Khí Vũ Trụ, hữu hình. Hà Ðồ là Thể, Lạc Thư là Dụng. Hà Ðồ thuộc về Nội Hướng Tiên Thiên, Lạc Thư thuộc về Ngoại Hướng Hậu Thiên. Hà Ðồ là Ðạo Nội Thánh, nội trị. Lạc Thư là Dạo Ngoại Vương, ngoại trị. HẬU THIÊN BÁT QUÁI Căn cứ vào Hà Ðồ và Lạc Thư, vua Chu Văn Vương đã xếp đặt lại 8 quẻ Tiên Thiên, đặt ra Hậu Thiên Bát Quái, chỉ về hoạt động của Nhân Sự (việc người) và sắp xếp lại 64 Trung Quái cho hợp với cuộc sống con người, rồi viết Hào Từ, Thoán Từ để giáng giải về các vạch và quẻ. Phương vị và thứ tự của Hậu Thiên Bát Quái được sắp xếp theo lí trí của con người. Thứ tự cuả Hậu Thiên Bát Quái là Càn Khảm Cấn Chấn (thuộc Dương Nghi), Tốn Ly, Khôn Ðoài (thuộc Âm Nghi) trong đó Ly ở Nam và Khảm ở Bắc, khác với Tiên Thiên Bát Quái là Cấn ở Nam Khôn ở Bắc. Bát quái này chỉ về nhân sinh, do Thủy Hoả cần thiết cho đời sống con người nên được coi trọng và đặt Khảm Ly ở hai trục chính là trục Bắc Nam. Vật sinh do Thủy mà vật trưởng do Hỏa. Khí động thì Dương sinh và thành Hỏa, khí ngưng thì Âm sinh và thành Thủy. Như vậy Thủy Hỏa là Âm Dương, khi khơi động thì là Khảm Ly trong Hậu Thiân Bát Quái (và là Càn Khôn trong Tiên Thiên Bát Quái). Theo thứ tự sắp xếp thì: Càn là trời, đất ở Tây Bắc nơi đó có núi thấp và có bình nguyên sa mạc nên bầu trời cao sang. Càn ở giữa Khảm và Ðoài là nước trên trời đổ xuống đầm ao. Khảm là Nước, đặt ở chính Bắc, lục nữa đêm vì phiá này lạnh và mưa nhìều Cấn là Núi, đặt ở Ðông Bắc vì nơi này có núi cao nổi tiếng. Cấn ở giữa Khảm và Chấn, núi cao hứng lấy mưa gió và sấm sét và cấn cần dụng giữa nưóc (Khảm) và cây (Chấn) thì cây mới sống được. Chấn là Sấm, đất ở chính Ðông vì nơi đây là biển thường có sấm. Sấm động ở biển Ðông làm cho vạn vật tăng trưởngTốn là Gió, đất ở Ðông Nam vì gió Ðông Nam nhiều và mát. Ðối diện với Càn là Tốn, gió Ðông Nam là gió mặt trên trời (Càn) thôi xuống. Tốn ở giữa Chấn và Li, sấm sét (Chấn) sinh ra lửa (Li), lửa sinh ra gió (Tốn’) Ly là Lửa, đất ở chính Nam vì hướng này nóng và vào lúc giữa trưa mặt trời chói chang Khôn là Ðất, đất ở Tây Nam vì nơi đây nhiều cao nguyên lớn (Ðất). Khôn ở giữa Li và Ðoài ngăn cách nước ở đầm ao và Hỏa Kim không cho khắc chế nhau. Ðoài là Ðầm Ao, đất ở chính Tây vì nơi đây nhiều núi nên có nhiều đầm hồ, tưới nước nuôi vạn vật. Vì Hậu Thiên Bát Quái chỉ về nhân sinh nên Càn tương Cha, Khôn tương Mẹ. Khảm tượng Thứ Nam, Cấn tượng Thiếu Nam, Chấn tượng Trưởng Nam, Tốn tượng Trưởng Nử, Ly tượng Thứ Nữ, Đoài tượng Thiếu Nữ. Quẻ có một vạch Dương thì là quẻ Dương, tượng là con trai. Quẻ có một gạch Âm thì là quẻ Âm, tượng là con gái. Bốn quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn ở phần Dương Nghi đều là quẻ Dương (1 vạch Dương làm chủ), đó là cha đất ba trai. Bốn quẻ Tốn, Ly, Khôn, Đoài ở phần Âm đều là Âm quái (1 vạch Âm làm chủ), đó là mẹ dịu bà gái. Theo thứ tự của Hậu Thiên Bát Quái thì ta thấy Cha (Càn) đi trước, còn Trưởng Nam (Chấn) thì đọc hau, gái lớn (Trưởng Nữ) thì lấy chồng xuất gia trước, con gái út (Thiếu Nữ) thì nấp bóng mẹ và lấy chồng sau cùng, đúng như tổ chức của gia đinh loài ngươi.Trong Tiên Thiên Bát Quái thì cứ hai quẻ đối nhau thì công bằng 9 (Càn Khôn (1 + 8), Đoài Càn (2 + 7), Li Khảm (3 + 6), Chấn Tốn (4 + 5)) mà số 9 là số của Lão Dương (hào 9 hay hào Cửu), mà Dương chi về Trời. Ở Hậu Thiên thì cụ hai quẻ đối nhau, ngoài trừ Li Khảm là trực chính của Trời thì cộng bằng 9 (3 + 6), đều cộng lại bằng 6 (Càn Tốn (1 + 5), Khôn Cấn (8 + 7 = 15, 1 + 5 = 6), Chấn Đoài (4 + 2)) mà số 6 là số của Lão Âm (hào Lực) mà Âm thì thuộc về Đất (người và vật). NGŨ HÀNH CỦA HẬU THIÊN BÁT QUÁI Ở Tiên Thiên hào quái là Tướng của Âm Dương tự nhiên tự do tạo ra hành khí chứ không mang sang hành khí, còn Ngũ hành của Hậu Thiên Bát quái do con người xếp đặt ra theo thực tế môi trường xung quanh và cùng phụ hợp với hành tự nhiên giống như Hà Đồ: Khảm là nước nên mang hành Thủy, đặt ở Phương Bắc, mùa Đông, nửa đêm, khí hậu lạnh Ly là lửa nên mang hành Hỏa, đặt ở Phương Nam, mùa Hạ, giữa trưa, khí hậu nóngCàn và Đoài ở Phương Tây, có nhiều núi non hầm mỏ kim khí nên thuộc KimChấn và Tốn ở Phương Đông, vùng giáp biển cả, cây cỏ xanh tốt nên thuộc MộCấn ở Tây Nam và Khôn ở Đông Bắc là hai nơi có nhiều cao nguyên và núi lớn, đều là đất nên thuộc Thổ Nói rỏ hơn:Can thuộc Kim đối Thủy vì gần Khảm Khảm thuộc Thủy đối Thổ vì gần Cấn Cấn thuộc Thổ đối Mộc vì gần Chấn Chấn thuộc Mộc đối Hỏa vì gần Li Ly thuộc Hỏa đối Thổ vì gần Khôn Khôn thuộc Thổ đối Kim vì gan Đoài Đoài thuộc Kim Riêng hành Thổ của Cấn Khôn thì xuyên qua hành Thổ ở Trung cung của Hà Đồ lại có tác dụng làm thấy đối sự sinh khắc giữa Thủy Mộc và Kim Hỏa: đặt Khôn Thổ giữa Ly Hỏa và Đoài Kim làm cho hai hành này đang tương khắc (Hỏa khắc Kim) lại thành tương sinh (Hỏa Ly sinh Thổ Khôn, Thổ Khôn sinh Kim Đoài). Đặt Cấn Thổ vào giữa Khảm Thủy và Chấn Mộc làm cho hai hành nay đang tướng sinh (Thủy sinh Mộc) lại thành ra tương khắc (Mộc Chấn khắc Thổ Cấn, Thổ Cấn khắc Thủy Khảm). Ở Hậu Thiên Bát Quái thì Khôn Cấn nguyên là Thổ, đối mặt nhau ở Tây Nam Đông Bắc, xuyên qua trung tâm Thổ để điều hòa sự sinh khắc giữa Hỏa Kim và Thủy Mộc của Ly Đoài, Khảm Chấn. Ở Hà Đồ thì Thổ ở trung cung yểm trợ cho các hành khác. Thổ đóng vai trò quan trọng là như vậy.ÂM DƯƠNG TRONG HẬU THIÊN BÁT QUÁI Ở Hậu Thiên Bát Quái thì bên Dương Nghi có đủ bốn quẻ Dương, bên Âm Nghi có đủ bốn quẻ Âm, nghĩa là Âm Dương đã phân tán như Âm Dương phân tán ở Lạc Thư. Âm Dương đã phân rõ lập thành một thế quân bình tuyệt đối để đi tới một thế mất quân bình tạm thời, rồi lại trở về quân bình, và cứ như thế mãi nên mới có sự sinh động và sinh hòa. Trái lại, ở Tiên Thiên thì phần Dương Nghi có hai quẻ Dương và hai quẻ Âm, phần Âm Nghi có hai quẻ Âm và hai quẻ Dương. Đó là sự quân bình Âm Dương và trong Âm có Dương, trong Dương có Âm theo lẽ tự nhiên của lí Thái Cực Đường phân Âm Dương Nghi hơi lệch theo hướng Tây Bắc - Đông Nam tạo ra một thế tạm thời mất quân bình để có thể trở về thế quân bình trong sinh hoạt của vạn vật. Trục Tây Bắc - Đông Nam là trục dọc của địa cầu, hơi lệch so voi thiên câu, như vậy sự sắp xếp hợp với tự nhiên. Ở Tiên Thiên thì Dương phân Âm Dương Nghi theo trục Bắc Nam là theo lẽ tự nhiên của Vũ Trụ (Thiên Lý), là trục chính của bầu trời Vũ Trụ. Ở Hậu Thiên, cả Âm và Dương đều từ trên hạ xuống. Ở Tiên Thiên Âm Dương lưu hành trong Vũ Trụ theo thể tự nhiên theo chiều thuận, từ trái qua phải, từ Đông qua Tây, Dương nhẹ ở dưới bốc lên, Âm nặng từ trên hạ xuống Âm Dương là nguyên lí có bản thì ở Tiên Thiên và Hậu Thiên đều tương tự và cùng hoạt động theo định luật cơ hữu Tiêu Trưởng Tiến Thoái chỉ có một điều khác là ở Hậu Thiên, khi lớn mạnh thì đi ra ngoài hoạt động. Thiếu Dương từ Chấn (1 vạch) qua Li (hai vạch) là Dương sinh tức Thiếu Dương tới Đoài (2 vạch) và Càn (3 vạch) là Dương Trưởng, tức Thái Dương. Trong khi đó thì Âm ở Chấn (2 vạch) qua Li tới Đoài (đều 1 vạch) và chấm dứt ở Càn. Đó là Dương Trưởng, Âm tiêu. Thiếu Âm từ Tốn (1 vạch) qua Khảm (2 vạch) và Khôn (3 vạch) là Âm Trưởng tức Thái Âm. Trong khi đó thì Dương ở Tốn (2 vạch) qua Khảm (1 vạch) qua Cấn (1 vạch) và chấm dứt ở Khôn. Đó là Âm Trưởng Dương Tiêu Đó cũng là Âm cực thì Dương Sinh, Âm Thịnh thì Dương Suy và ngược lại Dương Thăng (đi lên Nam) và Âm Giáng (đi xuống phía Bắc) Ta cũng thấy rằng nếu theo Hào thì Dương từ Chấn dưới đi lên Càn cao (Nam) là Dương đi Thuận (Thăng), còn Âm thì từ Tốn trên đi xuống Khôn dưới (Bắc) là Khôn đi nghịch (Giáng). Theo Quái thì phần Dương có Can 1, Đoài 2, Li 3, Chấn 4, từ Cha đến con là Dương đi thuận. Phần Âm có Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8, từ Con lên Mẹ là Âm đi nghịch. SỰ SINH KHẮC GIỮATHIÊN CAN THIÊN CAN TƯƠNG HỢP (THIÊN CAN NGŨ HỢP):Người ta lấy cấp số sinh thành của ngũ hành hợp nhau trong Hà Đồ phối hợp với vị trí thứ tự của THIÊN CAN tạo ra THIÊN CAN tương hợp. Trong Hà Đồ thì 1 - 6, 2 - 7, 3 - 8, 4 - 9, 5 - 10 đi cặp đôi với nhau. Đối với THIÊN CAN thì Giáp 1, Ất 2, Bính 3,...,Quí 10. Hai Can cùng cấp số thì tương hợp. Như vậy:Giáp (1, +) hợp Kỷ (6, -)Ất (2, -) hợp Canh (7, +)Bính (3, +) hợp Tân (8, -)Đinh (4, -) hợp Nhâm (9, +)Mậu (5, +) hợp Quí (10, -)Giáp hợp Kỷ còn được gọi là Giáp Kỷ tương hợp.Nhận xét: THIÊN CAN tương hợp thì tuân theo luật giao cảm (nguyên tắc Âm Dương gặp nhau thì hút nhau), và ở cùng vị trí (đi cặp với nhau) trên Hà Đồ. Tương hợp thì Cách 5 (5 là số trung cung trên Hà Đồ).Căn cứ vào ngũ hành thì ta nhận thấy rằng THIÊN CAN tương hợp thì phải đủ hai yếu tố là phải ngũ hành tương khắc (nghĩa là khắc nhau để đưa đến sự hòa sinh như trên đã đề cặp), nghĩa là phải có sự trái ngược về Âm Dương thì mới có sự tương hợp.Giáp hợp Kỷ (Dương Mộc khắc Âm Thổ) Ất hợp Canh (Âm Mộc bị Dương Kim khắc) Bính hợp Tân (Dương Hoa khắc Âm Kim) Đinh hợp Nhâm (Âm Hỏa bị Dương Thủy khắc) Mậu hợp Quí (Dương Thổ khắc Âm Thủy) THIÊN CAN TƯƠNG KHẮC (THIÊN CAN XUNG) Giáp phá (còn gọi là khắc hay xung) Mậu (Dương Mộc khắc Dương Thổ)Ất phá Kỷ (Âm Mộc khắc Âm Thổ)Bính phá Canh (Dương Hoa khắc Dương Kim)Đinh phá Tân (Âm Hỏa khắc Âm Kim)Mậu phá Nhâm (Dương Thổ khắc Dương Thủy)Kỷ phá Quí (Âm Thổ khắc Âm Thủy)Canh phá Giáp ( Dương Kim khắc Dương Mộc)Tân phá Ất (Âm Kim khắc Âm Mộc)Nhâm phá Bính (Dương Thủy khắc Dương Hỏa)Quí phá Đinh (Âm Thủy khắc Âm Hỏa)Nhận xét: Khi Hàng Can phá nhau thì cùng Âm Dương (nguyên tắc động khí thì đẩy nhau) và hành tương khắc. Tương khắc thì Cách 4 Như Giáp 1 Mậu 5, cách 4. Như vậy phải cùng Âm Dương và ngũ hành tương khắc thì mới có sự xung nhau (Như vậy xung nhau thì không đưa đến sự hòa sinh)THIÊN CAN TƯƠNG XUNGGiáp (+ Mộc) xung Canh (+ Kim)(1 - 7)Ạt (- Mộc) xung Tân (- Kim)(2 - 8)Bính (+ Hỏa) xung Nhâm (+ Thủy) (3 - 9)Đinh (- Hỏa) xung Quí ( - Thủy)(4 - 10)Mậu ( + Thổ) Kỷ (-, Thổ) bất tương xungNhận xét: tương xung thì Cách 6, và đòi hỏi cung Âm Dương, hành xung khắc. Nếu khắc Âm Dương hoặc hành không khắc thì không xung)THIÊN CAN NGŨ HỢP HÓA (hóa là biến thành cái khác)Nếu hợp căn cứ theo cấp số của Hà Đồ ghép hai Can tương hợp với nhau thì hóa căn cứ vào ngũ vận của Đông Y, biến đổi tính chất ngũ hành của Thập Can gọi là Can đa biến hóa hay thiên can ngũ hóa. Theo Ngũ Vận của Đông Y thì thiên can ngũ hóa như sau:Giáp Kỷ hợp hóa ThổẤt Canh hợp hóa KimBính Tân hợp hóa ThủyĐinh Nhâm hợp hóa MộcMậu Quí hợp hóa HỏaGiải thíchCụ Hải Thượng Lãn Ông thì căn cứ vào vợ (Can Âm) chồng (Can Dương) phối hợp, con cháu sinh thành để giải thích thiên can ngũ hợp hóa như sau:Giáp (chồng), Kỷ (vợ) Vượng ở Dần, sinh Dương Hỏa là Bính (trưởng nam), Hỏa Bính sinh hóa Thổ (trưởng Tôn). Vậy Giáp Kỷ hợp hóa ThổCanh (chồng), Ất (vợ), Vượng ở Tỵ, sinh Dương Thổ là Mậu (trưởng nam), Thổ sinh Kim (trưởng tôn). Vậy Ất Canh hợp hóa KimBính (chồng), Tân (vợ), Vượng ở Sửu, sinh Dương Kim là Canh (trưởng nam), Kim sinh Thủy (trưởng tôn). Vậy Bính Tân hợp hóa ThủyNhâm (chồng), Đinh (vợ), Vượng ở Hợi, sinh Dương Mộc là Giáp (trưởng nam), Mộc sinh Hỏa (trưởng tôn). Vậy Đinh Nhâm hợp hóa Mộc Mậu (chồng), Quí (vợ), Vượng ở Mùi, sinh Dương Thủy là Nhâm (trưởng nam), Thủy sinh Mộc (trưởng tôn). Vậy Mậu Quí hợp hóa HỏaTheo Thiệu Vĩ Hoa thì Thập Can hóa hợp là do phương vị của 28 Thiên thể quyết định theo vận khí học thuyết. Chú ý: khi hợp (tức là khắc Âm Dương, ngũ hành tương sinh hoặc tương khắc) thì sẽ đưa đến hóa như đã đề cặp bên trên THẬP CAN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG: Sử dụng phương vị trên Hà Đồ căn cứ vào ngũ hànhGiáp Ất hành Mộc nên ở phương Đông (vì hành Mộc ở phương Đông)Bính Đinh hành Hỏa nên ở phương NamMậu Kỷ hành Thổ nên ở trung ươngCanh Tân hành Kim nên ở phương TâyNhâm Quí hành Thủy nên ở phương BắcTHẬP CAN VÀ MÙAGiáp Ất thuộc mùa XuânBính Đinh thuộc mùa HạMậu Kỷ thuộc Trưởng HạCanh Tân thuộc mùa ThuNhâm Quí thuộc mùa ĐôngTHẬP CAN VÀ THÂN THỂGiáp là đầuẤt là vai Bính là tránĐinh là răng lưỡiMậu Kỷ là mũi mặtCanh là gânTân là ngựcNhâm là bắp chânQuí là chânTHẬP CAN VÀ TẠNG PHỦGiáp là mậtẤt là ganBính là ruột nonĐinh là timMậu là dạ dầyKỷ là lá láchCanh là ruột giàTân là phổiNhâm là bàng quangQuí là TạngSố lẻ là phủ, số chẳn là Tạng NGUYÊN TẮC ĐỊNH ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH PHƯƠNG HUỚNG CỦA THẬP NHỊ CHI Thập Nhị Chi bao gồm tên của 12 con vật, mỗi tên được ứng vào một số như sau:Ti'(1), Sửu (2), Dần (3), Mão (4), Thìn (5), Tỵ (6), Ngọ (7), Mùi (8), Thân (9), Dậu (10), Tuất (11), Hợi (12)PHÂN ĐỊNH ÂM DƯƠNG: theo số trên Hà Đồ, Dương là lẻ, Âm là Chẳn nên:Âm DươngTí Dần Thìn Ngọ Thân Tuất thuộc DươngS& #7919;u Mão Tị Mùi Dậu Hợi thuộc ÂmNGŨ HÀNH: Vị trí của 12 Địa Chi là vị trí cố định theo hai trục Bắc Nam (Thủy Hỏa) và Đông Tây (Mộc Kim). Mười hai Chi được viết theo chiều thuận trên một vòng tròn, mỗi Chi cách nhau một góc 30 độ, Tị bắt Dậu từ hướng Bắc. Để xác định hành cho các Chi một cách hợp lý nhất, người xưa đã chọn hành của các cung như sau:Hợi Tị (huớng Bắc) thuộc ThủyDần Mão (huớng Đông) thuộc MộcTỵ Ngọ (huớng Nam) thuộc HỏaThân Dậu (hướng Tây) thuộc KimCòn hành Thổ ở chính giữa thì chia làm 4, nằm ở 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi để điều hòa quá trình sinh khắc giữa các hành (Thìn Tuất Dương Thổ, Sửu Mùi Âm Thổ)Nếu xét về các tiết trong năm thì trục Tí Ngọ tương ứng với hai tiết Đông Chí (Tí) và Hạ Chí (Ngọ), còn trục Mão Dậu thì tương ứng với hai tiết Xuân Phân (Mão) và Thu Phân (Dậu) trong năm. Theo lịch Kiến Đan (lịch sử dụng tháng 11 có tiết Đông Chí) thì tháng Giêng có tiết Lập Xuân là tháng Dần. Như vậy theo lịch này thì 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là 4 tháng giao mùa. Các tháng nay hành ThổCó người cho rằng:Dần dương MộcMão Âm MộcThìn dương Thổ, đất thấpTỵ Âm HỏaNgọ dương HỏaMùi Âm Thổ, đất khô ráoThân dương KimDậu Âm KimTuất dương Thổ, đất caoHợi Âm ThủyTỵ dương ThủySửu Âm Thổ đất ướt mềmNguon:vietnamcayda Share this post Link to post Share on other sites