Posted 9 Tháng 5, 2015 Gửi Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh - Keith Weller Taylor Là Ai? Nguyễn Đình Vân Tiên 23-Apr-2015 LTS: Ngày 24-3 vừa qua, Quỹ văn hoá Phan Châu Trinh (QVHPCT - một loại NGO *, tổ chức phi chính phủ) trao giải thưởng cho Keith Weller Taylor (và một vài người khác), và chủ trương dựng ngôi đền Tinh Hoa Văn Hoá Việt Nam (lúc đầu thờ 3 người, bắt đầu là Petrus Ký **). Hai hành động trên đây của QVHPCT (mà người chủ chốt là Nguyên Ngọc, trưởng ban vận động thành lập Văn đoàn Việt Nam Độc lập) bị các thiện tri thức phản đối. Tạp chí HỒN VIỆT trong số mới nhất (số 92, tháng 5-2015) đăng 3 bài phê phán 3 đối tượng: Nguyên Ngọc, Keith Weller Taylor, và Petrus Ký. Việc "tôn vinh" cùng một lúc Pestrus Ký và Keith Weller Taylor khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới một "liên minh" giữa hai thế lực đen tối, đang vận động biện minh cho chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, phân biệt để chia rẽ những nhóm người Việt, tô điểm lại để biện minh chế độ miền Nam,.... Đó là một nước cờ xâm lược văn hóa có tính toán rõ rệt, chứ không phải chỉ là một chuyện tình cờ. "Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà"(cụ Đồ Chiểu) Vân Tiên, tên nhân vật chính trong cuốn truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu, người có tinh thần: "Giữa đường thấy chuyện bất bình, chẳng tha!" Đó cũng chính là tinh thần của bài viết dưới đây của Nguyễn Đình Vân Tiên, hậu duệ Cụ Đồ Chiểu. Để tìm hiểu quan điểm của Keith lật ngược sự thật về chiến tranh Việt Nam như thế nào, xin mời bạn đọc cùng xem và ủng hộ quan điểm chận đứng những hành động vinh danh những người thuộc thế lực đen tối. (SH) xem "Ngắn Gọn Về Thầy Thông Ngôn Trương Vĩnh Ký Ảnh của KWT, http://lrc.cornell.edu Tối 24/3/2015, tại khách sạn Caravelle ở TP. Hồ Chí Minh, Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh (QVHPCT) tổ chức trao giải thưởng năm 2015 cho một số người, trong đó có Keith Weller Taylor (KWT). Trong diễn văn đọc tại buổi lễ, Nguyên Ngọc (NN) thay mặt QVHPCT ca tụng KWL hết lời: "Keith Taylor là một trong những nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất, cả ở Việt Nam, cả ở nước ngoài"(1). NN nói tâng bốc thế thôi, chứ ở Việt Nam có bao lăm người biết KWT là ai. Hãy nghe ông ta tự bạch (2): Tháng 5 - 1968, KWT tốt nghiệp đại học. Lúc đó, do tác động của cuộc tổng tiến công của quân dân miền Nam Việt Nam, chính phủ Mỹ không cho sinh viên tiếp tục hoãn dịch rộng rãi như trước. KWT phải vào lính, hoặc "bị bắt quân dịch và bị gửi đi bất cứ nơi nào để làm bất cứ một phận sự gì", hoặc "chọn cho mình một nhiệm vụ trong quân đội". KWT chọn hướng thứ hai : ông ta xin gia nhập ngành quân báo để được huấn luyện về tình báo và tiếng Việt trong hai năm với hy vọng "may ra chiến tranh sẽ kết thúc trước khi năm học được hoàn tất". Hy vọng đó không thành sự thật, KWT bị gửi sang chiến trường Việt Nam năm 1970 với cấp bậc trung sĩ. KWT kể: "Tôi nhận thấy một vấn đề ở Việt Nam: quân đội Mỹ đang trong chiều hướng bị mất tinh thần. Sau khi công luận [ở Mỹ] quay lưng lại với cuộc chiến vào năm 1968, phong trào phản chiến thâm nhập vào quân đội Mỹ ở Việt Nam. Tất cả các vấn nạn thường thấy trong cuộc chiến như xì-ke, xung đột sắc tộc, bạo hành, giết hại nhau và bất phục tùng đều là bằng chứng đã ảnh hưởng đến tinh thần tác chiến của quân đội [Mỹ ở Việt Nam] và, ít ra theo hiểu biết của tôi, chúng có liên quan đến sự kiện: do hệ quả của sự lãnh đạo tồi, [nhân dân] nước Mỹ không còn ủng hộ chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn đang được kỳ vọng phải tiếp tục chiến đấu. Các nhà lãnh đạo trong quân đội, cả quân nhân lẫn dân sự, nhận ra sự cần thiết phải "tái phối trí" quân đội ra khỏi Việt Nam [rút dần quân Mỹ về nước theo chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh] càng nhanh càng tốt để ngăn chặn tinh thần bất mãn lan rộng sang các chiến tuyến khác trên thế giới. Trong khi đó, chúng tôi đã được yêu cầu thử thời vận của mình như là "người tử trận cuối cùng ở Việt Nam" (…) Rõ ràng tôi đã bị ảnh hưởng bởi não trạng bất mãn này. Đối với tôi, dường như cuộc chiến đang bị thua (the war was being lost) và chúng tôi, chỉ đơn giản là một hậu vệ có thể bị hy sinh. Tôi không thích điều đó. Tôi trở nên nghi ngờ cấp trên của tôi, cảm nhận rằng sự thất trận (the debacle) mà chúng tôi đang tham gia ít nhất đã giúp cho sự nghiệp của họ cơ hội để thăng tiến, trong khi đối với những phần tử còn lại trong chúng tôi chỉ còn một băn khoăn giữa sự sống hay cái chết". May cho KWT, ông ta không chết ở Việt Nam mà chỉ bị thương, được giải ngũ và trở về Mỹ giữa năm 1971 với tâm trạng "choáng váng và mất phương hướng"(dazed and disoriented). Ông viết: "Tôi đã giận dữ vì đã phải hy sinh tuổi trẻ của mình cho sự vô dụng của người già". Vì vậy, "trong hơn hai thập kỷ, tôi cưỡng lại tư tưởng của bản thân rằng mình là một cựu chiến binh của cuộc chiến tranh Việt Nam. Tôi muốn được trở về với cuộc sống và không được mô tả bởi câu chuyện đau buồn đó. Tôi không thích Đài tưởng niệm ở Washington, D.C với tên của tất cả những người tử vong được khắc trên một bức tường đá. Đó là đài tưởng niệm cho người chết, nhưng tôi là một người sống sót và bức tường này không có liên hệ gì với tôi". Để "trở về với cuộc sống", tháng 1 - 1972, KWT đã ghi danh làm nghiên cứu sinh tại Đại học Michigan. Vì đã được học tiếng Việt trước đó, KWT chọn lịch sử Việt Nam cổ đại (từ khi lập quốc đến giữa thế kỷ X) làm đề tài luận án, xem đó là "một lối thoát an lành cho kinh nghiệm rối ren của cá nhân tôi đối với cuộc chiến Việt Nam". Luận án được bảo vệ năm 1976, được sửa sang lại thành sách, xuất bản năm 1983 dưới nhan đề "The Birth of Vietnam" (Sự ra đời của Việt Nam). KWT tránh chọn đề tài liên quan đến lịch sử Việt Nam hiện đại vì không muốn đụng tới cuộc chiến tranh mà ông ta đã tham dự ở Việt Nam. Lâu nay, hầu hết người Mỹ tự hào đất nước họ là siêu cường số 1 thế giới, đánh đâu thắng đó, nên họ không thể nuốt trôi thất bại thảm hại trước quân và dân một nước nhỏ bé chưa phát triển như Việt Nam. Bên cạnh nỗi buồn chiến bại đó là mặc cảm tội lỗi vì nước Mỹ đã ném bom, rải hóa chất độc, thảm sát, tra tấn, … gây bao tang thương chết chóc cho nhân dân Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ chỉ ra những sai lầm trong chính sách đối với Việt Nam của nhiều đời tổng thống Mỹ suốt 30 năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945 - 1975). Sau một thời gian im lặng, Robert McNamara, cựu bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, người được xem là "kiến trúc sư của chiến tranh Việt Nam" đã lên tiếng thừa nhận: "Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp" (We were wrong, terribly wrong) (3). Tuy chiến tranh Việt Nam đã kết thúc, nhưng vẫn tiếp tục phủ bóng đen lên lương tâm người Mỹ. Tâm trạng đó được gọi là "hội chứng Việt Nam" (Vietnam Syndrome). Từng tham chiến ở Việt Nam, KWT bị "hội chứng" ấy dày vò. Ông ta tâm sự: "Rất nhiều năm, kinh nghiệm chiến trường của tôi giống như một cục bướu lớn không tiêu hóa nổi vẫn nằm sâu trong tâm thức". Nếu thỉnh thoảng bị yêu cầu nói về chiến tranh Việt Nam, ông ta thừa nhận: "Tôi luôn ngán ngẩm khi phải làm điều đó, bởi vì nói chuyện trước công chúng về cuộc chiến thường mang lại cho tôi cảm giác buồn nôn". Một số người Mỹ hiếu chiến không muốn nước Mỹ đắm chìm lâu dài trong "hội chứng Việt Nam », sợ nó ảnh hưởng đến vai trò của Mỹ trên trường quốc tế. Ronald Reagan lên tiếng kêu gọi: "Chúng ta đã sống với "hội chứng Việt Nam" trong thời gian quá lâu… Năm tháng trôi qua, người ta nói với chúng ta rằng hòa bình sẽ đến nếu chúng ta ngưng can thiệp [vào các nước khác] và trở về nước [Mỹ]. Đã đến lúc chúng ta thừa nhận rằng sự nghiệp của chúng ta [ở Việt Nam] là cao quý… Chúng ta sẽ làm ô danh việc tưởng nhớ 50.000 thanh niên Mỹ đã chết trong sự nghiệp ấy nếu chúng ta cứ cảm thấy phạm tội như thể chúng ta làm một điều gì đó xấu hổ và chúng ta bủn xỉn trong việc đối xử với người [lính từ Việt Nam] trở về"(4). Sau lời hô hào của R. Reagan, khuynh hướng "xét lại chiến tranh Việt Nam" (Vietnam War Revisionism) xuất hiện trong giới nghiên cứu lịch sử ở Mỹ nhằm biện hộ cho sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. KWT đã tìm đến khuynh hướng này để mong "vứt bỏ cảm giác tội lỗi sai lầm về cuộc chiến tranh mà [ông ta] đã cưu mang khoảng một phần tư thế kỷ". Năm 1998, ông ta viết bài "Các xung đột vùng miền giữa các dân tộc Việt từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX" (Regional Conflicts among the Viêt Peoples between the 13th and 19th Centuries)(5). Ngày 26/6/2003, trả lời phỏng vấn của đài BBC nước Anh, ông ta muốn đưa ra "một cái nhìn mới về lịch sử Việt Nam"(6). Mùa thu năm sau, trên tạp chí Michigan Quarterly Review, KWT giải thích "đã bắt đầu dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào". Cách nay hai năm, KWT cho xuất bản cuốn Một lịch sử của người Việt Nam (A History of the Vietnamese) (7). Trong cuốn sách này cũng như các bài viết vừa kể, KWT tự phủ nhận những gì bản thân ông đã viết trong cuốn sách đầu tiên The Birth of Vietnam. <=> Không khó để chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng trong kiến thức và nhận thức của KWT. Một số nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài đã có bài phê bình. Chẳng hạn giáo sư Norman G. Owen đã đưa ra một số nhận xét về cuốn A History of the Vietnamese như sau: “Về việc Mỹ dính líu [ở Việt Nam], Taylor để lộ ra sự mâu thuẫn lớn trong suy nghĩ, và chương trọng yếu cuối cùng (“Từ hai nước trở thành một nước” từ trang 561 đến trang 619) có lẽ là chương gây tranh cãi nhiều nhất. Ông ta xuất hiện như người cuối cùng (…) bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng hòa chống lại cả những người Cộng sản (…) lẫn những người Mỹ (…). Ông ta không biết hay tránh né việc những người tả khuynh phê phán Mỹ phá hoại Hội nghị Genève năm 1954, khiêu khích hay ngụy tạo các sự kiện ở vịnh Bắc Bộ năm 1964 (để có cớ mở rộng chiến tranh [ra miền Bắc]), phá hoại cuộc đàm phán ở Paris năm 1968, “bí mật” ném bom Căm-pu-chia năm 1969 và tiến hành vụ ném bom Hà Nội vào dịp lễ Chúa giáng sinh năm 1972 mà không có lý do rõ ràng. Thay vào đó, ông ta lại phẫn nộ với Averell Harriman và nhóm của ông này tại Bộ Ngoại giao [Mỹ] đã xúi giục việc lật đổ Ngô Đình Diệm [mà Taylor gọi là] “thành tích gây tai họa nhất của Kennedy ở Việt Nam” (tr. 589) và với những người có trách nhiệm trong việc rút lại sự ủng hộ của Mỹ [cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu] năm 1975 để cho [Việt Nam] Cộng hòa phải “tử thương bởi một đồng minh lật lọng” (tr. 626) (…). Ông ta xem những cuộc đột nhập [của quân Mỹ và quân Thiệu] vào Căm-pu-chia và Lào là tích cực trong việc tạo ra thời gian để Việt Nam hóa chiến tranh và như vậy giúp chế độ Sài Gòn “thành công trong việc ổn định miền Nam Việt Nam” (tr. 606 – 607) ít ra là cho tới khi Mỹ bán đứng chế độ Sài Gòn bằng Hiệp định hòa bình Paris năm 1973, “vứt bỏ chủ quyền của Đệ nhị Cộng hòa” (tr. 612 – 613)”. Vẫn theo giáo sư N. G. Owen, trong cuốn sách trên, Taylor cũng “đánh giá lại một vài lãnh tụ bị nhiều tiếng xấu ở miền Nam. Mặc dù thừa nhận họ có nhiều thiếu sót sai lầm, ông ta miêu tả Ngô Đình Nhu là người có nhiều ý định dân chủ (tr. 581; Taylor khẳng định Nhu bị ghét vì ông duy trì an ninh có hiệu quả và chống lại sự giám hộ của Mỹ, tr. 577), Nguyễn Cao Kỳ tỏ ra “không có tỳ vết tham nhũng nào” (tr. 593) và Nguyễn Văn Thiệu – được [Taylor] ca tụng một cách yếu ớt hơn - được biết là không “tham nhũng thái quá hay lạm quyền quá đáng” (tr. 607) v.v và v.v…(8) Trong bài viết này, chúng tôi không có ý định kể ra tất cả những sai lầm trong cuốn sách và các bài viết của KWT, mà chỉ muốn tìm hiểu cái mà ông ta gọi là “một cái nhìn mới về lịch sử Việt Nam” gồm hai điểm sau đây: 1. Việt Nam không phải là một dân tộc thống nhất sống trên một lãnh thổ thống nhất Đất nước Việt Nam trải dài trên 15 vĩ độ, từ đỉnh Lũng Cú (23°22’59 Bắc đến mũi Cà Mau (8°30’ Bắc). Mặt khác, lãnh thổ Việt Nam được mở rộng dần về phía Nam. Do đó, việc hình thành những vùng miền là điều tự nhiên. Nhưng dù ở đâu và được ghi vào bản đồ Việt Nam lúc nào, các vùng miền đó đều là những bộ phận hợp thành của một Tổ quốc Việt Nam duy nhất và thống nhất. Cường điệu một số điểm dị biệt giữa các vùng miền, KWT chia nước Việt Nam thành ít nhất 5 vùng miền: Đông Kinh (tức vùng đồng bằng sông Hồng, lấy Hà Nội làm trung tâm), Thanh Nghệ Tĩnh (gồm ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh), Thuận Quảng (gồm bốn tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng), Bình Định và Nam Bộ. Điều đáng nói là KWT buộc các vùng miền này phải thường xuyên mâu thuẫn, đối kháng với nhau, thường xuyên xung đột với nhau: “Trong những năm mà tôi đề cập, không có giai đoạn nào mà những người nói tiếng Việt không đánh lẫn nhau hoặc giao chiến với các nước láng giềng”. Ứng dụng thuyết “xung đột vùng miền”, KWT xem cuộc tranh chấp giữa nhà Mạc và nhà Lê trung hưng trong thế kỷ XVI như cuộc xung đột giữa Đông Kinh với Thanh Nghệ: “Đông Kinh đã trung thành sâu sắc với gia đình họ Mạc trong thế kỷ XVI và Đông Kinh đã cứng rắn chống lại cuộc chinh phục của đoàn quân Thanh Nghệ vào cuối thế kỷ này”. KWT nhận định: “Cuộc xung đột vùng giữa Đông Kinh và Thanh Nghệ là đặc điểm nổi bật trong hình dung của chúng ta về một kinh nghiệm lịch sử Việt Nam… Bắt đầu với Hồ Quý Ly và sau đó với Lê Lợi, Thanh Nghệ trở thành khu vực của các vị vua và lãnh chúa có khao khát thống trị Đông Kinh”. Tương tự như vậy, KWT giải thích sự phân tranh giữa họ Trịnh và họ Nguyễn là cuộc xung đột giữa Đông Kinh và Thuận Quảng , cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là “sự phản ứng của vùng Bình Định trước những yêu sách của các nhà cai trị Thuận Quảng áp đặt lên vùng này”. Vùng Bình Định “sản sinh ra một nhân vật, Nguyễn Huệ, người dẫn quân từ lãnh thổ này sang lãnh thổ khác và đã cố tìm cách thống nhất mọi khu vực của người Việt dưới uy quyền của ông”. Sau khi Nguyễn Huệ qua đời, “Nguyễn Ánh cuối cùng đã xây dựng nền tảng quyền lực tại Sài Gòn ở Nam Bộ và từ đây đã đi chinh phục toàn bộ các vùng ở miền Bắc nơi người Việt sinh sống, lập nên một vương quốc vào đầu thế kỷ XIX mà trước đó chưa bao giờ tồn tại”. Không chỉ người đọc Việt Nam cảm thấy chối tai trước những từ “xung đột”, “chính phục” cứ bị lặp đi lặp lại … mà người đọc nước ngoài cũng thấy không chịu được. Chẳng hạn giáo sư N. G. Owen (đã nói ở trên) nhận xét: trong cuốn A History of the Vietnamese, “các tiêu đề lớn nhỏ - về “Chiến tranh 70 năm”, “Chiến tranh 50 năm”, “Chiến tranh 30 năm” – gợi lên ý nghĩ về các cuộc xung đột nồi da nấu thịt đẫm máu và liên miên, nhưng không nói đến nhiều cuộc chiến tranh với nước ngoài và vô số những cuộc nổi dậy. Kết quả là một bức tranh chắp vá về mặt chính trị và văn hóa”(9). Thuyết “xung đột vùng miền” của KWT xây dựng trên những kiến thức và quan điểm sai lầm, nên không khó để bác bỏ. Thật ra, những cuộc nội chiến nói trên xảy ra giữa hai thế lực chính trị - quân sự có quyền lợi mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, chiến tranh Nam triều – Bắc triều nổ ra giữa nhà Mạc (lật đổ nhà Lê) và nhà Lê trung hưng (tìm cách lập lại ngai vàng của dòng họ mình); Trịnh – Nguyễn phân tranh xảy ra giữa con cháu của Nguyễn Kim (người đầu tiên khởi xướng việc trung hưng nhà Lê) và con cháu của Trịnh Kiểm (người bị xem là đã giết con trai của Nguyễn Kim) v.v… Những thế lực này hoàn toàn không đại diện cho quyền lợi của một vùng miền nào và chưa hẳn đã nhận được sự ủng hộ của người dân trong vùng miền đó. Thái độ chính trị của một người không phụ thuộc vào việc người đó ở một vùng miền nào. Không hiếm những người thay đổi thái độ chính trị như cha con Nguyễn Thiến. Thiến làm thượng thư nhà Mạc, hai con là Quyện và Miễn làm tướng của nhà Mạc, nhiều lần cầm quân đánh nhau với nhà Lê. Do mâu thuẫn trong nội bộ nhà Mạc, ba cha con dẫn quân bản bộ về hàng nhà Lê (1550). Năm sau, Quyện theo quân nhà Lê ra đánh nhà Mạc. Năm 1557, sau khi cha qua đời, Quyện và Miễn bỏ nhà Lê, trở về với nhà Mạc, lập nhiều chiến công. Năm 1592, Quyện và Miễn bị nhà Lê bắt, sau bị giết. Thử hỏi KWT xếp ba cha con của Thiến vào vùng miền nào? Thuyết “xung đột vùng miền” trở nên nguy hiểm khi KWT biến những cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài thành nội chiến, phủ nhận các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Chẳng hạn, nhà Minh xâm lược Việt Nam đầu thế kỷ XV. KWT quả quyết: “Có nhiều bằng chứng cho thấy đa số sĩ phu ở Đông Kinh sẵn sàng chấp nhận sự cai trị của quân Minh và rằng nhiều thế gia vọng tộc ở khu vực này (…) đã trung thành phục vụ quân Minh (…). Hiệu lực sự cai trị của nhà Minh đã không thể xảy ra nếu không có sự chấp nhận và tham gia với mức độ lớn của người địa phương”. Theo KWT, “người Đông Kinh nhìn Lê Lợi như một kẻ nổi loạn nhà quê”. “Không khó để đọc cái gọi là phong trào giải phóng dân tộc của Lê Lợi như là cuộc chinh phục của Thanh Nghệ đối với Đông Kinh, với việc nhiều nhân vật Đông Kinh xem người Minh như thế lực bảo vệ [Đông Kinh] chống sự quê kệch của các tỉnh phía Nam”. Tương tự như thế, vào giữa thế kỷ XIX, “khi vấn đề bảo hộ của Pháp xuất hiện, giới tinh hoa Thuận Quảng ủng hộ việc hòa hoãn và hợp tác [với thực dân Pháp] để cứu chế độ quân chủ, trong khi các lãnh đạo Thanh Nghệ ủng hộ cuộc kháng chiến [chống Pháp]… Chính sự chủ động của người Thanh Nghệ đã dẫn đến việc đưa hoàng gia thoát khỏi Huế và kêu gọi “Cần vương” năm 1885… trong lúc các lãnh đạo Thuận Quảng nhanh chóng hòa hoãn với Pháp chống lại các đối thủ Thanh Nghệ của họ”. Trong khi cường điệu sự xung đột vùng miền (không có thật) giữa Đông Kinh - Thanh Nghệ hay giữa Thanh Nghệ - Thuận Quảng, KWT cố tình che giấu tội ác xâm lược của nhà Minh hay của thực dân Pháp. Thuyết “xung đột vùng miền” không dừng lại ở đó. Trong bài điểm sách A History of the Vietnamese, Liam C. Kelley (Đại học Hawaii, Mỹ) viết: “Qua cuốn sách dài hơi này, Taylor nhiều lần lôi kéo sự chú ý của người đọc vào những kích thước vùng miền của lịch sử Việt Nam. Đó là những căng thẳng giữa Thanh Hoá và Thăng Long trong những thế kỷ trước hay giữa Sài Gòn và Hà Nội trong thời gian gần đây hơn, chủ nghĩa địa phương đã là một nét đặc trưng lâu dài trong trải nghiệm lịch sử của những người nói tiếng Việt…”(10). Lời bình luận của L. C. Kelley để lộ thâm ý của KWT: ông ta muốn dẫn dắt người đọc đi đến kết luận: chiến tranh trong hai thập kỷ qua tại Việt Nam chỉ là “xung đột vùng miền” giữa miền Bắc và miền Nam; miền Bắc kháng chiến chống Mỹ, còn miền Nam là đồng minh của Mỹ; chứ không phải là chiến tranh của Mỹ xâm lược Việt Nam! 2. Việt Nam không có lịch sử và văn hóa thống nhất, phát triển liên tục Theo KWT, “những người quyết tâm cai trị toàn bộ các dân tộc Việt sẽ nhấn mạnh về một lịch sử và văn hóa Việt Nam đơn nhất, với một cội nguồn duy nhất và một xung lực duy nhất xuyên suốt thời gian và không gian. Nhưng những giấc mơ về tính độc nhất này là sự thể hiện niềm tin chính trị, chứ không phải là điều nghiễm nhiên”. Ngược lại, KWT chủ trương “chia lịch sử và văn hóa Việt Nam thành từng khu vực” và cho rằng “lịch sử của mỗi vùng cũng đứt đoạn”, cũng “mang tính chất giai đoạn, chứ không tiến triển liên tục”. KWT không thừa nhận có một dân tộc Việt Nam thống nhất và tồn tại liên tục hằng ngàn năm nay. Do đó, KWT dùng khái niệm “những người nói tiếng Việt” (people who speak Vietnamese) cùng sống trên mảnh đất hình chữ S. Những người nói tiếng Việt không nhất thiết hợp thành một dân tộc Việt duy nhất, cũng như những người nói tiếng Anh ở Mỹ, Anh, Canada, Australia, New Zealand… thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Khái niệm “những người nói tiếng Việt” gợi cho chúng ta nhớ lại mồ ma Thierry d’Argenlieu. Trong thông tư số 215/CP.Cab ngày 15/1/1947, viên cao ủy Pháp tại Đông Dương này cấm dùng từ “Việt Nam” trong các tài liệu chính thức, trên báo chí cũng như khi trò chuyện; thay vào đó, ông ta bắt dùng cụm từ “ba xứ nói tiếng An-nam” (trois pays de langue annamite – ba xứ là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ)(11). KWT không thể chối bỏ một thực tế hiển nhiên là người Việt từ đỉnh Lũng Cú đến mũi Cà Mau “đều nói một ngôn ngữ mà tất cả đều hiểu”, nhưng vẫn gượng gạo đưa ra nhận xét: “Cái “ngôn ngữ chung” đó là một lớp âm thanh, từ vựng và cú pháp tương đối hời hợt [?!] mà ẩn bên dưới đó là những lớp sâu sắc hơn của những mô hình ngôn ngữ vùng”, “bên dưới lớp âm thanh, ngữ âm, lời nói chung, hay bất kỳ cách tưởng tưởng nào của chúng ta về hiện tượng ngôn ngữ con người, là những con người khác biệt mà cái nhìn của họ về bản thân và người khác dựa vào địa hình vùng họ sống và dựa vào những trao đổi văn hóa có được tại vùng đó”. Không chĩ khác biệt trong không gian, người Việt còn khác biệt trong thờii gian : “Người Việt thế kỷ 13, 15, 17 không giống người Việt thế kỷ 20” ! Như thế, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm khác với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp ! Vì Việt Nam, theo KWT, không phải là một dân tộc thống nhất và phát triển liên tục nên ông ta phủ nhận việc Việt Nam có một lịch sử chung: “Ý tưởng về một “lịch sử chung” là một điều được tưởng tượng và tranh luận, chứ không phải là một vấn đề hiển nhiên; nó không phải là một di sản rõ rệt, mà đúng hơn, nó được nghĩ ra, dạy dỗ và học từ thế hệ này sang thế hệ khác: nó là vấn đề truyền thụ. Một “lịch sử chung của người Việt” là chuyện ý thức hệ và chính trị, không phải là học thuật (…). Việc xây dựng một “lịch sử chung” nằm trong địa hạt thần thoại”. KWT cũng phủ nhận việc Việt Nam có một bản sắc văn hóa dân tộc. Trước đây, các nhà viết sử thường nhận định “người Việt Nam trở thành một loại người riêng biệt là nhờ một phản ứng chung hay thống nhất trước mối đe dọa can thiệp của nước ngoài”. KWT bác bỏ điều đó, cho đó “đơn giản là sự kiêu ngạo của cách viết sử [theo khuynh hướng] dân tộc chủ nghĩa đã biến “tinh thần chống ngoại xâm” thành tố chất vĩnh cửu trong “bản sắc Việt Nam”. Song song với việc phủ nhận truyền thống “đánh giặc, giữ nước” của dân tộc Việt Nam, KWT công khai bảo vệ chiến tranh xâm lược mà Mỹ đã tiến hành nhiều nơi trên thế giới (trong đó có Việt Nam). Trong khi “đối với một số học giả đồng nghiệp, lên án Hoa Kỳ là một đế quốc, bạo quyền phát-xít rất hợp thời trang”, thì KWT “không còn cảm thấy bị đe dọa bởi những khẳng định vô căn cứ như vậy”. KWT “chấp nhận tiền đề rằng Hoa Kỳ có một vai trò chính đáng, thậm chí không thể tránh được, trong thế giới ngày nay”, “tin rằng quyền lực toàn cầu trong tay của Hòa Kỳ nên được coi như là một trách nhiệm, chứ không phải là một điều mà chúng ta cần phải xin lỗi”. Áp dụng tiền đề đó vào trường hợp Việt Nam, KWT tuyên bố: “Tôi không thể chấp nhận định lý rằng Hoa Kỳ không có lý do chính đáng để được can thiệp vào Việt Nam”. Theo KWT, “yếu tố dẫn đến thất bại của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam [tức chế độ Diệm – Thiệu] không phải là thiếu ý chí và quyết tâm, mà là một loạt các quyết định sai lầm trong chính quyền Kennedy và Johnson đã kéo dài cuộc chiến đưa đến bế tắc, làm cạn kiệt sự kiên nhẫn của người dân Mỹ”. Tóm lại, “bi kịch của Việt Nam không phải là nước Mỹ đã can thiệp [vào Việt Nam] khi họ không nên can thiệp, mà đúng hơn là sự can thiệp đã quá vụng về”. KWT thường bác bỏ quan điểm sử học của Việt Nam (trước kia cũng như hiện nay), cho đó là sử học dân tộc chủ nghĩa, sử học chính trị hóa. Thực ra, KWT dưới lớp áo “sử gia”, đã sử dụng sử học để phục vụ những quan điểm chính trị sai trái, xuyên tạc lịch sử Việt Nam, biện minh cho chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. Thế nhưng, trong diễn văn ngày 24/3/2015 nói trên, Nguyên Ngọc thay mặt cho Quỹ văn hóa PCT, ca ngợi KWT là “một người thật sự yêu đất nước này, muốn hiểu nó tận cùng như hiểu chính mình, để cho đất nước anh hùng mà khổ đau này sống thật đàng hoàng trong thế giới xiết bao khó nhọc ngày nay” và “cảm ơn KWT vì tình yêu chân chính và nỗ lực trằn trọc của ông cho khoa học lịch sử Việt Nam, cho Việt Nam”(12). Nguyên Ngọc có biết ai là những người đã gây ra khổ đau cho đất nước này không? Thật là mỉa mai khi Nguyên Ngọc tâng bốc KWT là “người thật sự yêu đất nước này”. Phải chăng KWT yêu theo kiểu Nguyên Ngọc đang yêu? Cụ Phan Châu Trinh là chí sĩ hy sinh trọn đời mình cho dân cho nước. Không ai có thể lợi dụng tên tuổi cụ để làm chuyện phản quốc ! Nguyễn Đình Vân Tiên Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 5, 2015 Cảm ơn Hoangnt đã tìm được bài viết này. Tôi không bàn về những luận điểm của cái nhà ông gọi là Sử học Huê Kỳ quốc tích Mỹ Keith Weller Taylor về những quan điểm của ông ta trong xã hội hiện đại. Nhưng trong cái gọi là : "Cộng đồng khoa học thế giới" ủng hộ quan điểm của "hầu hết những nhà khoa học trong nước" phủ nhận cội nguồn văn hóa sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến, thì cái nhà ông "khoa học" này là người ủng hộ duy nhất trong giới "khoa học" của Huê Kỳ. Đây là học giả nước ngoài được giáo sư Trần Quốc Vượng với nhiều bài viết phủ nhận cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, lấy dẫn chứng nhiều nhất. Từ lâu, tôi đã có những luận cứ hợp lý trong mối liên hệ của những vấn đề và hiện tượng liên quan, một cách rất thuyết phục, là: Việc phủ nhận cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, hoàn toàn phi khoa học - hay nói rõ hơn: Đó là một âm mưu chính trị quốc tế. Nó bắt đầu từ những nghiên cứu của bộ phận CIA ở Nam Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Colby. Sau đó nó là một thỏa thuận giữa Huê Kỳ và Trung Quốc trong những cuộc đi đêm từ đầu những năm 1970. Do đó, chúng ta thấy rằng: Gọi là "cộng đồng khoa học quốc tế", nhưng chỉ giới hạn trong những nhà gọi là "khoa học" thuộc bốn nước là" Anh (Đóng góp trong các nội dung của BBC);Pháp (Có vài người gọi là "nhà khoa học" nửa mùa, quốc tịch Pháp, gốc Việt) - cả hai nước này đều là Đồng minh chí cốt của Hoa Kỳ; cuối cùng là Trung Quốc. Và tại Hoa Kỳ có duy nhất ông Keith Weller Taylor này. Nay bài viết trên vạch ra: Ông ta là một nhân viên tình báo (*). Đây lại thêm một bằng chứng nữa cho việc phủ nhận cội nguồn Việt sử chỉ là một âm mưu chính trị quốc tế. KWT chọn hướng thứ hai: ông ta xin gia nhập ngành quân báo để được huấn luyện về tình báo và tiếng Việt trong hai năm với hy vọng “may ra chiến tranh sẽ kết thúc trước khi năm học được hoàn tất”. Thành thật chia buồn với "Quỹ Phan Chu Trinh". ============= PS: Qua đó, cho thấy rằng: Những luận điểm minh chứng cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến với phương pháp của riêng tôi và từ một mình tôi, đã phải chống chọi khó khăn như thế nào với cả một âm mưu quốt tế như vậy. Này: Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh thách tất cả các nhà khoa học ở tất cả các viện hàn lâm khoa học trên thế giới phủ nhận được Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến trong một cuộc hội thảo khoa học công khai với tôi. ============= * Chú thích: Hệ thống lập luận của tôi đủ để xác định một âm mưu quốc tế phủ nhận cội nguồn Việt sử, mà không cần bằng chứng quân báo về ông Taylor này. Với bằng chứng này, nó chỉ bổ sung cho thêm phần hấp dẫn mà thôi. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 5, 2015 Không hiểu sao, nước Việt toàn sử "lạ" - rất quái NGUYỄN TRƯỜNG TỘ TRONG CHIÊU BÀI CANH TÂN Tác giả: Bùi Kha PHẦN HAI - Dựa vào các bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ và những sử liệu mà đa số là các tài liệu mật để nhận định tư tưởng chính trị và những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ qua ba bản Di Thảo quan trọng nhất nói trên. Chương 1 NGUYỄN TRƯỜNG TỘVÀ VẤN ĐỀ CỘNG TÁC VỚI PHÁP. Một trong ba Di Thảo quan trọng nhất của Nguyễn Trường Tộ là bài Thiên Hạ Dại Thế Luậnmà qua đó chúng ta sẽ thấy sự sai lầm và hậu ý của Nguyễn Trường Tộ lúc ông kêu gọi dân Việt nam nên hòa và hợp tác với Pháp. Nhận định bản Di Thảo số 1 Thiên Hạ Đại Thế Luận (Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ). Viết khoảng tháng 3-4-1863. Chúng ta biết rằng Đà Nẵng bị mất ngày 1-9-1858 vì cuộc viễn chinh xâm lăng của quân đội Pháp do Đô đốc Rigault de Genouilly chỉ huy. Ngày 21-6-1859 triều đình đành phải chấp nhận thương thuyết với Pháp. Tháng 3, 1860 Pháp rút khỏi Đà Nẵng và vào Sài Gòn để chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Với Hòa ước 1862 giữa Pháp, Tây Ban Nha và Việt Nam, Pháp được thỏa mãn tất cả những gì mà họ đòi hỏi như : nhường cho Pháp ba tỉnh phía đông Nam Bộ: Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, thừa nhận quyền tự do truyền đạo của các phái bộ Gia Tô (Công giáo)... Tình hình dân Việt Nam lúc bấy giờ chia làm hai phe: Quần chúng thì chủ chiến, còn triều đình thì chủ hòa mà đứng đầu và tích cực nhất của phe chủ hòa nầy là Phan Thanh Giản. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Trường Tộ viết bản Điều Trần số 1 Bàn Về Những Tình Thế Lớn Trong Thiên Hạ (Thiên Hạ Đại Thế Luận) gởi cho triều đình Tự Đức vào tháng 3-4 năm 1863. Lồng nội dung bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ vào tình hình chính trị và quân sự của đất nước lúc bấy giờ, chúng ta có thể đánh giá khá chính xác về tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ trong bài Điều Trần nầy. Nguyễn Trường Tộ viết: Tôi là Nguyễn Trường Tộ, bề tôi nước Đại Nam đã từng trốn ra nước ngoài xin đem những điều mà tôi đã biết và thấy một cách chính xác về sự thế trong thiên hạ, mạo tội kính bẩm. Trộm nghĩ việc trong thiên hạ chỉ có Thế mà thôi. Chữ thế là nói bao gồm cả thiên thời nhân sự. Cho nên người biết rõ thế thì không trái trời không mất thời, không hại người, không hỏng việc. Hãy nói về thiên đạo trước. Khí đất là từ Bắc đến Nam, vận trời từ Tây sang Đông, theo Hà đồ thì thủy ở về phương Bắc, hỏa ở về phương Nam, kim ở về phương Tây, mộc ở về phương Đông. Thủy thì diệt hỏa, kim diệt mộc, ấy là lẽ tự nhiên của trời đất luôn luôn như vậy. Ngày nay các nước phương Tây, đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ Châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây Châu, không đâu là không bị họ chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở phía Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân tới, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Như thế, nếu đó không phải là ý trời định, địa thế xoay vần, thì sao không lấy số đông của bốn đại châu mà kháng cự lại người Tây phương? Huống hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được? Đến như địa thế Trung Hoa chiếm 1 phần 3 Đông phương nhân số đến 360 triệu, uy thế lẫy lừng, ai cũng phải thần phục họ cả, thế mà từ thời Minh về sau, người Tây phương vượt biển sang Đông, hai bên đánh nhau, thây chất thành đống, sau phải giảng hòa không biết bao nhiêu lần. Còn như ta là một xứ nóng, gần kề Quế Hải, là trạm nghỉ chân của người Tây phương trên đường sang Đông. Con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể nào chịu bỏ mà đi. Mới đây người Pháp thừa thế đánh xong tỉnh Quảng Đông, đã đưa quân tinh nhuệ xuống phía Nam, làm Đà Nẵng thất thủ. Khi ấy giả sử ta có 10 vạn quân, cũng không đánh nhau được với họ. Phàm việc binh cốt ở thần tốc, họ đã biết rõ rằng quân ta mới nghe thanh thế họ đã phách lạc hồn xiêu rồi". Nhận định về đoạn văn nêu trên của Nguyễn Trường Tộ. 1.- Tại sao Nguyễn Trường Tộ trốn ra nước ngoài? Nguyễn Trường Tộ đã phạm trọng tội gì đến nỗi phải trốn ra nước ngoài, trong lúc toàn dân đang cùng nhau nổi lên chống Pháp xâm lược để giữ gìn giang sơn? Nếu trả lời rằng vua quan nhà Nguyễn hẹp hòi, kỳ thị tôn giáo, giết người theo đạo Gia Tô thì phải tự hỏi tại sao tín đồ các tôn giáo khác ở Việt Nam thời bấy giờ, như tín đồ đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật, không bị giết mà chỉ có tín đồ đạo Gia Tô bị? Ngay cả tín đồ đạo Gia Tô thời đó, không phải ai cũng bị giết? Nếu không nói là chỉ có những người đạo Gia Tô làm Việt gian cho Pháp mới bị giết hay bị trừng phạt mà thôi, còn những người Gia Tô hiền lành vì dân vì nước đâu có bị nạn gì nguy hiểm mà phải trốn ra nước ngoài. Lịch sử đã cho thấy điều đó. Như thế Nguyễn Trường Tộ tự nhận là đã từng trốn ra nước ngoài ắt hẳn phải có lý do thật quan trọng mà chúng ta sẽ thấy trong bài viết nầy. 2.- Tàu diệt Việt, Pháp diệt Đông Dương Lúc viết Thủy ở về phương Bắc, hỏa ở về phương Nam, kim ở về phương Tây, mộc ở về phương Đông. Thủy thì diệt hỏa, kim diệt mộc, ấy là lẽ tự nhiên của trời đất luôn luôn như vậy. Theo nội dung và tư tưởng cũng như dụng tâm của Nguyễn Trường Tộ trong bài Di Thảo nầy, chúng ta có thể đoán mà không sợ sai rằng Nguyễn Trường Tộ muốn ám chỉ: Trung Hoa (thủy, phương Bắc) diệt Việt Nam (hỏa, phương Nam), và Pháp (kim, phương Tây) diệt Đông Dương (mộc, phương Đông), trong Đông Dương có Việt Nam. Nguyễn Trường Tộ dùng một định luật ngũ hành của Đạo Học đã được công nhận như một tiền đề để biện minh cho một lý luận chính trị. Nhưng thực tế sai lầm qua một số dẫn chứng sau đây: Thật vậy, nước dập tắt được hỏa, nhưng lửa cũng làm cho nước bốc hơi khô cạn sông ngòi. Kim và mộc cũng thế. Vàng sợ gì củi nhưng củi đun nóng cũng làm cho vàng chảy hết. Trên cơ sở sử học cũng thế. Đọc sử Việt chúng ta đều thấy Ngàn năm bị đô hộ giặc Tàu, nhưng nhân dân ta đã dũng mãnh nổi lên dành lại độc lập. Suốt thời Lý Trần, quân Nguyên Mông chiếm cứ cả thiên hạ, nhưng lúc qua Việt Nam họ không những thua trận một lần mà thua trận đến ba lần. Nhà học giả Phan Khôi nhận định nhận định: "... vào thuở nhà Lý nhà Trần đạo Phật tràn ngập cả nước. Chùa chiền khắp nơi, thầy tu làm dân tráng, nhưng nước nhà chưa hề có cái vẻ tích nhược như thời Lê trung hưng hay Nguyễn thống nhất là cái thời đại Nho học thịnh hành. Trái lại, nhà Lý, nhà Trần mạnh lắm, dân khí còn hăng lắm, mấy phen giặc Tàu sang chúng ta đuổi đi như đuổi vịt (Dẫn theo Nguyễn Lang), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 3, Lá Bối xuất bản, Paris, 1985, trang 29). Một cuộc chiến thắng phương Bắc (Trung Hoa) khác, trước thời Nguyễn Trường Tộ, là vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã đuổi 20 vạn quân Thanh về Tàu vào năm 1789. Đó là bằng chứng trong vô số chứng cớ qua lịch sử cho thấy làm gì có chuyện Tàu diệt Việt (Thủy diệt Hỏa) như Nguyễn Trường Tộ khẳng định. Và nếu Tàu diệt được Việt thì có lẽ không có được một Nguyễn Trường Tộ ra đời trên mảnh đất Việt để viết bài hù dọa đồng bào mình. Còn Kim diệt Mộc hay Pháp diệt Á đông trong đó có Việt Nam, là thêm một nhận xét khác thiếu cơ sở sử học của Nguyễn Trường Tộ. Qua lịch sử, chúng ta hẳn còn nhớ, lúc Pháp chiếm Việt Nam có một số không ít chạy theo ngoại bang rước voi dày mả tổ, nhưng hầu hết đại bộ phận dân tộc đã kháng Pháp quyết liệt dưới mọi hình thức, mọi phương tiện Người có dao, giết giặc bằng dao, có gậy chống giặc bằng gậy.. Toàn dân vùng lên chống Pháp, và trận Điện Biên Phủ năm 1954 đã kết thúc chính sách thuộc địa gần 100 năm của Pháp, và thực dân đã phải đầu hàng để trả lại chủ quyền đất Việt cho người Việt. Rồi đến cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc mà cuối cùng Hoa Kỳ cũng phải rời bỏ Việt Nam tháng 4, 1975, dẫu sự rời bỏ nầy dưới tình thế nào. Qua một số sử liệu, trích dẫn dưới đây, ta thấy nếu năm 1858 Pháp đánh Đà Nẵng và lúc Pháp mới chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1860 nếu triều đình Tự Đức không giảng hòa với Pháp, và hô hào toàn dân kháng chiến thì Pháp đã thua trận và rút về nước ngay từ đầu. Như thế không những không có sự lý luận hoang đường Kim diệt Mộc hay Pháp diệt Việt Nam mà trái lại, Mộc diệt Kimhay Việt nam diệt Pháp. Sau đây là dẫn chứng: a.- Ngày 4-1-1859 Đô đốc Rigault de Genouilly gởi cho viên Thượng-thư Bộ Hải Quân một văn thư bi thảm như sau: ... Quả thật tôi thấy cần thiết và hết sức đau đớn xác nhận với ngài về tình trạng tồi tệ về sức khỏe chung. Thiếu tá Levêque, Đại úy Hải quân Virot, phó kỹ sư Delautel đều đã đi Ma-cao và chắc phải đưa về Pháp. Tôi không biết phải đối phó thế nào với các lỗ trống đó. Mỗi ngày lại có nhiều người chết, và thời tiết xấu mà các nhà truyền giáo bảo là sẽ chấm dứt vào đầu tháng 12 vẫn tiếp tục với những trận mưa dầm dề không tưởng tượng nỗi. Chỉ nội sự kiện đó, ngài cũng có thể đánh giá về các tin tức đang đến với tôi về mặt này và lòng tin tưởng của tôi đối những cuộc hành quân phải thực hiện. Dù thế nào đi nữa, thưa ngài Thượng Thư, chúng ta đang nhanh chóng tuột dốc đến kiệt quệ và đến lúc phải bất động tại Đà Nẵng. Mọi phương cách để cải thiện tình trạng quân sĩ đều đã được sử dụng hết và không kết quả. Các y sĩ trước tình trạng bệnh tật đã kết luận là người Âu không nên làm việc gì trong khí hậu nầy, nhưng làm sao được khi ở đây, phải làm những việc cần thiết cho sự phòng vệ, xây cất bịnh viện, lều trại v.v... Đó là một cái vòng lẩn quẩn khiến chúng ta phải điên đầu. (Thư Khố Quốc Gia, tài sản Hải Quân, B 84769, dẫn theo luận án tiến sĩ của Cao Huy Thuần Christianisme et Colonialisme au Viet Nam 1857 - 1914 (Đạo Gia Tô và Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp Tại VN, 1857-1914 Paris, France, 1968, bản ronéo, trang 108). Nguyên văn tiếng Pháp: ...Je dois en effet et bien malheureusement confirmer à Votre Excellence l'état déplorable de la santé générale. M. le Commandant Lévêque, M. le Lieutenant de Vaisseau Virot, M. le S. Ingénieur Delautel vont à Macao et devront être probablement renvoyés en France. Je ne sais plus comment faire face à tous ces vides. Chaque jour amène de nombreux décès et les mauvais temps, qui d'après les missionnaires, devaient finir avec le décembre, continuent avec une abondance de pluies qui dépasse toute idée. Par ce seul fait, Votre Excellence peut juger de la valeur des renseignements qui me viennent de ce côté, et de la foi que je puis leur accorder, pour les opérations à entreprendre avec la division. Mais quoiqu'il en soit, Monsieur le Ministre, nous descendons par une pente rapide vers l'impuissance radicale et le moment où il faudra demeurer immobile à Tourane. Tous les moyens d'améliorer la situation des troupes et des équipages ont été épuisés et sans succès. Les médecins vaincus par la maladie, arrivent à cette conclusion que les Européens ne doivent faire dans ce climat aucun travail, mais alors comment s'y établir, pourvoir aux nécessités de la défense, des constructions d'hôpiteaux, de baraques etc... C'est un cercle vicieux contre lequel on viendrait se briser la tête. (Archives Nationales (Fonds marine) BB4769 CHT, SĐS. trang 108). b.- Trước tình hình nguy ngập như trên, ngày 8-4-1859 một chỉ thị khác của Bộ Hải Quân và Thuộc Địa gởi cho Đô đốc R. de Genouilly như sau: Vì thế Hoàng Thượng tin cậy ở kinh nghiệm và sự sáng suốt của Ông trong mọi quyết định, với lực lượng dưới quyền Ông điều khiển, có nên theo đuổi việc thiết lập nền bảo hộ trên Vương quốc An Nam không; hay chỉ nên cưỡng bức Chính phủ họ, nhờ vào việc chiếm đóng Đà nẵng và nhiều cứ điểm khác mà Ông đã chiếm hay sẽ chiếm được. Cùng với việc phong tỏa một hay nhiều cảng ở Nam Kỳ để đi đến sự ký kết một hiệp ước trên nền tảng kế hoạch 25-11-1857; hay cuối cùng là chúng ta đành bỏ các vị trí mà chúng ta chiếm đóng và từ bỏ hẳn mọi mưu toan rõ ràng ngoài tầm các phương tiện hoạt động mà Ông có. (Chỉ thị của Thượng thư Bộ Hải Quân và Thuộc Địa 8-4-1859, Thư Khố Quốc Gia, Tài Sản Hải Quân, BB4 1045. CHT, SĐD, trang 118 & 119). Nguyên văn tiếng Pháp: Sa Majesté s'en rapporte donc à votre expérience et à votre sagacité pour décider si avec les forces placées sous votre commandement, il convient de poursuivre l'établissement de notre protectorat sur l'Empire annamite; s'il est préférable de se borner à peser sur son gouvernement par l'occupation de Tourane et de tels autres points dont vous avez pu ou vous emparer, ainsi que par le blocus d'un ou de plusieurs ports de Cochinchine, pour arriver à conclure un traité sur les bases du projet du 25 Novembre 1857; ou enfin s'il faut nous résigner à abandonner les positions que nous occupons et à renoncer complètement à une entreprise, décidément hors de proportion avec les moyens d'action dont vous disposer”. (Instruction du Ministre de la Marine et des Colonies 8-4-1859, Archives Nationales, Fonds Marine, BB4 1045). c.- Sau khi Phan Thanh Giản và Lê Duy Hiệp đại diện triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất 1862 với Pháp bị dân chúng lên án là hai kẻ phản quốc. Như thế triều đình Huế đã bỏ rơi phong trào kháng Pháp. Nhưng toàn dân Nam Kỳ đã kháng cự kịch liệt dưới sự điều khiển của Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Thủ Khoa Huân v.v... và đã làm cho quân Pháp vô cùng khốn đốn. Sau đây là một đoạn trong bản báo cáo của Bonard đề ngày 18-12-1862 như sau: Các tàu tôi hiện có, trừ hai chiếc Forbin và Cosmao, đều không thể ra khơi... Đoàn quân viễn chinh bị bệnh tật, chết chóc, sự giảm quân làm cho yếu kém, đang bị sử dụng quá sức: Tôi hoàn toàn bị tê liệt về các phương tiện hành động; tàu bè thì thiếu và bị hư... Tình trạng thảm hại đó nếu không sửa chữa sẽ đưa thẳng chúng ta đến một tai họa không xa! Tôi thấy có bổn phận phải báo cho ngài biết... Thật là đau đớn, sau bao cố gắng quá sức con người mà tôi đã làm từ 15 tháng nay, bây giờ thì mọi thứ đều phải xem xét lại, do sự bỏ rơi các vấn đề của Nam Kỳ... các cuộc khởi nghĩa đồng loạt nổi lên khắp nơi... Tôi bị đẩy vào thế tự vệ, không có phương tiện để lập một đoàn quân chỉ 200 người... Tôi yêu cầu Đô đốc Jaurès gửi ngay cho một số viện quân. Nếu lực lượng tăng viện đến ngay, tôi có thể làm chủ được tình hình, nếu không thì đành bất lực. (Thư khố Bộ Ngoại Giao Châu Á, kỷ yếu và tài liệu, tập 28 trang 221-224. Dẫn theo CHT, trang 170). Nguyên văn tiếng Pháp: Les vieux bâtiments dont je dispose sont, à l'exception du Forbin et du Cosmao, incapables de prendre la mer... Le personnel du corps expéditionnaire affaibli par les maladies, les morts et les congédiements, est surmené: Je suis complètement paralysé dans mes moyens d'action; mes navires sont insuffisants et en trop mauvais état... Cet état déplorable, si l'on n'y porte un prompt remède, nous mène droit à une catastrophe qu'il est de mon devoir de signaler à Votre Excellence comme imminente... Il est pénible, après les efforts surhumains que je fais depuis 15 mois, de voir tout remis en question, par suite de l'abandon dans lequel sont laissées les affaires de Cochinchine... L'insurrection a éclaté partout à la fois... Je suis réduit à la défensive, n'ayant pas les moyens de former une colonne de 200 hommes... Je demande à l'amiral Jaurès instamment de m'envoyer quelques renforts. Si ces renforts arrivent promptement, je pourrai me rendre maitre de la position, si non, non”. (Dépêche du 10, 12, 1862, Archives du Ministère des Affaires Étrangères Asie, Mémoires et Documents, vol. 28, fol. 221-224). d.- Ngày 27-1-1863 Bonard cũng than thở: Lực lượng chúng ta giảm dần vì chết, vì bệnh, vì rút quân, đang bị đuối sức từng ngày, rõ ràng không thể tiếp tục trong sáu tháng một chiến trận như thế này. Chúng ta thiếu Bộ binh, thiếu Hải quân, thợ máy, phương tiện chuyên chở, tất cả trang bị Hải quân chúng ta hoàn toàn cũ mèm mà không có phương tiện sửa chữa; sự vận tải trên đất cũng thành vô hiệu, vì thiếu tài xế cho xe bộ binh, thiếu xe cứu thương, thiếu thực phẩm v.v... (Văn thư 27.1.1863 trang 295 và 318). Nguyên văn tiếng Pháp: Notre effectif réduit par les morts, les maladies, les évacuations est accablé de fatigue; chaque jour il diminue; il est matériellement impossible de continuer 6 mois une pareille campagne. Nous manquons d'hommes, de marins, de mécaniciens, de moyens de transport; tout notre matériel naval est complètement usé, et sans que nous ayons les moyens de pouvoir les réparer; les transports par terre sont aussi radicalement anéantis, faute de conducteurs pour le train d'artillerie, les ambulances, les vivres etc..." (Dépêche du 27-1-1863, fol. 295 et 318, CHT, SĐD, trang 170 & 171). Qua bốn chứng liệu của các viên chức cao cấp trong bộ Hải Quân và Thuộc Địa, chúng ta thấy rõ triều đình Huế đã không nắm vững tình hình của Pháp, bằng không, thì Pháp đã bị bại trận từ đầu. Trong lúc số phận của quân thực dân Pháp sắp cáo chung đến nơi, như chúng ta thấy ở trên, thì Nguyễn Trường Tộ lại viết: Nay các nước phương Tây, đã bao chiếm từ Tây Nam cho đến Đông Bắc,... ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa, ai hòa với họ thì được yên,... Từ đó, Nguyễn Trường Tộ dõng dạc khuyên dân Việt Nam: Huống hồ nước Việt Nam ta là một nước nhỏ bé, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được. Nói cách khác, theo Nguyễn Tr. Tộ, thuận với đạo trời (Thượng Đế, BK) thì nên dâng tổ quốc cho giặc Pháp, chống làm gì cho thêm họa. Nguyễn Trường Tộ còn viết tiếp: Con giao long (người Pháp, BK) khi thấy đầm vực (Việt Nam) thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể nào chịu bỏ mà đi. Câu quả quyết chắc nịch nầy của ông có một giá trị nào không? Qua vài dẫn chứng ở trên và sau nầy, và qua trận Điện Biên Phủ, 1954, chúng ta đã thấy được câu trả lời rồi. 3.- Lính Việt Nam hèn nhát, chưa đánh đã chạy. Nguyễn Trường Tộ đánh giá quân đội Việt Nam rất thấp lúc viết: Quân ta mới nghe thân thế họ đã phách lảng hồn xiêu rồi... ... Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì quân ta chưa xáp trận mà gươm giáo đã tan tành. Khi họ đến gần thì dùng lưỡi lê xung phong một người đương được cả 100 người, xông lên như nước chảy xiết. Lúc ngừng lại thì như núi dựng, xông vào chẳng qua cũng như chuồn chuồn lay cột đá mà thôi. Không biết Nguyễn Trường Tộ căn cứ vào đâu mà đánh giá quân đội ta một cách tồi tệ bi thảm hóa tình hình và quá sai lạc như thế. Sau đây là vài bằng chứng. Văn thư đề ngày 21-9-1859, Đô đốc R. de Genouilly viết: Càng đi sâu vào tình hình Vương Quốc An Nam, các bức màn càng vén lên, những lời khẳng định dối trá (của các giáo sĩ, BK) càng tan biến, không thể không thừa nhận rằng cuộc chiến tranh chống lại xứ nầy còn khó hơn cuộc chiến tranh chống lại thiên triều... Nguyên văn tiếng Pháp: ... à mesure que l'on pénètre dans la situation de l'Emprire annamite, que les voiles se lèvent, que les assertions mensongères disparaissent, il est impossible de ne pas reconnaitre qu'une guerre contre ce pays est plus difficile qu'une guerre contre le Céleste Empire. (Trích trong Dépêche de l'Amiral Rigault de Genouilly, Archives Nationals, Fond Marine # BB4 769: Dẫn theo CHT, trang 117-118). Bonard cũng lo âu kêu cứu: Người An Nam đã tỏ ra dày dạn chiến đấu, họ đã làm đảo lộn vai trò, giờ đây họ tấn công chúng ta ngay những vị trí của chúng ta (Poyen - Notice sur l'Artillerie de la Marine en Cochinchine - Paris 1893 - tr. 81-82. Dẫn theo Thái Hồng trong Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước, SĐD, trang 263). Hai dẫn chứng vừa nêu, cho thấy sự đánh giá tệ mạt của Nguyễn Trường Tộ về tình hình chiến đấu của dân Việt Nam là hoàn toàn sai, và hình như có mục đích nhằm cứu vãn tình thế nguy ngập của quân đội Pháp. 4.- Giết giáo sĩ, xin một miếng đất, nếu thỏa mãn Pháp sẽ đi. Nguyễn Trường Tộ viết: Hơn nữa, người Pháp đến đây, một là hỏi ta vì sao giết hại giáo sĩ, hai là hỏi vì sao không chịu giao thiệp, ba là xin ta cắt cho một vài chỗ để làm đường giao thương như các nước thường làm. Lúc đầu họ không có ý đi cướp nước người. Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn như đã ước định chứ đâu đến nỗi dây dưa lan rộng như thế. Cũng ví như nước lụt, người hiểu biết thì thuận theo thế nước mà cho chảy xuôi, để nước chảy về sông về biển thì hết, nếu ngăn đọng lại thì úng núi ngập gò, tắc lại thì trôi nhà trôi cửa. Cho nên người khéo trị lụt, thì việc làm hết sức đơn giản." Qua đoạn văn ấy chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ nêu ra mấy vấn đề: Vì sao giết giáo sĩ, sao không chịu giao thiệp, xin ta cắt cho một vài chỗ, họ không có ý đi cướp nước, nếu yêu sách thỏa mãn họ sẽ chấm dứt... Rồi Nguyễn Trường Tộ khuyên rằng, nay đã lỡ rồi, không nên cản ngăn cho sinh họa, nên buông vận mạng quốc gia cho Pháp: như nước chảy về sông về biển thì hết, ngăn lại thì úng núi ngập gò. Trước lúc đưa ra những dữ kiện để cho thấy cái sai lầm của Nguyễn Trường Tộ, tôi muốn dựa trên cái lý để nêu ra vài câu hỏi: Tại sao giáo sĩ bị giết? Quốc gia Việt Nam có hay không, quyền không giao thiệp, quyền không cắt nhượng giang sơn? Lồng các nhận định của Nguyễn Trường Tộ nêu trên vào khung cảnh nước nhà lúc bấy giờ, và trước lúc Nguyễn Trường Tộ viết bản Di Thảo nầy vào giữa năm 1863 các sử liệu sau đây cho thấy lý do tại sao giáo sĩ bị giết. 4.1.- Giáo sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) 1593-1660 đã có chương trình dẫn thực dân Pháp vào chiếm đất nước ta. Trong cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo", trang 263 & 264, phần Việt ngữ. Hồng Nhuệ dịch, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo xuất bản, TP Hồ Chí Minh 1994). Nguyên văn chính A. De Rhodes chứ không ai khác đã viết như sau: Tôi tưởng nước Pháp là nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn cõi Đông Phương đưa về qui phục chúa Ki Tô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó tôi rời Rôma ngày 11-9-1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo Hoàng. Tôi đi qua Marxây và Lyon rồi tới Paris, theo tôi thì Paris là thu gồm hay đúng hơn là bản mẫu tất cả những gì đẹp nhất tôi đã thấy ở khắp trái đất nầy. "Trên đường từ Lyon tới Paris tôi nghiệm thấy có sự quan phòng rất đặc biệt của Chúa tôi vẫn coi như kim chỉ nam và mẫu mực. Để ra mắt ở Pháp tôi cần có thiên thần hộ vực để đưa tôi lọt vào triều đình vua cao cả nhất hoàn cầu. Thế là tôi gặp ở Roanne đức Henri de Maupa, giám mục thành Puy, tu viện trưởng Saint Denis, đệ nhất tuyên úy của hoàng hậu. Ngài có nhã ý cùng đi với tôi trong cuộc hành trình nhỏ bé này. Trong mười lăm ngày, tôi thấy nơi ngài rất nhiều nhân đức và thương yêu suốt đời tôi, tôi quí mến công ơn và sẽ đề cao hội ngộ may mắn nhất trong suốt các cuộc hành trình của tôi. Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Quốc, ở Đàng Trong, ở Đàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanchicô Xavie tới ba trăm quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm ở những nơi cùng kiệt cõi đất. Tôi nhận được vô vàn thư của các cha dòng chúng tôi tự nguyện xung phong trong đoàn binh vinh quang. Tất cả năm tỉnh dòng ở Pháp đều có nhiều người quảng đại ghi tên. Các ngài viết thư về Rôma, các ngài cầu nguyện, các ngài thỉnh cầu bề trên và bề trên đã chọn hai mươi người để trẩy đi trong ít ngày sắp tới... Nguyên văn tiếng Pháp: J'ai cru que la France estant le plus pieux Royaume du monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conqueste de tout l'Orient, pour l'assujettir à Jésus-Christ, & particulièrement que j'y trouuerois moyen d'avoir des Euesques, qui fussent nos Pères, & nos Maistres en ces Églises, je suis sorti de Rome à ce dessein le vinziesme Septembre de l'année mil six cents cinquante deux après avoir baisé les pieds au Pape. Je suis venu par Marseille, & par Lyon jusques à Paris qui est, à mon aduis, l'abrégé ou plutost l'original de tout ce que j'ai veu de beau dans tout le reste du monde. C'est en ce chemin de Lyon jusques à Paris ó j'ai encore experimenté vne sset très particulier de la Prouidence qui m'a toujours seruy de guide, & de mère, il me falloit pour paroistre en France, auoir vn Ange tutelaire, qui me donnast vne entrée fauorable dans la Cour du plus grand Monarque de toute la terre .J'eus la rencontre à Roiiane du Puy de Monseigneur Henry de Maupas Euesques, Abbé de Saint Denys, premier Aumônier de la Reyne, il eut la bonté de me tenir en sa compagnie, pendant ce petit voyage, je vis en ce grand Prélat pendant onze jours tant de vertus, & tant de bonté, que je cheriray toute ma vie le souvenir de son mérite, & seray estat que cette rencontre est l'une des plus heureuses de tous mes voyages. Je n'eus pas plutost publié cette belle Croisade, contre tous les ennemis de la Foy qui sont dans le Japon, dans la Chine, dans le Tunkin, la Cochinchine, & la Perse, qu'aussit-tost vn grand nombre d'enfants de Saint Ignace, animez du mesme esprit, qui a porté Saint Francois Xauier en trois cens Royaumesse sót embrazés de désir, pour prendre la Croix de leur maistre, & l'aller arborer à ces extremites de la terre. J'ai reccu vn nombre infini de lettres de nos Pères, qui me demandoient d'etre enrollez en cette glorieuse milice, toutes nos cinq Prouinces de France ont suplies de ces genereus pretendants, ils ont escrit à Rome, prié Dieu, solicité nos Superieurs, ils en ont choisi vingt entre plusieurs qui vont partir dans peu de jours. (Đây là loại tiếng Pháp thế kỷ 17). Đó là một bằng chứng rõ ràng mà chính Linh mục Dòng Tên A. de Rhodes xác nhận là chính ông ta đã vận động triều đình Pháp đánh chiếm Việt Nam. Chỉ với một thí dụ trên thôi, chúng ta thấy chính Đắc Lộ và ngay cả Giáo hoàng La Mã (người mà Đắc Lộ hôn chân trước lúc đi Pháp) đã âm mưu vận động chính phủ Pháp Cướp nước (chữ Nguyễn Trường Tộ dùng) Việt Nam từ năm 1625, tức là hơn 200 năm trước lúc Nguyễn Trường Tộ ra đời. 4.2.- Lời phê bình của Đô đốc R. De Genouilly: Để cho vấn đề được vô tư hơn, và để thấy ngay các hành động mà giáo sĩ đạo Gia Tô La Mã đã tác hại cho đất nước Việt Nam, xẩy ra lúc mà Nguyễn Trường Tộ vào khoảng 30 tuổi, chúng ta nên nghe lời than phiền của Đô đốc Rigault de Genouilly về hành động mà họ gọi là kẻ tử đạo. "Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Gia Tô, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ (các giáo sĩ, BK). Nếu cũng vì những yếu tố buộc tội đó mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm quyền An Nam trục xuất thì báo chí của người truyền đạo lại kêu la om sòm là họ bị bạo hành”. (Fut - elle au service de l'intérêt chrétien, ne pouvait tolérer leur intrusion permanente et insolente dans les affaires politiques, civiles et militaires qui ne sont et ne doivent pas être de leur ressorts. Si l'expulsion du Mgr Pellerin avait été prononcée, pour les mêmes chefs d'accusation, par une autorité Vietnamienne, la presse des missionnaires aurait crié partout persécution. (Văn thư 29-1-1859, dẫn theo CHT, SĐD, trang 113). Đó là hai dữ kiện lịch sử cho chúng ta thấy Giáo hoàng và các giáo sĩ có âm mưu gây tang tóc cho dân tộc Việt Nam hay không? Và qua sự kiện đó chúng ta cũng thấy được nguyên nhân của các vụ trục xuất và đàn áp giáo sĩ cũng như con chiên. Thế mà Nguyễn Trường Tộ, một nhà thông thái, đã thực sự không biết, hay muốn xuyên tạc lịch sử để nói rằng: Lúc đầu họ không có ý cướp nước người. Nguyễn Trường Tộ nhận định thêm rằng Nếu những yêu sách... được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn. Để đánh giá lời phát biểu nầy, chúng ta nên biết qua một vài sử liệu dưới đây: 4.3.- Bản tường trình của Đô Đốc Bonard: Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông ở Nam Kỳ là: Biên Hòa, Gia Định, và Định Tường, Việt Nam ký với Pháp Hòa-ước 1862, Đô đốc Bonard gởi cho chính phủ ông một bản tường trình bằng cách đặt bốn câu hỏi, mà câu hỏi thứ tư như sau: Bằng lòng với ba tỉnh đang chiếm được, tổ chức lại để đảm bảo an ninh và tự do buôn bán dưới ngọn cờ của nước Pháp ư? Đặt câu hỏi như thế, rồi chính Bonard tự trả lời câu hỏi ấy như sau: Giải pháp thứ tư, đòi hỏi phải có những hy sinh mới, nhưng có thể dẫn đến kết quả là tổ chức và xử dụng được cái xứ rộng lớn mà vũ khí đã may mắn đặt nó vào tay chúng ta. Những hy sinh nầy rất cần thiết để duy trì những ảnh hưởng tốt của chúng ta ở Viễn Đông, bằng không sẽ còn phải thêm bao nhiêu máu và tiền bạc, đổ ra nữa mà không có gì hy vọng trước mắt hoặc trong tương lai. Nguyên văn tiếng Pháp: "Se contenter des trois provinces acquises, les organiser, y assurer la sécurité commerciale sous le drapeau Francais?” “La quatrième combinaison exige de nouveaux sacrifices, mais elle peut amener à organiser et à utiliser le vaste pays que les chances de la guerre ont mis entre nos mains. Ces sacrifices sont indispensables pour maintenir très haut l'influence que nous avons conquise dans l'Extrême Orient, sous peine de voir tout les sang et l'argent dépensés venir s'ajouter à celui tout à fait perdu qu'il faufra pour subvenir aux demi-mesures, desquelles il n'y a rien à espérer ni dans le présent, ni dans l'avenir..”. (Trích trong “Correspondance de Cochinchine, Tom VI,pp. 130 à 147. Archives du ministère de la France - Outremer, Paris: Thư quan hệ giữa Nam Kỳ, tập 4, trang 130- 147. Lưu trử Bộ Ngoại giao Pháp, Paris. Dẫn theo Nguyễn Xuân Thọ trong cuốn Histoire de la Pénétration Francaise Au Vietnam" (1858-1897. Trung tâm văn hóa Linh Sơn xuất bản, Hawaii, 1993, trang 91-92). Qua ý kiến của Đô đốc Bonard như trên, chúng ta thấy Pháp thỏa mãn với Hòa Ước 1862 sau khi đã ký kết với triều đình vua Tự Đức, nhưng sau đó không lâu, tháng 6, 1867 Pháp chiếm trọn cả Nam Kỳ, Phan Thanh Giản tự tử. Đến ngày 20-11-1873, sau khi Nguyễn Trường Tộ chết khoảng 2 năm, Pháp lại chiếm luôn Bắc Kỳ, anh hùng Nguyễn Tri Phương bị thương và sau đó cũng uống thuốc độc tự tử. Như thế, lời khuyên của Nguyễn Trường Tộ: Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn là một đề nghị chỉ có lợi cho Pháp mà thôi. 5.- Chiến là đổ thêm dầu vào lửa, hòa là thượng sách Nguyễn Trường Tộ viết: Hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, họ đào kinh đắp lũy trù kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển. Bây giờ như ta muốn cố thủ thành trì đợi cho họ tê liệt thì thật chẳng khác nào muốn quét sạch lá rừng, tát cạn nước biển. Không hòa mà chiến, khác nào cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn nữa. Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách. Nếu như ngày kia Pháp đưa quân đến thì việc vượt biển cũng như đi trên đất bằng, trèo non như đi trên đường bộ. Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như một con rắn dài. Nếu họ dùng hỏa thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh dọc bờ biển, lại cho các tàu đậu ngoài cửa sông lớn để triệt sự vận tải đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chận đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương, rồi lại đổ bộ tiến đánh các chỗ xung yếu, gấp rút truyền hịch khắp Nam Bắc, chiêu mộ bọn giặc cướp ẩn náu dùng làm bọn dẫn đường, thì thủy binh của ta sẽ trở thành vô dụng. Suy nghĩ về 2 đoạn trong bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ nêu trên, được gởi cho triều đình Tự Đức khoảng tháng 3-4,1863, và một tối hậu thư đề ngày 28-2-1863 của đại diện toàn quyền chính phủ Pháp và Tây Ban Nha gởi cho Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, chúng ta thấy có những ý tứ và những chữ dùng trùng hợp nhau như sau: Nếu chấp thuận (phê chuẩn hiệp ước) thì dân chúng và vương quốc An Nam sẽ không còn những khốn khổ. Nếu không, thì Vương quốc ông sẽ không còn nữa, vì điều đó sẽ dẫn đến sự tham dự của những người nổi loạn miền Bắc và sự chiếm đóng tức thời ba tỉnh phía Nam. Như thế vương quốc của ông sẽ mất đi cùng lúc cả Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Nguyên văn tiếng Pháp: Oui, c'est la fin des malheurs du peuple et du royaume d'Annam. Non, c'est la ruine de ce royaume, car il entrainera nécessairement l'assistance aux insurgés du Tonkin et la prise immédiate des trois provinces du sud: Votre royaume perdra donc, du même coup le Nam Ky et Bac Ky. (Archives du Ministere des Affaires, Asie, Mémoires et Documents, Tome 28, pp.403 - 404: Trích trong CHT, SĐD, trang 171. Thư khố Bộ ngoại giao, Á Châu, kỷ yếu.) Sở dĩ có sự hăm dọa như trên vì vua Tự Đức một mặt kiếm cớ trì hoãn sự phê chuẩn hiệp ước, mặt khác vận động chuộc lại các tỉnh đã mất. Như thế, Nguyễn Trường Tộ có đi đêmvới Pháp hay không? Quí độc giả đọc lại lời Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình và những lời hăm dọa hỗn xược của thực dân, như đã nêu trên, rồi tự tìm cho mình câu trả lời. 6.- Nên nhường đất cho lính nghỉ, giáo sĩ chỉ mở rộng đạo không tranh giành đất. Nguyễn Trường Tộ viết: Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi. Họ chỉ xin mình miếng đất mà thôi, nếu cứ kiên quyết không cho, họ sẽ lập mưu cướp hết... Không thấy một nước Trung Hoa to lớn là thế mà còn phải cắt đất cầu hòa... Việc cống nạp của Tống (nước Tống bên Tàu thời xưa nộp tiền và hàng hoá cho nước khác, BK), tất cả đều lấy việc không đánh là hơn... Theo cách ngày nay thì nên để cho quân lính nghỉ ngơi, rồi làm theo chước Hán Cao Tổ ngày xưa cắt Quan Trung cho hạng Võ (*) để họ giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới... Còn như các giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống lại gian tà, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì đến những việc tranh thành tranh đất cả... Trong lúc Tổ-Quốc lâm nguy bị thực dân Pháp cướp nước, toàn dân nổi lên chống Pháp khắp nơi. Người có gậy đánh bằng gậy, người có dao chém kẻ thù bằng dao, người dân nghèo nàn đói khổ thì bỏ nhà ra đi bất hợp tác với quân xâm lăng, thế mà Nguyễn Trường Tộ khuyên quân lính nên nghỉ ngơi, không đánh, nhường đất để họ giữ bờ cõi cho mình... tôi xin nhường sự đánh giá này cho độc giả. Riêng phần tôi xin góp thêm hai ý kiến như sau: Một, qua các sử liệu mà chúng ta đã thấy, nếu triều đình vua Tự Đức biết được tình hình rối loạn của địch và thấy được thế mạnh của ta, thì quân xâm lược bị chôn xác xuống lòng đất ngay từ những tháng đầu của việc chiếm đóng. Hai, triều đình Vua Tự Đức muốn giảng hòa với Pháp khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ đã mất, nhưng vấn đề đó không thể thực hiện được một cách có lợi cho quốc gia Việt Nam, vì những kết quả tốt đẹp có được tại bàn hội nghị sẽ tùy thuộc vào những chiến thắng quân sự tại chiến trường. Còn không, thì Việt Nam là người đi xin mà Pháp là kẻ bố thí. Người xin chỉ được những gì mà người cho phế thải ra mà thôi. Thật vậy, trước lúc phái bộ Phan Thanh Giản vào Nam Kỳ để thương thuyết với Pháp, cuối buổi tiệc khoản đãi phái bộ trước khi lên đường, vua Tự Đức nói với các đình thần những lời cảm động như sau: Đất nước hôm nay đang bị dồn vào ngõ cụt khó khăn; muốn đưa nó thoát ra, chỉ có bàn tay của những người tôi trung tài năng và tận tụy. Có hai điểm cơ bản các khanh cần luôn luôn ghi nhớ: vấn đề nhường đất và vấn đề hành đạo Cơ Đốc giáo. Về hai điểm quan trọng hàng đầu ấy, các khanh đừng nhẹ dạ trong việc ký kết. Đừng vì một sự yếu đuối hay vội vàng nào đó mà làm thiệt hại đến vận mệnh và danh dự của cả giang sơn đang được giao phó vào tay các khanh. Các khanh phải xác định đinh ninh như vậy và dù bất cứ vì lý do nào và bất cứ giá nào cũng đừng đi trệch cái chương trình đã vạch. Các khanh đi! Và cầu cho những lời ước nguyện của Trẫm luôn luôn theo bước các khanh! Cầu mong cho các khanh được sớm trở về, đầy vinh quang vì đã bảo vệ danh dự của non sông và giữ gìn được sự vẹn tròn lãnh thổ. Đây là lời cầu chúc duy nhất của Trẫm cho các khanh trước lúc lên đường. Nhưng: Ngày 7. 6. 1862, các sứ thần Việt Nam rời Sài Gòn trở về Huế tường trình về nhiệm vụ của sứ bộ: Kết quả đáng buồn, chẳng đáp ứng được bao nhiêu với những ước vọng của nhà vua. Đất nước bị cắt mất ba tỉnh miền Đông: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, người Pháp bắt một nước đã bị xơ xác vì bao nhiêu nạn chiến tranh và chiếm đóng, phải trả một số chiến phí quá nặng nề: 4 triệu đồng bạc tức khoảng 2.800.000 lượng bạc. Sau nữa, là chuẩn y mười hai điều khoản liên quan đến vấn đề hành đạo Ki Tô và mở cửa đất nước cho việc buôn bán đối ngoại. Dĩ nhiên là trong bữa tiệc tiễn đưa sứ đoàn, tuy có vẻ lạc quan bên ngoài, triều đình chẳng ai hy vọng họ sẽ về với những thắng lợi lớn. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng họ sẽ ký kết một hòa ước tai hại như vậy. Tự Đức khi đọc văn bản hòa ướùc ấy chỉ còn biết thở dài: Than ôi! Nào Trẫm có làm nên tội tình gì cho đến nỗi nhân dân phải chịu một số phận tàn khốc đau thương như vậy đổ xuống trên đầu? Còn các khanh, những sứ thần khốn khổ, các khanh đã làm gì? Các khanh đã hoàn thành nhiệm vụ của mình như vậy đó sao? Chao ơi! Các khanh không chỉ là những người mang trọng tội dưới triều đại của Trẫm mà các khanh sẽ phải chịu hậu quả nặng nề về tội lỗi của mình trước lịch sử muôn ngàn đời!. Nguyễn Xuân Thọ Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897), tác giả xuất bản, Hoa Kỳ, 1995, trang 66, 67, 68). Do đó, ý kiến của Nguyễn Trường Tộ: nên cho quân lính nghỉ ngơi để Pháp giữ bờ cõi cho mình, là một ý kiến nhằm có lợi cho Tây. Riêng câu nói Còn như giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống lại gian tà, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì đến việc tranh thành tranh đất cả. Dưới đây tôi nêu ra hai thí dụ nhỏ trong muôn ngàn thí dụ để thấy cái sai lầm mà hầu như cố ý của nhà thuyết khách Nguyễn Trường Tộ. Một đoạn trong mật thư đề ngày 24-7-1862, Đô đốc Bonard gởi cho Chasseloup Laubat như sau: Ai (các giáo sĩ, BK) cũng ôm ấp lý tưởng trở lại thời kỳ mà Giá-mục Bá Đa Lộc được xem như ông vua thực sự của xứ An Nam, thời kỳ mà mọi việc chỉ có thể được thực hiện theo lời khuyến cáo của ông giám mục nầy, hoặc được ông cho phép. Để đạt mục đích đó, các nhà truyền giáo đã dùng kế hoạch sau đây: nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ tìm cách phủ nhận tính chính thống của vua nầy, và khi lật đổ được triều đình hiện tại thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ. Nguyên văn tiếng Pháp: "Tous caressent l'idée de revenir au temp où l'Évêque d'Adran était le véritable souverain du royaume d'Annam, temps où rien ne se faisait que par ses conseils ou sa permission. Pour parvenir à ce but voici quels moyens ils ont employés: les unes et les autres, ne trouvant pas que les successeurs de la dynastie de Gia Long obtempérassent assez à leurs désirs, ont contesté la légitimité de ceux-ci et ont cherché à mettre en avant un candidat qui, s'il renversait la dynastie régnante, leur offrit plus de garanties pour arriver à leurs fins. (Trích trong Archives du Ministère des Affaires Étrangères, Asie, Mémoires et Documents, Vol, 28, Fol.85 - 88: Thư khố Bộ Ngoại giao, Á châu, kỷ yếu và tài liệu, tập 28, trang 85-88. Dẫn theo CHT, SĐD trang 150). Đoạn thư của Bonard nói trên mô tả về âm mưu của các linh mục, giám mục người Pháp. Và một đoạn khác trong thư đó viết về hành động của các giáo sĩ dòng tu Đô-Mi-Níc người Tây Ban Nha như sau: Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha thường chiếm cứ nhiều vùng miền Thượng Du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn: hăng hái và quá cuồng tín, đa số trong bọn nầy phát xuất từ các đoàn du kích và phe Carlistes, họ rời bỏ Tây Ban Nha và sẵn sàng mang gươm, súng và thánh giá chữ thập dốc toàn lực tham dự vào các cuộc nổi loạn gây tai họa cho xứ Bắc Kỳ. (Quant aux Dominicains espagnols qui occupent généralement le haut Tonkin ils sont beaucoup plus ingouvernables: ardents et fanatiques au dernier degré, un assez grand nombre d'entre eux sortant des bandes de guérillas et de carlistes ayant abandonné l'Espagne portent assez volontiers le sabre et le mousquet avec la croix et sont mêlés, et de coeur et le corps, aux révoltes qui affligent le Tonkin. (CHT, SĐD, trang 152). Hai dẫn dụ nêu trên, đã cho thấy Nguyễn Trường Tộ bênh vực và đánh giá sai về vai trò của các giáo sĩ Công Giáo La Mã. Trên đây là vài nhận xét thuộc lãnh vực chính trị của Nguyễn Trường Tộ đối chiếu với các sử liệu chính xác không thể chối cãi. Những sai lầm nghiêm trọng, những lời khuyên, cố vấn và nhận xét hoàn toàn sai lạc về tình thế về lịch sử mà Nguyễn Trường Tộ viết trong bản Điều Trần, giả sử ông không có hậu ý giúp Pháp, thì ông cũng nên được lịch sử phê phán cho đúng mức vì đề nghị sai chỉ có lợi cho Pháp mà thôi. Sau đây là nhận xét về chương trình cải cách của Nguyễn Trường Tộ trong lãnh vực có nhiều tính kinh tế qua một số bản Điều Trầnkhác. Đi từ nhận định rằng vai trò của kinh tế trong việc làm cho dân giàu nước mạnh, và rằng lúc quốc gia đã mạnh thì có thể giải quyết được mọi vấn đề. Và từ cơ sở Việt Nam là một nước nghèo nàn. Bộ máy hành chánh có thể hoạt động được chỉ nhờ vào các khoản thuế mà nhân dân đóng góp chứ không biết khai thác các nguồn lợi thiên nhiên như hầm mỏ, cây rừng, canh tác nông nghiệp và xử dụng máy móc để phát triển kinh tế. Từ đó, Nguyễn Trường Tộ viết một số bản Điều Trần để đề nghị công cuộc cải cách kinh tế. Bản Điều Trần số 5 Kế Hoạch Làm Cho Dân Giàu Nước Mạnh(Dụ Tài Tế Cấp Bẫm Từ) và Di thảo 27 "Tám Việc Cần Làm Gấp (Tế Cấp Bát Điều). Chương 2 PHƯƠNG PHÁP LÀM CHO DÂN GIÀU NƯỚC MẠNHVÀ CỌNG TÁC VỚI NGOẠI BANG. Bản Di Thảo số 5 sẽ cho chúng ta biết ý tưởng của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề làm cho dân giàu nưóc mạnh như thế nào. Nhận định bản Di Thảo số 5 Kế Hoạch làm Cho Dân Giàu Nước Mạnh. Cũng gọi là Lục Lợi Từ viết ngày 18-7-1864. Nguyễn Trường Tộ bắt đầu bằng ngững lập luận có tính truyền giáo sau đây: 1.- Tạo Vật (Thượng Đế) sinh ra vạn vật cách đây 7.000 năm. Nguyễn Trường Tộ rất khôn khéo khi, dùng chữ Tạo Vật thay chữ Thượng Đế để tránh màu sắc đạo Gia Tô, hoặc cách đây 130 năm người Gia Tô (*) Việt Nam thay vì gọi Thượng Đế họ gọi là Tạo Vật chăng? Mở đầu bản Điều Trần nầy, Nguyễn Trường Tộ lồng sự hiểu biết của mình vào Kinh Thánh: "... Tạo Vật sinh ra muôn vật để cho con người sử dụng mà không tiếc một thứ gì... Kể từ khi có loài người, loài vật đến nay đã gần 7.000 năm (bảy ngàn năm).... Đây không phải là bài viết về tôn giáo, nhưng vì ông Nguyễn Trường Tộ đã tin theo những điều sai lầm trong Kinh Thánh lúc nói rằng kể từ khi có loài người, loài vật đến nay đã gần 7.000 năm... và những sai lầm khác mà chúng ta sẽ thấy trong các bài Điều Trần có tính tôn giáo. Vì thế, tôi sẽ trích dẫn một số sai lầm trong vô số những điều phản tiến hóa, phản khoa học của Kinh Thánh để độc giả rộng đường dư luận, và đồng thời để thấy cái kiến thức của ông Nguyễn Trường Tộ đến đâu mà ông tự khoe là cái gì cũng có học hết. 1.1.- Con người và vũ trụ: Nếu dựa vào Kinh Thánh thì quả đất và con người do Thượng Đế tạo dựng cách đây từ 6.000 - 10.000 năm. (6 - 10 ngàn năm). Nhưng khoa học chứng minh rằng quả đất có hằng triệu năm về trước. Thái dương hệ cũng như sinh vật hiện diện trên quả địa cầu nầy được tóm lược như sau: - Thái dương hệ, gồm mặt trăng, mặt trời và quả đất... xuất hiện cách đây hằng tỉ năm. - Các sinh vật dưới nước như cá tôm... xuất hiện cách đây 600 triệu năm. Như thế thì Thánh Kinh đúng hay Khoa Học đúng? 1.2.- Nước đá, sấm chớp và mây: Theo Kinh Thánh, cuốn Gióp (Job), chương 37, đoạn 10 và 18, Chúa Trời mô tả về quyền năng của ngài như sau: Nước đá có được bởi hơi thở của đức Chúa Trời... Job, chương 37, đoạn 10. Ngài chứa nước đá trong mây và ngài giăng bủa các tia chớp. Nhờ Đức Chúa Trời dắt dẫn nên mây bay khắp tứ phương (Gióp, chương 37, đoạn 10-12). Mây làm những gì mà Chúa Trời biểu phải làm cùng khắp mặt đất" (Gióp, chương 37, đoạn 10-12). Nguyên văn Anh ngữ: By the breath of God frost is given: And the breath of the water is straitened. Also by watering he wearieth the thick cloud: he scattered his bright cloud: And it is turned round about by his counsels: that they may do whatsoever he commandeth them upon the face of the world in the earth. (Job, 37:10-12). 1.3.- Quả Đất đứng yên, mặt Trời chuyển động vòng quanh (Quả Đất). Đời nầy trôi qua, đời khác lại đến, nhưng quả đất muôn đời đứng yên. Mặt trời mọc, và mặt trời lặn, và rồi mặt trời di chuyển về chỗ cũ" (Kinh Thánh: Cuốn Truyền Đạo, Chương 1, đoạn 4 và 5). Nguyên văn Anh ngữ: One generation passeth away, and another generation cometh:but the earth abideth for ever. The sun also ariseth, and the sun goes down, and hasteth to his place where he arose.(Eclesiastes; or, The Preacher, 1:4-5). Thánh Kinh mô tả: nước đá, sấm chớp, mây, mặt trời, quả đất... sai lầm và nhảm nhí đến như thế mà ông Nguyễn Trường Tộ lại tin rằng Tạo Vật sinh ra muôn vật để cho con người xử dụng. Sau khi thuyết giảng một vài điều trong Thánh kinh chứa đựng những kiến thức sai lầm về khoa học, Nguyễn Trường Tộ đưa ra nhiều sự kiện sai về lịch sử rất có lợi cho ngoại bang: 2.- Tân thế giới: Cũng Di Thảo số 5 Nguyễn Trường Tộ viết: Cho đến thời Minh, bước tiến Âu Tây ngày một lên cao vùn vụt, đến nỗi không có chỗ để thử cái tài dũng của họ nữa. Do đó, họ chuyển dần về phía Tây, và bỗng nhiên tìm được Tây Châu (tức là Tân Thế Giới) và chiếm lấy làm đất của mình, khai thác vùng đất đai mấy ngàn năm hoang vu, cải tiến phong tục tập quán mấy ngàn năm hủ lậu. Lúc đầu người dân bản xứ còn xem họ như thù địch, dần dần đã chịu gần gũi và ngày càng trở nên thân thiết, những người dân ở đây đã học được hết những cái kỷ xảo của người phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đã đuổi được người phương Tây ra khỏi đất mình. Những nước phụ thuộc phương Tây xưa kia nay trở thành những nước thân phương Tây. Các nước ấy đã nhờ phương Tây mà thay đổi những tập quán cũ để trở thành giàu mạnh, người phương Tây cũng nhờ vào nguồn lợi ở đó để chu cấp cho mình. Xưa thì nghiến răng căm thù, nay đã thành tình nghĩa anh em tốt đẹp bền bỉ (TBC, SĐD, trang 136-137). Vì giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ được nhiều người ca tụng là một nhà thông thái nên tôi muốn có vài nhận định tổng quát về đoạn văn nêu trên. Tân Thế Giới mà Nguyễn Trường Tộ muốn nói, là Hoa Kỳ ngày nay. Nếu đúng như thế, thì sự cấu tạo dân Hoa Kỳ, cách đây hơn 200 năm, không phải như Nguyễn Trường Tộ mô tả. Tổng quát, chúng ta có thể nói rằng kể từ lúc Columbus (Kha Luân Bố) tìm ra Châu Mỹ năm 1492 * (Tân Thế giới = Hoa Kỳ = Hiệp Chủng Quốc) cách đây hơn 500 năm thì vùng đất nầy là của thổ dân người da đỏ, đất hoang vu, trù phú, có nhiều mỏ vàng, nhất là bang California (Golden State). Dân Hoa Kỳ được hợp thành bởi các đợt di dân như sau: a.- Thành phần đầu tiên là các thổ dân da đỏ, gọi là American Indians, đã sống từ lâu trên mảnh đất hoang vu và trù phú nầy. b.- Thứ hai, là thành phần phạm pháp ở các quốc gia khác bị chính phủ họ đuổi ra khỏi nước cho đỡ gánh nặng. Một số thì thất nghiệp, khổ cực ở các nước Âu Châu đến đây lập nghiệp. c.- Thành phần thứ ba, có đầu óc phiêu lưu, mạo hiểm và thích làm giàu, từ Âu châu đi tìm vàng và khai thác tài nguyên trù phú trên vùng đất mới. d.- Thành phần cuối, là những người bỏ xứ ra đi để tránh sự ngược đãi tôn giáo hoặc chính trị. Họ lo buôn bán, tạo lập sự nghiệp với mục đích thoát khỏi khuôn khổ cũ của xã hội mà họ đã sống trước đây. Với khoảng bốn triệu người mới, trên vùng đất lạ trù mật, họ phải chiến đấu với thiên nhiên và hoàn cảnh để tự sinh tồn. Lúc đầu trong những năm đói khát, họ được người bản địa cứu giúp. Vì vậy mà hằng năm người Hoa Kỳ tổ chức một ngày lễ long trọng vào tháng 11. Đó là ngày lễ Tạ Ơn (Thanksgiving 27-11 hằng năm). Phải chinh phục thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Ra đi không lẽ trở về không. Vì thế, số người mới nầy rất tích cực giúp đỡ những ai có sáng kiến chế tạo được máy móc, hoặc có phương pháp để cải tiến cuộc sống của họ. Nhờ thế mà vùng Tân Thế Giới ngày càng có nhiều nhân tài qui tụ. Về mặt chính trị, số người mới trên vùng Tân Thế giới (Hoa Kỳ ngày nay) dần dần tách rời ra khỏi sự thống trị của người Anh. Sau những năm chiến tranh, người Hoa Kỳ nhờ sự giúp sức của Pháp và Hòa Lan, nên họ đã thắng Anh Quốc và tuyên bố độc lập vào ngày 4-7-1776 đến nay đúng 222 năm. (Xin xem thêm Nguyễn Hiến Lê, SĐD, trang 444-446). Qua đoạn sử rõ ràng nêu trên, chúng ta đã thấy không có trường hợp những người dân ở đây đã học được hết những cái kỷ xảo của người Phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đã đuổi được người phương Tây ra khỏi xứ mình. Mục đích của Nguyễn Trường Tộ dẫn sai lịch sử như thế, là với hậu ý khuyên triều đình Tự Đức và dân Việt hãy bỏ súng xuống, gần gũi và thân thiết với thực dân Pháp để học cái kỷ xảo của họ rồi cuối cùng đuổi họ về xứ. Nguyễn Trường Tộ đã lạc dẫn lịch sử và khuyên những điều hay thật là hay dễ như trở bàn tay! Độc giả đã thấy cái tai hại của một giải pháp thỏa hiệp với Pháp, để rồi Phan Thanh Giản biết mình lầm nên phải tự tử để tạ tội với quốc dân. Chúng ta cũng sẽ thấy cái tai hại của sự thỏa hiệp trong bài nầy ở phần Sáu Điều Lợi mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị. 3.- Năm miền Ấn Độ: Nhằm hậu ý thuyết phục dân Việt Nam cọng tác với Pháp, Nguyễn Trường Tộ cũng đã dẫn sai thêm sử liệu lúc viết rằng: năm miền Ấn Độ đã gần có dấu hiệu bắt đầu, sắp đánh bại phương Tây để đưa ra một nhận định sai lầm khác: Lấy cái lợi vô cùng chưa dùng của núi sông chúng ta mà đổi lấy cái trí của họ, thì họ là kẻ vỡ hoang mà ta thì hưởng cái thành quả như các nước Tây Châu vậy. Nguyễn Trường Tộ nói như thật! Thực dân Pháp đâu có khờ đến nỗi họ là kẻ vỡ hoang mà ta thì hưởng cái thành quả. Thật ra, chính sách thực dân của Pháp, cụ Phan Bội Châu, một nhà cách mạng lão thành đã nhận định rất đúng: Họ coi mình như trâu như chó, Họ coi mình như cỏ như rơm. Cỏ thì nhổ cỏ trâu làm thịt trâu. Chứ làm gì có được cái thiên đàng, họ là kẻ vỡ hoang mà ta thì hưởng cái thành quả! Như tôi đã nhận định trong đoạn đầu. Những bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ luôn luôn đi song hành với tình hình chính trị của Pháp lúc bấy giờ. Thật vậy, Nguyễn Trường Tộ viết bài Điều Trần nầy vào tháng 6 năm 1864, là lúc mà dân Nam Kỳ xử dụng kế hoạch nhà không đồng vắng, không chịu hợp tác với Pháp. Còn triều đình thì sau khi ký hòa ước 1862 nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, nhưng vua Tự Đức cố trì hoãn không chịu phê chuẩn hiệp ước. Đoạn trích dẫn ở mục 5 (Chương 1) trước đây cho thấy Pháp muốn gì từ phía Việt Nam, và đoạn trích dẫn dưới đây sẽ cho thấy dân Việt đã tỏ thái độ như thế nào đối với Pháp. Từ đó chúng ta sẽ thấy lợi hay hại lúc Nguyễn Trường Tộ khuyên nên thỏa hiệp. Phải chăng đó là một sự đi đêm hay trúng kế thực dân? Chúng ta hãy đọc đoạn sử liệu dưới đây của Chesneaux trong cuốn Đóng Góp Vào Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam để thấy rõ tình hình ở Nam Kỳ rồi đối chiếu với lời khuyên của Nguyễn Trường Tộ: Ngay khi vừa phê chuẩn, triều đình Huế đã cho biết, bằng những tư liệu rất chính xác, rằng triều đình không thừa nhận việc nhượng ba tỉnh Nam Kỳ là dứt khoát, vĩnh viễn. Còn dân chúng Việt Nam, họ cũng không có thái độ ôn hòa hơn sau khi hiệp ước được phê chuẩn, hoặc sau những lời hứa hoa mỹ của ông Đô đốc toàn quyền. Họ không chấp nhận chế độ thực dân. Với sự đồng ý ngầm ngày càng rõ rệt, mặc dầu lặng lẽ của triều đình Huế, những phong trào nổi dậy chống thực dân Pháp tại Nam Kỳ ngày càng phát triển. Nông dân vẫn thù địch với Bonard và những người thay chân ông. Phần lớn các quan lại từ chối hợp tác với chế độ mới. Họ bỏ ra đi dần, mặc dầu Bonard đã cố gắng nhiều để xoa dịu họ và giữ lại một phần lớn các phong tục tập quán địa phương, vì những cố gắng đó mà ông Đô đốc toàn quyền bị các tên thực dân và các giáo sĩ phê trách quyết liệt. Theo như nhà sử học Cultru nói, Tầng lớp có khả năng cai trị thì, hoặc vắng mặt, hoặc xấu bụng. Đó là cuộc ra đi hàng loạt của các bậc sĩ phu và của dân chúng, rời bỏ các tỉnh miền đông Nam kỳ bị người Pháp chiếm đóng, để về vùng tự do, ở miền Tây, và tổ chức kháng chiến. Thái độ bất hợp tác chung khắp nơi đó buộc các Đô đốc toàn quyền, muốn duy trì bộ máy hành chính Pháp tại Nam kỳ, chỉ còn xử dụng được một số tối thiểu những công chức Việt Nam (phiên dịch, thư ký...) mà thôi. Và duy chỉ có những phần tử kém hạnh kiểm nhất trong dân, tình nguyện đứng ra phục vụ cho những ông chủ mới... Đề Đốc Rieunier, về sau, nói rằng "Chúng tôi chỉ có những giáo dân và bọn du thử du thực". Bọn lang bạt bị trục xuất khỏi làng vì đói rét hoặc vì tội phạm, đại tá Bernard viết, Xô về đây với cái lưng mềm dễ uốn, họ tham sống sợ chết; họ hoàn toàn hững hờ với cuộc đấu tranh của dân tộc, sẵn sàng phụng sự bất cứ những ông chủ nào... Người ta sẽ tuyển dụng, trong số họ, tất cả nhân viên hành chính cần thiết cho nhà nước, hoặc những người giúp việc gia đình: làm đầy tớ, làm khuân vác, làm người chạy giấy, và cả những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép, được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của Hội truyền giáo, chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn này mà bọn thực dân và công chức, vừa mới đổ bộ lên, làm quen với dân tộc Việt nam...(4) Nhà sử học Cultru kết luận: Hoàn toàn hời hợt về cái gọi là giáo dục phương Tây mà họ đã được tiếp thu, những thanh niên Việt Nam này đã trở thành những ông thông, ông phán, ông ký, kiểm soát, phiên dịch... ấy, lập thành tại xứ sở thuộc địa một tầng lớp những người tha hóa, chuyên lợi dụng địa vị chính thức của chúng để, nhân danh chính phủ Pháp, lúc này không đủ biện pháp cai quản họ, để áp bức, đục khoét dân chúng buộc lòng phải nhờ đến sự trung gian của họ..." (5). "... Tại Nam Kỳ, chính là từ trong những người Công Giáo An Nam mà người ta tuyển chọn những kẻ giúp việc cho chính phủ Pháp, Phạm Quỳnh đã viết. Họ có tài cán gì?... Phần lớn chỉ là những tay dạy giáo lý Cơ đốc, vì hạnh kiểm kém mà bị các giáo chủ đuổi về, và dưới một cái tên Latin (bởi vì họ nói lõm bõm tiếng Latin), là đại diện sơ lược của thủ đoạn, của sự vô trách nhiệm, và sự thoái hóa của Châu Á (6). "Những phong trào cách mạng lớn tiếp tục, chú ý nhất là các phong trào Quản Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Lịch, Quản Thanh, không ngừng giương cao ngọn cờ kháng chiến, và gây nhiều khó khăn cho bọn chiếm đóng. Những sĩ phu và quan lại từ chối làm việc với Pháp, những nông dân rời bỏ vùng quê bị giặc chiếm; chẳng ai ngạc nhiên khi thấy ở vùng tự do tất cả những người kháng chiến đó đều được nhân dân ủng hộ nhiệt tình. Đọc đến đây chắc hẳn độc giả đã thấy rõ rằng, Nguyễn Trường Tộ khuyên nên hợp tác với Pháp là đi ngược lại ý muốn của toàn dân Việt Nam từ triều đình đến quần chúng, và rất có lợi cho chương trình ổn định tình hình và kiện tòan guồng máy cai trị của kẻ xâm lăng. Nguyên văn tiếng Pháp: Dès la ratification, la Cour de Huế fit savoir, à l'aide de documents très nets, qu'elle ne considérait pas la cession des trois provinces comme définitive. Quant au peuple Vietnamien, il n'est pas mieux disposé après la ratification, ni après les belles promesses de l'amiral gouverneur, et n'admet pas sa colonisation. Avec le consentement de plus en plus net, quoique tacite, du gouvernement de Huê, les mouvements de révolte et d'insurrection contre les colonisateurs, dans le Sud, vont s'amplifiant. Les paysans restent hostiles à Bonard et à ses successeurs, les mandarin refusent massivement à se rallier au nouveau régime, ils disparaissent, en dépit des efforts de Bonard pour les amadouer et pour maintenir une partie des coutumes et traditions - efforts qui, par ailleurs, vaudront à l'amiral gouverneur les violents reproches des colonialistes et des missionnaires. Selon le mot de l'histoire Cultru, “la classe capable d'administrer était absente ou malveillante”. Cest l'exode en masse des lettrés et de la population, abandonnant les provinces de l'Est-Cochinchinois, occupées par les Francais, pour s'installer en zône libre, dans l'Ouest, et y organiser la résistance. L'attitude générale de non-coopération contraint les amiraux-gouverneurs, pour le fonctionnement de cette administration francaise en Cochinchine, à l'emploi d'un minimum de personnel Vietnamien (interprètes, secrétaires, ets...). Et seuls les éléments les moins recommandables de la population s'offrent de servir le nouveau maitre: “Nous n'avions avec nous”, déclarera plus tard l'amiral Rieunier, “que des chrétiens et des coquins...” (3) “Les vagabonds”, écrit le colonel Bernard, “chassés de leur village par la misère ou le crime, arrivaient, l'échine souple; pris de l'âpre désir de vivre, insoucieux de la lutte nationale, prêts à servir tous les maitres. C'est parmi eux que l'on recruta tout le personnel nécessaire à l'administration ou aux besognes domestiques: boys, coolies, plantons, et aussi des interprètes et des copistes, grossièrement formés dans les écoles de la mission. C'est au contact de ces misérables que les colons ou les fonctionnaires fraichement débarqués firent connaissance avec le peuple d'Annam...” (4) “Très vains du semblant d'éducation européenne qu'ils avaient recu”, conclut l'historien Cultru, “ces jeunes Annamites devenus secrétaires, lettrés d'inspection ou interprètes, constituaient dans la colonie une caste de déclassés, abusant de leur position officielle pour pressurer, au nom de l'autorité francaise, incapable de les surveiller, la population qui était obligée de recourir à leur intermédiaire...” (5) “... C'est parmi les Annamites chrétiens que se recrutèrent, en Cochinchine, les premiers auxiliaires de l'administration francaise, écrit Phạm Quỳnh, Que valaient-ils?... Ce n'étaient pour la plupart que des catéchistes renvoyés par leurs évêques pour inconduite, et qui, sous un nom latin (car ils parlaient vaguement latin), représentaient un abrégé de la ruse, de la prévarication et de la corruption de l'Asie...” (6) Les grands mouvements de révolte continuaient, notamment ceux de Quan Dinh, Thu khoa Huân, Thiên Hô Duong, Quan Lich, Quan Thanh, ne cessèrent de tenir haut le drapeau de la résistance, et de créer de nombreuses difficultés à l'occupant. Lettrés et mandarins qui refusent de servir la France, paysans qui quittent la région occupée, nul ne s'étonnera qu'en zône libre, tous ces résistants trouvent un appui considérable. (3, 4, 5, 6 cité par J. Chesneaux Contribution, à l'Histore de la Nation Vietnamienne, p.115 (NXT, SĐD, tr. 126 & 127). 4.- Phương pháp làm Hột nổ và Khai thác mỏ than. Bằng một hàng chữ lớn trong bản Điều Trần nầy, Nguyễn Trường Tộ viết: Xin Kê Ra Các Phương Pháp Làm Hột Nổ Và Đúc Súng, Đúc Kim Loại, Cùng Các Môn Quang Học, Cơ Học, Hóa Học, Khai Thác Mỏ Than. Với hàng chữ lớn như thế, người ta cảm thấy sung sướng vì hy vọng rằng sau khi đọc xong đoạn nầy (dài khoảng 1.800 chữ) là có thể biết được, ít ra là lý thuyết, về "phương pháp làm HỘT NỔ VÀ ĐÚC SÚNG... nhưng không, chẳng thu thập được gì qua sự trình bày các phương pháp nói trên của Nguyễn Trường Tộ. Chính ông cũng đã cho thấy điều đó lúc viết rằng: Việc học tập và sắm khí cụ phải thực hiện đồng thời, không thể thiếu một. Nếu đã được học qua loa như tôi mà không có khí cụ khi gặp khó khăn lại không có người chỉ vẽ thì cũng chỉ biết lý thuyết và công dụng mà thôi, và cũng khó đem ra thực hành được. Lúc xác nhận, chính mình cũng chỉ mới học qua loa* thế thì không nên trình bày làm gì cho phí phạm thì giờ vô ích. Thực ra, chúng ta không thể lấy kiến thức về khoa học của một người ngày hôm nay để so sánh với kiến thức khoa học của một người đồng dạng cách đây 130 năm. Nhưng điều tôi muốn nói là lúc đã hô hào nên theo lối học thực dụng thì chính người hô hào phải nắm vững vấn đề ít ra là trên lý thuyết, để sự trình bày được rõ ràng, dễ hiểu, có thể ứng dụng ngay, còn không, tốt hơn là không nên nói một điều gì mà mình không biết rõ về cái mà mình muốn nói: chính mình đã chưa hiểu làm sao trình bày cho người khác hiểu được. Do đó, đoạn văn Xin kê ra các phương pháp làm Hột Nổ..., dài 1.800 chữ chỉ là sáo ngữ vô ích. 5.- Việc làm cho Nước Nhà Giàu Có. Đoạn chính thứ hai trong bài Điều Trần nầy Nguyễn Trường Tộ viết: Sau đây tôi xin đưa ra một khoản về việc làm sao cho nước nhà giàu có để cứu giúp lúc khẩn cấp:" "Một là nguồn lợi về biển. Về biển thì không có nguồn lợi nào lớn bằng cá với muối. Hai là nguồn lợi về rừng. Rừng thì không có gì lớn bằng gỗ. Ba là nguồn lợi về đất đai. Đất đai thì không có gì lớn bằng tơ gai. Bốn là nguồn lợi về mỏ. Về mỏ thì không có gì lớn bằng đồng và thiếc. Bốn nguồn lợi ích ấy, ngoài việc tùy theo thổ nghi mà thu thuế ra, còn phải nghĩ những phương pháp hay như của Tây Âu để thu nhiều sản vật. Sau đó cho tàu bè nhà nước chở ra bán cho các nước, rồi lại chở về nước mình những hàng cần dùng mà nước mình không có. Cái lợi bán mua qua lại như thế thường được gấp ba." Đó là một nhận định sai. Vì Việt Nam là một nước nông nghiệp, đất để trồng lúa gạo cho đủ ăn là vấn đề chính, nếu gạo còn dư thừa thì xuất cảng. Còn tơ lụa là phụ chứ không thể chính được. Còn hầm mỏ thì nếu có được mỏ bạc, mỏ vàng chắc chắn sẽ quí hơn mỏ đồng, mỏ thiếc chứ không thể ngược lại. Còn lúc nói biển có cá, muối, rừng có gỗ, đất trồng dâu nuôi tằm có tơ lụa, đất có quặng mỏ ai lại không biết các điều đó. Tuy nhiên, điều mà chúng ta bị thất vọng là, Nguyễn Trường Tộ đã không đưa ra một phương pháp nào để có được nhiều cá, nhiều muối, vừa dùng vừa bán. Làm thế nào để có nhiều gỗ quí để dùng và sản xuất? Làm thế nào để khai thác được hầm mỏ mà không bị ngoại bang chi phối trong một hoàn cảnh đất nước đang bị Pháp xâm lăng đô hộ? Trái lại, Nguyễn Trường Tộ đã xử dụng ba trang trong 16 trang của bài Điều Trần nầy để phát biểu những lời nói thiếu lịch sự, thuyết minh về tạo vật (Chúa Trời) và cuối cùng là nịnh triều đình vài câu rồi khuyên nên theo Pháp chống lại phong trào kháng chiến. Nguyễn Trường Tộ viết: ... Những nhà nho câu nệ không khéo biến hóa, thường hay uốn lưỡi múa mồm, sau khi sự thành bại đã rõ như gương chiếu rồi mới bàn luận anh hùng. ... Cho nên Tạo Vật khi chưa sinh ra người đã sinh ra muôn vật... Bởi vì Tạo vật yêu người nên thầm dạy những việc cấp thiết trước... Những cái mà tạo vật làm ra đó đều khiến vua nắm quyền để mở mang sắp đặt. Vì rằng, tạo vật quí trọng sự sống vô cùng, đã cho ta địa lợi tốt, lại cho ta nhân vật tốt, ắt sẽ giúp ta thịnh vượng để hợp thành ra sự đẹp tốt lớn trong vũ trụ. Vậy ta nên thuận theo Chúa tạo vật đã mở đường chỉ lối mà biết lo lắng để chuyển tai họa thành hạnh phúc, chuyển thất bại thành thành công, đem hết cái trí khôn trời cho để khai thông mọi cái bí mật trên trời dưới đất. Kẻ hủ Nho sao không biết thời thế biến chuyển, cứ câu nệ vào nghĩa lý sách vở, nói bừa bãi rằng: Triều đình mở cửa ngõ đón kẻ cướp vào. Sao không biết rằng: Lúc thời thế đã đến, không thể ngăn được, lúc thời thế đã đi, không thể chận được. Tạo vật đã sắp đặt như vậy sao ta không biết liệu cách tạm thời lưu thông với họ, để tự phấn đấu cho hợp với ý của Tạo vật? Cửa bể của khắp các nước phương Đông Tạo vật đã khai thông cả thì tại sao một mình nước ta lại có thể đóng kín được? Huống chi, việc lợi ích của một nước, quyền lực hành vi do vua nắm, và cùng với quốc dân chia sẻ mọi sự vui buồn. Mà trên đã có tạo vật thầm sai khiến, vua chỉ cần theo ý trời để làm mọi việc. Những việc lớn như lấy đi hay là cấp cho, biết đâu chẳng phải do Tạo vật ngấm ngầm sắp đặt. Tạo vật đã nhân ái đối với vua để từ đó mở rộng đến muôn dân. Thế mà trước mắt, hơi thấy việc bất bình thì kẻ hủ nho biết gì mà dám chê bai trách cứ? (Di Thảo số 5, TBC, SĐD trang 142-144). Xin nhường sự phán xét trên cho độc giả, nhất là cái tư tưởng nhảm nhí của Nguyễn Trường Tộ cho rằng, Tạo Vật đã sắp đặt như vậy, sao không lưu thông với họ! Tạo Vật nhân ái! Còn ý kiến của tôi thì quí vị đã thấy trong đoạn trước (Phần B Lục Lợi Từ) và sẽ thấy trong Phần Hai: Nhận định về Tôn Giáo và Phần Tổng Luận. 6.- Sáu Điều Lợi Lớn Cần Làm Gấp: Như quí độc giả đã thấy, bài Điều Trần số 5 này có tên là Kế Hoạch Làm Cho Dân Giàu Nước Mạnh cũng gọi là Dụ Tài Tế Cấp Bẫm Từ hay là Lục Lợi Từ (sáu điều lợi) viết ngày 18-7-1864. Sở dĩ tôi nhắc lại tháng năm Nguyễn Trường Tộ viết bài nầy, vì thời gian rất quan trọng. Bối cảnh chính trị của thế giới trong giai đoạn nầy sẽ giúp chúng ta đánh giá đúng mức Sáu Điều Lợi Lớn mà Nguyễn Trường Tộ khuyên nên áp dụng. Sáu điều lợi đó là: 6.1.- Nhờ nước Anh để ngăn chận Pháp: Anh và Pháp xưa nay vốn thù hằn nhau. Vì: - Anh đày vua bác của Pháp ra tận đảo xa xôi. - Pháp giúp Hợp Chủng Quốc làm cho Anh bại trận. Do đó nên nhờ Anh giúp và qua Anh nhờ thông báo với Nga và Áo để nhờ các nước giải quyết giúp ta. 6.2.- Xúi Anh gây sự với Pháp: Nước ta phải dùng lời lẽ thật từ tốn và tiền bạc thật hậu sang nước Anh, nói hết những điều sai trái của Pháp... Nay người Anh đến giúp chúng tôi một tay khôi phục lại, chúng tôi sẽ vui lòng nhường quí quốc một thương cảng lớn, ký thác vĩnh viễn và sống như anh em với nhau... 6.3.- Nhờ Anh để ly gián Pháp: Anh và Pháp xưa nay vẫn ghen ghét nghi ngờ nhau, tuy tạm thời cọng tác nhưng Anh vẫn giành phần hơn. Pháp hay đa nghi Nay nếu ta năng đi lại với người Anh, hoặc thăm viếng hoặc mua bán... thì người Anh cũng sẽ đối xử với ta một cách xứng đáng... Pháp thấy vậy ắt sinh nghi..."mà xa lìa người Anh. Ta sẽ lợi dụng tình trạng đó, mà xoay trở công việc. 6.4.- Nhờ các nước và Giáo-hoàng lấy danh nghĩa mà áp chế Pháp: Ngày nay nếu ta biết qua lại giao thiệp với các nước lớn phương Tây, gây được mối tình cảm, rồi dùng cái xảo kế để ly nước nầy, hợp với nước kia. Người Pháp dù muốn thừa cơ hội nhưng nếu các nước chịu tuyên bố giúp ta một lời thì người Pháp cũng sẽ lo sợ... Rồi ta lại qua nước La Mã thông hiếu với Giáo hoàng... Nếu Giáo hoàng cho việc giúp ta là phải, thì mọi người đều vui lòng thực hiện, ta không lo người Pháp không nghe... 6.5.- Nhờ Anh và Nga đề phòng nước Pháp: Nếu ngày nay ta biết giao hảo với người Anh trước để đề phòng đường biển, sau sẽ thông thương với nước Nga để đề phòng đường bộ. Cho dẫu sau nầy tình thế biến đổi thì trước kia người Anh đã lấy cái việc người Pháp tìm cớ cướp nước ta cho là trái lẽ, mà nay lại thủ tiêu tình bạn bè để cướp nước ta mà cho là phải hay sao?. Đối với nước Nga cũng thế. 6.6.- Dùng số người Anh lưu vong ở hải ngoại để đánh Pháp: ...Chiêu mộ những người Anh sống lưu vong ở hải ngoại, cho họ tiền của, cư xử tốt để được lòng họ, rồi nhờ họ huấn luyện binh lính quân ngũ cho ta. Binh Pháp của người Anh rất giỏi. Những người này không suy nghĩ gì viễn vông cả, hễ được thỏa thích là họ xông lên, không như quân ta sợ trước ngó sau. Nguyễn Trường Tộ kết luận: Đã thực hiện được sáu điều lợi rồi, dần dần có cơ hội, tôi xin đem các điều ngấm ngầm làm tổn hại địch trong bài TẾ CẤP LUẬN ra thực hiện dần dần thì sẽ như lấy trăm kim mà chích làm cho họ nằm ngồi không yên. Sau đó bồi cho một nhát dao thì thế nào cũng chết. Nguyễn Trường Tộ viết tiếp: Vậy muốn áp dụng kế nầy phải gấp rút khai thác các nguồn lợi và nhờ người khác giúp sức... Còn như sẽ làm theo đường lối nào và sử dụng ngôn ngữ gì thì tôi sẽ cùng với ông Nguyễn Hoằng (Linh Mục, BK) xin hết sức làm để giúp muôn một. (Điều Trần số 5, TBC, SĐD, trang 145-151). Đọc Sáu Điều Lợi của Nguyễn Trường Tộ đề nghị trên, nếu không lồng chúng vào trong bối cảnh lịch sử của các phong trào đi chiếm thuộc địa, và không thấy được hoàn cảnh của nước Việt Nam thời bấy giờ, người đọc sẽ có những nhận định sai lạc, ngay cả có thể kết luận rằng Nguyễn Trường Tộ là một chiến lược gia, một người có lòng yêu nước thực sự. Nhưng nếu đem sáu đề nghị nầy đối chiếu với tình thế lúc bấy giờ, chúng ta sẽ thấy sáu đề nghị của Nguyễn Trường Tộ không những là vô ích mà còn tai hại nữa. 7.- Nhận định sáu điều lợi: Chúng ta nên tìm hiểu tình hình các phong trào đi chiếm thuộc địa để thấy cái sai của Nguyễn Trường Tộ. Vùng Phi Châu. Như chúng ta đã biết, đầu thế kỷ 19, Phi Châu là một vùng hầu như bí mật chưa ai để ý tới vì rừng quá già, khí hậu quá nóng. Sa mạc rộng, người Âu Châu chỉ biết một giải đất nằm theo Địa Trung Hải tức là vùng Maroc, Algerie, Tunisie, Lybie, Ai Cập và vùng trên bờ Đại Tây Dương. Một số người Âu Châu nặng tình với khoa học và tôn giáo, nên cố gắng tìm tòi vùng đất bí mật nói trên. Năm 1840, Livingstone tới Phi Châu để nghiên cứu y học thám hiểm cả một vùng mênh mông từ Congo tới Mũi Hảo Vọng. Pháp, Đức cũng sai người thám hiểm như thế. Dần dần họ vẽ các bản đồ sơ sài trên vùng đất nầy, và căn cứ vào bản đồ đó mà chia nhau đất. Như Anh bàn với Pháp lấy con sông nầy, dãy núi nọ làm ranh giới. Pháp đồng ý nên đem binh vào đánh thổ dân. Thổ dân chưa từng nghe tiếng súng bao giờ, cứ tưởng là sấm sét đua nhau chạy tán loạn. Do đó, vùng Phi Châu trở thành thuộc địa của Anh và Pháp một cách nhanh chóng và dễ dàng. (Lịch Sử Thế Giới, Nguyễn Hiến Lê, Văn Nghệ xuất bản, Hoa Kỳ, 1994, trang 610). Trái lại, lúc chiếm thuộc địa ở Á Châu thì khó khăn hơn nhiều và bị đổ máu. Người Âu theo Gia Tô giáo và quá cuồng tín. Họ nghĩ rằng đất là của Chúa Trời tạo ra, là của chung không thuộc vào túi một ai, và nghĩ rằng họ có bổn phận đi khai hóa các vùng khác để truyền tín ngưỡng cho các xứ đó. (NHL, SĐD, trang 611 & 612). Từ ý nghĩ cuồng tín và sai lầm nầy mà chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ cũng diễn dịch như thế ở một đoạn trước. Thực ra, phong trào chiếm thuộc địa đi song hành với việc truyền đạo Gia Tô và xử dụng tín ngưỡng như là một khí cụ sắc bén tiên khởi. Tại Ấn Độ: Công ty Ấn không phải là của dân chúng Anh hoặc của chính Phủ Anh quốc, mà chỉ do một số người phiêu lưu xảo quyệt lập công ty Ấn. Họ dần dà dùng vũ lực chiếm hết Ấn độ, một quốc gia có số dân gấp 10 lần Anh quốc. Để bảo vệ quyền lợi, công ty nầy đã dùng quân đội và ngoại giao dồn người Pháp vào năm thành phố: Pondichéry, Chandernagor, Yamon, Karikal và Mahé, rồi cướp hết quyền hành của vua Ấn, bắt dân Ấn đi lính, đóng thuế và tự ý gởi đại sứ qua các nước Á Châu, Công ty tổ chức chính phủ nhưng không chịu mệnh lệnh của Anh hoàng. Năm 1857, vì sự vụng về của quân nhân Anh đã đưa cho lính Ấn những gắp đạn có thoa mỡ bò. Lính Ấn cho rằng đó là một sự nhục mạ họ vì người Ấn thờ bò. Vì vậy, lính Ấn nổi lên chống. Sau hai năm tàn sát đẫm máu, chính quyền Anh mới nhảy vào dẹp được loạn rồi tước quyền của công ty Ấn. Từ đó, Ấn Độ là thuộc địa của Anh hoàng Victoria, quyền cai trị giao cho một phó vương người Anh. Chính sách của Anh là dùng người Ấn để cai trị người Ấn và xúi người Ấn theo đạo Hồi chống lại người Ấn theo đạo Bà La Môn. Tổng số dân Ấn lúc bấy giờ là 300 * triệu. Ấn là thuộc địa quí nhất của Anh. Để bảo vệ, Anh chiếm các xứ xung quanh. Tuy nhiên, phía Tây họ chỉ chiếm được Bélontchista, mà không lấn được A Phú Hãn vì sợ đụng độ với Nga. Phía Bắc, Anh chiếm một phần Tây Tạng, còn phần kia thì chia quyền lợi với Trung Hoa. Phía Đông, Anh chiếm Miến Điện (NHL, SĐD, trang 614). Sau khi bị hất ra khỏi Ấn, Pháp tìm cách chiếm Việt Nam (năm 1862), Cao Miên và Lào, làm chủ cả bán đảo Đông Dương. Còn Xiêm (Thái Lan) trở thành vùng trái độn chịu ảnh hưởng của Pháp lẫn Anh (NHL, SĐD, trang 615). Phi Luật Tân: Nguyên là thuộc địa của Y Pha Nho (Spain) từ năm 1527. Chữ Philippines (tiếng Pháp) có nghĩa là những hòn đảo của vua Philippe nước Y Pha Nho. Người Phi bị cưỡng bức theo đạo Gia Tô như người Y Pha Nho (NHL, SĐD, trang 620). Nói về thế trận và phân chia ranh giới lúc bấy giờ, chúng ta nên để ý thêm một chi tiết khác về Nga, Pháp và Anh: ... Nga chỉ lăm le xâu xé Thổ để kiếm đường thông ra biển. Coi bản đồ Châu Âu, ta sẽ hiểu chính sách của Nga. Bắc Băng Dương suốt năm đầy băng và tuyết, hoàn toàn vô dụng rồi. Trên biển Baltique có hạm đội của Đức, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan; Nga khó mà len ra được, dẫu có được thì tới Bắc Hải cũng đụng đầu với Hải quân Anh mạnh nhất thế giới. Vậy Nga như bị vây hãm, chỉ có hai đường thoát ra ngoài: Một là tiến qua Đông, chiếm trọn Tây Bá Lợi Á, vươn tới Thái Bình Dương, đường đó đã xa mà lại chạm trán với Nhật; hai là do Hắc Hải mà thông ra Địa Trung Hải, đường này tiện nhất, nhưng cửa ngõ Hắc Hải là Constantinople do Thổ gác, nên Nga nhất định phải diệt Thổ. Anh không chịu vậy, vì nếu Nga chiếm Constantinople thì hạm đội Nga tung hoành trên Địa Trung Hải mà con đường của Anh qua Ấn sẽ lâm nguy. Vì thế Anh tìm cách kéo Pháp về phe mình để chống Nga và bênh Thổ, chẳng thà để Constantinople cho Thổ vì Thổ yếu không làm hại mình được, chứ không chịu để cho Nga. Nã Phá Luân đệ tam (Pháp) thích chiến tranh, hoan nghênh ý của Anh, vua Sardaigne hùa theo và cả ba nước tuyên chiến với Nga. Hai bên chém giết nhau ghê gớm trong hai năm (1854-1856) trên bán đảo Crimée. Nga hùng dũng chống cự kịch liệt, nhưng sau thua và Thổ vẫn làm chủ Constantinople.(NHL,SĐD, tr. 626 & 627). Tình Hình Trung Hoa Và Hồng Kông: Năm 1838, triều vua Đạo Quang, Tổng Đốc Lâm Tắc Từ, chém một số người nghiện thuốc phiện và đem đổ xuống biển tất cả các thuốc phiện tịch thu được của các thương gia ngoại quốc như Bồ, Pháp, Hòa Lan. Qua vụ nầy, Anh Quốc chống lại Trung Hoa, Năm 1840, quân Anh tấn công Chiết Giang, tiến lên Trực Lệ rồi thẳng vào Thiên Tân, quân Lâm Tắc Từ thua. Triều đình Trung Hoa hoảng sợ, cách chức Lâm Tắc Từ để nghị hòa với Anh, ký hiệp ước Nam Kinh, chịu bồi thường số nha phiến bị tiêu hủy, mở năm cảng: Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải cho người Anh và cắt đứt Hương Cảng (Hồng Kông) tặng cho Anh (NHL, SĐD trang 641). Sau hòa ước Nam Kinh, đảng Thái Bình Thiên Quốc lập ở Quảng Đông, người cầm đầu là Hồng Tú Toàn, một người Gia Tô. Ông tự xưng là con thứ của Thượng Đế, còn Giê Su là con trưởng, dân nghèo theo rất đông. Năm 1850, Tú Toàn dấy binh chiếm được vài huyện, quân sĩ tôn ông làm Thái Bình Vương. Ông dựng nước, gọi là Thái Bình Thiên Quốc, được nhiều tướng tài giúp sức, tiến lên Hồ Nam, Hồ Bắc, chiếm Nam Kinh để dựng đô rồi công hãm Tô Châu, Hàng Châu, sau cùng phái binh lên đánh phương Bắc, song thất bại. ... Hồng Tú Toàn bài xích Khổng, Phật, gây ác cảm trong giới tu sĩ. Tăng Quốc Phiên người chỉ huy quân Thanh lợi dụng ngay chỗ yếu đó, truyền hịch khắp nước, tố cáo tội khi lễ nghĩa, nhân luân của Hồng, nào là điển tắc mấy ngàn năm của Trung Quốc đương bị giày đạp, nào là miếu từ của Khổng Tử, Quan Võ, Nhạc Phi sắp bị đốt phá. Gây nên một luồng oán giận, căm hờn Tú Toàn trong quần chúng. Lại thêm, nội bộ Thái Bình lủng củng, nên quân Thanh đến đâu thắng đó. Biết thế nguy, Hồng uống thuốc độc tự tử. (NHL, SĐD, trang 642 & 643). Vừa dẹp xong loạn Thái Bình Thiên Quốc, nhà Thanh phải đương đầu với Âu Châu trong một trận chiến tranh nha phiến thứ nhì (1856-1860). Sau khi ký điều ước Nam Kinh: "... Anh lại càng chở nhiều thuốc phiện vào Trung Hoa, bắt buộc nhà Thanh cho phép bán nha phiến công khai, mở thêm hải cảng để thông thương và tiếp đãi sứ thần Châu Âu tại Bắc Kinh. Nhà Thanh không chịu. Nhân ở Quảng Đông, nhà cầm quyền bắt thuyền buôn của người Trung Hoa có treo cờ Anh, và ở Quảng Tây nhiều giáo sĩ Pháp bị hại, Anh Pháp tổ chức liên quân, tấn công Quảng Châu, Thiên Tân, vào tận Bắc Kinh đốt phá." "Thanh đình bối rối, Nga đứng ra điều đình. Trung Hoa phải ký điều ước Bắc Kinh, mở thêm bảy thương khẩu, cho phép các giáo sĩ và thương nhân Châu Âu tự do lưu thông khắp nơi, cho thuốc phiện được bán công khai và cho Âu Mỹ hưởng quyền lãnh sự tài phán, nghĩa là kiều dân Âu Mỹ ở Trung Hoa không chịu pháp luật Trung Hoa chi phối, mà chỉ do lãnh sự nước mình phân xử theo pháp luật nước mình. "Nga sở dĩ đứng ra điều giải, chẳng phải yêu gì Trung Hoa mà chính là để kể công với Trung Hoa rồi rút rỉa của Trung Hoa. (NHL, SĐD, trang 644). "Khi thấy nhà Thanh suy, Nga thừa cơ chiếm Hắc Long Giang, cho binh kéo vào đóng ở bắc ngạn sông đó. Thanh đình phản kháng nhưng vô hiệu, đành chịu ép, vạch lại ranh giới, nhường hết bắc ngạn Hắc Long Giang cho Nga. Từ đó, Nga một mặt kinh doanh ở Mãn Châu, một mặt theo đuôi Anh, Pháp, hễ Anh Pháp cướp được quyền lợi gì ở Trung Hoa thì Nga cũng đòi quyền lợi đó. ... Nhật Bản lúc đó đã bắt đầu duy tân, đứng bên nhìn người Âu chia nhau miếng mồi mà thèm thuồng, cũng nhảy vào đòi cắt. Trong đời Quang Tự, Nhật Chiếm Lưu Cầu, Pháp nuốt Việt Nam, Anh chia Miến Điện, rồi Nhật lại đòi Đài Loan, Triều Tiên, Đức nắm Giao Châu Loan, Nga thuê Lữ Thuận, Anh thuê Uy Hải Vệ, Pháp thuê Quảng Châu. ... Duy có Ý chậm chân tới sau, đòi mượn một nơi ở Phước Kiến, không được, bẽn lẽn rút lui. Họ thuê đất mà còn bắt chủ đất ký giao kèo không cho nước khác thuê những miếng bên cạnh. Chẳng hạn, khi thuê Quảng Châu Loan, người Pháp yêu cầu nhà Thanh không được đem đảo Hải Nam và các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam nhường cho nước nào khác. Anh cũng xin không được nhường các tỉnh hai bờ sông Dương Tử cho ai. Tóm lại họ chiếm căn cứ địa để cắt xẻ Trung Hoa thành nhiều phạm vi thế lực, như Mãn Châu thuộc phạm vi Nga, Sơn Đông thuộc Đức, Phúc Kiến thuộc Nhật, lưu vực Dương Tử của Anh, Hoa Nam của Pháp. Trong mỗi phạm vi, họ đòi đủ quyền lợi; khai mỏ, đặt đường xe lửa... Trong lịch sử, chưa từng thấy vụ nào mà các cường quốc đồng lõa với nhau để hút máu, rút xương nước khác một cách trân tráo và có tổ chức như vậy! Hoa Kỳ đứng ngoài nhìn thị trường mênh mông đó lọt vào tay người cũng nóng ruột, tự nghĩ nếu nhẩy vào đòi chia thì chắc sẽ bị đẩy ra như Ý, bèn khôn khéo, phát biểu bản tuyên ngôn chủ trương bỏ chính sách chia phạm vi thế lực, để mỗi nước được bình đẳng về công thương trên đất Trung Hoa, một mặt duy trì chủ quyền Trung Hoa trong phạm vi các nước đã chia. Tóm lại Hoa Kỳ bảo các cường quốc: Các anh phải ngưng lại đi, không được mở mang thêm phạm vi nữa mà cũng không cướp thêm quyền của nhà Thanh nữa. Các cường quốc ôm đã quá nhiều, lo khai thác xong khu vực của mình cũng đủ mệt, không muốn bành trướng thêm nữa, e sẽ xung đột nhau, bèn gật đầu tán thành. (NHL, SĐD, trang 644,645, 646 & 647). Qua đoạn tóm lược tình hình chiếm thuộc địa của các nước Âu Châu như trên, cho chúng ta vài nhận xét sau đây: a.- Anh quốc đã thỏa mãn những gì họ muốn nhờ cuộc chiến tranh Nha phiến thứ nhất (1839), sau đó lại tạo chiến tranh Nha phiến thứ 2 (1856-1860). Các cường quốc đua nhau chia phần để xâm lấn Trung Hoa nhưng không đụng độ nhau bằng vũ lực. Trung Hoa đi từ nhượng bộ nầy đến nhượng bộ khác và hầu như không bao giờ thỏa mãn lòng tham không đáy của các nước đi chiếm thuộc địa. Do đó bất cứ một giải pháp thỏa hiệp nào bất cứ ở đâu, xem ra cũng không thực tế. b.- Trong các quốc gia đi chiếm thuộc địa, Anh Quốc kiếm được nhiều nhất: Từ Phi Châu, đến Ấn Độ, Tây Tạng, Miến Điện, Hồng Kông và nhiều phần đất quan trọng của Trung Quốc. Do đó, người ta có lý để nói rằng Mặt trời không bao giờ lặn trên đất Anh. c.- Với số thuộc địa quá rộng lớn như thế, Anh Quốc chưa đủ thì giờ để khai thác, cần gì phải xen vào Việt Nam để phải đổ máu vô ích với Pháp. Do đó, bốn điều Nguyễn Trường Tộ viết trong bản Điều Trần: Nhờ Anh để ngăn chận Pháp. Nhờ Anh gây sự với Pháp. Nhờ Anh để ly gián Pháp. Nhờ Anh và Nga để đề phòng Pháp. Là những đề nghị không thực tế, không hiểu và không đúng với bối cảnh lịch sử thời bấy giờ. Đó là chưa nói đến tình trạng nếu Anh bằng lòng giúp thì Việt Nam sẽ gặp phải cảnh "đuổi chó sói ra đàng trước, rước cọp vào ngã sau. Còn kế hoạch thứ 6: Dùng người Anh lưu vong ở hải ngoại để huấn luyện quân đội Việt Nam đánh Pháp cũng là một giải pháp ngây thơ khác. Thực vậy, thuộc địa của Anh quá tràn ngập quá béo bở, dân Anh hưởng thụ dư thừa, dại gì phải đi giúp một nước Việt Nam đã bị Pháp chiếm để mang họa vào thân? Vả lại người Anh lưu vong ở hải ngoại cũng phải chịu sự chi phối điều hành của chính phủ họ, ngoại trừ thành phần người Anh trong các băng đảng, trong các nhóm loạn trí, ăn xin. Chẳng lẽ Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình Tự Đức dùng loại người Anh nầy chăng? Còn nước Nga thì quá xa xôi đối với Việt Nam, hơn nữa, chúng ta cũng đã thấy cách đối xử của họ với Trung Hoa qua đoạn trích dẫn trên: rất khắng khít với nhau để chia quyền lợi. 8.- Thông hiếu với Giáo Hoàng: Đây là chủ đích chính trong bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ còn 5 đề nghị kia chỉ là hoa lá cành, là củ cà rốt trống ruột không ăn được, nhằm che đậy hậu ý khuyên triều đình bang giao với Vatican để thực hiện sách lược Gia Tô hóa Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa là làm cho Pháp dễ cai trị nếu tất cả người Việt đều trở thành Gia Tô. Đây là kế sách thâm độc giống như khuyên cha mẹ gởi con cho cọp. Sau đây là một số dẫn chứng : Một người thông minh như Nguyễn Trường Tộ chắc chắn đã biết rõ việc Pháp chiếm Việt Nam là do Giáo Đoàn Hải Ngoại Pháp và Y Pha Nho, mà chỉ thị hoặc ít ra là đã được Giáo- hoàng khuyến khích và đồng ý, vài dẫn chứng sau đây sẽ cho thấy điều đó. a.- Như độc giả đã thấy ở phần trước, giáo sĩ A. de Rhodes (tên Việt Nam là Đắc Lộ). Sau khi hôn chân Giáo hoàng và từ giã Roma ngày 11-9-1652 để đi Pháp vận động chính phủ Pháp chiếm Việt Nam. Chúng ta nên để ý rằng giáo hội Gia Tô (Công giáo) là một tổ chức theo đẳng cấp tuyệt đối. Giáo Hoàng là người đại diện Chúa ở trần gian, ông có quyền cách chức, bổ nhiệm, cấm đoán hoặc cho phép các Hồng y, Giám mục, Linh mục, con chiên thi hành các công tác đức tin và công tác trần thế. Do đó, chúng ta hiểu rằng A. de Rhodes đã được Giáo hoàng đồng ý và cho phép qua Pháp vận động triều đình đánh chiếm Việt Nam. Một linh mục, giám mục không làm điều gì khác nếu không được Giáo hoàng chấp thuận. Như thế, việc vận động một thế lực chính trị ngoài Vatican để xâm chiếm Việt Nam đã có từ 1652 do Giáo hoàng chỉ thị cho ông A. de Rhodes (xin xem thêm bài Góp ý với giáo sư Chương Thâu về Linh mục A. De Rhodes và chữ quốc ngữ trong cuốn Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại. (Văn Hóa Cali xuất bản, Hoa kỳ, 1996). b.- Gần hơn, cùng thời với Nguyễn Trường Tộ, chúng ta có thêm chi tiết sau đây: "Bí thư của phái đoàn Pháp ở Trung Quốc, theo lệnh của Hoàng đế muốn tập trung tài liệu về các phái bộ truyền giáo ở Đông Dương, đã tiếp xúc với các đại diện Giáo Hoàng ở Thái Lan, Việt Nam và Kampuchia. Căn cứ vào các tin tức do những người này cung cấp, chính phủ Pháp đã quyết định phái Montigny thực hiện sứ mệnh trong vùng này. Nhưng đây là các vận động được hỗ trợ bằng sự can thiệp của các nhân vật quan trọng như Tổng Giám Mục Bonnechose ở Rouen và của chính Hoàng Hậu, bà này đã thuyết phục được vua, dù lúc đó vua không có kế hoạch thực dân nào rõ rệt. Các vận động này được thực hiện bởi hai người truyền giáo: Linh Mục Huc, hội viên Hội thánh Lazare, cựu đại diện Giáo Hoàng ở Trung Quốc, tác giả cuốn Đạo Thiên Chúa ở Trung Quốc, Tartarie và Tây Tạng cùng nhiều tác phẩm khác về Trung Hoa, và Giám mục Pellerin đại diện Giáo Hoàng tại Bắc Nam Kỳ." Nguyên văn tiếng Pháp: En 1855, de Courcy, secrétaire de la légation de France en Chine, sur l'ordre de l'empereur qui voulait réunir des documents sur les missions d'Indochine, s'était mis en rapport avec les vicaires apostoliques de Siam, du Viet Nam et du Cambodge; c'est d'après les renseignements fournis par ceux-ci que le gouvernement francais avait décidé d'envoyer Montigny en mission dans ces régions. Mai ce sont ldescendons par une pente rapide vers l'impuissance radicale et le moment où il faudra demeurer immobile à Tourane. Tous les moyens d'améliorer la situation des troupes et des équipages ont été épuisés et sans succès. Les médecins vaincus par la maladie, arrivent à cette conclusion que les Européens ne doivent faire dans ce climat aucun travail, mais adescendons par une pente rapide vers l'impuissance radicale et le moment où il faudra demeurer immobile à Tourane. Tous les moyens d'améliorer la situation des troupes et des équipages ont été épuisés et sans succès. Les médecins vaincus par la maladie, arrivent à cette conclusion que les Européens ne doivent faire dadescendons par une pente rapide vers l'impuissance radicale et le moment où il faudra demeurer immobile à Tourane. Tous les moyens d'améliorer la situation des troupes et des équipages ont été épuisés et sans succès. Les médecins vaincus par la maladie, arrivent à cette conclusion que les Européens ne doivent faire dans ce climat aucun travail, mais alors ns ce climat aucun travail, mais alors lors es démarches appuyées par l'intervention de personnages importants comme l'archevêque de Rouen, Mgr de Bonnechose (2), et par l'impératrice elle-même, qui avait romani convaincre l'empereur, bien qu'il n'eut à ce moment, aucun plan Colonial établi. Ces démarches avaient été entreprises par deux missionnaires: le Père Huc, membre de la Congrégation de Saint Lazare, ancien missionaire apostolique en Chine, auteur du Christianisme en Chine, en Tartarie et au Thibet et d'autre ouvrages sur la Chine, et Mgr Pellerin, vicaire apostolique de la Cochinchine septentrionale (Theo CHT, SĐD, trang 65 & 66.) c.- Linh Mục Huc và đặc biệt là Giám mục Pellerin vận động ráo riết với triều đình Pháp, ông trình bày với ủy ban thuộc địa, và sau ngày 21-5-1857, ông được vua Napoléon tiếp kiến. Đến tháng 11-1857 ông đi Rôma và được Giáo Hoàng Pie IX tán thành đường lối của ông. Dưới đây là sử liệu về vấn đề nầy: Đến Pháp vào đầu tháng 5, ngày 16-5 ông trình bày trước Ủy ban và ngày 21-5 trao cho họ một bản trần tình chi tiết trước khi được Napoléon III tiếp kiến. Giám mục đã cho chúng ta thấy vài chỉ dẫn đáng lưu ý về cuộc hội kiến trong một bức thư gửi cho một người truyền giáo tại Tây Tạng: Nhà vua đã tiếp tôi rất niềm nở và còn ban cấp cho tôi nhiều hơn những điều tôi xin. Hoàng thượng hết sức sẵn lòng giúp đỡ các phái bộ và ý ngài muốn rằng các nhà truyền giáo Pháp phải được tự do khắp nơi, cần phải cầu nguyện Thượng Đế giữ lại người của Chúa ở lại trên ngôi. Các phái bộ của Ngài, ở Cao Ly, Nhật Bản, cũng sắp được tự do nay mai, phải hy vọng điều đó. Nước Pháp sẽ đứng vững tại các xứ đó và rồi sẽ không còn có sự đàn áp nữa. Nhưng sự việc hình như cứ kéo dài mãi, giám mục sốt ruột thấy là nên nhắc lại vấn đề với Napoléon III. Xin Chúa thượng, người ta đọc trong thư đề ngày 30-8-1857 của ông. Cho phép thần lại nói đến các người mới theo đạo khốn khổ ở xứ Cochinchine và các nhà truyền giáo ở nước An Nam, hiện giờ máu họ đang đổ và tình cảnh họ còn kinh khủng hơn từ cuộc vận động sau chót của nước Pháp. Nếu bây giờ người ta vẫn không làm gì cho bọn thần cả, e rằng đạo Thiên Chúa bị tận diệt ở tại các vùng hình như sẵn sàng tiếp đón lợi ích của đạo Thiên Chúa và nền văn minh. Thần đến xin Chúa Thượng đừng bỏ rơi bọn thần. Điều bệ hạ làm cho bọn thần sẽ khiến cho ân phúc cuả Chúa ban xuống cho bệ hạ và triều đại huy hoàng của bệ hạ... Kế đến tháng 11, Giám mục Pellerin đi Rôma, Giáo Hoàng Pie IX tán thành các vận động để giúp đỡ cho các phái bộ truyền giáo." Nguyên văn tiếng Pháp: Arrivé en France au début de mai, il fut entendu le 16 mai par la commission et lui remit un mémoire détaillé le 21 mai, avant d'être recu par Napoléon III. L'évêque nous donne quelques indications intéressantes sur cette entrevue dans une de ses lettres à un missionnaire du Thibet: “L'empereurs m'a très bien accueilli et m'a accordé plus même que je n'avais demandé. Sa Majesté est parfaitement disposé pour les Missions, et son intention est que les missionnaires francais soient libres partout; il faut prier Dieu de conserver sur le trône l'homme de la providence. Vos Missions, celles de la Corée, du Japon seront aussi bientôt libres, il faut l'espérer. La France va s'établir solidement dans ces pays, et alors il n'y aura plus de persécution possible”. (1) Mais l'affaire semblait trainer. L'évêque, impatient, crut devoir rappeler la question à Napoléon III. “Je prie votre Majesté, lit-on dans sa lettre du 30 aout 1857, de me permettre de lui parler encore de nos pauvres néophytes de la Cochinchine et des missionnaires francais qui sont dans le royaume d'Annam; leur sang coule à l'heure qu'il est et leur condition est devenue encore plus horrible depuis la dernière démarche tentée par le France. Si maintenant on ne refait rien pour nous, il est à craindre que le christianisme ne soit anéanti dans ces contrées qui semblent cependant si disposées a recevoir les bienfaits de la religion chrétienne et de la civilisation... Je viens supplier Votre Majesté de ne pas nous abandonner. Ce qu'elle fera pour nous attirer sur Elle et sur son auguste Dynastie les bénédictions de Dieu... (2) Mgr. Pellerin se rendit ensuite à Rome, en Novembre, où le pape Pie IX lui donna son approbation pour les démarches entreprises en faveur des Missions. (1) Archives Missions Entrangères - lettre à Mgr Thonuire - Desmazures, 30-7-1858, cité par Franchini, Ouv. cité. (2) Archives du ministère des Affaires Étrangère Vol. 27 (CHT, SĐD, trang 67 & 68). Qua một tài liệu khác, chúng ta cũng thấy vai trò quan trọng của Giám mục Pellerin trong việc vận động Pháp xâm lăng nước ta. Và đã được Giáo hoàng La Mã Pie IX chấp thuận: Lợi dụng lý do truyền giáo, cấm đạo tại Việt Nam, thực dân Pháp qua trung gian Giám mục Pellerin đã đệ trình đề án kế hoạch xâm lược Việt Nam lên Giáo hoàng Pie IX và đã được La Mã chấp thuận. (Xem A. Delvaux, Mgr. Pellerin, Nazattreth, Hồng Kông, 1937, tr. 54, nguyên văn Une des facteurs qui influèrent favorablement sur la mise en campagne de l'expédition de Cochinchine fut l'avis favorable de Pie IX qui avait approuvé pleinement les démarches de Mgr Pellerin lors de son voyage à Rome (Phần tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, trích trong cuốn Phong Trào Nghĩa Hội Quảng Nam, tác giả Nguyễn Sinh Duy, nhà xuất bản Đà Nẵng, 1996, trang 17). Đến đây, có lẽ không ai có thể phủ bác được vai trò của nhiều Giáo Hoàng La Mã trong việc tán thành và hỗ trợ các vận động để Pháp xâm lăng Việt Nam ngay từ thời Linh mục A-lê-xăng-đờ-rốt, 1652. Thế mà nhà thông thái giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ lại viết bản Điều Trần khuyên triều đình vua Tự Đức qua La Mã vận động Giáo Hoàng giúp. Do đó, tôi nói khuyên gởi con cho cọp có lẽ không sai ? Với nhận định và chứng minh bằng những sử liệu chính xác như trên, chúng ta có thể nói rằng bản Điều Trần Lục Lợi Từ của Nguyễn Trường Tộ nên đổi thành Lục Hại Từ mới đúng? Phần tiếp theo kính mời độc giả tìm hiểu một bản Điều Trần quan trọng khác của Nguyễn Trường Tộ. Đó là Di Thảo số 27 Tám Việc Cần Làm Gấp, được viết ngày 15-11-1867; 56 trang, dài nhất trong tất cả 58 bản Điều Trần. Chương 3 NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VỚI VIỆC MỞ TRƯỜNGKỶ THUẬT VÀ HỌC THỰC DỤNG Bản Điều Trần số 27 dưới đây sẽ cho thấy phần lớn cái chiêu bài canh tân của Nguyễn Trường Tộ: Nhận định bản Điều Trần số 27 Tám Việc Cần Làm Gấp (Tế Cấp Bát Điều). Tổng quát, đây là một trong ba bản Điều Trần có tầm vóc. Giọng văn điêu luyện có tính thuyết phục và nhiều đoạn rất thực tế đã mô tả được một số bệnh trạng của đất nước ta thời bấy giờ. Cách trình bày, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ dường như có thành tâm thiện chí đối với nước nhà. Để đánh giá bản Điều Trần nầy được chính xác, chúng ta nên lồng nó vào bối cảnh lịch sử nước nhà và vào thời kỳ mà giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ viết bản Điều Trần này vào tháng 11, 1867. Để dễ theo dõi, tôi chia bản Điều Trần làm nhiều đoạn. 1.- Phần mở đầu - gồm 6 trang mô tả tình hình chung của các nước lúc bấy giờ. Phần nầy chúng ta cũng thấy Nguyễn Trường Tộ đưa ra nhiều nhận xét chí lý chí tình như: Vận hội trong thiên hạ cũng thế. Những việc làm thời xưa chỉ đủ đem lại những nhu cầu cần thiết cho nhân loại, nhưng chưa đủ tập họp để làm nên công dụng hay ho gì. Những việc sửa sang giúp đời trị thế, cũng chẳng qua thời thế lúc bấy giờ phải như vậy, mới đủ dùng được như vậy mà thôi. Nhưng đến đời sau xem lại, những việc làm ấy không khác nào trò nghịch đất khi còn bé (Tế Cấp Bát Điều, TBC, SĐD, trang 225). Hoặc: Chỉ vì nay ta không thể phát huy vũ lực ra các nước xung quanh, nên mới bị các nước mang binh đến ta. Dù ta không chủ tâm đánh ai, nhưng cũng phải sửa sang biên thùy, siết chặt hàng ngũ trong nước, để có một lực lượng có thể đánh được người ta, nhưng chỉ chờ ai đến thì đánh mà thôi. Như vậy mới khỏi hoạn nạn. (Bản Di Thảo đã dẫn, TBC, trang 226). Đọc đoạn mở đầu nầy, độc giả sẽ tìm thấy những ý tưởng hay và những thích thú khác mà tôi chỉ đơn cử hai thí dụ. Tuy nhiên, về phương diện tình thế và sử liệu có rất nhiều chỗ sai, mặc dầu có lẽ không quan trọng lắm cho bài Điều Trần nầy, nhưng tôi vẫn nêu ra vài điểm để độc giả rõ thêm và tránh những dẫn chứng sai lầm nếu ai có xử dụng đến. Thí dụ 1: Nguyễn Trường Tộ đặt nghi vấn: "Người Anh đã xin nhà Thanh cho lập một quân cảng ở Quỳnh Châu là ý muốn gì?" Chúng ta nhớ rằng Nguyễn Trường Tộ viết bản Điều Trần nầy vào năm 1867, nghĩa là 27 năm sau khi quân Anh tấn công Chiết Giang (năm 1840) lên Trực Lệ rồi thẳng vào Thiên Tân, quân Trung Hoa thua phải ký hòa ước Nam Kinh... mở năm cảng: Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải, cắt đứt Hương Cảng tặng cho Anh. Xin xem lại đoạn Tình hình Trung Hoa và Hồng Kông trong phần nhận định Di Thảo số 5 Lục Lợi Từ. Và sau chiến tranh Nha phiến thứ II (1856-1860), Trung Hoa thua, nhà Thanh mở thêm bảy thương khẩu khác cho Anh và Pháp (đã trình bày trong Tình Hình Trung Hoa và Hồng Kông). Do đó, câu hỏi của Nguyễn Trường Tộ nêu ra ở trên không cần thiết và không đúng. Thí dụ 2: Nguyễn Trường Tộ viết: Người Pháp đang còn tính ngược sông Cửu Long chiếm Tây Tạng rồi sau đó phía đông sẽ xuôi dòng Kim Sa xuống Tứ Xuyên vào giữa lòng Trung Quốc... (TBC, SĐD, trang 227). Sai, như đoạn trước về Tình Hình Trung Hoa và Hồng Kông mà chúng ta đã biết, chiến tranh Nha phiến II (1856-1860), Anh và Pháp hợp tác với nhau để đánh Trung Hoa, nhà Thanh thua phải mở thêm 7 cửa khẩu. Còn Tây Tạng ở giữa Ấn và Trung, là một quốc gia bị tuyết phủ, hầu như quanh năm, Pháp chiếm Tây Tạng làm gì? Chỉ có Trung Hoa nhất là Anh chiếm Tây Tạng để tránh sự dòm ngó của các nước vào thuộc địa Ấn Độ của Anh. Tôi chỉ nêu hai trong nhiều điểm mà Nguyễn Trường Tộ đã lạc dẫn lịch sử. 2.- "Tám điều cần phải làm gấp" của Nguyễn Trường Tộ đề nghị: 2.1.- Điều thứ nhất: "Xin gấp rút việc sửa đổi võ bị". Cũng như đoạn mở đầu bản Điều Trần, Nguyễn Trường Tộ dường như có nhiều ý kiến hay. Nhưng nếu đọc cuốn "Tôn Ngô Binh Pháp, chúng ta thấy hầu như Nguyễn Trường Tộ lấy ý trong cuốn sách nầy. Đã vậy, ý của Nguyễn Trường Tộ so ra còn kém xa. Sau đây là một số dẫn chứng. a.- Nguyễn Trường Tộ viết: "Cái khó của môn học nầy là người học võ học các sách binh thư đồ trận. Học sách xong phải thể nghiệm tập tành. Học cái gì tập luyện cái đó. Óc sáng suốt, cái nhìn nhanh như thần mới nắm được cốt cách mau lẹ..." Tôn Ngô Binh Pháp: Việc binh, lấy trá mà thành. Lấy lợi mà động. Lấy hợp tan làm biến hóa. Nhanh như gió. Thong thả như rừng. Lấn cướp như lửa. Bất động như núi. Khó biết như mây. ("Tôn Ngô Binh Pháp", Ngô Văn Triện dịch, trang 121& 122). b. Nguyễn Trường Tộ: "Kẻ học võ học các phép động tĩnh đánh đấm đúng chân truyền mới không sai khi ứng dụng..." Tôn Ngô Binh Pháp: Tính giỏi thì biết cái thế đắc thất. Tác động để biết cái động tĩnh. Nghiên cứu địa hình để biết sống chết. So đọ để biết chỗ thiếu thừa (TNBP, trang 108 &109). c.- Nguyễn Trường Tộ: "Kẻ học võ đối với những nơi hiểm yếu có tính cách sinh tử, những hình thể có tính cách quyết định thắng bại, phải giả tạo hiện địa, lập trận đồ đích thân luyện tập (Binh pháp phương Tây như thế) mới thể nhận được rõ ràng..." Tôn Ngô Binh Pháp: Ứng biến về địa thế: "Tránh chỗ bằng, đón chỗ nghẽn, lấy một đánh mười đâu bằng chỗ nghẽn, lấy mười đánh trăm đâu bằng chỗ hiểm, lấy trăm đánh nghìn đâu bằng chỗ ngẵng" (TNBP, trang 281). d.- Nguyễn Trường Tộ: "Kẻ học võ quan sát đồn bót xem mặt nào có thể đánh được giữ được, hướng nào có thể ra được vào được, phải chính mắt xem xét rõ ràng hình thế địa lý và ghi nhớ trong lòng (Võ quan phương Tây như thế). Tôn Ngô Binh Pháp: "Người giỏi đánh quân địch không biết đâu mà giữ, người giỏi giữ quân địch không biết đâu mà đánh" (TNBP, trang 89). e.- Nguyễn Trường Tộ: "Con nhà võ khi ra trận tên đạn trước mặt, gươm giáo sau lưng, tiến lên thì chết vào tay giặc, thoái lui thì luật nước không cho. Lệnh xuất quân đã ban thì quên nhà, trống thúc quân đã giục thì quên mình..." Tôn Ngô Binh Pháp: Ra đến cửa như thấy quân địch, khi lâm trận không nghĩ đến sự sống, phá được quân địch mới tính chuyện ra về (TNBP, trang 278). g.- Nguyễn Trường Tộ: "Con nhà võ biết bắc cầu đắp đường, dựng đồn lập lũy. Công việc của họ làm thiên biến vạn hóa. Nương theo địch mà tìm cách thắng địch, tùy theo địa thế mà lập cách phục binh, xuất quỉ nhập thần không theo một phương thức sẵn có hay một khuôn khổ nhất định. Cho nên cái kỳ diệu của nhà binh không thể báo trước được." Tôn Ngô Binh Pháp: Việc dụng binh hễ được thế thì mạnh mất thế thì yếu. Mạnh thì hăm hở, yếu thì rụt rè (TNBP, trang 89). Dọa phía Đông, đánh phía Tây, nhử phía trước đánh úp đằng sau, biến hóa không cùng. (TNBP, trang 98). Tiến mà họ không chống được bởi ta xông vào chỗ thực, lui mà họ không đuổi kịp vì ta nhanh chóng mà họ không thể theo (TNBP, trang 100). Tránh lúc địch hung hăng, đánh úp lúc chúng trễ biếng. "Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi nhọc, lấy no đợi đói." (TNBP, trang 128 & 129). Mồi nhử chớ ăn, giặc cùng chớ bách (trang 133 & 134). Sáu đoạn so sánh trên có lẽ đã cho chúng ta biết ý kiến về võ bị của Nguyễn Trường Tộ phát xuất từ đâu. Vậy mà ông luôn luôn cổ võ theo lối học thực dụng, tổ chức theo kiểu Tây. Hai trong sáu thí dụ nêu trên Nguyễn Trường Tộ còn chú thích "binh Pháp Tây phương như thế" (mục c) và quan võ phương Tây như thế" (mục d). Theo tôi Nguyễn Trường Tộ không đọc được tiếng ngoại ngữ thông thạo ngoại trừ chữ Nho. Do đó, lúc nói rằng "phương Tây như thế" là nói cho oai, chứ thực tế cũng cần xét lại. Thay vì đề nghị thiếu chuyên môn và không có gì mới về việc chỉnh trang võ bị như trên, Nguyễn Trường Tộ nên đề ra một phương pháp kháng chiến mới: đánh theo lối du kích như thế nào? Cướp khí giới Pháp để dùng làm kiểu mẫu đúc súng mới, toàn dân bất hợp tác, con chiên không nên hỗ trợ giặc Pháp v.v... Nếu Nguyễn Trường Tộ có tâm hồn vì dân vì nước, nhất là hơn ai hết, Nguyễn Trường Tộ là người ít ra am hiểu tình hình và chương trình đồng hóa của Pháp, vì ông là người thông minh, du lịch nhiều, ở Pháp nhiều năm, và gần gũi các linh mục, giám mục, nhất là Giám mục Ngô Gia Hậu, (Gauthier) là một tên gián điệp, mà quí vị sẽ thấy ở đoạn kế tiếp. Còn đoạn đề nghị sau đây của Nguyễn Trường Tộ chúng ta nên dè dặt: Giờ đây trong số các quan viên văn võ có những vị nào quê ở lục tỉnh Nam Kỳ, triều đình phải đặc biệt ưu ái họ. Cho họ thường xuyên về thăm anh em họ hàng. Phải đãi ngộ họ thân mật nồng nàn hơn trước, khuyên bà con họ hàng của họ không nên dời nhà cửa đi nơi khác, đừng lánh đi xa. (Di Thảo số 27, TBC, SĐD, trang 239). Lý do cần dè dặt vì, sau khi chiếm Nam Kỳ, hầu hết dân chúng tại đó không chịu ra hợp tác với Pháp, người thì theo kháng chiến, kẻ theo chiến dịch Đồng không nhà trống làm cho chính quyền Bonard bối rối (xin xem đoạn cuối, phần trước). Vậy, lời khuyên của Nguyễn Trường Tộ như trên xem ra vô tình hay cố ý trúng kế và làm lợi cho Pháp. 2.2.- Điều hai: Xin hợp tỉnh, huyện để giảm bớt số quan lại và khóa sinh. Chúng ta không có dữ kiện về số dân trong mỗi tỉnh, huyện thời bấy giờ để nên hợp hai hoặc ba tỉnh làm một nhằm giảm bớt số quan lại và nhân viên làm việc. Hoặc, nếu có tỉnh, huyện dân số quá đông, thì nên chia ra để công việc hành chánh được thực hiện nhanh chóng khỏi bắt dân phải đợi chờ phiền toái. Do đó, không nhất thiết phải hợp tỉnh, huyện mà có nơi phải phân chia. 2.3.- Điều ba: Gây tài chính bằng cách đánh thuế xa xỉ. Điều thứ 5: Điều chỉnh thuế ruộng đất. Điều thứ 6: sửa sang lại cương giới. Điều thứ 7: Nắm rõ dân số. Các đề nghị trong điều thứ 3, 5, 6 và 7 nói trên, tôi thấy rất cần thiết, và bất kỳ ở hoàn cảnh nào cũng có thể thực hiện được. Những đề nghị đó không những thích hợp cho thời xưa mà còn cho ngày nay nếu các chính phủ, nhất là trong các quốc gia còn lạc hậu. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng nhìn vào bốn đề nghị vừa nêu trên của Nguyễn Trường Tộ để nghĩ rằng, lúc bấy giờ và các triều đại trước đó không qui định các thứ thuế, không đo đạc ruộng đất và không kiểm kê dân số. Thật vậy, theo cụ Trần Trọng Kim trong "Việt Nam Sử Lược quyển 2, Bộ giáo dục, Trung Tâm Học Liệu xuất bản, 1971. Đại Nam, Hoa Kỳ in lại, từ trang 173-177 cho chúng ta một vài chi tiết về thời Gia Long như sau: a.- Việc tài chánh: Thuế đinh, thuế điền đều định lại cả. Thuế điền thì chia ra làm 3 hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng; tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng. Thuế đinh thì lệ định: từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu: Thuế thân 1 quan 2 tiền Mân tiền 1 tiền Cước mễ 2 bát 5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên mỗi suất đinh đồng niên phải chịu thuế Lệ giảm thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như là bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước lụt, v.v... thì nhà nước chiếu theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân. Đinh bạ: Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến quân dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải ghi vào sổ. Điền bạ: Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc tại đâu, đông tây tứ chi phải thưa cho rõ ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần để vào bộ đóng dấu kiểm, rồi một bản lưu lại bộ, để phòng khi xét đến, còn hai bản giao về tỉnh, tỉnh để một bản lưu chiếu, còn một bản giao trả dân xã lưu thủ. Thuế các sản vật: Năm Gia Long thứ hai (1803), định lệ các quế hộ ở Nghệ An, đồng niên phải nộp các hạng quế 120 cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70 cân, và đều được miễn trừ thuế thân cả. Những người tìm được cây quế, phải trình quan để cấp cho văn phòng mới được đẵn. Đẵn xong rồi một nửa nộp quan, một nửa cho người người tìm được. Năm Gia Long thứ tư (1805), định lệ những người đi lấy yến sào ở các đảo về hạt Quảng Nam, mỗi người đồng niên phải nộp thuế yến 8 lạng và được tha việc binh lính. Còn những thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho nộp bằng tiền hay là bằng sản vật. Vua Thế Tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước vào buôn bán, cứ do thuyền lớn nhỏ mà định số thuế phải nộp. Những mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Tàu khai thác để đánh thuế. Đúc tiền: Năm Gia Long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở Bắc thành, để đúc tiền đồng và tiền kẽm; lại đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng bạc, để cho tiện sự giao thông buôn bán trong nước. Thước đo: Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng một mặt khắc 7 chữ Gia Long cửu niên thu bát nguyệt, một mặt khắc 10 chữ ban hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo. Chuẩn định lại các thước vuông đo ruộng khi trước, chế tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ Gia Long cửu niên thu bát nguyệt, một mặt khắc 12 chữ ban hành đạc điền cựu kinh xích, công bộ đường khâm tạo. b.- Công vụ: Vua Thế Tổ lại sửa sang những đường sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của dân gian được tiện lợi. Đường quan lộ: Đường sá trong nước là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên vua Thế Tổ mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ, bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo. Lại từ cửa Nam quan (thuộc Lạng Sơn) vào đến Bình Thuận, cứ độ 4.000 trượng phải làm một cái trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm. Còn từ Bình Thuận trở vào phía Nam đến Hà Tiên thì đi đường thủy. Sông ngòi và đê điều: Những sông ngòi và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho việc canh nông, bởi vậy vua Thế Tổ truyền cho quan ở các trấn phải xoi đào sông ngòi và các cửa bể, và nhất là ở Bắc Thành phải giữ gìn đê điều cho cẩn thận; chỗ nào không có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải sửa lại. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa đói kém thì lấy mà phát cho dân. Vì là một cuốn sử lược, nên không cho chúng ta biết thêm một số chi tiết cần thiết khác về các vấn đề thuế, dân số, biên cương. Có lẽ trong bộ Việt Sử Tân Biên của Phạm Văn Sơn, đầy đủ hơn, nhưng hoàn cảnh của tôi không thể có được lúc viết bài nầy. Về quốc phòng cũng thế, Bộ Quân Sử Việt Nam, từ thời đại phong kiến đến 1968 do TTM/QLVNCH soạn, sẽ giúp chúng ta đối chiếu một số điểm về võ bị mà ông Nguyễn Trường Tộ có nêu như đã bàn ở phần trên. Một điểm khác, cần thảo luận thêm là, các thứ xa xỉ phẩm cách đây 131 (1998-1867 =131 năm) sẽ không có nhiều như ngày nay. Lúc đó không có thuốc ba số 5, thuốc Dunn Hill, rượu Henessy Cognac, dầu thơm Lancôme Pháp, áo bằng da, bằng lông cừu v.v... Về thuế du hí như xem hát mà Nguyễn Trường Tộ có vẻ cay cú lúc viết Trong dân gian có người bỏ ra hàng chục hằng trăm quan tiền để xem hát, nhất là dân thành thị. Vì vậy những phường vô lại du đảng không chịu chăm lo làm ăn chuyên dựa vào nghề nầy để kiếm tiền, ế ẩm thì sinh trộm cướp vì không có nghề nào nuôi sống (TBC, SĐD, trang 246). Nhận xét như thế, tôi nghĩ không đúng, vì cầm, kỳ, thi, họa (Ca hát, xướng họa, thi phú) cũng là những môn giải trí lành mạnh. Hát bội, hát chèo, hò, vè ngày xưa không những là môn giải trí lành mạnh cho tinh thần mà còn là những mãng văn hóa cần thiết của xã hội. Việc tế thần, cúng thần v.v... cũng thế, nghĩa là đừng thái quá để sa vào vòng cuồng tín, mê tín dị đoan. Nhưng đừng quên rằng tín ngưỡng dân gian cũng đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề làm cho con người tránh bớt phạm pháp. Thí dụ: Một bà mẹ vùng quê cảnh cáo con rằng Mầy ở ác, coi chừng thần hoàng vặn cổ mầy. Phải chăng câu nói ấy, có một tác dụng tâm lý quan trọng trong cách xử thế của người con? Do đó, không nên nhìn tín ngưỡng dân gian dưới nhãn quan Gia Tô giáo. Và chính cái nhãn quan ấy mới cuồng tín và sai lầm. 2.4. Điều bốn - Xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng." Nguyễn Trường Tộ chỉ trích một cách đúng đắn khi cho rằng xưa nay chúng ta chú trọng đến loại tầm chương trích cú, học những chuyện xưa của Tàu, không ích gì cho đời nay. Ông đề nghị nên có bốn khoa học thiết thực như: a.- Khoa nông chính: nghiên cứu các loại đất, khí hậu, giống, phương pháp canh tác để thu hoạch nhiều hoa lợi. b.- Khoa thiên văn và khoa địa lý: gấp rút duyệt lại khoa thiên văn địa lý từ trước đến nay, chọn những gì hợp với thiên thời địa thế nước ta. Tham khảo các khoa thiên văn địa lý Tây phương để rút tỉa những điều hay của họ. c.- Khoa công kỹ nghệ: Tìm trong sách Nho cũng như sách Tây thu thập những gì cần thiết hằng ngày như nguồn lợi khoáng sản v.v... d.- Khoa luật học: bất cứ dân hay quan cũng đều học luật nước nhà để dân thì biết luật mà giữ, quan thì biết luật mà theo. c.- Dùng quốc âm: lấy chữ Hán đọc ra quốc âm thì khi đọc lên ai cũng hiểu có phải vừa dễ dàng vừa bớt được bao nhiêu phiền phức không? Nguyễn Trường Tộ rất thẳng thắn để nói một cách cương trực rằng: Còn văn sách thì cứ nói mãi những chuyện Hán tự tạp bá, Đường trị vi thuần. Tạp bá, vi thuần của người ta mặc kệ người ta. Mình hãy nói chuyện trị nước của mình ngày nay ra sao thôi. Nước chưa giàu, sao không đặt kế hoạch để giàu? Binh chưa mạnh sao không chăm lo võ bị cho mạnh? Dân chưa khôn sao không đem đạo lý ra giáo dục? Nhân dân đói khổ sao không lập kế mưu sinh để cứu? v.v... (TBC, SĐD, trang 254). Đó là những lời phê bình thẳng thừng không vị nể, để mang cái học thực tế vào áp dụng cho tình thế hôm nay. Đây là những chỉ trích ích lợi, cần thiết để xây dựng một nền học thuật mới mẻ cho nước nhà. Có thể nói, những đề nghị nầy của Nguyễn Trường Tộ rất đáng được ca tụng. Tuy nhiên tôi muốn nêu một vài thắc mắc để cùng thảo luận với độc giả như sau: Nguyễn Trường Tộ hô hào nên học thực dụng, nhưng chúng ta không thấy tác giả đã thực hiện được điều thực dụng nào trong suốt cuộc đời của ông như, dịch vài cuốn sách khoa học, kỹ thuật phương Tây để dân ta tìm hiểu, hoặc tổ chức một lớp học hay một khóa hội thảo về kỹ thuật để cho tuổi trẻ Việt Nam được mở mang kiến thức khoa học tân tiến. Trong cuộc đời Nguyễn Trường Tộ chúng ta thấy ông thực hiện được một số việc như sau: 2.4.1.- Viết được 58 bản Điều Trần, mà một số bài quan trọng chúng ta đã và đang tìm hiểu. Qua các bản Điều Trần nầy, như sự phân tích trên cho thấy, hầu hết đều lạc dẫn, không tưởng. Ngay có nhiều đề nghị nếu áp dụng, sẽ tạo ra tai họa không thể lường được như đã phân tích trong Di Thảo số 1 Thiên Hạ Đại Thế Luận; Di Thảo số 5 Lục Lợi Từ; Di Thảo số 27 Tế Cấp Bát Điều. Ngay trong Di Thảo Tế Cấp Bát Điều nầy chúng ta cũng thấy Nguyễn Trường Tộ đưa ra một đề nghị khác hết sức không tưởng và tai hại. Đó là đào một con kênh từ Hải Dương, gần Hải Phòng, đến kinh đô Huế, dài khoảng 8-9 trăm km. Với khí cụ tối tân ngày nay, chúng ta quả quyết rằng không thể làm được huống hồ là 130 năm trước đây, dụng cụ chỉ là tay chân và mấy cái cuốc cán bằng tre. Với kỹ thuật của cuối thế kỷ thứ 20 và dường như có sự tài trợ hoặc cho vay tiền của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank), để làm một đoạn đường quốc lộ 1 từ Vinh vào Đông Hà (Quảng Trị) khoảng 300 km. Dự án đã có nhiều năm qua mà vẫn chưa thực hiện được. Đó là con đường đã có sẵn bằng đất và đá, chỉ làm cho rộng và hiện đại thêm mà đã khó lòng. Dân số Việt Nam ngày nay gần 80 triệu, có nguyên liệu để xuất cảng như lúa gạo, hải sản v.v..., và nền kinh tế thị trường mà chưa làm được. Huống hồ 130 năm về trước, dân số gần 20 triệu *, nền kinh tế nông nghiệp. Đào kênh lại phí tổn gấp cả trăm lần so với làm đường bộ. Thật là một đề nghị hết sức phi lý. Đó là chưa nói đến tình trạng loạn chày vôi, chỉ mới đào hào để làm lăng tẩm cho nhà vua mà dân chúng kinh thành đã nổi loạn, không biết Nguyễn Trường Tộ có nghe hai câu vè: Vạn niên là vạn niên nào, Thành xây xương lính hào đào máu dân. Nếu đào kênh như đề nghị của Nguyễn Trường Tộ, chắc chắn dân chúng cả nước đều nổi lên chống triều đình. Cảnh thù trong: dân chúng nổi loạn, giặc ngoài: Pháp thừa cơ hội tấn công và chiếm toàn lãnh thổ một cách nhanh chóng hơn. 2.4.2.- Xây nhà thờ: Nguyễn Trường Tộ xây được hai cái nhà thờ. Một là xây Nhà Chung Xã Đoài. Hai, xây tu viện Phao Lồ ở Sài Gòn. Lúc nầy có phần khác, nhưng thời buổi Pháp chiếm Việt Nam, có thể nói đây là hai nơi trú ẩn cho bọn gián điệp để xâm lăng Việt Nam. Một trong những người trú ngụ tại Nhà Chung Xã Đoài do Nguyễn Trường Tộ xây cất là Giám Mục Ngô Gia Hậu tức là Gauthier (người Pháp), thầy của Nguyễn Trường Tộ, là người luôn luôn sát cánh với Nguyễn Trường Tộ trong tất cả các việc làm, ngay cả có thể (?) sát cánh trong việc viết 58 Di Thảo nầy. Chúng ta có thể khẳng định rằng Giám mục Gauthier (tên Việt Nam: Ngô Gia Hậu) là một tên gián điệp qua phần thảo luận và dẫn chứng sau đây. 2.4.3.- Trường kỹ thuật: Theo tờ trình của Giám mục Gauthier đề tháng 3, 1868 nạp cho triều đình Tự Đức chúng ta thấy có nhiều máy dụng cụ, sách, tự điển v.v... cũng như phí tổn các thứ ấy mua từ Pháp về do phái bộ Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ thực hiện để mở trường kỹ thuật. Tờ tấu của Cơ Mật Viện ngày 4-3-1868, gồm có 7 đại thần đề nghị nhà vua nên ban thưởng cho cả phái bộ và 4 thầy dạy học mà Gauthier và Nguyễn Trường Tộ được vua Tự Đức nhờ đi mướn từ Pháp về. Trong 4 thầy có 3 vị là linh mục người Pháp. Bảy đại thần nói trên gồm có: Nguyễn Tri Phương, Đoàn Thọ, Vũ Trọng Bình, Trần Tiển Thành, Nguyễn Văn Phong, Phan Huy Vịnh và Phạm Phú Thứ. Vua Tự Đức đồng ý lời đề nghị của các đại thần, sai ban thưởng rất hậu. Điều đó chứng tỏ triều đình nhà Nguyễn rất muốn canh tân. Nhưng công việc không thành mà chúng ta sẽ thấy lý do ở đoạn sau. Tóm lược các máy móc và dụng cụ mua từ Pháp và lộc vua ban thưởng: a.- Máy và dụng cụ: Sách nói về quặng sắt, về địa chất, về mỏ than, về bách nghệ cơ xảo, về quặng đồng, thước tam giác, bản đồ địa lý, địa chất, hai bộ thủy thư, một bộ kỷ hạn nghi (dùng đo vĩ độ...). Sách thiên văn, sách về chính trị nước Pháp, nhiều loại thước và tự điển tiếng Pháp. Cọng chung tốn hết 1.266 quan. Tiền mua một số dụng cụ khác chưa đem về được. Phí tổn: 1.055 quan. Tiền ăn ở của hai phái viên của Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier cọng với tiền chuyên chở khuân vác và đóng thùng: 2.799,148 quan. Tổng cọng cả ba khoản trên là: 5.120,148 quan. (Lược trích trong TBC, SĐD, trang 467 & 468). b.- Những vật dụng vua ban thưởng cho phái bộ đi mua máy và bốn giáo chức. Kê khai: - Xin xét cấp cho Ngô Gia Hậu các vật hạng như sau: Một tấm Ngũ phúc kim tiền nặng 5 đồng cân (có tua). Mười tấm Ngân tiền (Hạng Song Long: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Triệu dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Ngũ phúc, Tam thọ mỗi thứ một tấm), cọng lại nặng ba lượng, năm đồng cân, năm phân. Một cuộn tố đoạn bằng năm loại tơ màu đen để may áo dài chật tay (Có một đoạn lụa bóng màu lục để lót trong). Một xấp huyền lương sa Bửu lam nam hoa. Một xấp sa có vân Nam tố tuyết bạch Một xấp lụa Tuyết bạch. - Xin xét cấp cho Nguyễn Trường Tộ các vật hạng như sau: Một tấm Tứ mỹ kim tiền nặng bốn đồng cân (có tua). Năm tấm ngân tiền (Hạng Sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Ngũ phúc, hạng Tam thọ mỗi thứ một tấm), cọng lại nặng một lượng năm đồng cân năm phân. Một cuộn tơ lông màu lam để may áo dài chật tay (Có một đoạn lụa màu xanh để lót trong). Một xấp lương sa Bửu lam nam tố. Một xấp trừu Tuyết bạch nam hoa. Một xấp lụa Tuyết bạch. - Xin xét cấp cho ba tên: Đạo trưởng tên Điều, đạo đồ tên Hoằng và tên Vị như sau: Nhị thắng kim tiền mỗi tên một tấm, mỗi tấm nặng hai đồng cân (có tua). Ngân tiền mỗi tên bốn tấm (hạng sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm, hạng Ngũ phúc, hạng Tam thọ mỗi thứ một tấm) mỗi phần cọng lại nặng một lượng ba đồng cân năm phân. Nam tố lương sa màu đen, mỗi tên một xấp. Tơ lông màu lam (Châu phê: Hoặc màu đen huyền cũng được) mỗi tên một đoạn (thành một cái áo tay chật, có một đoạn lụa xanh lót trong). Lụa Bạch tuyết mỗi tên một xấp. Một xấp vải tây dày mịn Bạch tuyết hạng nhì (Chia làm ba mỗi tên một đoạn). - Xin xét cấp cho ba tên linh mục giáo sĩ: Tam thọ kim tiền mỗi tên một tấm (Châu phê: Cấp cho tên Ca Xanh ba tấm ngân tiền nầy. Châu phê: Cấp cho ba người ngân tiền hạng Sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm) mỗi tấm nặng ba đồng cân (có tua). - Xin xét cấp cho bọn tùy tùng của Ngô Gia Hậu bốn tên, mỗi tên một tấm Long văn ngân tiền hạng nhỏ (mỗi tấm nặng ba đồng cân). (Tờ tấu của Cơ Mật Viện triều Tự Đức ngày 4-3-1868, TBC, SĐD, trang 459-460). Qua sự khao thưởng như trên mà tôi trích dẫn dài dòng để thấy, triều đình Tự Đức cũng biết chiêu hiền đãi sĩ. Ngay cả việc vua Tự Đức đồng ý đề nghị của Giám mục Gauthier và Giám mục Sohier xây dựng trường sở trên hai mẫu đất nằm giữa nhà thờ Kim Long và tòa Giám mục Huế, theo thư của Giám mục Gauthier viết ngày 31-3-1868 (TBC, SĐD, trang 50). Nhưng việc mở trường chưa bao giờ được thực hiện. Lý do, theo Linh mục Trương Bá Cần là bị Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình, hai vị quan có thế lực trong triều ngăn cản. Cũng theo Linh mục Trương Bá Cần (SĐD trang 52) ngày 31-3-1868, Giám mục Gauthier gởi thư cho bộ truyền giáo có đoạn như sau: Công việc sẽ tiến triển nhanh hơn nếu không có việc cử phái bộ đi Pháp và những sự chậm chạp của xứ nầy... Trong các quan thượng thư có hai vị cựu trào tìm cách cản trở quyết tâm của nhà vua. Linh Mục Trương Bá Cần nêu lý do trên để kết luận vì thế mà trường không mở được. Theo tôi lý do nầy không đúng. Thứ nhất, trong tờ tấu của Cơ Mật Viện, ngày 4-3-1868 mà chúng ta đã thấy ở trên, có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình đề nghị ban thưởng cho phái bộ và 4 giáo chức. Điều đó cho thấy, nếu hai vị nầy có ý cản trở thì họ đã không đề nghị vua Tự Đức ban thưởng như vậy. Thứ hai, thư của Giám mục Gauthier gởi cho bộ truyền giáo, đề ngày 31-3-1868, nghĩa là 27 ngày sau khi bảy vị đại thần đề nghị ban thưởng cho phái bộ Gauthier.... Thư cho biết, vua Tự Đức đồng ý dùng hai mẫu đất để xây trường sở. Sự đồng ý của vua Tự Đức không thể không có sự tham khảo với các đại thần trong đó có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình. Hơn nữa Trần Tiển Thành mới là nhân vật chính trong Triều (chức phụ chính) sau vua Tự Đức chứ không phải Nguyễn Tri Phương hoặc Vũ Trọng Bình. Thứ ba, Linh mục Trương Bá Cần trích dẫn chỉ có một đoạn thư gởi cho bộ truyền giáo" như trên, không nói lên được điều gì cho thấy hai vị thượng thư đó cản trở. Việc trích dẫn như vậy không rõ ràng, không chứng minh được luận điểm mà Linh mục Trương Bá Cần muốn nói. Theo tôi, những lý do chính để việc mở trường không thành vì triều đình Tự Đức quá tin tưởng Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ, trái lại hai ông nầy thì lừa dối triều đình có hậu ý: kẻ thì ngu muội chạy theo ngoại bang, người thì khoác áo chùng thâm để làm gián điệp. Sau đây là một số bằng chứng. a.- Thầy giáo không có khả năng: Trong việc mở trường (huấn nghệ, kỹ nghệ) yếu tố quan trọng hàng đầu sau trường sở, dụng cụ... là phải có quyết tâm, thứ hai giáo chức phải có bằng cấp hoặc kiến thức chuyên môn về ngành mà mình được mời dạy. Theo tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 23-2-1868 gởi cho vua Tự Đức thì các vị giáo chức có bằng cấp chuyên môn để dạy huấn nghệ, kỹ nghệ. Nhưng theo Hội truyền giáo Paris thì mấy vị nầy không có các bằng cấp hoặc khả năng mà Giám mục Gauthier mô tả. Nguyên văn: Theo một tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23-2-1868): - LM. Thông, (tức Montrouzies) biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi. Nhưng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 1-5-1867 đã đậu cử nhân văn chương. - Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ. Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền Giáo Paris 14-10-1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam. - Giáo sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi giáo sĩ như Nguyễn Trường Tô cũng được gọi là giáo sĩ, thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc. Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày giáo sĩ nầy do bệnh cũ tái phát đã xin về Pháp trở lại. - Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca sa nhi) là một người thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài gòn đem về giới thiệu với triều đình, nhưng Ca xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dùng. (TBC, SĐD, trang 49 & 50). Các đối chiếu nên trên chứng tỏ Vua quan triều Tự Đức bị thầy trò Nguyễn Trường Tộ dối trá lừa bịp có hậu ý. b.- Giám mục tình báo: Giám mục Sohier, nhất là Giám mục Gauthier, thầy đỡ đầu và sát cánh với Nguyễn Trường Tộ là một tên gián điệp phục vụ cho quyền lợi của Pháp chứ đâu có tấm lòng muốn giúp triều đình Tự Đức mở trường để canh tân xứ sở, mà bảo giám mục không lừa dối triều đình. Thật vậy, nếu kể theo thứ tự thời gian, chúng ta thấy rằng Giám mục Gauthier cùng Nguyễn Trường Tộ đến chào mừng quân Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng năm 1858. Và năm 1861, theo lời yêu cầu của phó Đô đốc Charner, thầy trò Gauthier về Sài Gòn, để mở rộng vùng chiếm đóng. Quý độc giả sẽ thấy sử liệu ở Chương 2, bản Điều Trần số 17 Dùng Giám Mục, Linh Mục Vào Việc Canh Tân(trang 163). Sau khi hiệp ước 1862 ký giữa Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha, triều đình vua Tự Đức kiếm cách chuộc lại ba tỉnh đã mất. Trong chiều hướng nầy, một người Gia Tô cuồng nhiệt là Trung Tá hải quân Aubaret vận động, được bộ ngoại giao Pháp và vua Napoléon III đồng ý. Vì thế một hiệp ước mới (thế hiệp ước cũ 1862) được bộ ngoại giao và bộ hải quân soạn thảo theo quan điểm của vua Napoléon III, và được ký tại Huế ngày 15-1-1864. Theo hiệp ước nầy, ba tỉnh bị chiếm trong năm 1862 được trả lại cho Việt Nam, ngoại trừ thành phố Sài Gòn, Mỹ Tho, Vũng Tàu và Côn Đảo. Để đổi lại việc trả 3 tỉnh nầy, Pháp có quyền bảo hộ 6 tỉnh Nam bộ, ba hải cảng Đà nẵng, Ba Lạt và Quảng Nam... Theo hiệp ước 1864, Aubaret chủ trương chiếm Nam Kỳ bằng con đường tôn giáo và thương mại, chứ không phải Aubaret có lòng tốt gì đối với dân Việt Nam đâu (CHT. SĐD, trang 174, 175). Trong triều đình Pháp chia làm hai phe, phe ủng hộ và phe chống. Phe chống khuyên vua đừng phê chuẩn hiệp ước. b1.- Gauthier theo phe Aubaret: Về phía các nhà truyền giáo cũng chia làm 2 phe, phe chống, phe bênh. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng chống hoặc bênh cũng cùng một mục đích là đồng hóa dân Việt Nam nhưng theo cách nầy hay theo đường khác mà thôi. Trong phe ủng hộ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier hai người có liên hệ đến việc mở trường nói trên. Thư của Giám mục Lefèbre viết cho Linh mục Pernot, cho chúng ta thấy điều đó: Hiệp ước Aubaret bị dìm, đó không phải là điều rủi ro. Chỉ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier là tán đồng hiệp ước, nhưng đứng trên quan điểm chính trị thực sự và quyền lợi của hội truyền giáo chúng ta, việc trả lại ba tỉnh để lấy tiền thật là một sự ngu ngốc kỳ lạ. Vấn đề bây giờ là phải lấy luôn ba tỉnh phía Nam: Đó là ý đồ của chính phủ và của toàn thể Bộ Tham Mưu chúng ta, nhưng cần phải có một nguyên cớ nghe được, vì cần phải có tôn trọng công lý và tôi không biết từ khi hiệp ước được ký kết với Bonard, người An Nam có cố tình phá vở hiệp ước hay không; vì không có gì rõ ràng là triều đình Huế không tôn trọng, dù có nhiều vi phạm ở địa phương mà họ có thể quy trách nhiệm cho dân chúng và quan lại, là những người, dĩ nhiên, không mấy sẵn sàng chấp nhận bất cứ hiệp ước nào với nước ngoài, nhất là ở Bắc Kỳ. Chắc Cha đã gặp Giám mục Sohier, người theo phe Aubaret, nhưng bất đồng ý kiến với tôi. Ông Aubaret đã trở lại Xiêm, hết sức xấu hổ về việc thất bại ngoại giao của ông, sự thất bại tôi đã cho ông thấy trước, khi ông ghé Sài gòn. Nguyên văn tiếng Pháp: Le traité Aubaret est enfoncé et ce n'est pas un malheur. Il n'y avait que Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier qui en paraissaient partisans, mais au vrai point de vue politique et dans les intérêts de notre Mission, la reddition des trois provinces pour de l'argent était une absurdité révoltante... Il s'agit maintenant de prendre les trois autres provinces méridionales: c'est l'intention du gouvernement et de tout notre État-Major, mais il faudrait pour cela une raison plausible, car il faut bien observer la justice et ne sais si, depuis le traité conclu avec M. Bonard, les Annamites ont donné lieu obstensiblement à une rupture du traité; car il n'est pas évident que la Cour de Huế n'en ait pas observé les conditions, malgré beaucoup d'infractions locales, qu'elle peut rejecter sur les populations et les mandarins, naturellement peu disposés à accepter aucun traité avec une puissance étrangère, surtout au Tonkin. Vous avez du voir Mgr. Sohier, qui s'est fait aussi le partisan de M. Aubaret, mais dans un autre ordre d'idées que moi. M. Aubaret est retourné à Siam, tout confus de son échec diplomatique, que je lui avais fait entrevois lors de son passage à Saigòn”. (Lettre de Mgr. Lefèbre au Père Pernot, datée du 27-9-1864, citée par Taboulet, Bulletin de la Société des Études Indochinoise 1943, tom XVIII, N" 4, 4ème trimestre. Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier sont respectivement évêque de Huế et évêque du Tonkin méridionnal. (Dẫn theo CHT, SĐD, trang 181). b2. Gauthier được mời họp mật: Năm 1872 tàu Bouragne chở trung tá hải quân Senez ra Bắc kỳ để dò xét tin tức cho một cuộc chiếm cứ vùng nầy. Trong thư báo cáo của hạm trưởng Senez gởi cho Đô đốc Dupré chúng ta thấy có mời Giám mục Gauthier họp mật với vị sĩ quan Senez nầy: ... Vừa lên bờ tôi gửi ngay thư cấp tốc cho Giám mục Gauthier cách đó lối mười cây số và hẹn gặp ở trong làng. Chúng tôi sống suốt ngày giữa đám dân Thiên Chúa giáo, họ rất niềm nở với chúng tôi... Lúc 4 giờ chúng tôi thấy một nhà truyền giáo, Cha Frichot đến nói chuyện với chúng tôi vì Giám mục đi vắng. Cha xác nhận lại những gì mà chúng tôi biết lúc sáng do sự tiết lộ của những phái viên: loạn lạc ngày càng bành trướng, từ các tỉnh Lạng sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang lan đến Sơn Tây, Bắc Ninh, Quảng Yên, Hải Dương và những người khởi nghĩa làm loạn, trộm cướp, đã làm những điều cực kỳ táo bạo. Cha xứ vùng Phát Diệm xác nhận các tin tức đó ngoại trừ vấn đề chính thống và tôn giáo của người dòm ngó ngôi Vua, về hai điểm này có những ý kiến mâu thuẫn nhau. Nhưng sự kiện chắc chắn là cầm đầu cuộc nổi loạn này có một người đang dòm ngó ngôi vua Bắc Kỳ, dù thuộc dòng chính thống hay không. Nguyên văn tiếng Pháp: ... Aussitôt débarqué, j'envoyai un exprès à Mgr. Gauthier qui habite à 10 ou 12 km et donnai rendez-vous au village. Nous passâmes la journée au milieu de cette population chrétienne qui fut très gracieuse envers nous... Vers 4 heures nous vimes arriver un missionnaire, le père Fricot qui en l'absence de Monseigneur venait causer avec nous. Il confirme ce que nous avions déjà appris le matin par l'indiscrétion des envoyés du Département: c'est que l'insurrection s'étendait de plus en plus et que des provinces de Lạng Sơn, Cao Bang, Thai Nguyen, Tuyen Quang, elle avait gagné celles de Sơn Tay, Bac Ninh, Quang Yen, Hai Dương et que les insurgés, rebelles ou pirates commettaient les plus grande atrocitées. Le curé de Phat Diem confirma ces renseignements à l'exception cependant de la légitimité du prétendant et de sa religion, sur lesquelles circulent des versions contradictoires. Mais le fait certain est qu'à la tête de cette insurrection existe un prétendant légitime ou illégitime à la couronne du Tonkin...” (Rapport sur le voyage du Bourayne de Saigon au Nord du Tonquin, par le Commandant Senez, 16-2-1872, Archives du ministère de la Marine, BB4. 964 CHT, SĐD, trang 242-243). b3.- Giám mục Gauthier viết: triều đình Huế chỉ nghe tiếng nói của đại bác mà thôi. Trong thư đề ngày 12-2-1873, 19-2-1873 gởi cho Đô đốc Dupré, Giám mục Gauthier viết: Cuộc chiến nầy làm hao mòn tài chánh và giết hại những tinh hoa của dân tộc(dĩ nhiên là dân tộc Pháp, BK). Giám mục Gauthier viết như vậy và còn than phiền về những việc sách nhiễu con chiên. Theo tôi (giám mục Gauthier) khi nói đến triều đình Huế và quan lại. Các người đó chỉ có nghe theo tiếng nói của đại bác, còn thì điếc hẳn không nghe gì khác. (Tức là Giám mục khuyên không nên nghe triều đình Huế về một giải pháp ở Bắc kỳ mà phải chiếm nhanh, BK). Nguyên văn tiếng Pháp: Cette guerre ruine les finances et décime l'élite de la population, écrivait Mgr. Gauthier qui se plaignait en outre des vexations dont ses chrétiens étaient victimes. Il compte pour mois, poursuivait l'évêque, en parlant de la cour de Huế et de ses madarins - que ces gens n'entendront jamais que la voix du canon et resteront sourds à tout le reste. (Mgr. Gauthier à Dupré, 12-2-1873, et 19-2-1873, CHT, SĐD, trang 250). b4.- Gauthier muốn có một chính phủ Gia Tô tại Bắc Kỳ. Bằng những sự phóng đại đó, các kẻ truyền đạo cố lôi cuốn các viên chỉ huy quân sự Pháp vào các cuộc chinh chiến và họ tin rằng một khi sự xung đột tái diễn thì nhất định Pháp sẽ mắc kẹt trong guồng máy chiến tranh. Tôi tin rằng Giám mục Gauthier và Giám mục Puginier, nhất là ông thứ nhì, không chịu nỗi ý kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề: Giải pháp này sẽ phá tan hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng biệt, chính phủ này có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo. Các tín đồ Công giáo lại càng phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi giục các linh mục, các người chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa hai chính phủ... Suốt ngày, chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và các lời yêu cầu đem quân chinh phạt các tỉnh đó. Nguyên văn tiếng Pháp: Par ces exagérations, les missionnaires s'efforcaient d'entrainer les chefs militaires francais dans des expéditions, convaincus qu'une fois que les hostilités recommencaient, les Francais seraient fatalement pris dans l'engrenage de la guerre. “Mrg. Gauthier et Mgr Puginier, celui-ci surtout, je le crois, ne peureusement supporter l'idée d'une solution pacifique de la question: cette solution est la ruine des espérances qu'ils nourrissaient de voir créer au Tonkin un gouvernement particulier, lequel serait un gouvernement catholique. Les chrétiens exagèrent encore ces idées et poussent leurs prêtres et leurs pasteurs pour amener une nouvelle rupture entre les deux gouvernements... Toute la journée, nous recevons rapports sur rapports et demandes d'expédition dans ces provinces”. (Philastre à Dupré, dépêche du 15-1-1874 précitée. CHT, SĐD, trang 306). b5.- Tại sao giám mục Gauthier muốn có một chính phủ Gia Tô tại Bắc Kỳ? Trả lời: Sẽ dễ dàng biến người Bắc Kỳ trở thành Gia Tô giáo hoàn toàn. Có ích gì lúc người Bắc Kỳ trở thành Gia Tô? Giám mục Puginier trả lời thế cho chúng ta: Tôi xác nhận rằng, khi nào Bắc Kỳø trở thành Gia Tô, thì nó cũng trở thành một nước Pháp nhỏ, hoàn toàn giống như các đảo Philippines đã thành một nước Tây Ban Nha nhỏ... Giám mục Puginier viết tiếp: Nếu chính phủ hiểu rõ quyền lợi thực sự của nước Pháp mà ủng hộ chúng tôi một cách thật sự dù che đậy đôi chút để tránh đụng chạm dư luận, tôi quả quyết rằng trong sứ mệnh của tôi, mỗi năm chúng ta có thể thu về cho nước Pháp khoảng 20.000 người bạn bằng cách cải đạo, chắc chắn tỉ lệ nầy sẽ gia tăng hàng năm, và có đủ lý do mạnh để hy vọng rằng sau 30 năm, gần hết xứ Bắc Kỳ đều trở thành Gia Tô, nghĩa là trở thành người Pháp hết. Nguyên văn tiếng Pháp: J'affirme que du moment où le Tonkin deviendra chrétien, il deviendra aussi la petite France de l'Extrême-Orient, absolument comme les iles Philippines sont une petite Espagne...”. “Si le gouvernement comprenant les intérêts de la France, à leur vrai point de vue, nous favorisait d'une facon réelle quoique un peu voilée pour éviter de choquer l'opinion, j'affirme que dans ma mission nous pourrions, chaque année, gagner à la France environ vingt mille amis en les faisant chrétiens sans la moindre pression. Cette proportion irait certainement en augmentant tous les ans, et il y a fortes raisons d'espérer que d'ici à trente ans, à peu près tout le Tonkin serait chrétien, c'est-à- dire Francais. (Lettre de Mgr. Puginier au ministre de la Marine et des Colonies, 6-5-1887. Archives du ministère de la F.O.M., AOO (30) ou N.F.541, CHT, SĐD, p. 421 & 422). Tất cả các giám mục linh mục Pháp đều là những tên thực dân cuồng nhiệt. Trong số đó, Giám mục Puginier được xếp hạng nhất, Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ đứng hạng nhì. Là hai kẻ đắc lực và nguy hiểm nhất trong chủ trương biến Bắc Kỳ thành một nước Pháp nhỏ và độc lập khỏi triều đình Huế. Giám mục Puginier đã uổng công đích thân đến Sài Gòn (Từ Bắc Kỳ, BK) để bàn trực tiếp với Đô đốc Dupré, nhưng Dupré vẫn cương quyết không can thiệp vào những vấn đề của nội bộ Bắc Kỳ. Biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ sau khi đã đổi đạo dân Bắc, chủ trương nầy cũng được Đô đốc Dupré chỉ trích là quá nguy hiểm. Trong thư gởi cho Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa ngày 30-12- 1874 cho chúng ta thấy điều đó: Dupré viết: Những lần tôi nói chuyện với Giám mục Puginier. Trước khi ông rời Sài Gòn, lòng tôi vẫn không thay đổi: vì thế tôi vẫn giữ nguyên các nhận xét mà tôi đã trình bày với ngài, dù vị giám mục nầy đã khổ công khuyến cáo rằng hãy bỏ cái chính nghĩa đã tạo cho dân chúng (An -Nam) có cảm tình với nước Pháp và theo con đường mà ông Garnier, một anh hùng bị kết án, đã vạch sẵn, nhưng người ta đã không biết những khó khăn của tình thế, do viên sĩ quan khốn nạn nầy để lại mà chúng ta phải gánh chịu. Giám mục Gauthier cũng thuyết phục, nhưng Dupré cũng không thay đổi ý kiến: Chắc chắn tôi sẽ không làm vừa lòng hoàn toàn Giám mục Gauthier được, ông ta quá hăng say và trong nhiều trường hợp tôi nhận thấy thật sự quá nguy hiểm nếu nhắm mắt nghe lời của ông giám mục nầy. Nguyên văn tiếng Pháp: Mgr. Puginier avait beau venir en personne à Saigon pour discuter directement avec Dupré, celui-ci restait ferme dans sa position de non-ingérence dans les affaires intérieures du Tonkin. “Les conversations que j'ai eues avec ce prélat avant son départ de Saigon, écrivait Dupré à son ministre, n'ont pas modifié ma conviction: Je maintiens donc les observations que je me suis permis de vous présenter, quelque pénible qu'il soit de conseiller l'abandon d'une cause qui éveille en France nombreuses sympathies, et l'adoption d'une ligne de conduite que condamneront ceux pour lesquels M. Garnier est un héros, et qui ignorent les difficultés la situation que nous a léguée ce malheureux officier”. (Dupré au ministre de la Marine et des Colonies, 30-12-1874, Archives ministère de la F.O.M. A 30 (25) carton 13. CHT. SĐD, trang 366). Mgr. Gauthier ne pouvait non plus changer les idées de Dupré: Il me sera certainement impossible de donner une entière satisfaction à Mgr. Gauthier; son ardeur est extrême, et en maintes circonstances, j'ai pu reconnaitre combien il serait dangereux d'accepter sans réserves les appréciations de ce prélat. (Dupré au ministre de la Marine et des Colonies, 26-7-1876, Archives du ministère de la F.O.M. A 30 (26) carton 14. CHT, SĐD, trang 367). Qua sáu dẫn chứng nêu trên, chúng ta có thể quả quyết rằng, đưa ra miếng mồi Mở Trường Kỹ Thuật là một mưu chước đã được bàn luận kỹ lưỡng giữa Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ để thăm dò và phỉnh gạt triều đình. Do đó, nên nói: Việc Mở Trường Kỹ Thuật không bao giờ có chứ không phải vì thế mà thất bại. Giả sử triều vua Tự Đức, hoặc ai đó, có điều kiện để Mở Trường Kỹ Thuật nhằm Canh Tân Xứ Sở cho dân giàu nước mạnh thì chính Gauthier và Nguyễn Trường Tộ là hai người sẽ đập phá trước hết vì nếu Việt Nam được giàu mạnh thì kế hoạch muốn đồng hóa và biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ để dễ cai trị của Gauthier bị thất bại sao? Tôi hy vọng Linh mục Trương Bá Cần, Tiến Sĩ Sử Học và độc giả sẽ đồng ý sự nhận xét của tôi qua các sử liệu chính xác đã trích dẫn? Và qua đó chúng ta cũng thấy rõ thêm cái tư tưởng chẳng thà mất nước chứ không thà mất Vatican của Nguyễn Trường Tộ. Cũng thế chúng ta mới hiểu rõ tại sao mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân, Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp, Thương lượng với Giám mục Croc v.v... Vài ý kiến ngắn gọn: * Tội nghiệp cho vua quan nhà Nguyễn, không có cơ quan tình báo gì cả. Nuôi ong tay áo, nhận giặc làm con. * Giám mục Gauthier, người mà Nguyễn Trường Tộ đã mang ơn dìu dắt, việc đi đứng nằm ngồi, ăn ở bên cạnh nhau hơn mười năm. Có thật Nguyễn Trường Tộ không biết kế hoạch hỗ trợ cuộc xâm lăng Việt Nam của thầy mình? Ít nhất là trước lúc Nguyễn Truờng Tộ chết. Kế hoạch mở trường dĩ nhiên là không thể xảy ra, và đó cũng là một điều tốt để thầy trò Nguyễn Trường Tộ ít có cơ hội tới lui triều đình vua Tự Đức với mục đích thu thập tin tức cho quân đội viễn chinh Pháp. 2.5.- Điều thứ tám trong 8 điều Nguyễn Trường Tộ đề nghị phải làm gấp là lập Viện Dục Anh và Trại Tế Bần. Nguyễn Trường Tộ dẫn điển tích vua Nghiêu vua Thuấn nhờ giúp đỡ hạng người nghèo khổ, người cô độc nên được thiên hạ ca tụng là người đạo đức. Cách trình bày của Nguyễn Trường Tộ rất hợp nhân đạo lúc nuôi dưỡng những trẻ mồ côi. Nhưng cái dụng tâm của Nguyễn Trường Tộ trong đề nghị nầy là gì? Trả lời: Nếu triều đình cho rằng việc nầy nên làm thì sẽ nhờ các giám mục mời người đến mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ thấy kết quả ngay. (Tế Cấp Bát Điều, TBC, SĐD, trang 276). Kết quả được những gì? Xin mời độc giả xem phần Nhận Xét dưới đây: Nếu đứng ở vị trí lịch sử đất nước Việt Nam ngày nay để xét, thì các hội từ thiện có người phương Tây nhúng tay vào không có nhiều âm mưu (trồng người) như thời Nguyễn Trường Tộ, vì thời đó Việt Nam bị Pháp đô hộ, không có chủ quyền. Người nước ngoài ngay cả thường dân họ cũng được Trị ngoại pháp quyền, chính phủ Việt Nam không có quyền xét xử, lúc họ vi phạm luật pháp. Còn các linh mục giám mục lại có quyền đặc biệt hơn nữa. Nhất là núp dưới chiếc áo chùng thâm và viện dẫn lý do tôn giáo để bắt chẹt triều đình vua Việt Nam, mà chúng ta đã thấy các linh mục giám mục ngoại quốc đến Việt Nam với các nhiệm vụ tình báo, và muốn biến Việt Nam trở thành một nước Pháp với linh hồn Vatican như đã trình bày ở đoạn trước. Ngay cả Linh mục Việt Nam như Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Trương Vĩnh Ký cũng là những kẻ bồi Tây mà lịch sử đã cho thấy. Do đó, nếu mỗi tỉnh có một Viện Dục Anh do các giám mục người Tây phương điều khiển (hay cử người điều khiển cũng thế) sẽ tạo nên một màng lưới gián điệp toàn cõi Việt Nam. Và lúc đó thì kế hoạch đồng hóa của Puginier và của Gauthier thầy của Nguyễn Trường Tộ rất dễ đạt được kết quả, và vấn đề Pháp hóa người Việt cũng sẽ được rút ngắn thời gian. Đó là chưa kể tình trạng các linh mục giám mục hay bà sơ điều khiển các Viện Dục Anh (viện mồ côi, nhà giữ trẻ) nầy dựa vào thế lực của Pháp để phản loạn qua hai dẫn chứng dưới đây: Thí dụ 1: Vụ Xuân Hòa của Linh mục Ân (người Việt Nam) đã dựa vào chức linh mục và dựa thế người Pháp cho phép những kẻ mới theo đạo ở làng Xuân Hòa (Huế) thuê giáo dân các làng bên cạnh tự tiện gặt các thửa ruộng đang tranh chấp. Vài ngày sau bữa gặt lúa, gần 1.000 dân không đạo, võ trang gậy gộc đến giật lại lúa hiện đang chứa ở đình; bị giáo dân chống cự, sau một trận ẩu đả họ đã chạy trốn, bỏ lại 20 người bị bắt (Xin xem luận án của Cao Huy Thuần, bản dịch tiếng Việt Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam. Hương Quê xuất bản, Hoa Kỳ, 1988, trang 325). Theo luật pháp hiện hành của Việt Nam thời bấy giờ, Linh mục Ân sẽ bị đánh bằng roi hoặc bằng gậy vì có lỗi nhưng ông được sự che chở của Pháp. Do đó: Sự vụ kéo dài ba năm. Cuối cùng được kết thúc bằng sự nhượng bộ triều đình Huế do áp lực của các văn thư hăm dọa của soái phủ Saigòn cương quyết đòi Một linh mục không bao giờ có thể bị đánh bằng gậy, dù như là phương pháp tra hỏi, hoặc như hình phạt chính hay phụ. (CHT, SĐD, trang 330). Thí dụ 2: Thiên Tân giáo án Năm 1869 một số bà sơ người Pháp lập một Cô Nhi Viện cạnh nhà thờ tại Thiên Tân Trung Hoa, nhưng không có bao nhiêu người chịu đem trẻ mồ côi giao cho Cô Nhi Viện của người nước ngoài. Vì vậy, mấy bà sơ thưởng tiền cho những ai đem trẻ em đến. Hành động nầy làm cho dân chúng nghi là có việc mua bán trẻ con. Ngày 21-6-1870, quan địa phương Trung Hoa đem kẻ tình nghi đến Cô Nhi Viện để đối chất cho rõ sự tình. Sự việc chỉ có thế, nhưng viên lãnh sự Pháp tại Thiên Tân là Henri Fontanier cùng với người bí thư là Tây Mông đến gặp quan đại thần Trung Hoa là Sùng Hậu, với thái độ xấc xược bắn súng dọa nạt và hạch sách Sùng Hậu. Trên đường về, bọn Fontanier lại dùng súng bắn vào đám đông người Hoa và viên tri huyện Thiên Tân là Lưu Kiệt, khiến một người tùy tùng của viên tri huyện chết. Đám quần chúng uất hận không dằn được nên đánh chết Fontainier, Tây Mông và đồng bọn 20 người, đồng thời đốt nhà thờ và lãnh sự quán của Pháp. Sau đó, Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Đức, Bỉ và Tây Ban Nha, tất cả bảy nước liên hiệp với nhau đem quân vây Thiên Tân, dọa gây chiến. Triều đình nhà Thanh phải chịu xin lỗi, bồi thường tiền cho nước Pháp, cách chức và giáng viên tri phủ và tri huyện Thiên Tân xuống làm lính, đồng thời phạt 20 người và phải xử tử 20 người Hoa khác để làm vừa lòng Pháp và các nước. (Theo The New Encyclopedia Britannica, Helen Hemingway Benten, Publisher 1973 - 1974. Cuốn 7, trang 770. Đây là cuốn Bách Khoa Đại Tự Điển bằng chữ Nho, nên tôi chỉ nhờ người quen lược dịch nhưng không viết nguyên văn vào đây được. Trong cuốn Tăng Quốc Phiên Trí Mưu Toàn Thư, quyển hạ, chương Thanh Sử Cảo, Quyển 40, Quốc Phiên Truyện, trang 1016 cũng tường thuật vụ Thiên Tân nói trên, nhưng số người bị xử tử là 17 người thay vì 20 như trong cuốn Bách Khoa Đại Tự Điển. Vụ Cô Nhi Viện Thiên Tân chỉ có giản dị như thế, quan địa phương Trung Hoa có quyền đến Cô Nhi Viện để điều tra cho rõ thực hư về tin đồn mua bán trẻ con, là một việc làm cần thiết không có gì sai trái cả. Còn việc quần chúng uất hận đánh chết người là ngoài ý muốn chứ không phải triều đình nhà Thanh chủ trương. Nhưng qua đó, chúng ta thấy số phận của một quốc gia mất chủ quyền, và cũng thấy thế của kẻ mạnh lúc nào cũng đúng cả! Hai dẫn chứng cho thấy, hoặc vô tình hay cố ý, nhà thông thái Nguyễn Trường Tộ đề nghị mỗi tỉnh lập một nhà nuôi trẻ do Giám Mục tình báo Gauthier cử người điều khiển, là một kế hoạch vô cùng nguy hiểm. Không những tạo thế hợp pháp cho các giáo sĩ nước ngoài, mà còn trải rộng mạng lưới tình báo khắp toàn quốc để cho Pháp và Vatican dễ dàng và nhanh chóng thống trị và đồng hóa dân tộc ta. Song song với sự tai hại trên, các nhà nuôi trẻ cũng là kế hoạch trồng người, một mặt thì cải đạo con người từ nhỏ và mặt khác là để chọn người tu. Hậu ý của Nguyễn Trường Tộ sau bức màn của bản Điều Trần nầy là gì? Ông đi vòng vo tam quốc giả vờ đề nghị chỉnh trang cái nầy, cải cách cái nọ, giọng văn nhiều chỗ trông có vẻ thành khẩn giống như có lòng yêu Tổ Quốc thực sự. Nhưng chủ tâm không phải cái đó, mà thâm ý là đề nghị triều đình mời hoặc bổ nhiệm mỗi tỉnh một ông linh mục hay giám mục, để thực hiện chương trình Gia Tô Giáo và Pháp hóa đất Việt theo kế hoạch của Puginier và của Gauthier (thầy và cố vấn của Nguyễn Trường Tộ). Kế hoạch nầy núp dưới chiêu bài Viện Dục Anh và Trại Tế Bần. Nguyễn Trường Tộ lại bồi thêm một nhát dao chí tử khác vào cơn bệnh trầm kha của triều đình bằng cách, đề nghị đào một con kênh từ Hải Dương vào kinh đô Huế để phu dân phục vụ khổ cực thì sẽ có một Loạn Chày Vôi khác chống lại triều đình. Kế hoạch ba mặt giáp công vua quan Việt Nam làm sao chống đỡ nổi: Bên ngoài Pháp đánh vào, bên trong phu đào kênh đánh ra. Tại các tỉnh, linh mục giám mục hô hào con chiên nổi dậy chiếm các công sở, xử dụng khí giới tối tân của thực dân mặc sức tha hồ cướp của giết người. Đây là trọng tâm chính của bản Điều Trần Tám Điều Lợi Cần Làm Gấp của Nguyễn Trường Tộ. Tóm lược vài điểm chính của Phần Hai qua ba bản Điều Trần quan trọng nhất của Nguyễn Trường Tộ. 1.- Nguyễn Trường Tộ trốn ra nước ngoài: vì sợ triều đình vua Việt Nam trị tội. Lý do là ông cùng nhiều giám mục, linh mục ngoại quốc đến ủng hộ cuộc đổ bộ của Pháp chiếm Đà Nẵng. Quí độc giả sẽ thấy rõ thêm chi tiết trong phần sau của bài nầy. 2.- Qua sử liệu chúng ta đã thấy ngay từ đầu, nếu quân dân Việt Nam đánh mạnh, thì không những Pháp rút khỏi Đà Nẵng mà ngay cả ba tỉnh bị chiếm tại Nam Kỳ.* Trong lúc đó Nguyễn Trường Tộ viết Điều Trần khuyên quân dân Việt Nam Ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa... Huống hồ nước Việt Nam là một nước nhỏ bé, tại sao lại muốn trái đạo trời. Là một đề nghị để quân Pháp có thì giờ dưỡng sức mà chiếm các tỉnh khác. 3.- Năm 1863 Nguyễn Trường Tộ viết, người Pháp chỉ xin ta cắt cho một vài chỗ, họ không có ý đi cướp nước, nếu yêu sách thoả mãn họ sẽ chấm dứt. Mặc dầu vua Tự Đức đã thỏa mãn những gì Pháp đòi hỏi, nhưng năm 1867 Pháp cướp trọn cả xứ Nam Kỳ và năm 1873 cướp luôn Bắc Kỳ. 4.- Nguyễn Trường Tộ nêu câu hỏi tại sao giết giáo sĩ. Chúng ta đã đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy, các giáo sĩ nướùc ngoài đến Việt Nam đã được Giáo Hoàng La Mã khuyến khích và đồng ý với các kế hoạch hỗ trợ chính phủ Pháp xâm chiếm và đồng hóa dân tộc ta. Đến nỗi Đô đốc Genouilly cũng lên án rằng không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Gia Tô, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự và quân sự không được và không phải thuộc quyền hạn của các giáo sĩ. 5.- Trong bản Điều Trần Lục Lợi Từ (Sáu Điều Lợi cần làm), Nguyễn Trường Tộ dẫn chứng sai sử liệu với hậu ý là khuyên người Việt Nam hợp tác với Pháp và nhờ Giáo hoàng La Mã giúp đỡ. Nhưng qua sử liệu chúng ta đã chứng minh rằng một giải pháp hợp tác chỉ có lợi cho Pháp và nhờ Giáo hoàng La Mã giúp thì cũng giống như khuyên cha mẹ gởi con vào chuồng cọp mà thôi. Do đó, Sáu Điều Lợi của Nguyễn Trường Tộ đề nghị sẽ trở thành Sáu Điều Hại rất nguy hiểm cho quốc gia. 6.- Bản Điều Trần Tế Cấp Bát Điều (Tám điều cần phải làm gấp). Nguyễn Trường Tộ cổ vỏ cải đổi võ bị, thu hợp các tỉnh nhỏ, điều chỉnh các thứ thuế, đo đạc ruộng đất, thống kê dân số, học thực dụng, âu hóa khoa học kỹ thuật và mở Viện Dục Anh ở mỗi tỉnh. a.- Nhưng về binh pháp thì Nguyễn Trường Tộ không có sáng kiến gì mới, không có gì gọi là âu hóa mà hầu hết là lấy ý trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp. Các vấn đề thuế, đo lại ruộng đất và kiểm kê dân số, thì thời Gia Long (từ năm 1802) đã làm rồi. b.- Nguyễn Trường Tộ, Giám mục Sohier (địa phận Huế) và Giám mục Gauthier (địa phận Bùi Chu Phát Diệm) đã dối gạt vua quan triều Tự Đức trong việc mở trường kỹ thuật và huấn nghệ tại Huế, năm 1868. Chúng ta cũng đã thấy những chứng liệu không chối cãi được rằng, Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ, là một tên tình báo nguy hiểm. c.- Nguyễn Trường Tộ đề nghị đào một con kênh từ Hải Dương đến Huế là một việc làm rất tai hại vì toàn dân sẽ nổi loạn chống triều đình, và Pháp sẽ thừa cơ hội để chiếm toàn cõi Việt Nam cho chóng dứt điểm. d.- Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị mỗi tỉnh lập một Viện Dục Anh và Trại Tế Bần do giám mục chỉ định người coi sóc. Chương trình nầy sẽ giúp cho Gia Tô hóa và Pháp hóa đất nước một cách nhanh hơn. Ngắn gọn, ba bản Điều Trần mà chúng ta vừa nhận xét, là cốt tủy tư tưởng chính của Nguyễn Trường Tộ và rất được nhiều người trích dẫn từng đoạn nhỏ rồi ráp lại với nhau: mà ca tụng ông ta là Một nhà canh tân vĩ đại của đất nước vào hậu bán thế kỷ thứ 19. Nhưng nếu lồng các đề nghị của ông vào bối cảnh lịch sử quốc tế, quốc nội thời bấy giờ chúng ta đã thấy: Ông và các bản Điều Trần của ông chỉ là công cụ của một chiến lược xâm lăng, nhằm hỗ trợ cho Pháp và Vatican dễ dàng xâm chiếm nước ta. Một trong những kẻ Lưng mềm dễ uốn, chạy theo chủ mới là Nguyễn Trường Tộ, lúc đầu ông làm phiên dịch cho Tây Soái sau đó ông viết những bản Điều Trần, đưa ra những nhận định sai lầm về lịch sử cùng những đề nghị hoặc không tưởng hoặc có lợi cho Pháp và Vatican trong kế hoạch sớm kết thúc cuộc chiếm đóng, và thực hiện nhanh chương trình đồng hóa dân tộc ta . Phần tiếp theo sẽ bàn về ý kiến của Nguyễn Trường Tộ trong lãnh vực tôn giáo. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 5, 2015 Đang đưa topic chủ đề - Giải Phan Chu Trinh và cái nhà ông đọc sử Huê Kỳ KW Taylor - thì anh Hoangnt lại nhảy vào một bài viết không cùng chủ đề của chính anh. Đề nghị anh mở một topic khác với chủ đề này, nhưng ít nhất anh cũng phải dẫn nguồn, hoặc giới thiệu qua về tác giả. Tôi chưa bàn gì về nội dung bài về NT Tộ, nhưng thấy tác giả có vẻ suy luận chủ quan đấy. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 5, 2015 Hóa ra cái nhà ông gọi là tình báo kiêm sử gia Hoa Kỳ KW Taylor này bị nhiều nhà nghiên cứu sử Việt phê phán từ lâu rồi, chứ chẳng phải chỉ một mình ông Vân Tiên mới viết đây và cũng chẳng phải một mình tôi phản ứng với ông này. Nói chung thì quả là ông Tay Lo này viết nhiều về mối quan hệ giữa sử Việt với Hoa Kỳ thật. Nhưng không phải vì thế mà tặng giải thưởng cho ông ta. Bởi vì vấn đề còn là ông ta viết cái gì. Tôi có xem vài bài viết của cái nhà ông này. Nhưng thật tình mà nói: Tôi không thể tiêu hóa nổi bất cứ bài nào về mặt học thuật. Tôi luôn lấy chuẩn mực chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, để so sánh đối chiếu nhận xét bản chất mọi hiện tượng và vấn đề. Buồn quá nhỉ! 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 5, 2015 Viết xong bài trên, tôi lên cái google tìm hiểu về Quỹ giải thưởng Phan Chu Trinh. Vì trước đây tôi cũng chỉ biết gián tiếp qua những bài báo viết về những hiện tượng và vấn đề liên quan và những lời kể của bạn bè. Quý vị có thể tham khảo ở đây: http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i_th%C6%B0%E1%BB%9Fng_Phan_Ch%C3%A2u_Trinh Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 5, 2015 Quỹ Phan Chu Trinh còn tặng giải thưởng cho ông Lê Thành Khôi. Ông gọi là giáo sư Lê Thành Khôi - Việt kiều Pháp Quốc - cũng là một tay phủ nhận Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến với nhiều tiểu luận liên quan. Diễn Đàn Lý Học Đông phương đã phân tích sai lầm của ông này. Ông này được coi là một trong những học giả thuộc "cộng đồng khoa học quốc tế" ủng hộ quan điểm phủ nhận cội nguồn Việt sử và được nhà nước Pháp tặng Bắc Đẩu bội tinh. Ông ta cũng được tặng giải thưởng của Quỹ Phan Chu Trinh (*). Như tôi đã trình bày: Chỉ có bốn nước liên quan đến cái gọi là "cộng đồng khoa học quốc tế" ủng hộ quan điểm phủ nhận cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, là: Pháp; Anh (Đóng góp qua tiếng nói của đài BBC), Tàu và Hoa Kỳ - thì - ông Lê Thành Khôi là một nhà nghiên cứu của một trong bốn nước trên. Cá nhân tôi đã thẳng thừng phát biểu: Tôi không lề phải, lề trái, không dây dưa đến chính chị, chính em, không ủng hộ và phê phán bất cứ một nhóm lợi ích nào. Nhưng tôi luôn xác định Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến là một chân lý. Tôi lấy chân lý này để so sánh, đối chiếu nhằm xác định bản chất của mọi sự việc và sự kiện liên quan, cũng như khả năng tư duy của những học giả. Và tôi thật sự buồn khi quỹ Phan Chu Trinh tặng giải thưởng cho ông KW Taylor. Trước đây tôi đã có ý định đóng cửa diễn đàn vào đúng ngày kỷ niệm giỗ Tổ Hùng Vương, mùng 10. 3 Ất Mùi Việt lịch, nếu không có tín hiệu tốt đẹp liên quan đến chân lý Việt sử. Nhưng đã có một lời hứa tổ chức hội thảo về vấn đề này. Tôi coi là một tín hiệu tốt, nên không đóng cửa diễn đàn. Nhưng hôm nay, tôi có thể phát biểu thẳng thắn rằng: Tôi thực sự không quan tâm lắm đến việc có tổ chức Hội thảo về Việt sử với luận điểm của tôi hay không. Vì đó chỉ là hình thức của vấn đề. Việc hội thảo này sẽ không có tác dụng gì cả, nếu không được có những quyết định hành chính trong việc bảo vệ chân lý. Nhưng với những suy luận một cách hợp lý mang tính hệ thống thì tôi đã xác định rằng: Việc phủ nhận cội nguồn Việt sử chỉ là tri thức khoa học giả hiệu. Bản chất của nó là một âm mưu chính trị quốc tế. Cá nhân tôi đã lên tiếng bảo vệ chân lý trước cả một hệ thống chính trị quốc tế như vậy, tất nhiên đó là việc "châu chấu đá xe". Nhưng vấn đề Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến là tiền đề của một chân lý cuối cùng. Cho nên hệ quả của việc phủ nhận chân lý cuối cùng sẽ không thể tốt đẹp cho bất cứ cá nhân, hoặc cộng đồng liên quan đến việc này. Mọi việc trong tương lai gần sẽ thể hiện điều này. ============= * Khả năng tư duy của viện Hàn Lâm khoa học Pháp liên quan đến Lý học Đông phương, đã được thể hiện một cách độc đáo qua việc trao bằng tiến sĩ khoa học cho Lưu Tử Hoa, khi ông này dùng kinh Dịch để chứng minh: "Có hành tinh thứ X trong Thái Dương hệ". Tôi đã chỉ ra sai lầm của Lưu Tử Hoa trong cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Kết quả thì mọi người đều biết rõ. Bởi vậy, cái Bắc đẩu bội tinh mà nước Pháp tặng cho ông Lê Thành Khôi không phải là một bằng chứng chứng tỏ ông ta phục vụ cho chân lý khoa học. Mà ngược lại, nó làm mất giá trị của tấm huân chương này. Cũng như bằng tiến sĩ của Lưu Tử Hoa, đã chứng tỏ cả viện Hàn lâm khoa học Pháp quốc không có kiến thức về Lý học Đông phương. 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 5, 2015 Cái trò "Thân mật mà thâm trầm" của ông Nguyên Ngọc Trí Nhân Vừa qua, tại TP. Hồ Chí Minh, “Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh” tổ chức trao giải cho một số công trình gọi là có giá trị về nhiều lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật. Đế làm được việc này tất phải huy động nhiều công sức của không ít người có kiến thức về nhiều lĩnh vực. Nếu như sự đánh giá ấy có chất lượng thật sự thì còn gì tốt đẹp hơn thế nữa, vì nó chẳng những đã không mảy may tơ hào tới cái “túi ngân quỹ cỏn con” do toàn dân phải nín nhịn đế dành, muối mặt đi vay mới có, mà nó lại có tác dụng khuyến khích động viên người tài phát huy trí tuệ, đóng góp cho sự chấn hưng đất nước lúc này. Tất nhiên khó ai có đủ tài năng đánh giá tổng quát các giải được trao. Thực tế là cái “dân trí” ta hiện nay đã khác xa lúc sinh thời của cụ Tây Hồ. Nhưng cái “dân khí” lại không xứng tầm với nó! Biếu hiện cụ thế trong cái “ngôi đền tinh hoa văn hóa Việt Nam”của ông Nguyên Ngọc khai trương vào dịp này. Bởi qua gần chục lần trao giải, tưởng đã tạo nên một “tục lệ văn hóa mới”, ông chủ tịch cái gọi là “Văn đoàn độc lập” đồng thời cũng là chủ tịch “Hội đồng khoa học” của cái Quỹ mượn danh ấy, đã dần tự lột ra tuốt tuột y phục che thân! Khốn nỗi mấy cô người mẫu làm việc ấy cũng còn có tí ti sự lạ đế có người chịu bỏ tiền ra. Nhưng ông Nguyên Ngọc trong cơn mơ tưởng vĩ cuồng ngỡ như mình nõn nường tơ liễu lắm mà trưng ra, quả thật là… chẳng cái dại nào bằng! Nếu có ai đó chịu trút hầu bao ra tung hứng với ông thì không phải là đế mua cái đẹp giải khuây, mà chỉ đế thực hiện mưu đồ chính trị trong cái trò gọi là “nhẹ nhàng và giản dị, thân mật mà thâm trầm” là hạ nhục lịch sử dân tộc Việt Nam! Ông Trương Vĩnh Ký Chẳng biết cái “Quỹ Văn hóa” ấy “báu” tới mức nào nhưng người ta không khỏi giật mình khi nó dám trơ tráo rước hai vị chí sỹ đại ái quốc Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh được toàn thế người Việt Nam không phân biệt chính kiến và giai cấp, thế hệ nọ truyền thế hệ kia đều tỏ lòng ngưỡng mộ, ép ngồi chung cái bệ thờ với học giả Vi ệt gian Trương Vĩnh Ký cam tâm bán rẻ quyền lợi quốc gia, làm tay sai đắc lực cho quân cướp nước! Làm sao có thế nén lại được sự bất bình trước việc làm ngang nhiên xúc phạm đạo lý truyền thống ấy? Cả thế kỷ nay, người Việt ai cũng biết hai vị chí sỹ họ Phan vì lòng yêu nước thương nòi đã gạt bỏ mọi cám dỗ hư vinh, dấn thân tranh đấu cho mục tiêu giải phóng giống nòi. Tuy biện pháp tranh đấu của mỗi vị khác nhau nhưng đều bị chính quyền thực dân và phong kiến tay sai ghép án tử hình. Sau đế xoa dịu lòng dân bị trị, giới cầm quyền bày trò ân xá nhưng cách ly với dân chúng, mỗi người một kiếu, đế các vị chết trong cảnh cơ hàn khốn khó! Trái ngược hẳn với Trương Vĩnh Ký được triều đình phong kiến thừa lệnh chính quyền bảo hộ trao cho mũ mão cân đai quyền cao chức trọng và mẫu quốc Pháp đặc biệt tin dùng, ưu ái cho hưởng nhiều ân sủng thưởng cho cái công lao cúc cung tận tụy phục vụ nhà nước thực dân. Các quan triều đình Huế tiếp đãi Simon, thuyền trưởng chiến hạm Le Forbin, đến Đà-Nẵng yêu cầu triều đình gửi Toàn quyền đại thần vào Gia-định thương thuyết. Nhân thân và tư liệu về Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898) còn lưu nhiều trong thư khố là bằng chứng hiển nhiên để so với những lời tôn vinh của ông Nguyên Ngọc lắt léo lộn xòng tô đen thành trắng tới mức độ nào. PÉTRUS KÝ GIỎI CỠ NÀO? Một quốc gia có được một công dân nổi danh “thiên hạ kỳ tài” tất nhiên là niềm tự hào cho cả dân tộc đó bất kể dưới thời đại nào hoặc thể chế nào. Hơn một thế kỷ nay, người Việt ta vẫn được nghe những lời ca tụng học giả họ Trương. Giáo hữu Kito Minh Vân tán dương không tiếc lời: “Hàng trí giả toàn cầu đã không còn xa lạ gì với tên tuổi đại danh nhân thế giới PETRUS KÝ (Trương Vĩnh Ký). Tiên sinh là một “đại học giả ”, một nhà bác ngữ học kỳ tài đa năng, đa diện trên nhiều lãnh vực khoa học, khiến giới trí thức Au châu lúc bấy giờ đã phải cúi đầu trước trình độ bác cổ thông kim của vị tiền bối nầy! Ngay cả các nhà văn hóa, nhà từ điển, nhà khoa học thời danh lúc bấy giờ cũng phải nghiêng mình nhường bước cho việc bầu chọn PETRUS KÝ vào hàng “thế giới thập bát văn hào” năm 1874, kể cả đại văn hào Pháp VICTOR HUGO (1802-1885), một nhân vật văn hóa đã được an táng trong Điện Panthéon nước Pháp, cũng phải lui sau nhường chỗ đứng. Bản thân các danh nhân Văn Hóa thế giới, không những tự nguyện xin đứng phía sau, nhưng còn để lại cho hậu thế ngày nay bao nhiêu tác phẩm đã viết, nội dung tôn vinh ca ngợi nhà tiền bối văn hóa PETRUS KÝ đến hết lời. Tiên sinh là một người dân bị trị không quyền chức duy nhất trên hành tinh được ghi tên vào bộ “đại từ điển bách khoa” (Larousse Illustré) rất danh giá của nước Pháp là điều hy hữu!”. Thấy chưa đủ “đô”, ông ta bốc lên: “Chính các giới trí thức thời danh nước Pháp đã xem PETRUS KÝ là hàng “sưphụ ”, đã giới thiệu và đề cử bầu TRƯƠNG-VĨNH-KÝ vào danh sách “thế giới thập bát văn hào hiện đại”. Nhưng xét thấy tiên sinh đứng trong hàng ngũ 18 Danh nhân Thế giới đó như chưa thỏa đáng, chưa đủ trọng lượng như họ đã “tôn sùng”, họ còn xem tiên sinh như một bậc “siêu sư”, như một vĩ nhân văn hóa thế giới, nên đã đồng loạt tiếp tục đề nghị Hàn lâm viện Pháp phong tặng tiên sinh một danh xưng quốc tế rất danh giá là “toàn cầu bác học danh gia” – có nghĩa là một người thầy các bậc thầy của toàn nhân loại! Một sư phụ duy nhất của thế giới đương đại! Nhiều nhàtrí thức quốc tế hiện nay vẫn còn xác định nhà thông thái đa năng đa diện “người Việt nô lệ ” này, hầu như trên toàn thế giới, đến cả đệ tam thiên niên kỷ này, nhân loại vẫn chưa tìm được một ai ngang bằng có thể thay PETRUS KÝ” Ông Trần Chung Ngọc, Tiến sỹ Vật lý, làm việc tại ĐH Wisconsin- Madison (Mỹ), đồng thời cũng là nhà nghiên cứu lịch sử và tôn giáo được dư luận cảm mến, bình: “Trong thời buổi này, không có ai viết huênh hoang và vu vơ như vậy. Mọi luận cứ đều phải có tài liệu chứng minh. Bảo rằng Pétrus Ký là “nhà bác ngữ học kỳ tài đa năng, đa diện trên nhiều lãnh vực khoa học” nhưng không đưa ra bất cứ một tác phẩm khoa học nào của Pétrus Ký. Tại sao? Mặt khác, giới trí thức Âu châu là những ai? Các nhà văn hóa, từ điển và khoa học thời danh nào và cơ quan nào, tổ chức nào đã bầu chọn Pétrus Ký vào hàng “thế giới thập bát văn hào”, dựa trên những công trình biên soạn hay tác phẩm văn chương nào của Pétrus Ký? Văn kiện nào đã ghi cuộc bầu chọn như vậy? Những tác phẩm nào của các danh nhân văn hóa thế giới nào đã tôn vinh ca ngợi Pétrus Ký? Minh Vân không đưa ra bất cứ một tài liệu nào để chứng minh những điều ông ta viết là có cơ sở. Tôi (TCN) cố gắng qua Internet chỉ thấy trên mạng http://vietsciences.free.fr/ vietnam/danhnhan/tacgia/truongvinhky. htm của Huỳnh Ái Tông viết về Pétrus Ký nhưng cũng không cho biết tài liệu xuất xứ, như sau: “Trong khoảng năm 1S73-1S74, ông (TVK) được liệt vào hàng “thế giới thập bát văn hào”, xếp theo mẫu tự như sau: Bác sĩ Allemand, Banadona d’Ambrum, Bonhomme (Honoré), Cazot (Jules), Đại tướng Chambron, Bá tước Chambord, Christophie (Albert), Conte (Casimir), Desmaze (Charles), Duprat (Pascal), Dupuy (Charles), Garnier-Pages, Guizot, Lafayette (Oscar de), Lefèvre- Pontalis (Amédée), Marcon, Pétrus Ký, Thống chếSaldonha Oliveirae Daun”. Nhưng 18 tên tuổi trên có phải là những văn hào thế giới không? Victor Hugo đứng ở đâu? Dupuy, Guizot là những chính trị gia. Bác sĩ, Đại tướng, Thống chế, Bá tước… là những đại văn hào của nước Pháp thời kỳ nào? Tôi cho là danh sách trên là một danh sách dỏm, do một tổ chức ma nào đó đưa ra, nếu có thật. Tại sao không thấy điểm danh những đại văn hào của Pháp trong thế kỷ XIX quen thuộc nhất như: Henri Beyle Stendhal (1783-1842); Alphonse de Lamartine (1790-1869); Honoré de Balzac (1799-1850); Alexandre Dumas (1802-1870); Victor Hugo (1802¬1885); Prosper Mérimée (1803-1870); George Sand (Aurore Dupin) (1804¬1876); Alfred de Musset (1810-1857); Théophile Gautier (1811-1872); Charles Baudelaire (1821-1967); Gustave Flaubert (1821-1880); Alphonse Daudet (1840-1897); Émile Zola (1840-1902); Guy de Maupassant (1850-1893)? Tác phẩm của những đại văn hào này đều có trong mọi thư viện của các đại học lớn, nổi tiếng nhất trên thế giới và được dùng trong học trình đại học. Những tác phẩm nào của Pétrus Ký có trong số đó”? Và ông kết luận: “Pétrus Ký chỉ được các quan thầy thực dân Pháp và Vatican biết đến mà thôi”! Cho nên tôi (TCN) chẳng muốn phê bình tiếp Minh Vân về những lời mê sảng viết về Pétrus Ký một cách điên khùng, lố bịch, không biết ngượng”. Trong cuốn “Ngàn năm soi mặt” (Văn Hóa – 2002), góp phần nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Tiến sỹ Sử học Nguyên Vũ (Vũ Ngự Chiêu) đặt ra nhiều vấn đề: Có thật là Trương Vĩnh Ký biết tới 26 thứ tiếng không? Giá trị nội dung các tác phẩm của ông?… và kết luận: “Các công trình sáng tác và trước tác khá đồ sộ, lại có cả sách bằng Pháp ngữ, nhưng chưa ai thực sự kiểm kê và lượng giá toàn bộ công trình của ông… Petrus Key, tôi nghĩ, chỉ là một thông ngôn giỏi trong thời ông, hơn một nhà ngôn ngữ học. Riêng tác phẩm khá dày của Petrus Key về “bài giảng sử” bằng Pháp ngữ, khó thể gọi là một công trình sử học. Đa số chi tiết đều là tin đồn, ngày tháng hỗn loạn. Khoảng thời gian từ nhà Tây Sơn đến Vua Tự Đức – vì sử dụng truyền khẩu sử của các nhà truyền giáo Pháp và trên quan điểm hợp thức hóa tân trào – đầy rẫy sai lầm kỹ thuật cũng như sai lầm có tư tâm, bất chấp sự thực lịch sử”. Sau này học giả Nguyễn Văn Vĩnhlà người hăng hái tiên phong trong việc Quốc ngữ hóa chữ Nôm ở Bắc kỳ, nói lên sự thật dù không hẳn nhằm vào một ai nhưng mà chua chát: “Các đại huynh đã qua nước Đại Pháp, chắc cũng đã biết là dân xứ ấy, những người như anh em ta có rất nhiều, đã hơn gì con kiến chưa? Nếu anh em mình ở đó, chỉ vào bậc đánh giầy, thế mà về đến đây đã là người biết tên, biết tuổi, có danh, có tiếng, đã cực chưa?”. Và học giả Phạm Quỳnh nhận xét: “Sách của Trương Vĩnh Ký viết chỉ để trẻ con xem”! Trận tấn công đại đồn Chí Hòa ngày 24-2-1861 HÃY XEM XÉT ĐỘNG CƠ VIẾT RA NHỮNG CÁI GỌI LÀ TRƯỚC TÁC CỦA VỊ HỌC GIẢ NÀY Ngày 12/01/1882, từ Chợ Quán, để xin tiền ra sách, Baptixta Trương Vĩnh Ký gửi thư cho Hội đồng thuộc địa khoe: “Tôi hân hạnh gởi đến quí vị một bản trình bày từng tác phẩm xuất bản mà tôi đã biên soạn. Làm như vậy, ý định của tôi là để chứng tỏ với quý vị rằng trong 13 cuốn sách tôi đã xuất bản cho đến nay do tiền tôi bỏ ra, tôi chưa bao giờ đi lệch mục tiêu chính và trực tiếp mà tôi đã trình bày trước đây trong các thư tôi viết vừa cho nhà cầm quyền, vừa cho Ủy ban phụ trách cứu xét những tác phẩm của tôi. Mục tiêu đó là sự biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam”. Ông ta nói thẳng ruột ngựa: “Vềphương diện chính trị và kinh tế, người Pháp là kẻ đi đồng hóa, còn người An Nam là kẻ chịu đồng hóa. Người yếu cần dựa vào người mạnh để đưa mình lên bằng người khỏe. Đó chính là mục đích cần phải theo đuổi và đạt tới. Bằng cách nào? Bằng cách đồng hóa. Và đồng hóa chỉ có thể thực hiện được bằng giáo dục và học vấn ”. Nhà nghiên cứu Phạm Long Điền viết: “Mới đây chúng tôi phát hiện tập tài liệu thứ hai gồm các biên lai của Nha Nội Trị nhận mua sách của Trương Vĩnh Ký. Đây là bằng chứng cho thấy các sách của Trương Vĩnh Ký đều phục vụ cho chính sách đồng hóa bằng văn hóa của thực dân Pháp vì nhà cầm quyền đều đặt mua sách của Trương Vĩnh Ký… Ngoài ra, chúng tôi được cái may mắn tìm gần đủ toàn bộ tác phẩm của Trương tiên sinh. Nhờ đó chúng ta mới xác định rõ hành trình tư tưởng của Trương Vĩnh Ký trong tiến trình xâm lăng văn hóa của thực dân Pháp”, và ông kết luận: “Trong suốt 28 năm sáng tác, Trương Vĩnh Ký cho ra đời 121 tác phẩm Việt có, Pháp có. Hầu hết các tác phẩm của ông đều phục vụ cho quyền lợi của nhà nước thuộc địa và chính ông cũng đã công khai nhìn nhận chủ đích này”. Tựu chung, nhìn lại toàn bộ sự nghiệp trứ thuật của Trương Vĩnh Ký từ khi cầm bút đến những năm cuối đời kết thúc thế kỷ XIX, không đi ra ngoài chủ đích “nghiên cứu để cai trị”. Nguyễn Sinh Duy mất nhiều công phân tách các tác phẩm của Trương thành ba loại: – Một là sách “cẩm nang giao dịch” giữa người Pháp và người Việt - Hai là sách nghiên cứu truyền thống bản xứ mà cho tới thời điểm đó không ai ngoài Trương có đủ tư thế cung cấp cho kẻ ngoại nhân phương Tây mới đặt chân lên một xứ sở lạ lẫm viễn Đông này. – Ba là sách phổ biến chữ Quốc ngữ, góp phần tích cực làm thui chột chữ Nho và chữ Nôm là phương tiện chuyên chở và nuôi dưỡng tinh thần dân tộc thấm nhuần từ các hệ tư tưởng truyền thống lâu đời. Thế cũng đủ để bà con ta biết học giả Trương Vĩnh Ký là người thế nào! XÉT VỀ NHỮNG VIỆC LÀM CỤ THỂ CỦA TRƯƠNG VĨNH KÝ TRONG BÓI CẢNH NƯỚC NON TA HỒI ẤY Trương được Giáo hội Kito đào tạo cơ bản từ tuổi ấu thơ. Là người thông minh, học giỏi và trở thành học giả trong lúc nền văn hóa Đông – Tây mới tiếp cận nhau. Tất nhiên những lời đồn có khuếch đại thổi phồng lên nhằm phục vụ ý đồ chính trị và tôn giáo. 19 tuổi (1856), được thụ phong linh mục tại giáo chủng Pinang (Malaxia). Về Sài Gòn, thầy dòng 22 tuổi kịp gửi thư tới viên đô đốc Rigault de Genouilly và các sỹ quan hải quân Pháp trước khi đem quân tiến ra đánh chiếm Đà Nẵng lần thứ hai (17/2/1859), như sau: Xin ngài mở rộng vòng tay giải phóng để chấm dứt những nỗi cơ cực của chúng tôi. Danh dự và vinh quang đòi hỏi ngài phải làm. Ngài sẽ xứng đáng sống trên cõi Thiên Đàng bất diệt, điều mà một người thường như chúng tôi khó bề đạt được” (Văn khố Hải quân Pháp, Paris: SUM Vincennes). Phải chăng giáo sỹ họ Trương đã tỏ ra đắc dụng với bài học khai tâm: Để mở mang nước Chúa và bành trướng thuộc địa, phải kết hợp: “Cây Thánh giá đi trước và quân đội theo sau”? Giáo hội Kito tại Việt Nam đã tỏ ra rất sáng suốt khuyên Trương hãy xếp lại chiếc áo linh mục, chuyển sang ngạch thông ngôn cho quân đội Pháp, tức là dấn thân vào con đường chính trị. Là tín đồ ngoan đạo, với vốn ngoại ngữ giỏi giang, lại thông minh, tháo vát, nắm bắt nhanh thời cuộc, viên chức trẻ họ Trương, trong công việc đã kịp bày tỏ lòng trung thành sẵn có với mẫu quốc Pháp, và thuận lòng giáo hội làm mối se duyên với con gái ông Hương chủ giàu có nhất Chợ Quán – hậu cứ của đội quân viễn chinh lúc bấy giờ. Trên đà thăng tiến, Trương mau chóng được nhà nước thực dân nâng lên bậc “thông ngôn hạng nhất”. Tất nhiên phải có mặt trong hầu hết các hội nghị quan trọng giữa Bộ Tham mưu quân đội Pháp với triều đình An Nam lúc đó. Một sự tình cờ lịch sử, Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký mau cặp kè nhau trong mối quan hệ buổi đầu giữa Nam triều với Pháp. Trương tuy thuộc lớp hậu sinh nhưng cùng quê Vĩnh Long, và lãnh binh Trương Chánh Thi (thân phụ TVK) với Phan lại là đồng liêu, dù phẩm trật khác xa nhau. Một đội quân viễn chinh dày dạn đi xâm lược làm sao không nhận ra điều đó. Một trí thức trẻ tân học tháo vát giỏi giang đã hiến mình cho Chúa và một lòng trung thành với mẫu quốc kè bên viên quan già gian xảo và bạc nhược. Hẳn không là sự sắp xếp vô tình khi Trương từng được chọn làm thông ngôn cho phái bộ Phan – Lâm để đi đến sự ra đời của hàng ước Nhâm Tuất 1862 tại Sài Gòn, và sau đó lại tháp tùng phái đoàn An Nam cũng do Phan làm Chánh sứ sang Paris và Rhoma để xin lại đất! Phan, Trương thành đôi bạn vong niên mà như cặp bài trùng. Cả hai đều là ân nhân của nước Pháp vào buổi đầu chinh phục Việt Nam mà người già thì kín đáo thâm trầm, và người trẻ thì công khai lộ liễu. Trần Chung Ngọc đánh giá Trương được coi như “đại công thần của tân trào Pháp quốc, còn vượt trên Nguyễn Trường Tộ về mặt làm tay sai cho thực dân Pháp”. Nhà đương cuộc Pháp ở Sài Gòn tiếp sứ bộ Phan Thanh Giản trước khi phái đoàn sang Pháp (1863) Chuyến công du qua trời Tây một công đôi việc. Ở Ý, Trương đã làm một việc rất khôn ngoan là tới thăm viếng nơi lưu giữ hài cốt các cố đạo tử nạn khi đi giao giảng kinh phúc âm tại hải ngoại. Và danh tiếng của ông lại được đề cao bởi được Giáo hoàng tiếp đón. Trương có dịp làm quen với chính giới văn hóa Pháp. Đặc biệt là Paul Bert, vừa là nhà khoa học tiếng tăm, vừa là chính khách thực dân cực tả. Tất nhiên chàng trí thức trẻ vừa ham học vừa muốn tỏ lòng hết mình cho nước mẹ Đại Pháp, buổi đầu đã tạo được mối thiện cảm và không để mối quan hệ ấy bị gián đoạn bởi trùng dương xa cách. Năm 1864, trở về Nam kỳ đã là thuộc địa của Pháp, Trương được giao nhiều trọng trách đúng theo tinh thần “đồng hóa chỉ có thể thực hiện được bằng giáo dục và học vấn ”. Điều khiển trường Thông ngôn, trường Sư phạm. Rồi được trao toàn quyền tờ “Gia Định báo” – tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Vi ệt Nam. Giám mục Puginier, là người có sự hiểu biết rộng lớn về đất nước này, là kẻ hợp tác mà giới chức Pháp luôn tôn trọng và nghe theo, từng nói: “Sau khi đạo Thiên Chúa được thiết lập, tôi xem việc tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần dần ban đầu bằng tiếng An Nam, rồi bằng tiếng Pháp như là phương tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập nên tại Bắc kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông. Khi chúng ta đạt được thành quả lớn lao đó, chúng ta xóa đi của nước Trung Hoa một phần lớn ảnh hưởng tại An Nam và phe trí thức An Nam là phe rất căm ghét sự thiết lập thế lực Pháp, cũng sẽ bị tiêu diệt dần dần”. Mặc cho có vài tiếng nói lẻ loi bênh vực, như ông G.Dumoutier, một nhà giáo dục học người Pháp có lương tâm từng trăn trở: “Nếu những đứa trẻ An Nam xuất thân từ các trường học của ta (Pháp), mà không biết đọc và viết chữ Hán – Nôm thông dụng, thì chúng sẽ trở thành người ngoại quốc trên chính đất nước của chúng”! Nhưng thâm ý của ông trùm cố đạo đầy quyền uy này là: “Khi thay thế chữ Nho bằng chữ Quốc ngữ, Hội Thừa sai nhằm cô lập các giáo hữu. Những người này sẽ không còn có thể đọc được những tác phẩm dễ đọc nhất của Trung Hoa và cũng không thể thư từ gì được với bất cứ sỹphu Tàu hay Ta nào. Được giáo dục như thế, các thầy giảng người bản xứ sẽ chỉ có thể đọc một số hiếm những sách do các thừa sai viết bằng Quốc ngữ cho họ dùng và trong đó chỉ bàn đến những vấn đề thuần túy tôn giáo”. Với cả bộ máy thực dân thống trị trên mọi lĩnh vực và bằng nhiều hình thức, giới sỹ phu Việt Nam không thể bảo vệ được văn tự truyền thống của mình. Chữ Hán – Nôm bị bức tử thay vì chữ Quốc ngữ, văn hóa Việt bị mất nhiều hơn được! Hỏi người Tàu, người Nhật, người Triều Tiên, người Ân Độ, người Ả Rập… có hủy bỏ văn tự truyền thống của mình chăng? Thơ văn Hán – Nôm của những nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Hữu Huân… dần trở nên “lép vế” và mai một giữa cuộc chiến đấu ngày càng không cân sức. Năm 1873, Trương lại được giao đào tạo lớp cai trị người Pháp và tay sai bản xứ tại Trường Cai trị (Collège des Stagiaires) mở ra tại Sài Gòn; từ đó bước chân vào “Hội đồng học chính cao cấp” để giúp người Pháp lo liệu lâu dài sau cuộc chinh phục xứ này bằng vũ lực CHUYẾN CÔNG DU BẮC KỲ Năm 1872, tên lái buôn Jean Dupuis ngược ngạo đưa tàu theo sông Hồng mở đường lên Vân Nam bất chấp chủ quyền của nhà nước Việt Nam. Quân Pháp được lực lượng giáo dân giúp sức, mở rộng ra đánh chiếm Bắc kỳ, buộc triều đình Huế phải ký hòa ước Giáp Tuất 1874. Cục diện chống Pháp trở nên quyết liệt, tiêu biểu là phong trào Văn Thân với hịch “Bình tây sát tả”. Nam triều chủ trương nhờ vả Thanh triều đưa quân Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc vào giúp sức. Quân Pháp thiệt hại nặng. Chính quốc không muốn “sinh sự ở Bắc kỳ”. Năm 1876, theo lệnh của Đô đốc Duperré, Trương Vĩnh Ký được ứng trước ba tháng lương, dưới danh một chuyến đi du lịch tại Bắc kỳ mà thực chất là đi do thám, tìm hiểu toàn bộ các vấn đề lịch sử, địa lý, thổ nhưỡng và dân tình trước khi quân Pháp có quyết định tiếp theo. Mời bà con đọc thư báo cáo của Trương từ Tonquin Bắc kỳ gởi về cho các quan cai trị Cochichine Nam kỳ: “Người ta quả quyết rằng những núi này (Tam Điệp) có chứa mỏ kẽm trong vùng lân cận tôi đã đi ngang qua… Tôi chưa nói tới ở đây những tài nguyên khoáng chất, người ta bảo là bao la… Và tất nhiên, xứ sở này chẳng thiếu tài nguyên, đất đai mà tôi dám quyết rằng có thể sánh với thổ nhưỡng của nước Pháp, ít ra là đối với Algérie, chất chứa nhiều của cải đủ để làm nên tài sản cho một quốc gia. Đất này tiện lợi cho những vụ trồng trọt các mùa thay đối khác nhau… Và tôi xin được phép nói rằng dân của xứ này đã chết đói trên một chiếc giường đầy vàng”… “Tôi thiết tưởng có bốn phận, cũng nhân dịp này, cống hiến cho ngài: Tư tưởng của những người phiến loạn An Nam mà tôi đã có thể tìm hiểu trên những nơi có tàu đi qua. Những kẻ phiến loạn, như tôi đã từng nhiều dịp trình với ngài, họ có lý do cho chủ nghĩa ái quốc của họ: Sự hận thù đối với các con chiên (Công giáo) mà họ cáo buộc là những hàng ngũ bên cạnh người Pháp, được dùng như những kẻ đưa đường chỉ lối”… “Các quan lại Nam triều thường nói với tôi rằng nước Pháp cố ý xâm chiếm xứ này. Tôi trả lời là không!… Tất cả quý vị đều phải thấy rằng nếu nhà cầm quyền Pháp có ý muốn xâm chiếm xứ này, họ đã có thể làm việc đó từ lâu một cách dễ dàng, không cần bàn cãi gì cả. Quý vị phải hiểu rằng quý vị là những kẻ yếu, thật sự quá yếu, cần sự giúp đỡ của ai đó để gượng dậy. Và tốt hơn, quý vị chỉ nên tin vào người bạn đồng minh tiếng tăm và phải dựa vào họ một cách thành thật để đứng lên, nhưng phải thẳng thắn, không hậu ý, không mưu tính kín đáo, dang cả hai tay ra với họ chứ không phải một cái chìa ra còn bàn kia thì giữ lại. Bằng ngược lại, mệt trí vì những do dự, những điều nói nửa lời đầy âm mưu của quý vị, nước Pháp buộc lòng phải ngưng che chở và bỏ mặc quý vị với số phận. Nói rõ hơn đây là hình ảnh tương tự tôi dùng để ví: Nếu một bàn tay tựa vào cánh tay của một người, còn bàn tay kia quý vị dùng để cù họ, tất nhiên cánh tay của người đó tự nó phải tuột ra, quý vị sẽ phải đón nhận một sức phản động nào đó, quý vị sẽ rơi xuống rất thấp và hầu như mãi mãi không có cơ gượng dậy được nữa!”… “Tôi tìm ra sự giải thích theo đó, các ảnh hưởng của lòng tham lam và táo bạo dễ dàng thu dụng đồ đảng, kết nạp thành đoàn và cố võ chiến tranh phe phái… và như vậy dân chúng khát khao một cuộc sống lành mạnh hơn là luôn luôn phải thất vọng, với hy vọng cuối cùng tìm thấy sự che chở để khỏi sự đói khát. Hơn thế, không thể không có một cái nhìn ham muốn, một đôi khi họ đã so sánh thân phận của họ với cuộc sống của những người dân Nam-kỳ”… “Tống quát, tất cả đều tin chắc rằng không thể chống lại người Pháp và nếu nước Pháp muốn lấy xứ này, có thể làm mà không phải mất nhiều khó khăn và tốn kém”. Khấu khí ấy là của hạng người nào, có xứng là của vị “đại danh nhân văn hóa Việt Nam”, thưa ông Nguyên Ngọc? Trương bị giới nho sỹ Bắc Hà tấy chay, nhạo báng thẳng thừng: “Hay tám vạn tư mặc kệ / Không Quân-Thần-Phụ-Tử đếch ra người” (!), phải bỏ dở chuyến công du. Để thưởng công lao chuyến đi do thám ấy, năm 1877, Trương là người Việt Nam đầu tiên duy nhất được vào ngồi trên một trong 10 cái ghế danh giá của Hội đồng cai trị thành phố Sài Gòn! HỢP TÁC VỚI PAUL BERT Sau chiến tranh Pháp – Phổ (1870), nước Pháp tuy thắng trận nhưng cũng lao đao. Cuộc bình định xứ Vi ễn Đông xa xôi gặp nhiều trắc trở và tốn kém. Chính giới Pháp nản lòng. Hạ nghị viện đòi rút quân về. Trong số 33 ủy viên đặc trách bàn thảo vụ Bắc kỳ, chỉ có 6-7 người khăng khăng đòi duy trì sự chiếm cứ, trong đó có Paul Bert. Y hô hào vì danh dự, quyền lợi thương mại và chính trị… buộc nước Pháp phải ở lại đây! Đầu năm 1886, Paul Bert được cử sang làm Thống đốc thay viên tướng De Courcy võ biền, thô bạo gây căm phẫn cho cả dân chúng lẫn triều đình. Đặt chân đến Sài Gòn, Paul Bert móc nối ngay với Trương Vĩnh Ký, bởi dưới con mắt của tên thực dân cáo già lọc lõi này, Trương rõ là người luôn trung thành với nước Pháp. Paul gửi thư cho Trương: “Tôi cần ở ông danh sách những người An Nam trong khắp nước có thể làm những thông ngôn tốt bên cạnh các trú sứ của chúng tôi, vì hơn ai hết ông là người thích hợp nhất để đảm nhận việc chỉ điểm này. Thứ đến ông có thể theo ông Pène đến Huế để chọn lựa những người bạn có kiến thức và bảo đảm ngõ hầu sau này đặt họ dưới quyền điều khiển của ông những ủy nhiệm hữu ích mà chúng ta đã bàn thảo với nhau (?) trong cuộc hội kiến đầu tiên”. Trương nhanh nhảu đáp ứng yêu cầu của quan thầy mới rất hữu hiệu. Trên đường ra Bắc kỳ, Paul đưa Trương ra Huế, “khéo léo rấm vào Cơ mật viện và Hội đồng nội các của nhà vua”. Nhiệm vụ cụ thể được chủ giao là: 1-Bãi bỏ phụ ước của tướng De Courcy bức ép triều đình An Nam. 2- Thi hành hòa ước Patenôtre. 2-Thêm một điều khoản phụ là cho nước Pháp quyền kiểm soát và điều khiển nền hành chính Bắc kỳ, không có sự can thiệp của nhà cầm quyền An Nam. Chính sách cai trị “lạt mềm buộc chặt” chứng tỏ tài điều hành của một kẻ thực dân học thức. Vua Đồng Khánh vốn được coi như một “sản phẩm Pháp của Việt Nam” rộng lòng trao cho Trương chức danh Hàn lâm viện thị giảng học sỹ. Tiến sỹ sử học Nguyên Vũ nhận xét: “Dù muốn dù không, Petrus Key đã thủ vai một tác nhân lịch sử, gắn liền với cuộc xâm lăng Việt Nam của Pháp. Khởi đầu sự nghiệp bằng nghề thông ngôn cho quân viễn chinh Pháp, 26 năm sau, Petrus Key xuất hiện tại Huế như một “ẩn sĩ” (gián điệp) đặc phái viên tin cẩn của Tổng Trú sứ Paul Bert, giữa lúc ngọn lửa Cần Vương (rebelles, theo lối diễn tả của Petrus Key) đang hừng hực từ Bình Thuận ra tới Hà Nội”. Mời bà con xem vài đoạn thư Trương gửi cho Paul Bert để biết thực chất mối quan hệ giữa hai “nhà bác học Pháp – Nam” ấy là gì: “Trong cái nhìn đặc biệt về lợi ích của nước Pháp, việc Đồng Khánh lên ngôi quả là may mắn”… “… Về phần tôi, xâm nhập vào Cơ Mật Viện của nhà vua, vai trò của tôi là làm cho nhà vua và triều thần hiểu được các ý tốt của chính phủ Pháp cũng như điều động chính sách của chính phủ An Nam đi gần với chính sách của nước Pháp”… “Tôi sẽ trấn áp những hãnh thần (là những người có tư tưởng chống Pháp) và sẽ bao vây lấy nhà vua (Đồng Khánh). Tôi cũng sẽ gom những người thật sự có khả năng (?!) cho Viện Cơ mật”… “Tôi cũng đang lo tiếp xúc để cung cấp cho ngài những tin tức chính trị hữu ích. Tôi hết lòng tán đồng dự án hoàn mỹ của ông Pène về công cuộc bình định thi hành bởi những yếu nhân bản xứ và ở đây, tôi đang bám sát nhà vua cùng Viện Cơ Mật. Như sứ giả tiên khu của Chúa, tôi tìm cách dọn đường cho ngài; tôi tán dương cái uy danh mà tôi ra sức vây bọc quanh con người cũng như tên tuổi của ngài”… “Tuy nhiên, tất cả những điều đó thúc đẩy tôi nhất quyết lo liệu cho cái hiệp ước mà ngài muốn chính phủ An Nam sớm chính thức đưa ra để minh định, ngõ hầu chấm dứt sự trạng và quyết định chính sách sau này phải theo. Vì thế tôi xin nhắc lại ngài cái dự án bình định với những phương tiện hành động đã được mật ước (?), để tiến tới thành quả mà chúng ta có thể phô trương. Về phần tôi, ngài có thể luôn luôn cậy vào sự giúp sức nhỏ yếu của tôi, vì dù sao những cảm tình của giờ phút đầu tiên đã trở thành một mối nhiệt tâm chân thành đối với ngài”. Trương một mặt hối vua Đồng Khánh kịp đào kinh biệt sở Mang Cá để giữ an toàn nơi đồn trú của binh lính Pháp; thúc đẩy nhà vua hãy bắt thật nhiều “xâu” mở nhanh con đường ra Quảng Bình, vào Quảng Nam nhằm mục đích cho quân lính Pháp hành binh đi tiễu trừ nghĩa sỹ Cần vương ở những vùng xa xôi hẻo lánh; xúi hoàng thượng “làm ra năm mười khoản ước đưa ông Paul Bert nghị lại mà tính với nhau” định rõ quyền hạn của Nam triều và Bảo hộ (Bắc kỳ) nhằm hoàn thành nghị trình thâu tóm Việt Nam theo hòa ước 1884 nhưng ôn hòa hơn viên tướng De Courcy trước đó; Trương cũng khéo giấu mặt trong việc giúp vua Đồng Khánh ra “Dụ chiêu hồi” những thủ lĩnh nghĩa quân từ vua Hàm Nghi đến các thủ lĩnh như Phan Đình Phùng, Trần Xuân Soạn, Nguyễn Phạm Tuân, Nguyễn Xuân Ôn… với những lời dụ dỗ ngon ngọt và lời răn đe nghiêm khắc, không quên nhắc tới quan thầy mẫu quốc: “… Những mấy khoản nói trên, Quan Toàn quyền Công pha (Paul Bert) tới kinh vào yết, Ta thương miệng, ông ấy cũng đã bằng lòng”. Kết quả là Phò mã Hoàng Kế Viêm, một thời nổi danh chống Pháp ở mặt trận phía Bắc, trở thành “hồi chánh viên”, được khai phục hàm Đông các đại học sỹ, giúp việc rất đắc lực cho việc bình định ở Trung kỳ. Một mặt Trương tham mưu cho Toàn quyền Paul Bert: “Hãy nhanh chóng thành lập các đoàn lạp binh (đặc nhiệm cơ động) và võ trang cho họ. Ngài không có điều gì phải quan ngại vì những quân khí do ngài cung cấp, cho mượn hoặc bán, đều thuộc trách nhiệm trực tiếp của nhà vua, và chính phủ Nam triều sau vụ bạo hành tháng 7/1885 (tức ngày 24/5/Ất Dậu – ngày thất thủ kinh thành Huế), nay chỉ còn cách thần phục nước Pháp. Xứ Trung-kỳ mà ngài vừa ban cho nền tự trị sẽ phải bắt buộc ở dưới sự giám hộ của Người Bảo hộ nó. Với hai thế đứng của Pháp tại Bắc và Nam- kỳ, những nghĩa cử rồi ra sẽ được củng cố và hiệu nghiệm”. Để quan thầy yên tâm, Trương mách: “Bọn phiến loạn (nghĩa quân Cần vương) không đáng sợ; họ chỉ có những khí giới cổ lỗ của chính quyền An Nam và vài võ khí mới mua lại được của bọn buôn lậu Trung Hoa”. Và kế hiến ấy đã tỏ ra hữu hiệu trong việc đàn áp và truy sát những nghĩa sỹ Cần vương! Trương còn bày cách chiếm dụng những mảnh đất đẹp của các chùa chiền ở Huế giao cho nhà thờ mà chính quyền thực dân từng làm ở những đô thị từ Bắc vào Nam, ngay cả ở Hà Nội, Sài Gòn. Tất nhiên chính quyền bù nhìn sở tại phải cúi đầu làm lơ! Thật không quá đáng khi người dân Huế bấy giờ coi Trương Vĩnh Ký là con người phản phúc! Công luận đương thời gọi là “ông người Pháp Pétrus Ký”! Nhà sử học Chailley nhận định: “Paul Bert dùng Trương Vĩnh Ký không phải ở tài năng của ông này, cũng không phải vì ông là người Thiên Chúa giáo, mà chỉ vì những công tác đã thể hiện rất được việc và nhất là sự trung thành kiên định của Trương đối với nước Pháp”. Trong khi Trương hăng hái bộc lộ ruột gan ra với quân cướp nước thì với đồng bào mình, ông ta luôn viện dẫn câu cách ngôn La tinh “Ở với họ mà không theo họ ”! (Sic vos non vobis)! Cũng như ông ta thanh minh thời gian đội mũ mặc áo đại quan triều đình: “Tôi chỉ được dùng như một trung gian giữa hai dân tộc vừa gặp nhau tại Nam kỳ. Tôi chỉ giúp họ hiểu nhau và thương nhau!”. Xin hãy đọc mấy dòng các quan thuộc địa đánh giá kẻ tay sai có học này: “Rút cục, đó là người An Nam Pháp hóa và gương mẫu duy nhất mà chúng ta có. Sự trợ giúp của ông thật đã rất ích lợi cho ảnh hưởng của chúng ta và cho nền học chính nói chung” (Luro, Thanh tra và Giám đốc trường Sư phạm Thuộc địa Pháp tại Việt Nam). Toàn quyền Paul Bert, trong thư ngày 20.5.1886, gởi Thiếu tướng Thống đốc Nam kỳ viết: “… Tôi nhận thấy ở Huế, ông Trương Vĩnh Ký đã tận lực làm tròn sứ mạng công việc trong triều đình và ít nhiều ảnh hưởng trên nhà vua. Trong những điều kiện đó, tôi tin rằng sẽ có lợi cho người Pháp hiện thời nếu giữ ông ta ở lại Huế trong một thời gian tôi không dám xác định, nhưng chắc chắn cũng khá lâu”. Nhưng trời bất dung gian, Paul Bert lăn đùng ra chết! Lúc sống, để được việc, viên trùm thực dân dùng quyền uy tối thượng của mình đã qua mặt những thuộc cấp khác, cất nhắc một kẻ tay sai hợp ý mình, tất không khỏi phật lòng những đồng sự Pháp dưới quyền với kẻ “dưỡng tử hãnh tiến” này; cũng như lũ người tay sai bản xứ đều muốn lập công với chủ, không thể không có sự kèn cựa bon chen; ngay cả triều đình An Nam dù là lệ thuộc nhưng cũng chẳng ưa gì viên đại quan Công giáo cậy quyền ỷ thế ngạo mạn hãnh tiến với cái vốn Tây học tỏ ý khinh thị nền học vấn cổ lỗ Đông phương. Thượng cấp mới thay đổi liên tục, từ Thống đốc Bihourd, tiếp đến là Tổng đốc Toàn quyền (coi toàn xứ Đông Dương) đầu tiên là Constant. “Phận hồng nhan có mong manh, nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”! Bỗng nhiên Trương bị hẫng bởi không còn chỗ dựa, trở nên lạc lõng cô đơn giữa những ông chủ mới và đám quan lại Nam triều. Mặc dù Trương rất tự hào khoe công tích với nước mẹ Đại Pháp: “Vị vua trẻ (Đồng Khánh) hoàn toàn bị chinh phục bởi nước Pháp mà tôi đã dạy cho nhà vua biết và yêu thích tiếng Pháp. Cần phải lợi dụng những bản chất tuyệt hảo (?) và trung thành của nhà vua”. Nhưng quả báo nhãn tiền, trước hết “những cú đá của con lừa” từ các ông chủ thực dân dành cho viên đại quan Cơ mật viện do chính họ cài vào, dù quá biết rằng con người này đã “đóng góp một phần tích cực vào sự bành trướng nền thống trị Pháp”. Trong khi các quan lại Nam triều thì coi ông là người nguy hiểm. Đặc vụ bị lộ mặt còn chi tác dụng! Trương từng phàn nàn trong thư gửi Toàn quyền Paul Bert: “Tôi bị nhiều kẻ đố kỵ, ngu ngốc và gian ác; họ có thể hành động và hiểu cách để phá hại tôi…” và chính Trương cũng nhận ra rằng: “Trong con mắt của đồng bào tôi, tôi đã bị lên án nặng nề!”. Đúng là người dân Nam kỳ cũng rất tiếc một đứa con có tài mà “đi hoang” theo quan thầy Pháp. Một con người đa tài, lại đang có dịp đua tài giữa “hội phong vân” mà bị cú vấp đau đớn như vậy, có bất mãn hay không thì người viết không dám đặt điều ra nhưng buồn bã và chán nản hẳn là điều tất nhiên. Trương nại lý xin về Sài Gòn dưỡng bệnh. Nhưng trong thư gửi Bác sỹ Chavanne nói bóng gió là để “xa lánh sao Mộc cùng các vì sao lân cận”! Sau đó, nhà đương cuộc Pháp vẫn biết tài chính trị khôn ngoan xảo quyệt của Trương, có lần mời ông hợp tác. Nhưng một con người thông minh từng trải như Trương cũng học được như con chim biết sợ cành cong: “Về danh vọng bây giờ nó không còn cám dỗ con sư tử này đã già và mất hết sức mạnh rồi!” (Thư gửi Bác sỹ Chavanne). Từ năm 1887, gọi là về “ở ẩn” nhưng đã như là cái “nghiệp” với những người “chữ nghĩa”, Trương vẫn tiếp tục cầm bút và cho ra đời hàng chục đầu sách nhưng tựu chung không ngoài ba mục đích như đã nêu ở phần trên, nghĩa là nội dung của nó đều không đi ra ngoài chủ đích “nghiên cứu để cai trị” của người Pháp. Trước sau ông ta vẫn giữ đúng lời hứa mà có lúc vì lý do nào đó Trương đã từng xin từ chức: “Khi trở lại đời sống tư, lòng tôi luôn luôn thuộc về nước Pháp, và những công việc phục vụ nhỏ mọn của tôi cũng thuộc về nước Pháp… Người bề tôi tận tâm và vâng lời”. Trung thành là thế mà sao Trương không gia nhập quốc tịch Pháp? Ông đã chẳng giấu diếm gì mưu sâu ấy: “… Lúc đã gia nhập quốc tịch Pháp, tôi sẽ mất hết uy tín, mất thế lực, chẳng còn được vua, triều đình và dân chúng An Nam tín nhiệm nữa”! Và chính ông đã tự nhận: “Tôi không thể nào quên được lòng biết ơn với chính phủ chẳng những đã chiếu cố đến đứa con dưỡng tử, mà lại đem đến nguồn hạnh phúc tràn trề, nhất là lòng tin can”. Cụ Phan Châu Trinh là người khảng khái, không đội trời chung với những kẻ ăn ở hai lòng: “Người có lòng với nước chẳng khi nào bắt cá hai tay được cả công lẫn lợi, và cả danh tiếng nữa. Nếu thế thì là quân giả dối cả”!Trong cuốn “Pétrus Trương Vĩnh Ký nhìn từ những khía cạnh và nhận thức khác nhau” của nhiều nhà nghiên cứu đều chung nhận định. Mẫn Quốc: “Cái học vấn của Trương càng uyên bác bao nhiêu thì cái tác hại của Trương càng lớn bấy nhiêu, Trương đã tác động tinh thần đám quan lại và đám sĩphu Việt Nam hãy đừng cưỡng lại người Pháp, nhằm mục đích gì? Đã bao phen Trương tận tụy trung thành, đem hết tâm tư, bầy mưu lập kế, hiến sách lược nọ, dâng đề nghị kia, chỉ vì giặc Pháp… Chúng tôi đặt ra câu hỏi: Vì cớ gì mà Trương lại phản quốc, lại làm đặc vụ, tay sai, tình báo cho địch như vậy?”. Phải chăng ông ta được nhà Dòng nuôi từ tấm bé và lời dạy trong Kinh phúc âm đã thấm vào máu thịt: “Nếu người nào vì ta (Giê-su) mà từ bỏ nhà cửa, bỏ anh em, bỏ chị em, bỏ cha mẹ, bỏ vợ con, bỏ ruộng vườn, bỏ đất nước thì sẽ được cứu rỗi trăm phần hơn và sẽ sống đời đời trên Thiên Đàng”. Chưa ai từng ở Thiên Đàng trở về thế gian này. Nhưng qua sơ tiếp buổi đầu, thấy mọi sự lạ ở mấy nước tư bản đang phát triển phương Tây, cùng với những binh hùng, tướng mạnh, vũ khí tối tân, coi như bất khả kháng, làm khớp hồn những con chiên mới nhập đàn. La Mã, Paris, Barcélone có khác chi thiên đàng hạ giới! Việc mở mang nước Chúa với việc bành trướng thuộc địa chỉ đem lại sự thoát khỏi mọi bần cùng bế tắc của những kẻ khốn khổ nơi cùng trời cuối biển này! Trương Vĩnh Ký rất nóng lòng muốn Pháp đồng hóa dân tộc Việt Nam nhanh hơn và toàn diện hơn. Ngoài lương bổng hậu hĩnh, bên cạnh đó ông cũng sẽ kiếm được lợi nhuận do việc chính phủ thực dân Pháp bỏ tiền tài trợ và mua sách, ông sẽ phấn khởi và hăng hái hơn trong việc viết thêm các tác phẩm khác trong tương lai cho mục đích “đồng hóa” nói trên. Bùi Kha: “Từ những ý đồ và hành động chính trị, cho đến các công trình mang tính văn hóa nói chung của họ Trương, tất cả chỉ xoáy vào một mục đích duy nhất là phục vụ cho chính sách thực dân Pháp để nô lệ và đồng hóa dân tộc ta”. Nguyễn Đắc Xuân hạ bút: “Nếu lấy tiêu chí Việt gian dành để xếp những tên phản quốc Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Lê Hoan… vận dụng vào Trương Vĩnh Ký thì ta thấy Trương Vĩnh Ký vượt xa những nhà nho nêu trên. Lịch sử Việt Nam cận đại luôn luôn phải nhắc đến Trương Vĩnh Ký như một nhân vật phản diện điển hình. Đây là trường hợp có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Chúng ta cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, đầy đủ để có một sự đánh giá đúng đắn về tội làm tay sai cho giặc của nhà bác học siêu hình, siêu Việt gian Trương Vĩnh Ký”. Nguyễn Sinh Duy giận mà thương: “Dù sao thì Trương Vĩnh Ký cũng là một tài năng thực sự của đất nước cũng như của Nam kỳ nói riêng. Ông sống vào thời buổi cực kỳ gay cấn của nước nhà nhưng suy cho cùng thì không phải kiến thức định đoạt giá trị một con người mà chính là ở hành động của người ta ” và “Chỗ đứng của Trương vẻ vang và đồ sộ không phải trên văn đàn dân tộc Việt Nam, mà chính ở trong nền văn chương thuộc địa của người chính quốc”. Thiếu tướng hải quân P. Réveillère đã tham chiến ở Nam kỳ thời điểm ấy, từng đối đầu với các thủ lĩnh của nghĩa quân và triều đình, vô tư nhận xét: “Lấy công bình mà nói, chúng ta quý trọng một người bởi giá trị tinh thần nhiều hơn những kiến thức”. Ông bà ta xưa, ngay từ buổi đầu cho con cháu cắp sách tới trường, không quên lời căn dặn: “Cho bay đi học chữ, học nghĩa”. Chữ và nghĩa phải tương xứng với nhau. Có nghĩa mà vô học là đồ vô dụng. Có chữ mà bất nghĩa cũng là đồ bỏ đi! Không điều nghĩa nào lớn hơn trách nhiệm với dân, với nước, nhất là lúc quốc gia vong biến. Những người được coi là “nguyên khí quốc gia” càng không thể quên điều ấy. Là kẻ sỹ phải thấm lời thầy Mạnh: “Phú quý bất năng dâm/Bần tiện bất năng di/ Uy vũ bất năng khuất” (Giàu sang không làm siêu lòng/ Nghèo khó không làm nản chí/ Oai vũ không làm sờn gan). Học giả Ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh kết câu ngắn gọn mà chính xác về con người này: “Nhân tài thất đức thờ bạo chúa”! Sách Trương viết tràng giang đại hải như thế mà có một cuốn nào để đời truyền tụng?! Chỉ số ít người cần nghiên cứu mới đi tìm. Suốt một đời danh vọng, quyền quý mà cuối đời không được sống trong yên ổn, đau đáu trong lòng. Nhà “đại trí thức” họ Trương phô bày niềm u uẩn trong bài thơ tuyệt mệnh: “Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai/ Xô đẩy người vô giữa cuộc đời/Học thức giữ tên: con sách nát/ Công danh rút cục: cái quan tài/ Dạo hòn lũ kiến men chân bước/ Bò xối con trùng chắc lưỡi hoài/ Cuốn sổ bình sanh công với tội/ Tìm nơi thẩm phán để thưa khai”! Con người học rộng biết nhiều, sâu xa sắc sảo, những việc ông làm vì đấng Kito và vì Nhà nước bảo hộ rành rành được việc mà vẫn bị ông chủ lúc tin dùng, khi hắt hủi, lại không tránh được lời chê bai khắc nghiệt của người đời. Đến khi nằm xuống đúng theo cái luật tử sinh, dù cũng được người Pháp tưởng công bằng nghi thức tống biệt uy nghi: có lính tiêu binh, thổi kèn, bắn súng như người lính ngã xuống nơi chiến trận. Chẳng lẽ đã “trải qua một cuộc đời đẹp đẽ mà cũng lại có éo le bi tráng” (NN) mà “nhà đại văn hóa” chỉ để lại gọn lỏn một dòng: “Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi!” trên mộ chí?! Than ôi! Nỗi niềm tưởng đến mà đau! Hóa công sao nỡ phũ phàng? Những người “phượng chạ loan chung”, những người “tích lục tham hồng” của ông giờ đều xéo hết ráo về xứ trời Tây! Chỉ còn lại đồng bào khốn khổ của ông trên nước non nghìn xưa ông bà để lại, sẵn lòng hỷ-xả-từ-bi, thắp cho ông vài nén hương nhớ đến những ngày xanh ông mòn mỏi. Hẳn người dưới suối vàng đã hiếu ra: “Phận hồng nhan tự ngàn xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”! Người viết chia sẻ với suy nghĩ của nhà giáo lão thành Trần Thanh Đạm: “Phản bội, phản quốc là tội danh chẳng kẻ náo dám nhận. Càng là người có học vấn, có tri thức mà sa vào con đường ấy thì càng có nhiều luận điệu bào chữa xảo trá, tinh vi. Đối với những nhân vật này lúc đương thời thì ranh giới phải trái thường khá rõ ràng. Song về sau do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là với những người cùng não trạng, sự đánh giá có khi lại trở nên phức tạp, rối rắm, gây nhiều tranh cãi. Như con người này, vào thời buổi ấy, với tài năng ấy, thân phận ấy, tâm tư ấy, để lại cho đời sau nhiều bài học. Như một tấm gương để tôn vinh cảm phục thì không, song để cảm thông xót thương thì có”. VĨ THANH Ông Phan Thiệu Cơ – Đại tá QĐNDVN, cháu nội cụ Phan Bội Châu, cũng là đồng đội lớp đàn anh tôi. Có lúc anh em gặp mặt, chợt nhớ về tuổi thơ, ông trầm ngâm thuật lại: “Lúc chừng mười tuổi, được sống ở ngôi nhà Bến Ngự với ông nội. Cụ tuổi già, mắt mờ, chân chậm, tay run vậy mà vẫn có những người đáo quanh ngoài rào, láo liêng dòm dỏ cả ngày lẫn đêm. Một hôm, trời vừa nhập nhoạng, ông nội gọi thằng cháu ra vườn sau. Ông già, cháu dại hì hụi đào một cái hố bên bụi chuối gần mộ hai con chó rồi lễ mễ khiêng cái thùng sắt tây phủ kín, vùi xuống đấy. Thằng cháu nhăn nhó làm theo ông mà một tay bịt mũi, miệng nhổ phì phì… Mới sớm hôm sau, chưa tỏ mặt người đã thấy một lũ đầu trâu mặt ngựa tay mai tay cuốc ào ào nhâng nháo xăm xăm xông xáo vào vườn hầm hè tự nhiên đào bới… Lúc sau bọn người ấy la toáng lên, khạc nhổ bừa bãi om sòm rồi kéo nhau cun cút cắm đầu tháo lui trong khi ông nội ung dung ngồi trên phản uống trà và thằng cháu chổng mông bên bếp lửa. Thì ra chúng khui lên được một thùng chất… thải của người chứ không phải là thứ gì quốc cấm! Trong bọn họ có mấy người tay bưng mũi miệng, chúi đầu tò mò trố mắt đọc những dòng chữ khắc ghi trên bia mộ hai con chó nằm bên: Khuyển Vá: Vì có dũng nên liều chết phấn đấu, vì có nghĩa nên trung thành với chủ! Khuyển Ky : Trí vừa nhân, nhân vừa trí, trong giống súc mà người, e đến mày mới thấy! Trung-Dũng-Trí-Nghĩa-Nhân là những đức tính đấng đại trượng phu không thể thiếu. Bây giờ “nhà văn hóa” Nguyên Ngọc và chúng bạn hè nhau hân hoan “rước vào ngôi đền Panthéon của chúng ta ông Trương Vĩnh Ký” đặt bên cạnh cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh để tôn vinh! Thêm một nhân vật lịch sử xứng đáng là thêm một niềm tự hào cho dân tộc. Nhưng lẫn lộn trong những danh nhân một con người bất chính bất minh sẽ làm giảm đi giá trị truyền thống dựng nước và giữ nước đầy gian truân cùng với niềm tự hào dân tộc, thậm chí làm giảm đi tính giáo dục cho những lớp hậu sinh. Trương Vĩnh Ký là nhân vật có diện mạo khá đặc biệt trong lịch sử Vi ệt Nam cận đại. Sự đặc biệt ấy không phải do đương sự tạo nên mà do giới cầm quyền từ triều đình nhà Nguyễn và chính quyền thực dân đô hộ tô vẽ cho họ. Sau này, các thế lực chính trị đủ màu sắc lại dựa vào đấy nhằm phụ họa cho những ý đồ riêng của họ. Ông Nguyên Ngọc rước ông Trương Vĩnh Ký vào “ngôi đền Panthéon của chúng ta” nhằm mục đích gì chắc ai cũng rõ theo http://tuanbaovannghetphcm.vn/cai-tro-than-mat-ma-tham-tram-cua-ong-nguyen-ngoc/ ==================== Xem qua thì thấy việc lập "Quỹ văn hoá Phan Châu Trinh" là mục đích hay. Nhưng thực tế thì vị nhà văn lão làng Nguyên Ngọc đã biến quỹ thành mục đích riêng nào đó. Nếu cần thì giải tán cho gọn. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 5, 2015 Bài viết của ông Trí Nhân tất nhiên là phản ánh quan điểm của ông ta. Nhưng về ông Trương Vĩnh Ký nếu được gọi là "có công lao đóng góp cho học thuật nước nhà" thì tôi thấy chưa ổn. Bởi vì, vấn đề còn là mục đích của cái gọi là đóng góp ấy như thế nào. Sự phát triển khách quan của lịch sử khi sự giao lưu văn hóa Đông Tây tất yếu sẽ dẫn đến vấn đề là phải có ai đó quảng bá văn hóa, kỹ thuật Tây Phương. Do đó, nếu không có ông Trương Vĩnh Ký thì các phong trào Đông Du của cụ Phan cũng sẽ dẫn tới một sự quảng bá văn hóa Tây Phương vào Việt Nam bằng một con đường và một hình thức khác. Nhưng với ông Trương Vĩnh Ký thì rõ ràng nhằm mục đích chính trị, tiếp tay cho kẻ xâm lược. Theo truyền thống văn hóa Đông phương thì không thể chấp nhận vinh danh một kẻ như vậy. Không thể nói một kẻ trộm cắp có công lao đóng góp cho tinh thần cảnh giác của con người, nên phải đề cao kẻ có hành vi trộm cắp trong xã hội được. Với tôi thì ông Trương Vĩnh Ký chỉ được coi là một hiện tượng lịch sử. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 5, 2015 Trung Quốc với cuộc chơi "con bài lịch sử" ở Biển Đông Thứ Ba, 12/05/2015 - 03:03 Các yêu sách chủ quyền trên phần lớn Biển Đông có lẽ TQ chỉ coi là một cái cớ, một trò chơi do Bắc Kinh tạo ra để phục vụ mục đích xác lập và xây dựng các cơ sở quân sự trên các hòn đảo đang tranh chấp. >> Úc hối thúc Trung Quốc không thiết lập ADIZ trên Biển Đông >> Trung Quốc kiểm tra và sửa chữa phao nổi phi pháp tại Hoàng Sa LTS: Michael Fleacker là tiến sĩ khảo cổ học hàng hải chuyên ngành nghiên cứu Đông Nam Á. Hiện ông là nghiên cứu viên khách mời tại Trung tâm Nalanda Sriwijaya, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore. Ông vừa có bài viết phân tích các yêu sách chủ quyền của TQ trên phần lớn Biển Đông dựa trên con bài lịch sử: Tại buổi tổng kết hội nghị thượng đỉnh ASEAN mới đây ở Malaysia, chủ tọa đưa ra tuyên bố chung, trong đó nêu: “Chúng tôi chia sẻ những quan ngại sâu sắc từ các nhà lãnh đạo của một số quốc gia trước các hoạt động cải tạo bãi đá đang được tiến hành trên Biển Đông - một hành động gây xói mòn lòng tin và đe dọa hòa bình, an ninh và sự ổn định tại Biển Đông”. Bắc Kinh lập tức phản đòn bằng việc đưa ra tuyên bố TQ có “quyền không thể tranh cãi” trong việc hiện diện và làm bất cứ điều gì nước này muốn tại Biển Đông. Tháng 3/2015, báo Inquirer, Philippines đăng ảnh TQ cải tạo bãi đá ở Trường Sa của Việt Nam Trong khi ASEAN tỏ ra hết sức thận trọng như sợ “làm đổ bát nước” trong quan hệ với TQ , thì Bắc Kinh lại đòi hỏi VN, Philippines và các quốc gia có liên quan cần phải chấm dứt việc xâm phạm chủ quyền TQ. TQ không thể tuyên bố chủ quyền từ thời chưa có tàu biển TQ Tất cả các bên tranh chấp tại Biển Đông đều đã tham gia vào Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS) có hiệu lực từ năm 1994. Trước đó, TQ cũng như bất kỳ quốc gia nào khác, có quyền chiếm giữ các vùng lãnh thổ bỏ hoang tại quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, sau khi UNCLOS có hiệu lực, TQ vẫn ngang nhiên chiếm giữ và phong tỏa nhiều bãi đá ngầm nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines. Yêu sách đường 9 đoạn của TQ chồng lấn sâu vào vùng EEZ của VN, Malaysia, Brunei, Philippines và cả Indonesia. Cả VN và Philippines đều quyết liệt lên tiếng khẳng định theo luật quốc tế, không thể nói TQ có quyền không thể tranh cãi ở những vùng biển này.. Trong khi đó, Bộ Ngoại giao TQ khẳng định chủ quyền quốc gia của TQ tại vùng biển này mang tính lịch sử, với bằng chứng sớm nhất được ghi nhận trong các văn bản từ thời nhà Hán, nhà Đường, cho thấy TQ làm chủ vùng biển Nanhai (tức Nam Hải). TQ cho rằng vào thời nhà Hán (206 TCN - 220) và nhà Đường (618-906), TQ đã duy trì một hải đội nhỏ trong suốt thiên niên kỉ thứ nhất. Các sản phẩm TQ như gốm sứ, đồ kim loại hay lụa mặc dù rất được ưa chuộng trong lịch sử, song nghịch lý trong luận điệu của TQ nằm ở chỗ, ngành vận tải biển ngay từ những ngày đầu tiên xuất phát từ các quốc gia Đông Nam Á, và đôi khi chỉ được mở rộng nhưng vẫn hạn chế đối với người Ả Rập và Ấn Độ. Theo lời giáo sư sử học Singapore Derek Heng trong cuốn sách về thương mại Trung - Mã Lai, “tất cả các tư liệu hiện nay đều cho thấy người TQ chưa bao giờ tham gia vào các hoạt động vận tải biển đến vùng Mã Lai (nay là khu vực Malaysia và Indonesia) mãi cho đến thế kỉ 11”. Các nghiên cứu khảo cổ học về biển đã khẳng định điều này. Hàng trăm xác tàu bị đắm đã được phát hiện tại TQ và khắp cả khu vực Đông Nam Á trong vài thập kỷ qua. Đáng tiếc là trong số những xác tàu từ thế kỷ 17 trở về trước, chỉ có khoảng 35 chiếc có đủ tư liệu để có thể xác định nguồn gốc và niên đại của chúng. Dù số xác tàu có thể xác định lai lịch rõ ràng khá ít ỏi nhưng chúng vẫn đủ để nói lên được nhiều sự thật. Có 7 trong tổng số 35 chiếc tàu thuộc về người Đông Nam Á với kiểu đóng tàu truyền thống cổ xưa có tuổi đời hàng nghìn năm, từ thế kỉ 4 cho đến thế kỉ 13 sau công nguyên. Kế đến là hai chiếc thuyền buồm tam giác của Ả Rập xuất hiện vào khoảng thế kỉ 9, khi những cộng đồng đông đảo người Ả Rập đã tìm đến các bến cảnh lớn của người TQ. Bên cạnh đó, ít nhất 15 xác tàu chở hàng có đặc trưng truyền thống khu vực Biển Đông - một kiến trúc dựa trên sự hòa hợp giữa Đông Nam Á và TQ - có nguồn gốc vào khoảng thế kỷ 14 đến 16 tại trung tâm đóng tàu thời bấy giờ nằm ở Xiêm (Thái Lan ngày nay). Ngoài ra còn có 11 chiếc thuyền mành TQ, nhưng chiếc xuất hiện sớm nhất cũng phải đến khoảng cuối thế kỉ 12 đến đầu thế kỉ 13. Từ các bằng chứng trên, rất rõ ràng rằng TQ không thể tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông từ thời mà còn chưa có tàu biển của TQ xuất hiện. Loại bỏ lá bài lịch sử Từ cuối thế kỷ 13, TQ mới bắt đầu khẳng định năng lực hàng hải. Một lần nữa, các chứng cứ khảo cổ hàng hải có thể xác minh được tính đúng sai trong những yêu sách dựa trên lịch sử mà TQ và các nước liên quan đưa ra gần đây. Khi vẽ lại các vị trí của những con tàu bị đắm từ thế kỷ thứ 13 trở về sau, hai tuyến đường chính qua Biển Đông hiện lên rất rõ ràng. Tuyến đường phía Tây ôm sát bờ biển của VN, trong khi tuyến đường phía Đông ôm lấy bờ biển Luzon và Palawan của Philippines. Đường đi của những con tàu cũng cho thấy người ta đã thận trọng né tránh các rặng san hô nguy hiểm thuộc khu vực quần đảo Trường Sa. Ngay cả trong các bản đồ hàng hải hiện đại cũng đánh dấu đây là Khu vực Nguy hiểm. James Horsburgh, một nhà thủy văn học của công ty Đông Ấn thuộc Anh Quốc đã phải cảnh báo Khu vực Nguy hiểm khi nhắc đến quần đảo Trường Sa trong Bản hướng dẫn lộ trình cho các con tàu vào năm 1836: Quần đảo rất rộng lớn với nhiều bãi cát, đá hoặc các rặng san hô nổi lên trên và chìm dưới mặt nước. Vô số nguy hiểm luôn rình rập tại khu vực quần đảo này. Đó là lý do khiến tất các nhà hàng hải né Khu vực Nguy hiểm càng xa càng tốt, thay vì quan sát và mô tả những hiểm nguy mà quần đảo này có thể mang lại. Năm 1993, được sự cho phép của VN, tôi có cơ hội hiếm hoi và tuyệt vời để khảo sát một số thực thể ở quần đảo Trường Sa. Đá Lát (Ladd Reef), Đá Tây và Đá Đông (West and East London Reefs) là những thực thể nằm ở phía cực Tây, do đó có thể coi là nguy hiểm nhất. Nhiều xác tàu đắm đã được phát hiện tại quần đảo này. Trong đó có một tàu chở trà nổi tiếng mang tên Taeping, đã biến mất vào năm 1871 trên đường từ Amoy (nay là Hạ Môn, TQ) đến New York (Mỹ). Ngoài ra còn có một chiếc tàu Liverpool tên là Titania bị chìm vào năm 1852 trong khi đang chở hàng hóa có giá trị từ Macau (TQ)đến Sydney (Úc), và không một người nào may mắn sống sót. Một chiếc tàu buồm của Anh tên Christina, bị đắm sau khi rời cảng Macau chở theo một số lượng lớn châu báu về Bombay (Ấn Độ) vào năm 1842. Hàng hóa trên chuyến tàu này được thanh toán bằng thuốc phiện. Vài năm sau khi Christina bị đắm, nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha, thuyền trưởng Cuarteron, đã thu lại được những món đồ bằng bạc của con tàu này. Người ta cho rằng đá Châu Viên (Cuarteron Reef), một trong những bãi đá ngầm bị TQ chiếm đóng trái phép, được gọi theo tên vị thuyền trưởng này. Chúng tôi còn tìm thấy một con tàu có niên đại từ giữa thế kỷ 19 nhưng chưa xác định được nguồn gốc, một chiếc tàu 4 cột buồm của Đức từ đầu thế kỷ 20, một con tàu chạy bằng hơi nước từ thế kỷ 20, một chiếc tàu ngầm từ thời Thế chiến 2, một vài chiếc thuyền đánh cá bằng kim loại và vài chiếc xà lan. Các cuộc tìm kiếm trực quan xung quanh các rặng san hô này được tổ chức rất cẩn thận mà kết quả đạt được lại thật đáng thất vọng. Không hề có đồ gốm, đá dằn tàu hay các thứ khác có xuất xứ từ trước thế kỷ 19. Với một sự nhận thức muộn màng, những phát hiện này trùng khớp với cảnh báo của Horsburgh về Khu vực Nguy hiểm, cũng như các hàng hải chỉ nam trước đó. Mãi cho đến thế kỷ 19, công nghệ đóng tàu mới đủ tiến bộ đến mức cho phép tàu có thể đi biển ngay cả trong những ngày gió mùa thay vì phải trì hoãn hải trình như giai đoạn trước. Hạn chế của việc ra khơi vào đợt gió mùa là hành trình trở nên dài hơn vì các con tàu phải đi theo chiều gió. Đôi khi việc làm này khiến con tàu lệch quá xa so với hải trình dự tính ban đầu, và hậu quả là các thuyền nhân phải trả giá bằng cả tính mạng của họ. Vậy nên các yêu sách chủ quyền của TQ trên phần lớn của Biển Đông dựa trên cơ sở lịch sử là hoàn toàn có khả năng bị bác bỏ. Tuy nhiên, có lẽ TQ chỉ coi đây là một cái cớ, như tôi đã nhìn như vậy. Có thể đây chỉ là một trò chơi do Bắc Kinh tạo ra để phục vụ mục đích xác lập và xây dựng các cơ sở quân sự trên các hòn đảo đang tranh chấp. Và rồi có lẽ sau khi hoàn thành được mục đích của mình, TQ sẽ vui vẻ tham gia vào các cuộc đàm phán song phương hoặc đa phương với các nước liên quan, và thậm chí, vứt luôn con bài lịch sử này ra khỏi cuộc chơi. Michael Flecker (Dịch: Hoàng Phú - Anh Thư - Dự án Đại sự ký Biển Đông) Theo Vietnamnet ==================== Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Tôi đưa bài này lên đây, nhằm một mục đích so sánh "cuộc chơi con bài lịch sử" mà tác giả Michael Flecker đã trình bày về vấn đề sử dụng lịch sử, như một công cụ để chiếm cứ Biển Đông của Việt Nam - với vấn đề mà tôi đã xác định về sự phủ nhận cội nguồn văn hiến Việt Việt trải gần 5000 năm văn hiến, cũng chính là một phương tiện trong cuộc chơi của các siêu cường từ thời chiến tranh lạnh. Nhưng có hai vấn đề khác nhau ở đây là: Với biển Đông, khi hoàn tất mục đích, cuộc chơi có thể chấm dứt. Tuy nhiên, có lẽ TQ chỉ coi đây là một cái cớ, như tôi đã nhìn như vậy. Có thể đây chỉ là một trò chơi do Bắc Kinh tạo ra để phục vụ mục đích xác lập và xây dựng các cơ sở quân sự trên các hòn đảo đang tranh chấp. Và rồi có lẽ sau khi hoàn thành được mục đích của mình, TQ sẽ vui vẻ tham gia vào các cuộc đàm phán song phương hoặc đa phương với các nước liên quan, và thậm chí, vứt luôn con bài lịch sử này ra khỏi cuộc chơi. Nhưng với việc phủ nhận cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến - một cuộc chơi con bài lịch sử từ thời chiến tranh lạnh - đã không chấm dứt khi chiến tranh lạnh kết thúc. Sở dĩ tôi xác định rằng: Việc phủ nhận cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến chỉ là một âm mưu quốc tế nhằm xóa sổ sức mạnh tinh thần Việt tộc; là căn cứ vào tính hợp lý trên mọi sự kiện và vấn đề liên quan. Một trong những căn cứ để có luận điểm trên và là nguyên nhân căn bản ban đầu, chính là tính khiên cưỡng, áp đặt một cách rất chủ quan của những luận cứ phủ nhận cội nguồn Việt sử của những kẻ gọi là học giả với bằng cấp giáo sư, tiến sĩ. Phần ngược lại của nó là những bài viết có chứng cứ khoa học đáng được tôn trong thì không hề xuất hiện ở các siêu cường liên quan (Anh, Mỹ, Pháp và Trung Quốc) và ngay tại Việt Nam. Việc quỹ Phan Chu Trinh vinh danh nhà sử học Hoa Kỳ K.W Taylor, là một ví dụ cho vấn đề này: Ông ta đã được lăng xê dù với một tư duy dốt nát. Mặc dù nội dung những bài viết của ông ta - ít nhất qua bản dịch - còn tệ hơn nhiều so với cái gọi là "hầu hết những nhà khoa học trong nước". Nhưng với tư cách là "nhà Sử học Hoa Kỳ", có tư duy phủ nhận cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, nên ông ta được lăng xê, như là một người Mỹ xuất sắc trong nghiên cứu sử Việt. Từ năm ngoái, khi mới "nghe hơi nồi chõ", rằng Quỹ Phan Chu Trinh sẽ tặng giải thưởng cho ông KW Taylor, tôi đã có ý kiến rằng: "Không nên tặng giải thưởng cho ông này. Vì quan điểm của ông ta trong việc phủ nhận Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến". Nhưng tiếc thay! Hôm nay tôi được biết đến thông tin là ông ta đã được nhận giải Phan Chu Trinh. Có thể nói rằng: Nhiều người có học vị và tên tuổi có quan điểm phủ nhận cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến cũng đã được giải của quỹ Phan Chu Trinh. Mà một ví dụ là ông Lê Thành Khôi. Nhưng để có một cuộc hội thảo khoa học cho việc minh chứng Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến thì "Không!". Mặc dù đã có một lời hứa về tổ chức hội thảo cho tôi. Nhưng như tôi đã trình bày: "Tôi không còn quan tâm nữa, mà chỉ coi là một tín hiệu tốt đẹp vì còn có người quan tâm đến Việt sử ". Vậy thôi. Thực ra, TTNC Lý học Đông phương, về mặt pháp lý, nó có quyền đứng ra tổ chức hội thảo. Nhưng tất cả mọi người đều rõ: Tôi không bao giờ tự tổ chức hội thảo cả. Thậm chí cả đến offline, cũng không, nếu anh chị em học viên các lớp phong thủy không có yêu cầu. Bởi vì, nếu tôi đứng ra tổ chức, nhân danh TT sẽ bị hoài nghi về mặt học thuật vì mang tính chủ quan. Cho nên tôi chỉ trình bày luận điểm của mình nhân danh cá nhân và nhân danh chân lý. Đối với tôi thì ngay cả TTNC LHDP cũng chỉ là một phương tiện để tôi an tâm về mặt pháp lý chứng minh cho chân lý, trước nhưng phiền toái của cuộc đời, mà người ta đã công khai đặt vấn đề tôi "chứng minh cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến nhằm mục đích gì?" (Phát biểu của Giáo sư Nguyễn Văn Trọng tại cafe Trung Nguyên). Người ta đã lớn tiếng trên Tuanvietnam về việc "quá khứ là không cần thiết, con người hãy nghĩ tới tương lai" của tác giả Trần Văn Tuấn (Bài đã đăng trên diễn đàn lyhocdongphuong). Nhưng để phục hồi lại chữ Hán dạy trong trường phổ thông thì người ta lại đặt vấn đề một qúa khứ dân tộc Việt đã sử dụng chữ Hán trong lịch sử (Bài của GS. NGND. Nguyễn Đình Chú, Khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội). Hai luận điểm mâu thuẫn nhau, nhưng thống nhất trong một ý tưởng là không để ảnh hưởng đến sự lan tỏa của văn minh Hán. Qua đó thấy rất rõ rằng: chân lý đã không được tôn trong như một thực tế khách quan. Mà đỉnh điểm của nó chính là sự trao tặng giải Phan Chu Trinh cho KW Taylor, một học giả nghiên cứu Sử Hoa Kỳ có quan điểm phủ nhận cội nguồn truyền thống văn hóa sử Việt. Quỹ Phan Chu Trinh không phải là một tổ chức hành chính của nhà nước. Nhưng nó được coi là có ảnh hưởng trong xã hội về mặt học thuật. Bởi nó được thành lập từ những người có ảnh hưởng và tên tuổi trong xã hội, như ông Nguyên Ngọc. Trong quá trình minh chứng chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến của tôi, tôi đã nhận xét thấy rằng: Việc phủ nhận cội nguồn truyền thống văn hóa sử Việt, mang tính cực đoan phi học thuật ở tất cả mọi thế lực chính trị trong xã hội trong nước và quốc tế. Và những luận cứ chứng minh cho cội nguồn Việt sử thì không có chỗ đứng trong bất cứ một tổ chức nào. Mặc dù lập luận bảo vệ chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến có tính hệ thống và rất chặt chẽ, không dễ gì phản biện. Nhưng không lẽ không có người đủ khả năng để phán xét những luận cứ bảo vệ cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, trong tất cả mọi thế lực học thuật trong và ngoài nước, mà họ phải sử dụng thủ đoạn để khống chế sự lan tỏa của nó? Thí dụ như việc Hội sử học Việt Nam làm ầm ĩ về một cuộc hội thảo về quan điểm của giáo sư Lê Mạnh Thát về cội nguồn Việt sử, nhưng sau đó thì im lặng mất tăm một cách rất hài. Cách giải thích hợp lý nhất là tôi xác định rằng: Sự phủ nhận Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến là một âm mưu chính trị quốc tế. Tất nhiên đó không phải là luận cứ duy nhất cho vấn đề mà tôi đặt ra. Và chính bởi âm mưu chính trị này, nên nó bị phủ nhận một cách cực đoan. Còn nếu vì tinh thần khoa học thật sự, tôn trọng chân lý thì luận điểm chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến phải có chỗ đứng trong việc phổ biến trao đổi học thuật.Hoàn toàn không có chuyện đó. Những cuộc hội thảo dự định tiến hành quy mô cho luận điểm chứng minh cội nguồn Việt sử đã không thể xảy ra. "Lý thuyết khoa học hiện đại không có tính hợp lý" là phát biểu của giáo sư vật lý lý thuyết Nguyễn Văn Trọng ở cafe Trung Nguyên. Nhưng nó chỉ không hợp lý với hệ thống luận cứ chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, nhân danh khoa học. Tôi đã nhiều lần phát biểu trên diễn đàn lyhocdongphuong rằng: Nếu tôi phát hiện việc phủ nhận cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến là một vấn đề chính trị thì tôi sẽ ngưng chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Tuy nhiên, trước khi tôi ngưng viết tiếp tục - và sự tồn tại của diễn đàn lyhocdongphuong chỉ còn là hình thức - thì tôi cũng cần cảnh báo vì lương tâm của tôi rằng: Sẽ không bao giờ có tính chính danh cho bất cứ một thế lực chính trị nào, nếu phủ nhận chân lý. Tất nhiên nó sẽ là tiền đề cho một thế giới loạn cào cào. PS: Tôi vẫn hy vọng một cuộc hội thảo quy mô về cội nguồn Việt sử với sự tham gia của "hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học quốc tế", nếu có ai đó đủ khả năng chỉ ra sai lầm mang tính học thuật nhân danh khoa học trong hệ thống luận điểm của tôi chứng minh cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến và là cội nguồn đích thực của văn minh phương Đông. Tôi hy vọng rằng: Nếu nền văn minh này còn tiếp tục phát triển thì điều này sẽ phải xảy ra. Cho dù sau khi tôi đã chết và sau cả "canh bạc cuối cùng". 4 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 17 Tháng 5, 2015 NGUYỄN TRƯỜNG TỘ, TRƯƠNG VĨNH KÝ và A. DE RHODES Bài Phỏng Vấn Ông Bùi Kha của đài BBC LUÂN ĐÔN, ÔNG NGUYỄN GIANG thực hiện ngày 22.10.2002 http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha02a_NTT.php VÀI LỜI MỞ ĐẦU Mấy năm gần đây, một số người viết sử có quan niệm là lịch sử cần phải được thấy là chứ không phải là lịch sử cho thấy là. Từ ý nghĩ đó nên năm 1992, Trung Tâm Hán Nôm thuộc viện Khoa Học Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo về Nguyễn Trường Tộ, có nhiều bài tham luận trong số 47 bài, viết với chiều hướng lịch sử cần phải được thấy là, in trong tập kỷ yếu Nguyễn Trường Tộ Với Vấn Đề Canh Tân Đất Nước. Và ông Chương Thâu, giáo sư viện Sử-học Hà Nội, trong bài viết Từ Một Câu Chữ Của Alexandre de Rhodes Đến Các Dẫn Dụng Khác Nhau đăng ở Nguyệt San Công Giáo tại Việt Nam và cũng được in lại trong Nguyệt San Hiệp Nhấtsố 43, Giáo Phận Orange County, California, Hoa Kỳ tháng 7. 1996. Qua bài viết này, chúng ta thấy ông Chương Thâu đồng ý với Linh Mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên trong việc cố tình dịch cụm từ plusieusr soldats là mấy chiến sĩ. Đã thế, còn chú thích đó là chiến sĩ Phúc Âm tức là các nhà truyền giáo, chứ không phải lính chiến, tức là mấy người cầm súng đánh giặc. Đúng ra, thì chữ quelque mới có nghĩa là mấy hay một vài, còn chữ plusieurs có nghĩa là nhiều. Và chữ soldats có nghĩa là binh lính hay lính chiến, còn chữ missionnaires mới có nghĩa là lính thừa sai hay là các nhà truyền giáo. Sở dĩ hai ông Chương Thâu và Linh Mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch ép giá như vậy là để che đậy cái tội vận động thực dân Pháp vào đánh chiếm nước ta của Linh Mục A. de Rhodes và cũng để vận động chính phủ Việt-Nam làm tượng đài kỷ niệm tại Hà-Nội và đặt tên đường tại thành phố Hồ Chí Minh để vinh danh kẻ tội đồ của dân tộc Việt thay vì lên án kẻ đội lốt tôn giáo nầy. Nhận thấy cách đặt vấn đề, viết sai lầm có hậu ý và vô trách nhiệm đến thế nên tôi đã viết bài để biện chính với tựa đề Góp Ý Với Giáo Sư Chương Thâu Về Vai Trò Của Linh-Mục A. De Rhodes và Nguồn Gốc Chữ Quốc Ngữ, đăng trong tạp chí Giao Điểm số 24, 1996 tại Hoa Kỳ, và cũng được nhiều người photocopy phổ biến rộng rãi trong giới giáo chức và sinh viên tại Việt-Nam. Về sau, có người đề nghị tôi viết về Nguyễn TrườngTộ, nhưng tôi không có sử liệu. Rất may có người bạn ở Việt Nam gởi cho cuốn Nguyễn Trường Tộ Con Người và Di Thảo của Linh Mục Trương Bá Cần, tiến sĩ sử học tại Pháp. Đọc hết 58 bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ trong cuốn của Linh Mục Trương Bá Cần, tôi cảm thấy hết sức ngạc nhiên và lạ lùng là không biết tại sao tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ như vậy mà từ trước đến giờ hầu như ai cũng ca tụng ông ta. Vì thế tôi bắt đầu nghiên cứu để viết về nhân vật nầy. Tôi gọi giáo sư Trần Chung Ngọc để viết chung, và sau mấy tháng làm việc (dĩ nhiên là bán thời gian) chúng tôi hoàn thành cuốn Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người và Di Thảo, Giao Điểm xuất bản 1998. Bài viết của tôi gồm có 190 trang, cọng với bài viết của giáo sư Trần Chung Ngọc 70 trang. Sách dày 260 trang. Mấy tháng sau, ông Nguyễn Xuân Phong viết bài ca tụng cuốn sách này. Bẳng đi một thời gian khá lâu, tháng 3 năm 2001 tại Việt Nam, ông Hoàng Thanh Đạm viết cuốn Nguyễn Trường Tộ Thời Thế & Tư Duy Cách Tân. Tác giả dành một chương gồm 24 trang để phê bình sách của chúng tôi. Vì phê bình sai lầm và viết cẩu thả vô trách nhiệm, nên tôi và giáo sư Trần Chung Ngọc viết bài biện chính. Tháng 4 năm 2002, chúng tôi hoàn thành cuốn sách mới với tựa đề là Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước? Vài tháng sau khi xuất bản, một số độc giả đề nghị đổi thành Nguyễn Trường Tộ Một Sự Lừa Dối Hào Nhoáng cho đúng với tâm chất của ông. Sách được mang về Việt Nam do những người về thăm quê. Tháng 7 - 8, cuốn Nguyễn Trường Tộ Một Sự Lừa Dối Hào Nhoángvà cuốn Petrus Trương Vĩnh Ký Nhìn Từ Những Khía Cạnh và Nhận Thức Khác Nhau được in không có giấy phép tại Việt Nam. Cũng khỏang đầu tháng 8 năm 2002, tờ Sài-Gòn Giải-Phóng đăng bài Hai Cuốn Sách Lạ của ông Dạ Sinh. Trong đó tác giả không hề đề cập đến nội dung của hai cuốn sách mà chỉ cáo buộc rằng người in vi phạm luật xuất bản vì không có giấy phép, in số lượng lớn, gửi bán ở các tiệm sách tư, gửi đi các công sở và ngay cả bán dạo trên đường phố. Gần 6 giờ sáng thứ Ba ngày 22. 10. 2002, ông Nguyễn Giang, đài BBC Luân Đôn, gọi điện thoại và để lại lời nhắn trong máy trả lời (answering machine) của tôi. Ông muốn nói chuyện với tôi về cuốn sách Nguyễn Tường Tộ, sau đây là lời nhắn của ông Nguyễn Giang: Đó có phải là ông Bùi Kha không, tôi là Nguyễn Giang, ban Việt Ngữ đài BBC Luân Đôn muốn được nói chuyện với ông về cuốn sách Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước hay không đó. Số điện thoại của tôi ở Luân-Đôn là 0044 vào nước Anh , sau đó là 207 -557-2303. Rất chờ tin của ông. Cám ơn. (Đúng ra phải là 01144, BK). Mười phút sau, tôi gọi điện thoại trả lời ông Nguyễn Giang và cuộc phỏng vấn được tiến hành từ đó. Tôi được phỏng vấn đột ngột, chưa chuẩn bị tinh thần trước và hơn nữa là giọng nói của người Quảng-Trị chắc sẽ làm cho thính giả có vài đoạn khó hiểu. Được phỏng vấn bất ngờ nên có một số vấn đề lúc trả lời, cá nhân tôi cũng cảm thấy chưa được thỏa mãn. Dưới đây, qua mạng lưới âm thanh Internet, chúng tôi ghi lại cuộc phỏng vấn của ông Nguyễn Giang đài BBC Luân-Đôn: 1. BBC: Thưa quí vị thính giả, Nguyễn Trường Tộ là một nhân vật lịch sử Việt-nam được công nhận rộng rãi trong và ngoài nước (qua nhiều thế hệ)* như là một người suốt đời kêu gọi canh tân xứ sở khi nhà nước phong kiến Việt-Nam triều Nguyễn đối mặt với cuộc xâm lăng của người Pháp trong thế kỷ thứ 19. Nhưng trong một cuốn sách ra năm nay ông Bùi Kha và ông Trần Chung Ngọc tại Hoa Kỳ đã cho rằng Nguyễn Trường Tộ không yêu nước như nhiều người vẫn tưởng. Trong cuộc phỏng vấn hằng tuần hôm nay mời quí vị nghe cuộc trò chuyện của Nguyễn Giang với ông Bùi Kha. BBC: Trong chương trình phỏng vấn hàng tuần của ban Việt Ngữ đài BBC Luân Đôn tuần này do Nguyễn Giang phụ trách, tôi xin mời quí vị cùng nói chuyện với ông Bùi Kha là một trong hai tác giả cuốn Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước và dấu hỏi rất lớn ở đằng sau. Ông Bùi Kha và ông Trần Chung Ngọc là những trí thức Việt Nam tham gia nhóm Giao Điểm có tư tưởng cổ vũ cho Phật Học tại Hoa Kỳ. Câu hỏi đầu tiên đến với ông Bùi Kha là rất nhiều nhà nghiên cứu Việt-Nam ở nước ngoài cũng như trong nước tại Việt-Nam hiện nay người ta đều ca tụng Nguyễn Trường Tộ và phê phán nhà Nguyễn là có tư tưởng cổ hủ không thực hiện các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch v.v. và Phạm Phú Thứ để cải cách đất nước vì thế Việt Nam mới mất nước, nhưng tại sao ông lại cho rằng Nguyễn Trường Tộ không yêu nước? Bùi Kha: Thưa anh, không phải chúng tôi cho Nguyễn Trường Tộ không yêu nước, nhưng trong lịch sử và trong sử liệu mà chúng tôi có là những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ rất mâu thuẩn. Đọc trong đó kỹ lưỡng chúng ta sẽ thấy rằng ông Nguyễn Trường Tộ nói canh tân cái nầy hay cái khác, nhưng thực ra là chiêu bài củ cà rốt để che đậy hậu ý của ông là nhằm giúp Pháp trong vấn đề đô hộ Việt Nam. Nói rõ hơn, nếu đọc phớt qua thì thấy Nguyễn Trường Tộ đề nghị canh tân cái này, cải cách thứ khác và dùng chữ canh tân để đánh lừa dư luận nhưng hậu ý của ông là chỉ muốn giúp đỡ cho Pháp mà thôi. Nếu ai đọc kỹ lưỡng về Nguyễn Trường Tộ thì sẽ thấy tất cả 58 bản điều trần, tôi gọi là bản chiêu dụ, Nguyễn Trường Tộ nhắm vào hai mục đích chính. Thứ nhất là làm thế nào, vận động thế nào để tất cả quân và dân Việt Nam (nên hòa và hợp tác) đừng bao giờ dùng vũ lực đối với thực dân Pháp. Thứ hai là qua những mánh lưới chính trị lươn lẹo, ông đề nghị người này người khác vào trong vấn đề canh tân đất nước, vào làm việc trong các trại tế bần, nhưng đó là vỏ bọc bên ngoài, còn thực chất là ông ta chỉ muốn (gài người vào) để giúp Pháp mà thôi. BBC: Vâng, nhưng ông nghĩ thế nào chẳng hạn như liên tục trong 8 năm liền từ 1863-1871, Nguyễn Tường Tộ gửi lên triều đình Huế 58 bản điều-trần chẳng hạn, có bản điều trần viết rằng, theo cuốn Tư Tưởng Canh Tân Đất Nước Dưới Triều Nguyễn xuất bản tại Việt Nam trong thời gian qua, ông viết rằng nước chưa giàu sao không đặt kế hoạch để giàu, binh chưa mạnh sao không lo cho võ bị để mạnh v.v. tức là ông cũng nhắc đến cái chuyện là tăng cường võ bị hay là như Việt-Nam nói bây giờ tức là tăng cường cái nội lực để chống lại âm mưu xâm chiếm của thực dân Pháp thời đó, thì tại sao ông cho rằng cái quan điểm chẳng hạn như nâng cao võ bị của Việt-Nam , nâng cao giáo dục cho dân chúng lại là một âm mưu nào đó? BÙI KHA: Thưa ông, ông ta nói nâng cao giáo dục hay canh tân đất nước, ông ta chỉ nói vậy mà thôi, chứ ông không hề có chủ tâm như vậy. Nếu đọc những bản điều trần khác thì thấy chúng mâu thuẩn. Vì năm 1863 (trong bài Thiên Hạ Đại Thế Luận) ông đã nói rằng việc Pháp đánh chiếm Việt-Nam là do Thượng-Đế an bài như vậy rồi chúng ta không thể cưỡng được, và nếu chống lại họ thì cũng giống như châu chấu lay trụ đá mà thôi. Và ông khuyên nên cho quân lính nghỉ ngơi. Khi đề nghị cho quân lính nghỉ ngơi (để người Pháp giữ bờ cỏi cho mình như trong rừng có hổ báo thì chồn cáo không giám bén mảng đến) thì canh tân võ bị như thế nào và canh tân để làm gì? Trong (đề nghị) canh tân võ bị ông cũng không có cái sáng kiến nào cả, ông cóp nhặt ý trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp, chứ ngoài ra cũng không có một phương pháp nào khả dĩ theo đường lối võ bị mới để canh tân xứ sở, để làm cho dân giàu nước mạnh. Trong lúc đề nghị dân giàu nước mạnh, ông cũng chỉ xử dụng danh từ suông vậy mà thôi, chứ ngoài ra cũng không có chương trình kế họach nào hết. Thí dụ như ngay việc đề nghị mở trường kỹ thuật ở Huế, ông và ông Giám-mục Gauthier được vua Tự Đức nhờ đi Pháp mua dụng cụ máy móc đem về và mời thầy giáo về để mở trường kỹ thuật. Nhưng 4 ông thầy giáo được mang về, 3 ông (linh-mục) thì không có kiến thức, còn ông Ca-Xanh đòi lương quá cao không thể dùng được. Thành ra những điều ông Nguyễn Trường Tộ nói một đường nhưng làm một ngả, cái hậu ý của ông đàng sau đó là khác. BBC: Đó là những suy diễn của quí vị chứ còn ngay trong những bản điều trần chẳng hạn ông đề nghị chất đá cho nhiều để dành khi hữu sự hay là chế tạo các loại vũ khí mới lạ mới đối phó được với giặc chẳng hạn, rồi quân sự thông thường các chiến tập công khai để dân chúng học tập v.v. Hay những đề nghị xây dựng công sự bằng gạch đá v. v. thì những cái đó là rõ ràng để bảo vệ đất nước chứ hả? BÙI KHA: Thưa nếu chỉ trích đoạn đó không thôi thì thấy một số ý kiến của ông như có vẻ đúng. Thực tế ông nói như vậy nhưng không làm như vậy. Thí dụ như ban nảy tôi đưa thí dụ là khi mở trường Kỹ Thuật ở Huế ông mời 4 ông giáo sư về, rồi viết tờ trình lên vua Tự Đức rằng ông nầy có kiến thức nầy, ông kia có kiến thức kia, ông nọ có kiến thức nọ. Nhưng theo tài liệu của Bộ Truyền Giáo thì 3 ông (linh-mục) mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị trong danh sách thì chỉ có bằng cử-nhân văn chương mà thôi chứ không có kiến thức về khoa học. Ông nói thì có vẻ hợp lý nhưng cái hợp lý đó với hậu ý khác. Như khi ông đề nghị mỗi tỉnh mở một viện dục anh và trại tế bần để giúp đỡ những người nghèo khổ, giúp đỡ những em mồ côi là những đề nghị đúng và hay. Nhưng lúc ông có dụng ý để Giám Mục tình báo Gauthier bổ nhiệm mỗi tỉnh một ông linh mục hay giám mục để coi sóc các trại đó là những đề nghị tai hại. Vì như Giám-mục Puginier đã cho biết Nếu không có giáo-sĩ và giáo dân thì người Pháp cũng giống như cua bị bẻ gãy hết càng. Do đó, việc Nguyễn Trường Tộ đề nghị mở viện dục anh và trại tế-bần là có hậu ý để tạo một mạng lưới gián điệp (gồm linh mục và giám mục) bủa khắp cả nước Việt-nam. Đó cũng là hành động giúp CUA (Pháp) có thêm càng để dễ thôn tính nước ta. Cho nên điều mà ông nói mới nghe thì có vẻ như hợp lý nhưng thực hành thì hoàn toàn sai và tai hại. BBC: Quí vị đang nghe trên mục phỏng vấn hằng tuần của ban Việt-Ngữ đài BBC Luân Đôn tuần nầy do Nguyễn Giang phụ trách, tôi đang nói chuyện với ông Bùi Kha từ Hoa-Kỳ, một người có quan điểm phê phán Nguyễn Trường Tộ, và tiếp tục nói chuyện với ông và xin hỏi ông là ông có nói Nguyễn Trường Tộ thực ra là có cái ý xấu tức là phục vụ người Pháp, nhưng thử hỏi rằng nếu trong cái giả sử là như vậy thì phải chăng là tất cả các bản điều trần của ông đều sai trái và không có một ý tưởng gì mới cho canh tân Việt Nam, và một mặt khác thì phải chăng chúng ta nên hiểu rằng Nguyễn Trường Tộ chỉ là người đưa lên những đề nghị cho triều đình nhà Nguyễn thời đó, chứ ông ta đâu phải là người có toàn quyền thực hiện? BÙI KHA: Có phần đúng như vậy thưa anh, như trong bài viết cuốn Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước? Và trước đây, 1998, tôi có viết với ông Trần Chung Ngọc cuốn Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người và Di Thảo, chúng tôi cũng có nhắc lại rằng một số (rất ít) bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ nếu áp dụng thì có thể thực hiện được, rất tốt. Thí dụ như cải cách võ bị, khi ông nói rằng lính đi đánh giặc nhưng không đủ lương thực, tiền lương không đủ để ăn làm sao đánh giặc được. Trong lúc các ông tướng, sau khi đánh giặc về, họ lo ăn chơi không chăm sóc binh lính làm sao lính có thể hy sinh tánh mạng đối với đất nước được. Và nhà vua không trọng đãi họ, làm sao họ có thể hy sinh tánh mạng để bảo vệ tổ quốc? Nói như vậy thì đúng. Và trong bài đề nghị Cải Cách Phong Tục Nguyễn Trường Tộ rất đúng. Nhưng chỉ có một vài bài và vài đề nghị nhỏ như vậy mà thôi, chứ còn toàn bộ 58 bản Điều-trần ông nói thế nầy nhưng với dụng tâm khác mà chúng tôi có vạch rõ trong sách. Ba thí dụ sau đây tôi có trình bày lúc trả lời phỏng vấn của ông Nguyễn Giang, nhưng có lẽ vì thời lượng của đài có giới hạn nên không thấy có 3 dẫn chứng nầy trong các lần phát thanh về Việt Nam. Tôi xin nêu ra đây để làm rõ thêm tâm chất của Nguyễn Trường Tộ. Thí dụ 1: Năm 1867 Đô-Đốc La Grandière lạm dụng uy quyền chiếm thêm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ mà không được sự đồng ý của chính phủ ông. Vua Tự Đức dự định cử phái bộ đi thương lượng thẳng với chính phủ Pháp để đòi lại, thì Nguyễn Trường Tộ, ngày 7.4.1868, viết kiến nghị gởi lên triều đình khuyên nên Bải Bỏ Việc Cử Phái Bộ Đi Pháp nên tính kế lâu dài, dần nuôi dưỡng sức ta, dần đi giao-thiệp...Mấy cụm từ nên tính kế lâu dài, dần nuôi dưỡng sức ta, dần đi giao thiệp ai cũng tưởng ông có lòng đối với đất nước, nhưng thực ra là sợ Pháp có thể trả lại 3 tỉnh vừa chiếm, và cũng để gỡ rối cho La Grandiere đang có thể bị chính phủ ông trừng trị vì chiếm 3 tỉnh miền Tây mà không được chính phủ ông đồng thuận trước. Thí dụ 2: Tháng 9 năm 1870 Pháp thua Phổ, chính phủ bị giải tán, vua Louis Bonaparte bị tù. Đó là cơ hội ngàn năm một thuở để Việt-Nam dùng vũ lực đuổi thực dân Pháp về nước, thì Nguyễn Trường Tộ viết bài Kế Hoạch Thu Hồi Sáu Tỉnh trong đó ông khuyên nên dùng phương pháp ngọai giao thay vì vũ lực để đòi lại các tỉnh đã bị Pháp chiếm. Thí dụ 3: Nhưng có lẽ vì thấy phi lý nên 8 ngày sau (9. 2. 1871) ông viết bài Bổ Túc Kế Hoạch Đánh Úp Gia-Định. Vì tự ái dân tộc và nhục vì bị trị nên lúc nghe mấy chữ Kế Hoạch Đánh Úp dân Việt Nam ai cũng mừng cũng hãnh diện và cứ thế mà biết bao người qua nhiều thế hệ đã ca tụng ông ta. Nhưng Nguyễn Trường Tộ chỉ dùng cụm từ Kế Hoạch Đánh Úp nghe cho đã lỗ tai vậy thôi chứ ông không có ý đánh, mà với hậu ý khác. Vì nếu đánh bây giờ thì sợ Pháp bị thua nên ông khuyên phải 2 năm sau. Lịch sử cho thấy nếu đánh ngay thì Việt Nam thắng còn 2 năm sau chắc chắn thua. Tâm chất dối trá của Nguyễn Trường Tộ hầu hết là như thế cả; nói một đường làm một nẻo và tùy theo tình hình quân sự của Pháp mà viết kiến nghị, có hậu ý, gởi cho triều-đình vua Tự Đức. BBC: Và giả thử xin được hỏi ông Bùi Kha một câu có tính chất hoàn toàn lý thuyết là giả thử như triều đình nhà Nguyễn hay và những người lãnh đạo thời đó ở Việt Nam bắt chước Nhật Bản thực hiện toàn bộ những điều trần của Nguyễn Trường Tộ thì đất nước Việt Nam sẽ đi đến đâu? BÙI KHA: Nếu Việt Nam thực hiện cải cách như Nhật Bản (không phải như NTT*) thì tôi nghĩ rằng nước Việt Nam sẽ khá giàu mạnh, nhưng có điều chắc chắn rằng ông Gauthier là thầy của Nguyễn Trường Tộ và ông Nguyễn Trường Tộ giao dịch sống chung với ông gián điệp tình báo nầy trên 10 năm như tôi đã chứng minh bằng các tài liệu mật trong sách. Ôâng Gauthier lại là người muốn biến đổi xứ Bắc-Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ và sau đó sẽ biến Việt Nam thành một nước chư hầu nhỏ của Pháp. Cho nên nếu Việt Nam canh tân thì chính ông Nguyễn Trường Tộ và ông Gauthier là hai người sẽ đứng ra cản ngăn và phá phách trước tiên, và không bao giờ có thể canh tân được. Nêu ra điều đó chúng ta cần thấy thêm rằng sau ngày 1.9.1858 ông Nguyễn Trường Tộ với Giám Mục tình báo Gauthier và 6 người khác ra tại cữa Mành Sơn Đà-Nẵng và tại đó có các linh mục giám-mục người Pháp có mặt sẵn, Giám-mục Pellerin, người đứng đầu phái bộ, đã cổ động tất cả những người có mặt làm reo Để Pháp đánh Huế cho chóng dứt điểm. Trong những người làm reo đó có ông Nguyễn Trường Tộ. Về sau ông Nguyễn Trường Tộ sợ nên trốn đi Hồng Kông. Từ Hồng Kông, năm 1861 Nguyễn Trường Tộ về lại Sài-gòn, theo lời yêu cầu của ông Charner, để mở rộng vùng chiếm đóng. Cho nên có thể nói rằng nếu Việt Nam thời nhà Nguyễn bắt chước Nhật Bản để canh tân thì chính Nguyễn Trường Tộ và Gauthier là những người sẽ phá phách trước tiên. BBC: Không, nhưng giả sử ta bỏ ông Nguyễn Trường Tộ sang một bên, nhưng theo cái quan điểm của những nhà gọi là có tư tưởng canh tân thời đó kể cả Phạm Phú Thứ sau chuyến đi gọi là Sứ Đi Tây hay là của Nguyễn Lộ Trạch về sau nầy, giả sử không nói đến các nhân vật đó nhưng nếu triều-đình nhà Nguyễn thực hiện tất cả chính sách canh tân đó thì liệu Việt-Nam có thể trở thành giàu mạnh và không bị lệ thuộc nước Pháp không? BÙI KHA: Tôi nghĩ nếu Việt-Nam làm như vậy thì có lệ thuộc nước Pháp cũng có thể thoát ra khỏi được nếu giàu mạnh như Nhật-Bản. Nhưng rất tiếc, triều đình nhà Nguyễn thời bấy giờ cũng bị thù trong giặc ngoài. Trong nước thì có các giáo sĩ và giáo-dân chỗ nầy chỗ khác họ đã chống lại triều đình rồi. Cho nên cũng khó lòng canh tân giả sử triều đình có chương trình để canh tân, vì những con nội trùng trong đất nước khó lòng dẹp yên. Nhưng lúc đó tôi thấy rằng triều đình nhà Nguyễn về phương diện tư tưởng canh tân xứ sở thì các vua quan, nhất là vua Tự Đức, có lòng đối với đất nước, nhưng cũng chưa có chương trình khả dĩ có thể gọi là canh tân, chưa có phương pháp gì cả. Có thể nói là mơ hồ, chỉ lo để chống ngoại xâm và bảo vệ dòng tộc nhiều hơn là có một chương trình canh tân, nếu thật sự có canh tân thì đất nước Việt Nam sẽ khá. BBC: Nhưng mà nếu giả sử là chẳng hạn như nhìn lại một số, đây chúng ta đang nói chuyện với nhau trong cuộc phỏng vấn hằng tuần hôm nay của đài BBC Luân Đôn, tất cả chúng ta nói chuyện chỉ là giả thuyết và giả tưởng ở chỗ là sự việc xẩy ra là nước Việt Nam sau thời Tự Đức thì mất nước và bị nước Pháp đô hộ nhiều năm và sau đó thì trải qua hai ba cuộc chiến khủng khiếp của thế kỷ 20 và đến bây giờ thì đất nước cũng đang ở một giai đoạn đòi hỏi phải canh tân, thì bài học từ thời Tự-Đức mà ông và các cọng sự của ông nghiên cứu trong lúc phê phán Nguyễn Trường Tộ thì cái bài học rút ra cho thời Tự Đức đó là gì? BÙI KHA: Bài học rút ra cho thời Tự Đức là luôn luôn nhà cầm quyền phải nhìn cái hướng đi lên của thế giới và sự phát triển của các nước đã đi qua để xét lại đất nước mình có những điều nào còn tụt hậu, điều nào vẫn còn kém thì mình phải cố gắng phát triển nền kinh tế của nước nhà. Rất buồn, thực tế hiện thời nạn tham nhũng đã đục khoét đất nước Việt-Nam hết sức nguy hiểm như anh thấy. Nạn Năm Cam, tôi nghĩ rằng vốn liếng của ông ta nhiều lắm là 4 đến 5 chục triệu đô la nhưng ông có thể mua đến thứ trưởng, tổng giám đốc, mua nhân viên các bộ, các ngành. Nếu nạn tham nhũng ở Việt Nam không được trừng trị đích đáng và chấm dứt, thì có thể người nước ngoài họ bỏ ra vài trăm triệu đô la là có thể mua hết. Đó là điều nguy hiểm, tôi nghĩ rằng Việt-Nam trong lúc đang trên đà canh tân đổi mới để làm cho dân giàu nước mạnh thì một trong những vấn nạn ưu tiên là chính phủ Việt-Nam cần trừng trị đích đáng thành phần hối lộ tham nhũng. BBC: Quí vị đang nghe trên mục phỏng vấn hằng tuần của ban Việt Ngữ đài BBC Luân Đôn tuần nầy do Nguyễn Giang phụ trách, tôi đang nói chuyện với ông Bùi Kha. Trở lại với cái thời Tự-Đức giả sử như các ông vua triều Nguyễn hồi đó vất bỏ cái ý thức hệ Nho Giáo mà nhiều người chính ngay ở trong nước đã gọi là cỗ hủ, tức là vất bỏ cái gánh nặng ý thức hệ đó để tự mình Tây Phương hóa đi hay là mình giống Nhật Bản nghĩa là tự mình hiện đại hóa thì phải chăng mình có cái cơ hội nào đó dù phải trả một cái giá nhất định về mặt bản sắc nhưng mà vẫn có thể trở thành một cường quốc trong khu vực? BÙI KHA: Thưa anh, tôi đồng ý quan điểm của anh như thế. Vì nếu Việt Nam bỏ đi những cái cổ hủ của Nho Giáo, dĩ nhiên trong giáo lý của Nho Giáo, trong ý thức hệ của Nho-Giáo cũng có một số vấn đề đúng chúng ta nên giữ lại. Còn những điều sai như tinh thần trọng nam khinh nữ chẳng hạn, hay thí dụ như vua bảo thần chết thì thần phải chết. Đó là quan niệm xưa, sai lầm. Nếu bỏ những cái cỗ hủ và bắt chước những điều tốt đẹp của Tây Phương thì Việt Nam sẽ khá. Như Nhật Bản, họ cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều của Nho Giáo, nhưng họ biết gạn lọc, lấy cái hay cái tốt, bỏ cái dở và theo phương pháp Âu hoá của Tây Phương, dựa trên khoa học kỹ thuật để canh tân xứ sở, tôi nghĩ Việt-Nam mặc dầu có đổi cái giá nào đó, nhưng sau cái giá đó mình có thể vượt lên, có thể tự cường và không bị ảnh hưởng, không bị ngoại quốc khống chế hoặc áp đặt những chính sách của họ lên trên đất nước mình. BBC: Xin hỏi ông một câu có liên quan đến sở thích hay những cái tại sao ông lại quan tâm nghiên cứu nhân vật Nguyễn Trường Tộ ? BÙI KHA: Thưa, trước đó tôi có viết bài để góp ý với giáo-sư Chương Thâu về Alexandre de Rhodes và chữ quốc ngữ. Bài viết đó được rất nhiều độc giả thích cách đặt vấn đề và phương pháp nghiên cứu của tôi về chữ quốc ngữ và Linh-mục A. de Rhodes (Rốt). Sau đó có nhiều người đề nghị tôi viết về Nguyễn Trường Tộ. Tôi kiếm tài liệu để viết, và nếu tôi không lầm thì năm 1992, Trung tâm Hán-Nôm thuộc viện Khoa-Học Xã-Hội tại thành phố Hồ Chí Minh có tổ chức hội thảo về Nguyễn Trường Tộ, qui tụ khoảng 5 hoặc 6 trăm người (nếu tôi không lầm con số). Một tập kỷ yếu được ra đời từ cuộc hội thảo gồm có 47 bài. Trong đó gần như hoàn toàn đều ca tụng Nguyễn Trường Tộ. Có người đề nghị tôi viết về Nguyễn Trường Tộ nhưng tôi không thể viết được. Vì nếu ca tụng thì tôi không thể ca tụng hơn người khác, mà nếu phản bác thì tôi không có sử liệu. Nhưng về sau một người bạn ở Việt Nam mua cho tôi cuốn Nguyễn Trường Tộ Con Người Và Di Thảo tác giả là tiến sĩ sử học Linh-mục Trương Bá Cần. Lúc đọc hết 58 bản Điều-trần của Nguyễn Trường Tộ in trong sách đó, tôi thấy hết sức mâu thuẩn và ngạc nhiên là không biết tại sao từ trước đến giờ ai cũng ca tụng ông ta. Từ đó tôi tò mò nghiên cứu và viết về Nguyễn Trường Tộ trong mấy tháng trời xong cuốn Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người Và Di Thảo in năm 1998 (như đã nói ở trên). Năm rồi có ông Hoàng Thanh Đạm viết phê bình cuốn sách của chúng tôi. Vì thế, chúng tôi nghiên cứu thêm để trả lời ông Hoàng Thanh Đạm cuốn sách mà anh đang có trong tay và phỏng vấn chúng tôi ngày hôm nay. Đó là lý do mà chúng tôi muốn rằng một số các nhân vật tại Việt-Nam được vinh danh hoặc bị chôn vùi cần được xét lại. Vì bây giờ nhiều tài liệu mật được mở cho quần chúng xem thì chúng ta cần nghiên cứu trở lại để vấn đề vinh danh hay hạ nhục người nào cho được công bằng. Đó là lý do mà chúng tôi muốn làm, và thấy rằng những cuốn sử Việt-Nam nên chỉnh đốn lại nhiều lắm nhất là những cuốn sử viết về thời Pháp thuộc. BBC: Đó là ông Bùi Kha trả lời phỏng vấn của Nguyễn Giang. Tuần tới mời quí vị nghe Nguyễn Giang hỏi ông về những nhân vật như Alexandre de Rhodes hay Trương Vĩnh Ký mà ông (Bùi Kha) cho là cần được làm rõ ràng hơn trong việc vinh danh hay lên án. Trên đây là phần đầu của cuộc phỏng vấn được phát thanh về Việt-Nam lúc 6 giờ 30 tối thứ Bảy, ngày 26.10.2002. Phần thứ hai được phát thanh về Việt-Nam cũng vào giờ nầy tối thứ Bảy, ngày 2. 11. 2002. 2. BBC: Thưa quí vị, phần 2 và cũng là phần cuối của cuộc trò chuyện với ông Bùi Kha từ Hoa Kỳ đồng tác giả một cuốn sách phê phán Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Giang, ban Việt-Ngữ đài BBC Luân-Đôn, hỏi vì sao ông không chấp nhận chuyện một số nhân vật lịch sử như Nguyễn Trường Tộ, và Trương Vĩnh Ký được vinh danh trong nước. Mời quí vị đón nghe. BBC: Một trong những quan điểm hiện nay rất phổ biến tại Việt-Nam là có rất nhiều cuốn sách cũng như những nhân vật như Trương Vĩnh Ký cũng được trong nước người ta nhìn nhận lại, vậy thì ông và nhóm những người cọng sự của ông nghĩ thế nào về những nhân vật đã từng làm việc cho Pháp nhưng vẫn có những đóng góp cho văn hóa Việt-Nam trong việc canh tân ngôn ngữ cũng như khoa học kỹ thuật ? BÙI KHA: Thưa anh, những người họ làm vịêc cho Pháp hay cho ngoại quốc nhưng nếu có đầu óc canh tân xứ sở như là phát triển văn hoá dân tộc thì cần được ca tụng cả. Khi anh nhắc đến tên Trương Vĩnh Ký thì tôi nhớ có viết bài về ông ta. Về tư tưởng chính trị của Trương Vĩnh Ký thì hầu như đến lúc nầy không ai dám bàn cãi nữa. Vì ông là người phản quốc theo Pháp rồi chẳng cần nói thêm. Nhưng về phương diện văn hóa, có người châm chế cho Trương Vĩnh Ký và nói rằng ông có soạn thảo, dịch thuật và biên chép trên 100 đầu sách, và những sách đó là giúp ích cho nền văn hoá nước nhà thì tôi nghĩ vấn đề đó cần được đặt lại. Vì trong những bài viết và thư mà Trương Vĩnh Ký gởi cho Pháp có một bức thư nói như thế nầy: Tất cả những tác phẩm mà tôi biên soạn từ trước đến giờ, tôi không đi ra ngoài mục đích chính yếu đã được đặt ra. Mục đích đó là nhằm biến đổi và đồng hoá dân tộc An-nam. Cho nên những cuốn sách như biên soạn tự điển, dịch truyện Kiều hoặc những cuốn sách khác của Trương Vĩnh Ký không nhằm để nâng cao dân trí người Việt-Nam nhưng nhằm để đồng hoá dân tộc ta. Do đó, lúc nói rằng Trương Vĩnh Ký có công với nền văn hóa Việt-Nam hoặc có công với dân Việt-Nam thì vấn đề nên được đặt lại. Vì mục đích những tác phẩm của Trương Vĩnh Ký là như ông ta đã nói. Còn khi chúng ta dùng những tác phẩm đó để mở mang và phát triển văn hóa thì cũng giống như lúc có tên tướng cướp vào nhà. Nó dùng khí giới để đồng hóa và dụ dỗ những người trong đó. Nhưng có người trong nhà đã xử dụng loại khí giới của nó để đánh đuổi tên tướng cướp ra. Thì thử hỏi ai là kẻ có công và người nào là có tội?* Do đó, tôi nghĩ rằng lịch sử cần nên xem xét lại cho được công bằng. Nhất là hiện nay các thư khố và văn khố được giải mật của Pháp và của Vatican, nhà nước Việt Nam, nhất là Viện Sử Học, nên có những công trình đi nghiên cứu và photocopy đem về tất cả những tư liệu viết về Việt Nam, lọc lại những cái nào dùng được, xét những cuốn sử nào từ trước đến nay viết sai lầm, và người nào trong lịch sử được vinh danh nhầm cần đặt lại, và người nào không được vinh danh hoặc đánh giá sai hoặc hạ nhục họ cần được phục hồi danh dự. Tôi nghĩ như thế lịch sử mới được công bằng. Vấn đề ông Trương Vĩnh Ký, ông Nguyễn Trường Tộ, ông (Linh-mục) Trần Lục cần phải được đặt lại cả. BBC: Vậy thì ông nghĩ thế nào về những nhân vật ở nước ngoài như là Alexandre de Rhodes mà bây giờ trong nước người ta còn thậm chí dựng tượng đài nho nhỏ ở thư viện (Hà-Nội) để vinh danh cho việc ông đóng góp vào việc phát triển chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ mặc dầu ai cũng biết rằng ông là một nhân vật Công Giáo vào Việt Nam với mục tiêu là đồng hóa dân Việt-Nam ? (Câu hỏi nầy được lấy từ Internet âm thanh có hơi khác so với câu hỏi nguyên thủy, BK). BÙI KHA: Về ông Alexandre de Rhodes thì anh nên hiểu rõ như thế nầy: có nhiều người từ trước đến giờ viết về Alexandre de Rhodes (Đờ Rốt) thường gán cho rằng ông là người đầu tiên sáng chế chữ quốc ngữ. Nhưng thực sự chính ông Rốt không nói điều đó. Trong cuốn Tự-Điển Việt-Bồ-La, lời nói đầu, Rốt viết rất rõ là tôi đã học chữ Việt với người dân bản xứ và học với các ông cha trong hội dòng đi trước tôi. Điều đó cho thấy rằng ông Rốt không phải là người sáng chế chữ quốc ngữ, mà ông được học từ người dân bản xứ và các ông cha trong các hội dòng. Ông còn nói rằng cuốn Tự-Điển Việt-Bồ-La mà quí vị đang cầm trong tay là do ông Amaral làm cuốn Tự-Điển Việt-Bồ và ông Barbosa làm cuốn Tự-Điển Bồ-Việt còn tôi chỉ thêm phần La-Tinh vào mà thôi. Cho nên gán cho ông Rốt là người sáng chế chữ quốc ngữ và là tác giả cuốn Tự-Điển Việt-Bồ-La là hoàn toàn sai lầm. Việc thứ hai là chúng tôi thấy rằng chính phủ Việt-Nam tái vinh danh bằng cách đặt tên đường và làm tượng đài kỷ niệm ông Rốt là hoàn toàn sai lầm. Vì trong cuốn Hành-Trình Và Truyền Giáo ông Rốt nói rất rõ: Tôi nghĩ nước Pháp là nước ngoan đạo sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh lính để chinh phục cõi Phương-Đông và tại đó tôi sẽ kiếm được nhiều ông cha trong các nhà thờ mới. Với ý nghĩ đó tôi hôn chân giáo hoàng trước lúc rời La-Mã đi Pháp. Và khi đi ngang qua Lyon, ông viết rằng Tôi nghiệm thấy có Thiên Chúa quan phòng và tôi nghĩ làm thế nào để đưa tôi lọt vào Triều-đình Pháp. Tôi rất may mắn là gặp được Giám-mục Henry de Maupa, ngài cũng là Tuyên-uý của đức hoàng hậu, ngài đã giúp cho tôi rất nhiều trong cuộc hành trình nhỏ bé nầy. Cho nên ông Rốt về phương diện tư tưởng chính trị thì chính ông đã vào trong triều-đình vua Louis thứ 14 để vận động Pháp đánh chiếm Việt Nam. Nhưng lúc đó Pháp chưa sẵn sàng, và 200 năm sau thì kế hoạch, ý kiến của ông Rốt đã được Pháp thực hiện tại Việt-Nam vào năm 1858, lúc đánh Đà-Nẵng lần đầu tiên. Cho nên việc đặt tên đường cho ông Rốt tại thành phố Hồ Chí Minh và làm tượng đài kỷ niệm ngoài Hà-Nội là điều nhục quốc thể, nếu người ngoại quốc đến mà thấy như vậy, nhất là người Pháp. Dân Việt-Nam có 4 ngàn năm văn hiến, giờ đây một kẻ tội đồ của dân tộc lại được vinh danh. Tôi nghĩ nhà nước Việt-nam, nhất là Bộ Văn Hóa, Bộ Giáo-Dục cần nghiên cứu trở lại nhân vật Alexandre de Rhodes, Nguyễn Trường Tộ và Trương Vĩnh Ký để lịch sử cho được công bằng. BBC: Qúy vị đang nghe trên mục phỏng vấn hàng tuần của ban Việt Ngữ đài BBC Luân Đôn tuần nầy do Nguyễn Giang phụ trách, tôi đang nói chuyện với ông Bùi Kha. Xin thưa với ông Bùi Kha là cái quan điểm phê phán những người nào có một chút dính đến Phương Tây, hay thậm chí theo Phương-Tây theo thực dân Pháp rõ ràng, hay thực sự giúp đỡ Pháp vào đánh chiếm Việt-Nam, quan điểm phê phán nặng nề mà không nhìn thấy những đóng góp của họ thì phải chăng đó là cái quan điểm tại miền Bắc Việt Nam vào các thập niên 60 & 70 khi mà phong trào giải phóng dân tộc đang lên cao, chứ bây giờ các nhà văn hóa đang nhìn lại những điểm đóng góp của họ. Ai cũng biết ông Rốt không phải là một người dân tộc chủ nghĩa cho Việt Nam mà còn có khi ngược lại những đóng góp của ông, đúng là ông không phải là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ, nhưng ông là người phổ biến và có công cải biên nâng nó lên thành một tầng khác thì tại sao không dám dũng cảm mà nhận những gì mà người ta đem đến cho mình ? BÙI KHA: Thưa anh nói như vậy là đúng. Do đó chúng tôi mới nói rằng Bộ Văn Hóa và Viện Sử Học Việt Nam nên nghiên cứu lại là một đề nghị đúng. Nếu nói rằng ông Rốt có công trong vấn đề phát triển chữ quốc ngữ dựa trên mẫu tự La Tinh thì đúng nhưng cho rằng ông là người sáng chế chữ quốc ngữ là sai, và cái tội của ông là vận động Pháp đánh chiếm Việt-Nam. Do đó trong cuốn sách chúng tôi có nói rõ nên liệt kê những cái nào có công thì vinh danh, và cái nào có tội thì nên nói rõ. Chứ ông (Linh-Mục) Rốt trên phương diện đóng góp vào việc phát triển chữ quốc ngữ ông có công. Nhưng bên cạnh đó cũng phải nói rõ rằng ông có cái tội là vận động Pháp vào đánh chiếm Việt-Nam.* BBC: Xin tiếp tục hỏi ông một câu là trong tất cả các bài viết của ông và các cọng sự phần nhiều tôi để ý thấy một cái giòng quan điểm phê phán Công Giáo, phê phán Thiên Chúa Giáo La Mã cũng như Tòa Thánh hay là phê phán những cái gọi là âm mưu Phương Tây vào Việt Nam từ trước đến nay. Điều đó có đúng không hả? BÙI KHA: Thưa anh gán cho chúng tôi rằng phê phán Công Giáo, hay có người nói nặng hơn đó là công kích hay nói xấu Công Giáo, nói xấu Vatican. Chúng tôi nghĩ nói như vậy hơi quá đáng. Chúng tôi chỉ viết theo lịch sử mà thôi. Nếu như Vatican hay Công Giáo có những điều tốt thì chúng tôi cũng nói tốt, có những điều xấu chúng tôi cũng nói đó là xấu. Thật sự, người Công Giáo Việt Nam nhất là con chiên Việt Nam họ rất tội nghiệp. Họ nguyên là người Việt Nam yêu nước, là người chất phát thật thà, là những người đạo đức. Nhưng lúc trở thành con chiên, trở thành tín đồ của Vatican rồi thì họ có khuynh hướng chống lại đất nước mà điều đó chính các đô đốc người Pháp cũng nói rõ: Khi một người trong một vùng hay một làng nào đó trở thành người Công-giáo thì họ từ chối không chịu đóng thuế cho triều đình, họ chống lại không theo pháp luật của nhà nước... BBC: Trước khi đi vào... xin lỗi ông là ngắt lời ông, trước khi đi vào chuyện đó thì xin trở lại cái giai đoạn khi mà Công Giáo đi vào Việt Nam tại sao không nhìn vấn đề những người Việt Nam nghèo khổ, những người thậm chí một số trong giới quí tộc trong phủ chúa Trịnh có những bà chúa nọ khác có những người đi theo Công-Giáo phải chăng tại sao chúng ta không nhìn, các ông không nhìn theo quan điểm tự do tín ngưỡng thí dụ họ muốn thờ ai đấy là quyền của họ, tại sao lại bắt họ phục vụ cho một cái triều đình nhiều khi tham nhũng thối nát thậm chí đàn áp họ, tại sao họ không được quyền theo người Pháp? BÙI KHA: Tôi nghĩ câu hỏi của anh như vậy có cái đúng, nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. Như anh vừa nói có một số bà chúa, một số công chúa, một số hoàng tộc theo đạo, nhưng khi theo đạo rồi họ chỉ theo đạo và vẫn phụng sự tổ quốc và giữ gìn phong tục và nếp sống tốt đẹp của Việt Nam thì không sao cả, nhưng đã có một số người, nhiều người, khi theo đạo rồi họ bỏ vấn đề thờ cúng tổ tiên, họ sấp lưng đối với triều đình, sấp lưng đối với quốc gia. Đó mới có chuyện xẩy ra. Anh hẳn cũng đã thấy, có một số tôn giáo khác như Phật Giáo, Khổng Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, khi người trở thành tín đồ các tôn giáo nầy họ không sấp lưng đối với tổ quốc của họ, họ không chống lại triều đình. Cho nên có thể nói rằng cái lỗi là ở phía khi mà người Việt Nam trở thành tín đồ Công-Giáo, họ có cái tư tưởng coi trọng Vatican hơn là chính tổ quốc của mình. Chính điều đó, chính điểm đó cần phải được đặt thành vấn đề, cần phải phải được bàn thảo. BBC: Trong giai đoạn đất nước có nhiều cái biến chuyển, tại sao ông lại yêu cầu những người chẳng hạn như Công Giáo hay những người thuộc tôn giáo khác phải đặt quyền lợi của một triều đình, mà triều đình đó rõ ràng là hủ bại, rõ ràng là thất bại trong chuyện canh tân đất nước. Ở cái giai đoạn đó tại sao họ không được quyền hướng đến Vatican, hướng đến Paris, hay những người sau nầy hướng đến Mạc-tư-khoa là quyền của họ tại sao họ lại phải theo quan điểm rất là hạn hẹp tức là phải ủng hộ triều đình nhà Nguyễn hồi đó? BÙI KHA: Trước tiên, nếu đặt vấn đề như vậy thì mình phải hiểu rằng cái chính sách của ngoại quốc đối với đất nước mình nó nguy hiểm hơn hay tốt đẹp hơn chính sách của triều-đình đối với đất nước. Đó là chuyện thứ nhất. Hai chuyện đó rất rõ. Tôi muốn nhấn mạnh lại là chính sách của ngoại bang hay nói rõ hơn đó là chính sách của Pháp thời bấy giờ, nếu đô hộ Việt-Nam thì tôi nghĩ chính sách của Pháp tai hại hơn là chính sách của triều đình nhà Nguyễn đối với đất nước Việt Nam, trên mặt đối với tổ quốc là chuyện thứ nhất. Vấn đề thứ hai là thay vì phụ lực hay ủng hộ người Pháp để đô hộ Việt Nam, người Công-Giáo nên chống thẳng với triều đình, nói điều nầy là cổ hủ điều kia cần phải cải cách, nếu người Công Giáo làm như vậy thì họ là kẻ có công đối với đất nước. Anh cũng như tôi, tất cả những người Việt Nam nếu ai có lòng yêu nước thì đều không thể chấp nhận hành động của kẻ chạy theo giặc. BBC: Và thưa ông là ông Nguyễn Trường Tộ hồi đó với tư cách là một người công giáo mà bây giờ trong nước gọi là công giáo yêu nước. Chính ông đã đưa lên 58 bản điều trần nhưng mà triều đình thực hiện được một ít hay không thực hiện được bao nhiêu là do hoàn cảnh mà chính các nhà nghiên cứu trong nước đều biết rằng thời đó Việt Nam có muốn thực hiện cải tổ cũng hơi khó vì Pháp và những nước Phương Tây khác họ không cho phép, họ tìm cách phá. Những người Công Giáo như vậy, đưa lên những bản điều trần như vậy thì tại sao ông lại phê phán họ? BÙI KHA: Nếu tách rời một số những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ thì có thể áp dụng được. Nhưng ông Nguyễn Trường Tộ nói như vậy (canh tân) nhưng mục đích của ông là nói chuyện khác. Cho nên trong bản liệt kê Công và Tội của Nguyễn Trường Tộ tôi có liệt kê là ông có công xây được 2 nhà thờ, công chỉ huy đào Thiết Cảng, viết được một số bản điều trần (mà trong đó có vài điều) có thể áp dụng được. Nhưng cái tội của ông là như thế nầy, thế nầy... 1.- Ngày 16. 10. 1858 ông ra cửa Mành-sơn Đà-nẵng để cùng làm áp lực quân Pháp đánh Huế. 2.- Năm 1861 làm thông dịch cho Tổng Hành Dinh của Pháp để mở rộng vòng chiếm đóng tại Sai-Gòn. 3.- Cùng với tên Giám Mục gián điệp Gauthier viết 58 bản chiêu dụ để dối gạt dân Việt Nam và dối gạt triều đình vua Tự Đức nhằm giúp Pháp và Vatican. 4.- Cố ý nhận định sai tình hình để gỡ rối cho Pháp. 5.- Dối trá trong việc mở trường Kỹ Thuật ở Huế. 6.- Âm mưu bày việc đào kênh từ Hải Dương vào Huế để toàn dân nỗi loạn. 7.- Đề nghị thương hiếu với giáo hoàng để thúc đẩy tiến trình Công Giáo hoá Việt-Nam. 8.- Đề nghị dùng các tên linh-mục Việt gian vào việc canh tân đất nước, và mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ để tên tình báo Gauthier bổ nhiệm các giáo sĩ coi sóc nhằm tạo một cuộc nỗi dậy toàn cõi Việt Nam do các giáo sĩ lãnh đạo. 9.- Năm 1868, ngăn cản triều đình cử phái bộ đi Pháp đòi lại 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ. 10.- Thay vì phải đánh gấp lúc thời cơ cho phép vào cuối năm 1870 để đuổi thực dân Pháp về nước, Tộ khuyên nên đợi 2 năm sau. Xin xem thêm cuốn Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước?. Do đó chúng tôi rất công minh trong vấn đề. Nói lại là nếu lựa lọc ra một số rất ít các đề nghị của Nguyễn Trường Tộ thì có thể thực hiện được và rất hay. Nhưng rất tiếc hậu ý của Nguyễn Trường Tộ là không phải vấn đề đó. Đây tôi nói hậu ý. ... BBC: Vừa rồi là trên mục phỏng vấn hằng tuần với Nguyễn Giang và ông Bùi Kha, trước khi kết thúc chương trình, Nguyễn Hoàng xin được điểm lại vài hàng tin chính ... 3. Trên đây là hai lần phát thanh về Việt Nam của đài BBC Luân Đôn, ông Nguyễn Giang phỏng vấn ông Bùi Kha. Thứ Sáu, ngày 15.11.2002, ông nguyễn Giang và ông Nguyễn Hoàng trong ban Việt-Ngữ của đài để lại lời nhắn trong máy muốn phỏng vấn tôi về vấn đề dân miền Thượng Đê-Ga tại Việt-nam. Nhưng rất tiếc tôi không có ở nhà. Nhân tiện đây tôi kính lời cảm ơn sự hảo ý của hai ông. Vì kiếm không có tôi nên đài trích một đọan trong lần phỏng vấn trước (ngày 22. 10. 2002) để phát thanh về Việt nam vào tối Chủ Nhật, ngày 17. 11. 2002. Xin mời quí vị theo dỏi: BBC: Ông Bùi Kha, một người Việt Nam sống tại Hoa Kỳ, viết nhiều sách về lịch sử Việt Nam, trong cuộc phỏng vấn của Nguyễn Giang đài BBC, thì có một phần nỗi bật trong cuốn sách của ông nói rằng Phương-Tây xử dụng tôn giáo như là một công cụ có lợi cho họ ? BÙI KHA: Chúng tôi thấy như vậy, Phương Tây dùng tôn giáo đi trước chính trị đi sau. Đó là điều hết sức rõ. Chính những ông linh mục người Pháp cũng đã nói nếu muốn Việt-Nam trở thành nước Pháp thì trước tiên phải biến đổi người dân Việt Nam trở thành người Công Giáo trước. Điều đó quá rõ, mà chúng tôi viết là chỉ chép lại và sưu tầm những quan điểm và những lời của người ta nói ra chứ không phải là chúng tôi đặt để và gán cho nó như thế. BBC: Và ông nghĩ thế nào về chẳng hạn như quan điểm của một số người trong nước, trong giới nghiên cứu cũng như là giới truyền thông trong nước nói rằng là sự kiện những người Thượng vùng Cao nguyên Trung phần Việt Nam gọi là người Thượng theo đạo Tin Lành Đê-Ga, họ bị những nhân vật bên ngoài xúi dục thì ông nhìn vấn đề nầy như thế nào? Đây là một vấn đề rất hiện đại, rất đang nóng bỏng ở Việt Nam? BÙI KHA: Thưa vấn đề nói như vậy là có lý và có phần lớn đúng. Lúc viết về Nguyễn Trường Tộ chúng tôi có dẫn chứng ông Nicholas Tapp* là người nghiên cứu phong tục dân miền Thượng, ông (và số giáo sĩ) đề nghị rằng nếu tất cả dân miền Thượng, dân tộc thiểu số, đổi thành đạo Kitô tức là đổi thành Công Giáo và Tin Lành hết thì họ sẽ vận động cho độc lập tự trị và sẽ giàu có như Mỹ. Khi một người đến đất nước khác (hoặc một nhóm đang sống trong đó) mà muốn biến đổi một thành phần nào trong bộ phận của dân tộc để tạo những quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn thì không ai chấp nhận được. Tôi nghĩ nếu anh Giang hoặc tôi mà điều hành chính phủ thì có lẽ mình cũng không chấp nhận quan điểm đó. Nước bị chia năm xẻ bảy, một quốc gia mà bị biến thành nhiều quốc gia. Cho nên nói vấn đề tự do tôn giáo chúng ta nên tôn trọng, nhưng có lẽ chúng ta không chấp nhận những người nào có âm mưu dùng chiêu bài tôn giáo để làm hại đất nước khác. Đối với hoàn cảnh Việt Nam có một số người như ông Nicholas Tapp (và số giáo-sĩ) mà tôi vừa dẫn chứng là muốn biến những người dân miền Thượng thành quốc gia độc lập tự trị (và hứa hẹn) sẽ giàu có như Mỹ. Phi-luật-tân ở gần Việt-Nam, 80 phần trăm là Công-giáo, có giàu có hơn Việt Nam đâu? Trên 4 triệu cô gái Phi có bằng cử nhân và cao học mà đi làm những nghề không mấy trong sạch và không được xã hội chấp nhận mà họ vẫn làm, (còn Châu Mỹ La-Tinh và Phi Châu hầu như hoàn toàn Công-Giáo và Tin-Lành nhưng là những nước nghèo nhất thế giới. Còn Nhật Bản có 1% Tin Lành, Công Giáo không đáng kể, số còn lại là Phật Giáo và một ít Thần-Đạo là nước giàu thứ nhì trên thế giới. Đoạn nầy sót, không có trong Internet). BBC: Ông nghĩ thế nào về quan điểm của chính một số các nhân vật trong chính các nhóm người Thượng tại Hoa Kỳ, họ nói rằng người Việt lên chiếm đất của họ và hiện nay họ có quyền tự do tôn giáo, họ có quyền chọn tôn giáo để theo cũng như có quyền chọn những nhân vật nước ngoài, những tổ chức nước ngoài giúp đỡ họ để phát triển cái quyền tự do tôn giáo hay bảo vệ cái bản sắc dân tộc của họ? BÙI KHA: Tôi nghĩ nếu chính phủ Việt Nam có những điều bất công hoặc lấn át những người dân miền Thượng hoặc chiếm đất của họ, và nếu vấn đề đó có thực, thì chính phủ Việt-Nam nên trả lại đất đai cho dân miền Thượng, điểm thứ nhất. Điểm thứ hai, là người dân miền Thượng cũng như bất cứ một người dân Việt Nam nào, thời đại nầy là thời đại của tự do, trong đó có tự do tôn giáo. Mình có quyền theo tôn giáo nào mà mình thích, nhưng có điều nên nhớ rằng dẫu theo tôn giáo nào đi nữa thì mình sống trên đất nước nào, ăn cây nào rào cây ấy, mình nên theo tôn giáo vẫn thờ Chúa, vẫn đọc kinh, vẫn sùng kính đạo. Nhưng sống trên đất nước nào thì mình cũng phải có bổn phận của người công dân và làm tốt cho đất nước mà mình đang sinh sống. Còn mình tôn thờ Chúa hay theo tôn giáo nào không thành vấn đề miễn là mình đừng có tinh thần vọng ngoại, đừng có tinh thần như trước đây Chẳng thà mất nước không thà mất Chúa chỉ có vậy mà thôi. Một số người miền Thượng sống tại Hoa Kỳ đưa ra quan điểm nầy hay quan điểm khác tôi nghĩ họ cũng nên xét lại rằng sống trên đất nước Hoa-Kỳ thì họ cũng phải trung thành và tôn trọng luật pháp ở đây. Trên đây là bài viết từ băng cassette lấy trong Internet âm thanh thu lại 3 buổi phát thanh về Việt Nam của đài BBC Luân-Đôn. Bùi Kha trả lời phỏng vấn của ông Nguyễn Giang theo trí nhớ. Muốn được rõ hơn về ngày tháng và những trích dẫn xin độc giả tìm đọc thêm các cuốn sách về chủ đề nầy: 1.-Alexandre de Rhodes Người Đầu Tiên Vận Động Pháp Chiếm Việt-Nam Và Chữ Quốc Ngữ, 9 tác giả, Giao Điễm xuất bản năm 1998 tại Hoa Kỳ. 2.- Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người Và Di Thảo, Bùi Kha và Trần Chung Ngọc, Giao Điểm, Hoa-Kỳ, 1998. 3.- Linh Mục Trần Lục Thực Chất Con Người & Sự Nghiệp, Bùi Kha và Trần Chung Ngọc, Giao Điểm 1999. 4.- Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước?, Bùi Kha và Trần Chung Ngọc, Giao Điểm 2002. 5.- Petrus Trương Vĩnh Ký Nhìn Từ Những Khía Cạnh Và Nhận Thức Khác Nhau, 7 tác giả, Giao-Điểm 2002. Phụ lục Ca tụng và chống đối cuốn Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người Và Di Thảo của Bùi Kha và Trần Chung NgọcNguyễn Trường Tộ: thập thò sau Bức Màn Canh Tân để làm lợi cho ngoại bang (hình lấy trong báo Tuổi Trẻ 2001) Một Khám Phá Bất Ngờ Về Nguyễn Trường Tộ - Nguyễn Xuân Phong Nguyễn Trường Tộ Hôm Qua Và Hôm Nay - Thuý Nga (Báo Tuổi Trẻ) Cuốn sách viết về một con người độc đáo, một người không phải anh hùng, không là văn nhân, không từng đỗ đạt lớn, ông chỉ là một trí tuệ bị lãng quên, nhưng là một trí tuệ sáng ngời, vượt lên trên tầm thời đại VN thế kỷ 19. Một người mà phải đến năm 1908, cụ Phan Bội Châu đã nhìn thấy nơi ông vai trò của một người gieo mầm khai hóa đầu tiên ở nước ta. Một người giáo dân yêu nước mà năm 1946, Hồ Chí Minh đã lấy làm tiếc cho triều đình nhà Nguyễn khi không biết lắng nghe những sớ tấu của ông bàn việc tu chỉnh võ bị và canh tân đất nước. Con người đã chịu nhiều tiếng khen chê khi còn sống và cả khi đã chết ấy một lần nữa lại được hậu thế luận bàn. Nguyễn Trường Tộ - thời thế và tư duy cách tân (*) là tâm huyết 20 năm nghiên cứu của nhà sử học Hoàng Thanh Đạm. Từ những vấn đề nghiên cứu Nguyễn Tường Tộ trong lịch sử, tác giả đã có riêng hẳn một phần để hệ thống tư duy cách tân của nhân vật lịch sử này. Qua 58 bản di thảo, tư duy kinh tế - văn hóa - ngoại giao - quân sự - triết học đã được phân tích một cách cặn kẽ. Làm nổi bật những suy tư nóng bỏng về thời thế, những điều trần mới mẻ để dân giàu nước mạnh, những lời xin khuyến khích (cải tạo nhà ở đô thị, khuyến khích việc học tiếng nước ngoài...), những điều xin khen thưởng (cho người chế tạo đồ dùng kiểu mới tiện lợi và rẻ, cho người ra nước ngoài học hỏi giúp nước, cho người lập hội xây cầu cống, đường sá thay cho công việc nhà nước...). Mở cửa để giữ nước; Học tập bồi dưỡng nhân tài là con đường rộng lớn đi đến giàu mạnh; Học cái thực tế thì sẽ có thực dụng, học cái vụn vặt thì chỉ được cái vụn vặt; Bỏ phí một người tức là phí một phần của đất nước... đều là những câu chữ không chỉ cần cho hôm qua. Trong lời tựa mang tên Một con người của thế giới hiện đại, giáo sư Phan Ngọc nói đến một nhân cách cần thiết cho người VN ở thế kỷ 21. Nhân cách ấy hiểu rõ ý nghĩa của học vấn, học để thay đổi đất nước chứ không phải để làm quan. Nhân cách ấy có một tinh thần phê phán những cổ hủ và lạc hậu, dám nói và dám làm. Mượn tiếng tốt để làm việc xấu là người ngu. Chịu tiếng xấu để làm việc tốt là người khôn. Cuộc đời Nguyễn Trường Tộ - sản phẩm của thời thế (1830-1871) đã chịu không ít tiếng xấu như thế khi đi trước thời đại của mình. Nhưng ông vẫn là người khôn trong cách nghĩ của ông. THUÝ NGA (Báo Tuổi Trẻ 18. 5. 2001) Đánh giá lại Nguyễn Trường Tộ là một trong những vấn đế lớn và sôi nỗi hiện nay. Để việc tranh biện được minh bạch và độc giả có sẵn tư liệu đối chiếu giá trị nghiên cứu của ông Hoàng Thanh Đạm và ông Bùi Kha về Nguyễn Trường Tộ, chúng tôi xin được in lại bản phóng ảnh nguyên xi chương sách dưới đây của ông Hòang Thanh Đạm như là một tài liệu dẫn chứng. Kính mong tác giả thông cảm. Ghi Chú: Lúc lay out, nên bỏ bài của ông Hoàng Thanh Đạm dưới đây, thay vào đó là bản phóng anh nguyên xi sẽ cung cấp sau). Một cuốn sách ngược dòng công kích NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - HOÀNG THANH ĐẠM Cuốn sách này do hai bạn Việt Kiều ở Mỹ là Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc viết với nhan đề Nguyễn Trường Tộ - thực chất con người và di thảo, được nhóm Giao Điểm ở Mỹ xuất bản tháng 4 năm 1998. Sách dày 261 trang, gồm có hai luận văn dài: - Luận văn thứ nhất của Nguyễn Kha Nguyễn Trường Tộ trong chiêu bài canh tân (đề ngày 31-1-1998) dài 188 trang. - Luận văn thứ hai của Trần Chung Ngọc Nguyễn Trường Tộ từ huyền thoại đến thực chất, dài 70 trang. Luận văn của Nguyễn Kha có mở đầu bằng một thái độ tỏ ra khiêm tốn. Anh viết: Có nhiều điều khó khăn cho tôi khi viết về N.T.Tộ (để công kích ông). Khó khăn là do: Từ nhỏ N. Kha đã được thầy học giảng dạy rằng N.T.Tộ là một nhà cách tân lớn nhưng triều đình Tự Đức hẹp hòi, cố chấp, không áp dụng các đề nghị sáng suốt của ông. Thế mà 125 năm qua chưa có ai thanh minh cho triều đình Tự Đức. Hơn thế nữa đã từng có 60 tác giả viết hàng trăm bài ca ngợi nhiều hơn là phê phán N.T. Tộ, trong đó có nhiều tác giả tầm cỡ bậc thầy của anh. Mặt khác N. T.Tộ lại được Linh mục Tiến Sĩ Trương Bá Cần sưu khảo thật đầy đủ, công phu đến tận chi tiết; và gần đây cuộc hội thảo về chủ đề "Nguyễn Trường Tộ - nhà cải cách lớn của dân tộc" do viện khoa học xã hội Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức, tập hợp 47 bài "là một công trình nghiên cứu tập thể gồm nhiều vị giáo sư và nhiều học giả lỗi lạc (...) Việc đánh giá cao Nguyễn Trường Tộ được xuất phát từ tinh thần khoa học khách quan, không bị vướng mắc bởi tình cảm tôn giáo (Xem sách N.T.Tộ thực chất con người và di thảo - viết tắt là thực chất, trang 6) Tuy thấy rõ khó khăn như trên, nhưng N. Kha vẫn nói: vì gần đây có người yêu cầu anh viết sách (với tinh thần phê phán N.T.Tộ để đối đáp với số đông học giả trong nước đang ca ngợi N.T.Tộ); do đó anh phải đọc hết 58 bản điều trần N.T.Tộ và vận dụng nhiều tài liệu mật của thực dân Pháp và của Giáo hội để tìm ra luận cứ phê phán. 1. Trọng tâm phê phán của N. Kha và T. C. Ngọc đối với N. T. Tộ tập trung nhất vào vấn đề tôn giáo. N. Kha kể rằng khi người ta yêu cầu anh viết sách công kích N.T.Tộ thì ông bạn còn nói thêm rằng: N.T.Tộ là một tên Việt gian vì ông ta là người Gia Tô; nhưng anh quan niệm rằng nghiên cứu một nhân vật hay một sự kiện lịch sử thì nên vượt ra ngoài tình cảm tôn giáo... (Thực chất... tr. 7). Tuy anh thanh minh như vậy, nhưng người đọc qua hai bài luận văn trong sách Thực chất... thấy rằng Nguyễn Kha dùng tới 77 trang trong 188 trang của luận văn N.T.Tô. trong chiêu bai canh tân và Trần Chung Ngọc dành 48 trang trong 70 trang của luận văn N.T.Tộ từ huyền thoại đến thực chất để nói về các vần đề tôn giáo nhằm phê phán N.T.Tộ. Tất cả những ý kiến phê phán tôn giáo trong sách Thực chất... nhằm ba vấn đề: một là vạch ra những sai lầm về lý thuyết của đạo Gia tô; hai là vạch rõ mưu đồ của các thừa sai Gia tô muốn biến Việt Nam thành nước Chúa, tích cực giúp quân viễn chinh Pháp thôn tính Việt Nam; ba là N.T.Tộ là tín đồ Công giáo, tay chân của Giám mục Gauthier, một tên gián điệp lợi hại của xâm lược Pháp. a) Nói về sai lầm lý thuyết kinh thánh, hai tác giả nhấn vào mấy điểm: - Kinh thánh nói rằng quả đất và loài người do Thượng đế tạo dựng cách đây từ 6000 đến 10.000 năm. Nhưng khoa học chứng minh rằng quả đất có hàng triệu năm về trước, Thái dương hệ gồm Mặt trời, Mặt trăng, Trái đất... xuất hiện cách đây 5 tỷ năm. (Tr. Ch. Ngọc nói là 15 tỷ năm) (như trên, trang 48 và 225) - Kinh thánh nói nước đá có được nhờ hơi thở của Chúa Trời, Ngài chứa nước trong mây và giăng bủa các tia chớp... (Nt, trang 48) - Sách Dân số kỷ (Numbers) kể chuyện Moise cướp được nhiều bò, dê, lừa và 32 ngàn cô gái trinh, chia cho binh lính 50 phần trăm còn Đức Chúa Trời hưởng 50 phần trăm. Chính Chúa Trời chứ không phải ai khác đã trực tiếp ra lệnh phải cướp của, giết người, cưỡng dâm, rồi chính Chúa Trời cũng đòi hưởng gái trinh nữa (N, trên, tr. 5). - Kinh thánh nói ai không tôn thờ đức Chúa Trời thì phải giết sạch. Tất cả đất đai đều thuộc về Chúa Kitô. Những kẻ ngoại đạo không có quyền hưởng sở hữu một mảnh đất nào (Nt. Trang 147-149) Tr. Ch. Ngọc phân tích: Tại sao một tôn giáo đen tối như đạo Gia tô mà vẫn có thể tồn tại và phát triển, và anh giải thích: Có nhiều nguyên nhân, và một trong những nguyên nhân chính là phương cách đào tạo, trang bị giới giáo sĩ bằng loại kiến thức hạn hẹp, một chiều, nặng về phục tùng để có một địa vị, không dùng để suy luận, và nghệ thuật nắm đầu óc tín đồ bằng mọi cách, kể cả gian dối và độc tài của Giáo hội (Nt. Trang 205). Anh dùng trên 20 trang sách vạch ra nhiều sự kiện, chứng cứ, nhất là chuyện các giáo sĩ Gia tô có đầu óc suy nghĩ độc lập đã phải công phẫn, chống lại Giáo hội (Nt. Trang 189-221) và anh kết luận chính sách truyền đạo của Ca tô Rôma tuyệt đối không có mục đích huấn luyện nhân dân bản xứ thành những người yêu nước (tr.222) B) Nói về dã tâm của các thừa sai Gia tô giáo sang Việt Nam, hai tác giả có nhiều dẫn chứng trích từ các tài liệu mật của Giáo hội Gia tô, kể rõ hoạt động, ý đồ từ Alêc-xăng đờ Rốt trong thế kỷ XVIII đến các giám mục thừa sai trong thể kỷ XIX đều nhằm mục đích đồng hóa Việt Nam theo đạo Gia Tô. Để thực hiện mục đích tôn giáo, họ đã kết liên với quân xâm lược Pháp, cung cấp cho chúng bản đồ, tin tức, và được quân viễn chính Pháp che chở, hỏi ý kiến, sử dụng vào việc này việc nọ. Trong các giám mục, Gauthier là người thầy, người đỡ đầu N.T.Tộ từ năm 27 tuổi đến năm cuối đời của ông. c) Tất cả các cứ liệu phê phán giáo lý, phê phán các thừa sai Gia tô đều nhằm mục đích vạch tội N.T.Tộ. Dưới con mắt hai anh, N.T.Tộ chẳng qua là đầy tớ của Gauthier, một tên gián điệp lợi hại nhất của quân Pháp. Trần Chung Ngọc viết: Đọc những bản điều trần của N.T.Tộ tôi thấy rằng phần lớn kiến thức của ông là một loại kiến thức đặc thù Gia tô (Tr. 223). Nguyễn Kha viết: N.T.Tộ khéo léo tài tình lồng tư tưởng kinh thánh vào hầu hết di thảo, để một mặt thì hăm dọa rằng tạo vật đã định như vậy, làm sao cưỡng được, mặt khác thì an ủi chấp nhận số phận (tr.100) Anh viết thêm: Tư tưởng Gia tô giáo là chẳng thà mất nước không thà mất Vaticăng. Vì thế chúng ta mới hiểu rõ hậu ý mà N.T.tộ đề nghị Triều đình dùng giám mục vào việc canh tân (...) Tội nghiệp cho vua quan nhà Nguyễn không có cơ quan tình báo gì cả, nuôi ong tay áo, nhận giặc làm con (tr. 129) Lại viết May mà triều đình nhà Nguyễn ngu muội không chịu áp dụng những đề nghị của N.T.Tộ, còn không thì con vi trùng trong thịt sư tử đã ăn hết cả thịt lẫn xương của con sư tử từ lầu rồi. (tr.176) Với những lời phê phán gán ghép suy diễn như trên, hai anh khái quát mưu đồ phản quốc của N.T.Tộ vào một câu rất hiện đại: Với giọng văn diêu luyện, sắc sảo, chúng ta thấy N.T.Tộ đã sử dụng hai luận điểm chính để thuyết phục nhân dân Việt nam và nhất là triều đình Tự Đức. Hai luận điểm có tính chiến lược đó có thể đặt tên là củ cà rốt và cục xương (in chữ to). Chiến thuật củ cà rốt là đưa ra miếng mồi béo bở như khai thác hầm mỏ, xử dụng tài nguyên thiên nhiên để làm cho dân giàu nước mạnh. Muốn đạt được mục đích đó thì phải làm gì? Trả lời: phải hợp tác với Pháp, phải cầu khẩn Giáo hoàng La Mã giúp sức(...) Chiến thuật cục xương là đưa ra một số đề nghị không thể thực hiện được như chỉnh trang võ bị, đào kênh từ Hải Dương đến Huế v.v... để qua đó bắt triều đình nhà Nguyễn phải mất thì giờ gặm nhắm cục xương để không thể làm gì khác thêm (N.tr. trang 9-10) Các học giả yêu kính N.T.Tộ chắc không quan tâm nhiều về các lý lẽ của N.Kha và Tr.Ch.Ngọc công kích đạo lý Gia tô và chỉ vạch ý đồ xấu của các giám mục Pháp. Trong lịch sử, các tôn giáo khác nhau công kích nhau thậm tệ là chuyện bình thuờng. Có khi họ còn chém giết nhau nữa. Còn như ý đồ xấu của các giám mục Pháp ủng hộ quân viễn chinh Pháp hồi thế kỷ XIX là chuyện có thật. Có điều là hai tác giả không hiểu nổi cái nghịch cảnh của N.T.Tộ: Là một giáo dân, sống trong cảnh đạo giáo của mình bị bài xích, giáo hữu và cha cố mình bị triều đình truy bức, mà N.T.Tộ không một lời oán trách triều đình; trái lại ông nhận mình là bề tôi nước Đại Nam; một lòng một dạ bàn với triều đình tìm cách thoát khỏi thế bí trước một kẻ thù đang áp đảo mình về thế và lực. N.T.Tộ tin ở đạo giáo của mình, nhưng ông đã vượt ra ngoài sự mê lú, cuồng tín để có được tư duy khoa học. Trong bài tựa sách Đàm thiên luận ông viết: Phàm nhà khoa học thì bụng phải bao hết những việc xưa nay, mắt trông khắp trời đất, tinh thần chu du tận cõi xa xăm, tâm hồn thấu đến chỗ y huyền. Như thế mới suy xét mà tâm đắc được những gì sách vở không thể truyền hết, ý hội được những gì người xưa không thể nói hết (...) Trời tuy cao, đất tuy xa, nhưng đều có sự thực mà không chìm vào hư vô (...) Kẻ cao minh muốn nghiên cứu khoa học phải rộng lòng khảo cứu, dẹp bỏ hết những thành kiến tập quán cũ, không phân biệt giới vực, vận dụng hết thần trí, ôm vũ trụ vào lòng, nhắm mắt lại mà như thấy rõ ràng trước mắt (Xem Trương Bá Cần - sách đã dẫn - tr. 417). Nhà thiên văn học Copernic (1473-1543) từng bị Giáo hội Rôma khép tội vì phát kiến Trái Đất xoay quanh Mặt Trời, thì N.T.Tộ lại ca ngợi: có thể nói khoa học phương Tây đặt đến chỗ tinh vi là do ông mở đầu mà ra (Tr. Bá Cần - sách đã dẫn - trang 418). Ông khuyên những ai có chí với dân tộc hãy nên tìm tòi nghiên cứu trong môn khoa học (thiên văn) này để hiểu được đại cương những bí mật của Trời Đất (Tr. B. Cần, như trên, trang 422). N.T.Tộ tuy được giám mục Gôchiê đỡ đầu, nhưng phần lớn các bản điều trần của ông đều là ý kiến độc lập, và các hoạt động của ông cũng độc lập với giám mục. Ông nói rõ với triều đình giám mục có thể giúp việc gì và không thể giúp việc gì. Nhất là khi ông bàn các mưu kế đối phó với quân xâm lược thì ông dặn triều đình không thể cho giám mục biết. Như trường hợp tháng 8 - 1866 N.T.tộ nảy ra sáng kiến liên hệ với một số quan binh Pháp vốn có mâu thuẫn với Tây soái De La Grandière là kẻ đang có âm mưu lập công thôn tính thêm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Ông đề nghị với triều đình để ông cùng với Nguyễn Hoàng gấp rút vào Sài Gòn vận động họ viết thư gửi cho các Đại Học sĩ ở Tây triều gây dư luận ủng hộ ta, cương quyết không can thiệp vào nước ta. Về việc này ông này ông đã dặn triều đình dừng để cho giám mục Gauthier biết. (Xem Tr. B. Cần, sách đã dẫn, trang 189) Là một tín đồ công giáo, N.T.Tộ thành tâm nghĩ rằng có thể cùng giám mục vào việc giúp ta canh tân đất nước, như lập trường kỹ thuật, mở viện dục anh. Nhưng thâm tâm ông vẫn không muốn việc đạo giáo Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào các giám mục Tây. Cho nên hồi 1866, khi chuẩn bị sang Pháp lo toan việc chuẩn bị mở trường kỹ thuật, ông đã trao đổi ý kiến riêng với Trần Tiễn Thành và Phạm Phú Thứ rằng Các giáo sĩ Tây tuy vốn vô tâm với thế sự, nhưng trong đó cũng có một hai người không yên phần lo việc đạo giáo, chỉ mưu đồ lợi riêng, nên ông muốn nhân lúc đi Tây mà xin với Giáo hoàng hãy rút giáo sĩ Pháp về, chỉ giao cho giáo sĩ nước ta trông nom hoàn toàn việc đạo giáo (...) Như thế không phải là phản đạo mà chính là bảo vệ đạo (Tr.B.Cần, s.đ.d. trang 325). 2. Theo N. Kha và Tr.C.Ngọc thì tội lớn nhất của N.T.Tộ là tội bán nước. Hai anh vận dụng nhiều tài liệu mật trong các báo cáo của tướng soái thực dân xâm lược gửi về Pháp kêu ca nhiều nỗi khó khăn chúng gặp phải do cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam hồi 1858-1862 để xin thêm quân tiếp viện. Với những cứ liệu này N.Kha kết tội N.T.Tộ đề cao sức mạnh quân xâm lược để hù dọa triều đình và nhân dân ta, hòng thuyết phục triều đình hãy sớm đầu hàng quân Pháp (xem Thực chất... - trang 21-25). Anh còn phê phán N.T.Tộ vận dụng học thuyết Kinh Dịch: Khí đất là từ Bắc xuống Nam, mà thủy ở phương Bắc, hỏa ở phương Nam, cho nên thủy trị được hỏa. Còn vận trời là từ tây sang Đông, mà kim ở phương Tây, mộc ở phương Đông, cho nên kim diệt được mộc. Như thế mà suy ra lẽ trời thì Tàu diệt Việt, Pháp diệt Đông Dương (xem Thực chất... trang 18). Và N.Kha lên án: Theo N.T.Tộ, thuận với đạo trời thì nên dâng Tổ quốc cho Pháp, chống làm chi cho thêm họa (Như trên, trang 28). Nói về những sử liệu mật của Ng.Kha có được, chúng ta không vội nghi ngờ độ tin cậy của những câu trích dẫn được dịch ra tiếng Việt lại còn đăng tải cả nguyên văn tiếng Pháp. Nhưng theo phương pháp luận khoa học lịch sử thì không nhất thiết trích dẫn được nhiều sử liệu liệu là phản ánh đúng sự thật lịch sử. Lênin từng nói: Các hiện tượng trong đời sống xã hội là cực kỳ phức tạp, nên người ta luôn luôn có thể tìm được, muốn bao nhiêu cũng có những ví dụ hoặc tài liệu lẻ tẻ để chứng minh cho bất cứ luận điểm nào (Xem Lênin tuyển tập Q. I - nxb Sự Thật 1959, trang 410). Ở đây, muốn kết tội N.T.Tộ, Ng. Kha chỉ trích dẫn những đoạn văn tướng soái Pháp kêu ca khó khăn để xin viện trợ. Nhưng chắc chắn là các báo cáo quân sự của tướng soái Pháp phải nói nhiều về những thắng lợi chúng thu được khi đánh Đà Nẵng, chiếm thành Gia Định, phá chiến lũy Chí Hòa, chiếm các tỉnh lỵ Biên Hòa, Định tường v.v.. với lực lượng quân sự áp đảo của chúng. Vả lại những khó khăn mà tướng soái Pháp nêu lên là ở thời điểm 1858-1862, trong đoạn khởi đầu xâm lược, còn điều mà N.T.Tộ nói trong Thiên hạ đại thế luận về thế áp đảo của Pháp là ở thời điểm 1863, khi mà quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, đào kênh đắp lũy, trù tính kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển (xem Tr.B.Cần, s. đ. đ. Trang 108). Điều mà N.T.Tộ nói về sức mạnh của Pháp, sự yếu kém của ta, tuy lời lẽ có đôi chỗ có thể nói khéo hơn, nhưng đó chính là sự thật tổng quát mà lịch sử đã chứng minh. Lại bàn về quan điểm N.T.Tộ theo Kinh Dịch kim khắc mộc, thủy trị hỏa, có thể cho đó là duy tâm, là một lập luận sai lầm của ông; nhưng khách quan mà xét nghĩa lý kinh dịch thì kim khắc mộc, thủy trị hỏa, Bắc xuống Nam, Tây sang Đông là hiện tượng đã từng có và đang tồn tại. Thật ra, trong tập kỷ yếu Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tác đất nước, nhiều độc giả trong nước đã nhận thấy điều bất cập của N.T.Tộ là chưa nhìn rõ mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp, muốn thôn tính toàn bộ Việt Nam. Ông cũng chưa nhìn rõ khả năng kháng chiến của ta, chưa nghĩ đến việc phát động toàn dân kháng chiến, và cũng không có thái dộ đúng đắn đối với những cuộc nổi dậy kháng chiến của nhân dân ta lúc bấy giờ. Nhưng mọi người đều thấy rằng N.T.Tộ chỉ bàn chuyện hòa với Pháp là thượng sách chứ không hề nói chuyện đầu hàng. Qua 58 bản di thảo của N.T.Tộ, không hề có một từ, một ý nào khuyên triều đình đầu hàng. Chữ hòa của N.T.Tộ trong Thiên hạ đại thế luận chỉ có nghĩa là tạm hòa, xuất phát từ tình hình thực tế trên chiến trường là sức ta quá yếu so với quân địch. Trong lịch sử chiến tranh, khi kẻ địch đang ở thế áp đảo mà ta phải tạm hòa là điều thông thường, dễ hiểu. Với N.T.Tộ, tạm hòa là để về sau sẽ khiến kẻ hiền tài vượt biển sang các nước lớn học cách đánh trận giữ thành, học tập trí xảo của thiên hạ, giao thiệp với họ lâu dài mới biết lượng sức đo tài, biết hết tình trạng của họ. Học cho tinh vi mới sinh kỹ xảo, rất mực kỷ xảo mới mạnh, bấy giờ sẽ dưỡng uy súc nhuệ, đợi thời hành động...(Xem Tr. B. Cần, s.đ.đ tr. III). Đọc kỹ các bản di thảo, chúng ta chỉ thấy N.T.Tộ lo lắng cho đất nước, ngày đêm tính toán chuyện làm thế nào để triều đình giữ được thế làm chủ , đặt quân Pháp ở thế làm khách mà thương lượng với chúng, có nhượng bộ nhưng là để tìm ra phương sách làm cho dân giàu nước mạnh về sau. Với N.T.Tộ, dân giàu nước mạnh mới là kế sách hàng đầu để giữ nước. Qua tất cả các bản điều trần mà N.T.Tộ bàn về thời thế và sách lược đối phó với quân Pháp, chúng ta thấy rõ tinh thần yêu nước của ông có một quá trình biến chuyển ngày càng tích cực: a) Năm 1861 N.T.Tộ trao bài 'Hoa từ cho Nguyễn Bá Nghi bàn chuyện tạm hòa, ông chỉ nói ba điều: Một là khéo ngăn chặn, đừng để họ tìm cớ sinh sự làm lan rộng ra. Hai là hãy thong thả sắp đặt đợi lúc họ sơ hở. Ba là để dân thư thái củng cố sức lực - Đến năm 1862, khi Phan Thanh Gản vào Sài Gòn đàm phán, ông trao cho sứ thần họ Phan hai câu thơ: Khói lửa trời Nam rồi sẽ dứt, Phương Tây binh giáp tạm hùng thôi; tỏ ý khuyên đừng sợ hãi trước uy thế quân thù (Tr.B.Cần - sđd, tr. 123) B) Tháng 5 - 1863, viết Trần tình khải, ông thanh minh rõ thái độ của mình trước quân thù xâm lược: Đối với những hạng người cho quân Pháp là lớn mạnh mà sợ thì tôi giận ra mặt mà bảo như thế là làm tăng trưởng nhuệ khí của người ta mà tự diệt uy phong của mình. Đối với hạng người cho chúng là giàu thì tôi mắng nhiếc rằng bọn chúng chỉ là thứ ăn mày đến cửa nhà ai cũng chúc tụng. Tôi lại đem lợi hại của phương Tây xa xôi ra so sánh để thấy rằng chúng mạnh chỉ là tạm thời mà dễ yếu, còn ta tuy yếu mà dễ mạnh được lâu dài. Xin cứ hỏi nhữngngười xung quanh sẽ biết tôi nói có đúng không (...) Tôi nghĩ rằng thời kỳ khôi phục nước nhà đã có xác chứng ở bốn bể, dự tính được trong tương lai (Nt. Tr 123). Như vậy là từ năm 1861 đến 1863 ý niệm về chữ hòa trong đầu óc N.T.Tộ ngày càng rõ nét, hòa có đấu tranh, không hề có ý gì là đầu hàng. c) Từ 1864 kế sách tạm hòa của N.T.Tộ được bổ sung phong phú hơn: Tháng 3 năm đó ông được người Anh mời sang nước Anh dự Đại hội cách trí. Ông coi đây là một cơ hội tốt để tố cáo quân Pháp xâm lược, gỡ thế bí cho đất nước. Trong bản điều trần Kế hoạch duy trì hòa ước mới ông viết: Họ dòm ngó đất ta, cầu thành công trong vòng vài mươi năm, thì ta muốn trấn áp họ cũng phải biết xử khéo đừng để cho họ lan rộng ra (...) Muốn thế thì phải tìm được ngoại viện để phá mưu của họ... (Nt. Tr. 131) d) Khoảng tháng 6, tháng 7 năm 1864 N.T.tộ viết bài Lục lợi từ nêu lên 6 điều khuyên triều đình vận dụng sách lược ngoại giao với các nước như Anh, Nga v.v... để ngăn chặn, cô lập, ly gián, đề phòng, áp chế, tiến tới đánh lại quân xâm lược Pháp (N. tr. Tr 145 - 149). Đối với ý kiến này của N.T.Tộ, tác giả Ng. Kha cho là vô nghĩa, vì Anh đang có nhiều thuộc địa chưa khai thác hết, cần gì phải xen vào Việt Nam để đổ máu vô ích với Pháp (xem Thực chất tr. 83). Công bằng mà xét, N.T.Tộ đã nói lên sự thật về mâu thuẫn tiềm tàng Anh - Pháp có từ đầu thế kỷ XIX khi Anh cầm tù vua Na-pô-lê-ông Bônapác, và ngay giữa thế kỷ XIX Anh - Pháp vẫn có mâu thuẫn ở thị trường Ấn Độ, và Canada. Lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước đế quốc thì thời nào cũng là thông minh. Kiến nghị của N.T.Tộ là đầy thiện chí. đ) Đến tháng 10-1866, N.T.Tộ phát hiện tình hình mới: Một mặt xâm lược Pháp đang lúng túng với phong trào kháng chiến ở Cămpuchia do Hoàng thân Xivôtha và Pucămbô phát động nhân dân đánh đuổi vua Nôrôđôm đầu hàng quân Pháp; mặt khác nội bộ bọn quan binh Pháp và bọn quan cai trị người Pháp ở Gia Định có mâu thuẫn; còn bọn người Pháp sang Sài Gòn buôn bán, kinh doanh thì đang thua lỗ: Ở Gia Định mọi việc đều bế tắc (xem Tr. B. Cần sđđ. Tr. 201) Do đó ông phản ảnh ngay với triều đình và bàn đến Khả năng lấy lại ba tỉnh miền Đông (di thảo sôá 20). Cũng trong tháng 10 - 1866 N.T.Tộ viết Kế hoạch vận động Pháp để giữ ba tỉnh miền Tây (di thảo 21). Ông báo cho triều đình biết ý đồ của Tây soái De La Grandière muốn chiếm luôn cả ba tỉnh miền Tây Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Do đó ông bàn với triều đình nên tìm cách liên lạc thẳng với Chính phủ Pháp, khai thác mâu thuẩn giữa nhân dân Pháp, dư luận các nhân sĩ Pháp với bọn thực dân xâm lược Pháp ở Việt Nam, mặt khác tranh thủ đặt quan hệ với Aubaret, một viên quan Pháp có mâu thuẫn với De La Grandière để phá âm mưu bành trướng của Tây soái. e) Thế rồi kế hoạch nói trên được thực hiện hay không thực hiện, tháng 6 - 1867 quân Pháp tiến lên chiếm trọn cả ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Thời gian này N.T.Tộ đang có mặt ở Pháp, lo toan việc mời thầy thuê thợ, mua sắm dụng cụ, sách vở để mở trường kỹ thuật cho đất nước. Ông thấy rõ tình thế đã rất nghiêm trọng, nên tháng 11 - 1857 ông bàn với triều đình Xin gấp rút sữa đổi việc võ bị (Tr. B. Cần - sđd. Tr. 230 - 239). Đây là điều kiến nghị thứ nhất trong bản điều trần lớn Bát điều tế cấp, Nếu như trước kia ông chỉ nghĩ đến kế sách ngoại giao để giữ nước, thì giờ đây ông đã nghĩ đến việc tăng cường võ bị, phải lo toan Chế tạo vũ khí mới lạ, phải trích trữ vật liệu v.v... (Nt. Tr. 237) g) Sau khi đã mất cả 6 tỉnh Nam Kỳ, triều đình cuống quýt lo toan cử người sang Pháp xin chuộc lại, thì N.T.Tộ, trong di thảo số 36 ngày 7-4-1868, bàn với triều đình nên bãi bỏ việc cử sứ bộ đi Pháp (Nt. Tr 303), ông khuyên nên tính kế lâu dài dần nuôi dưỡng sức ta, dần đi giao thiệp, để đợi khi họ có loạn thì mới gây khó cho họ, mà khiến họ không dám muốn làm gì thì làm (Nt. Tr 307). h) Thế rồi thời thế chuyển biến: năm 1870 nổ ra chiến tranh Pháp - Phổ. Pháp thua to, vua Pháp Louis Bonaparte bị bắt làm tù binh tháng 9-1870, rồi nổ ra cách mạng Công xã Paris tháng 3-1871. N.T.Tộ thấy rõ đây là một cơ hội rất tốt, phù hợp với điều ông dự đoán cơ hợi khôi phục phải sau 10 năm (N. tr. Tr. 316). Từ tháng 2 đến tháng 5-1871 ông liên tục viết 7 bản điều trần liên quan đến kế sách khôi phục: Kế hoạch thu hồi 6 tỉnh Nam kỳ (di thảo 39) ngày 1-2-1871 Bổ túc kế hoạch đánh úp thành Gia định (di thảo 40) ngày 9-2-1871 Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lấy 6 tỉnh (di thảo 42) ngày 5-4-1871 Kế hoạch vay tiền để dùng vào việc binh (di thảo 44) ngày 10-4-1871 Tình hình chính trị nước Pháp với công xã Pari (di thảo 49) tháng 5-1871 Cần nắm vững tình hình chính trị nước Pháp (di thảo 50) cuối tháng 5-1871 Chỉnh đốn quân đội và quốc phòng (di thảo 51) ngày 19-6-1871 Những kế hoạch N.T.Tộ đề ra trong 7 bản điều trần kể trên cũng vẫn còn có một đôi điều bất cập, nhưng rất chân thành. Ông vẫn chưa bàn đến việc phát động toàn dân kháng chiến, nhưng rõ ràng là ông đã chuyển từ khuynh hướng chủ hòa sang chủ chiến ở mức độ thấp, kết hợp thủ đoạn đánh úp với các hoạt động kinh tế, ngoại giao. Cũng không phải mọi kiến nghị của ông đều hoàn toàn sáng suốt cả. Ví dụ như kế hoạch sai người đi Hồng kông gặp các khách buôn giàu xin họ cho vay tiền để mua một số đại pháo, mà lại hứa với họ ngày sau sẽ cho bán nha phiến trong cả nước không đánh thuế (N.trang 317). Vay tiền mua súng là tốt, nhưng để cho họ bán ma túy tự do lại rất nguy hiểm. Ví dụ như chủ trương đánh úp thành Gia định mà chỉ bàn chuyện khổ nhục kế, dương đông kích tây, phao tin này nọ chứ không biết thúc đẩy các cuộc nổi dậy thực sự của dân chúng để bao vây quân thù trong một cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn. Điều sáng suốt này N.T.Tộ chưa có được, cũng như các vị anh hùng chủ chiến đương thời đều chưa có được thật đầy đủ. Chỉ đến thời đại Hồ Chí Minh dân tộc ta mới có được trí tuệ hoàn chỉnh: toàn dân, toàn diện, trường kỷ kháng chiến. Tuy chưa có được sự sáng suốt toàn diện, nhưng cái tâm của N.T.Tộ là luôn luôn lo toan việc khôi phục một cách vô tư, với tinh thần tiếp cận khoa học. Chúng ta có thể phê bình điều hạn chế lịch sử của ông mà không thể phủ nhận lòng yêu nước chân thành, lao tâm khổ tứ của ông. 1. Đối với các kiến nghị dân giàu nước mạnh của N.T.Tộ thì hai anh Ng.Kha, Tr.Ch.Ngọc cũng có lời kết tội thiếu khách quan: a) Khi N.T.Tộ nói đến bốn nguồn lợi của đất nước về biển, về rừng, về đất đai và khoáng sản, thì Ng.Kha phán: Ai mà chẳng biết biển thì có cá, rừng có gỗ, đất trồng được dâu để nuôi tằm... Anh thất vọng vì N.T.Tộ đã không đề ra được một phương pháp cụ thể để có được nhiều cá, nhiều muối, nhiều gỗ quý v.v... (xem thực chất...trang 68). Đây chỉ là một lời bắt bẻ vụn vặt. Làm sao trong một bản điều trần Dụ tài tế cấp chỉ mấy trang giấy mà nói được hết phương pháp cụ thể. Ai đã đọc các bản điều trần Khai hoang từ (di thảo số 8) và bàn về chính sách nông nghiệp (di thảo số 53) thì đều thấy rõ kế sách của N.T.Tộ rất cụ thể, phát kiến của ông rất lỗi lạc. B) Khi N.T.Tộ bàn về kế sách quân sự thì Ng. Kha đối chiếu các câu văn trong Tôn Ngô binh pháp và phê phán Hầu như N.T.Tộ lấy ý trong sách này, đã vậy ý của N.T.Tộ còn kém xa (thực chất... trang 95). Tr. Ch. Ngọc cũng viết: Những đề nghị của N.T.Tộ về quân sự không có gì đặc biệt, tựu trung chỉ là những hiểu biết sơ đẳng (N.Tr. trang 257) Nếu đọc kỹ N.T.Tộ, chúng ta sẽ thấy ông đã trình bày vấn đề quân sự rất xác đáng. Chẳng những vận dụng kiến thức trong các sách binh thư xưa, mà còn bàn nhiều chuyện ngoài binh thư, thiết thực với hoàn cảnh trận địa nước nhà thời bấy giờ. Nguyên một ý lớn của ông khuyên triều đình không nên trọng văn khinh võ đã là một điều sáng tạo lớn. Ông kiến nghị hãy đem các sách binh thư xưa và nay ra xét lại, chỗ nào nghĩa lý không xác đáng, khí giới lỗi thời, kỹ thuật không hiệu quả, địa thế không cho phép, khí hậu không hợp (...) thì bỏ bớt, chỉ lựa lấy những cái hợp với ngày nay, liên quan đến tình thế nước ta, đưa ra thực nghiệm và soạn thành sách đưa ra học tập (Tr.B.Cần, sđd. Trang 233). Ông đề nghị việc xây dựng lực lượng vũ trang phải coi trọng người lính, quan tâm đào tạo cán bộ chỉ huy chuyên nghiệp v.v... Trong lịch sử Việt nam đã từng có ai bàn vấn đề quân sự thấu triệt như N.T.Tộ chưa? c) N.T.tộ kiến nghị triều đình quan tâm việc đào kênh nhằm mục đích cho ghe thuyền đi lại, giúp nhân dân đỡ tốn kém (...) dẫn nước tưới ruộng phòng hạn (N.tr.tr. 256). Bàn về địa thế Bắc kỳ, ông khuyên nên đào nhiều kênh trong các tỉnh Hải dương, Hưng Yên, Nam định, Hà nội, Ninh bình v.v... để phân tán thế nước, đề phòng lũ lụt... (N.tr.tr. 263). Ông còn đề ra một sáng kiến lớn, xuất phát từ mối lo nước ta đường biển không an toàn vì nạn cướp biển và thường bị bão.... Nhất là việc vận chuyển lương thực từ Bắc Kỳ vào Kinh đô Huế là rất thiết yếu lại rất tốn kém: Một thạch lương thực đưa được đến kinh đô đã phải hao hụt dọc đường mất năm sáu đấu, đó là chưa nói đến nhiều vụ bị chìm ghe, bị đánh cướp. Do đó ông đề nghị Xin xem xét kỹ địa thế từ Hải dương đến kinh đô, đào một con kênh lớn có thể lưu thông được cả ghe lớn ghe nhỏ thuyền quan, thuyền dân. (Nt. Tr. 280) Kiến nghị táo bạo này bị Ng.Kha phê phán là hết sức không tưởng và tai hại. Anh dẫn chứng về mọi sự tốn kém, không thể làm được vào thời điểm 130 năm trước đây và suy luận thêm: Chưa nói đến tình trạng loạn Chày vôi, chỉ mới đào hào để làm lăng tẩm cho vua mà dân chúng Kinh thành đã nổi loạn thành xây xương lính, hào đào máu dân. Nếu đào kênh như N.T.Tộ chắc chắn dân chúng cả nước sẽ nổi lên chống triều đình (Thực chất... Tr. 109). Yêu thì cái gì cũng tốt. Ghét thì cái gì cũng xấu. Đó là chuyện người đời. Trong lịch sử có bao nhiêu sáng kiến táo bạo đã từng bị phê phán. Cũng có loại sáng kiến táo bạo không thực hiện được, nhưng tư tưởng của người đề xuất thì đời sau vẫn ngợi ca. Nếu có được thái độ công bằng, chắc chắn rằng bạn Ng. Kha sẽ thấy rõ N.T.Tộ thực tâm nghĩ đến lợi ích đất nước, và có đủ trình độ để chỉ đạo việc đào kênh, như ông đã hướng dẫn đào Kênh Sắt ở Nghệ An năm 1866. Vả lại cũng cần phân biệt việc Đoàn Trưng phát động khởi nghĩa chống vua Tự Đức làm Khiêm lăng, không đồng dạng với cuộc nổi dậy chống đào kênh mà anh tưởng tượng ra. Xưa nay dân Việt Nam ta có bao giờ chống việc thủy lợi, đào kênh đắp đập lo toan đời sống con người đâu. d) N T.Tộ kiến nghị lập viện dục anh và viện tế bần thì Ng. Kha phản bác: Hoặc vô tình, hoặc cố ý, nhà thông thái N.T.Tộ đề nghị mỗi tỉnh lập một nhà nuôi trẻ do giám mục tình bào Gauthier cử ngưởi điều khiển là một kế hoạch vô cùng nguy hiểm, không những tạo thế hợp tác cho các giám mục nước ngoài mà còn trải rộng mạng lưới tình báo khắp toàn quốc cho Pháp và Vatican dễ dàng và nhanh chóng thống trị và đồng hóa dân tộc ta (thực chất... tr. 134). Trần Ch. Ngọc cũng phụ họa: Đặt giáo dục, cứu tế xã hội vào tay các giám mục là những đề nghị nguy hiểm, nếu thi hành thì Việt nam sẽ mất hẳn nền văn hóa đặc thù của mình (N. Tr. Trang 257). Nếu ta nghiên cứu lại toàn văn điều kiến nghị thứ 8 trong Bát điều tế cấp: Lập viện dục anh và trại tế bần thì sẽ thấy nhà đại trí họ Nguyễn đặt vấn đề này trên cơ sở phê phán một tình trạng lạc hậu của đất nước: Hiện nay ở Trung Quốc cũng như nước ta thường kêu gọi quyên góp lập đàn công tế, hoặc đúc tượng Phật, hoặc lập bài vị thần, hoặc đúc chuông, sửa chùa, hoặc hội họp văn chương, hoặc làm đình làm mộ (...) ai quyên góp được nhiều thì bảo là háo thiện. Những việc ấy có gì là háo thiện? Chỉ háo danh mà thôi! Ngoài đường có người đói xin miếng cơm thừa canh cặn mà còn nhẫn tâm không cho. Gần nhà có trẻ mồ côi ngồi khóc bên vách mà nỡ nhắm mắt bỏ đi (...). Tôi thấy hiện nay triều đình xuất công quỹ lập viện tế bần để nuôi người nghèo khổ, nhưng vì thừa hành không làm hết nhiệm vụ nên chỉ có danh nghĩa mà thực tế những người nghèo khổ không được giúp đỡ bao nhiêu (...) Không bằng phương Tây Hội Thánh thâu hết những người nghèo về nuôi, chữa bệnh. Người tàn tật thì có công việc tàn tật, không ai ở không (...) Nhà nước cấm tuyệt không cho ai đi ăn xin, hễ gặp là bắt ngay, sung vào công dịch. Làm được thế người nghèo có nơi nương tựa mà bọn côn đồ bất lương khó đường trốn tránh. Còn việc nuôi trẻ rất khó kiếm người, chỉ có những phụ nữ phương Tây tình nguyện vào ở trong viện với trẻ mới làm được việc và chắc chắn có hiệu quả tốt (...) Nếu triều đình cho rằng việc này nên làm thì sẽ nhờ các giám mục mời người đến mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ có kết quả ngay (Tr.B.cần, sđd, trang 257 - 276). Một kiến nghị thực tâm và thiện chí như thế bị anh Ng Kha thêm vào mấy chữ do giám mục tình báo Gauthier cử người điều khiển lập tức biến thành một âm mưu hại nước. Còn anh Ngọc thì sợ mất đặc thù văn hóa dân tộc Phải chăng đặc thù văn hóa Việt nam là không cần chăm sóc người nghèo và trẻ mồ côi? Ngày nay nước ta đang lập ra những làng SOS để chăm sóc các em bé không nơi nương tựa, trong đó có một số bà xơ nữ tu công giáo tham gia, phải chăng đó là điều có hại? đ) N.T.Tộ được vua Tự Đức cử sang Pháp thu xếp việc mở trường kỹ thuật, nhưng khi đã được vua cho chọn đất làm trường thì đành bỏ dở. Đọc tiểu sử N.T.Tộ đến đoạn này ai cũng lấy làm mừng, rồi lấy làm tiếc. Tiếc cho ông. Tiếc cho đất nước. Giá mà ngày ấy lập được truờng kỹ thuật thì hay biết mấy! Nhưng Ng. Kha viết: Triều đình Tự Đức quá tin tưởng giám mục Gauthier và N.T.Tộ, trái lại hai vị này lừa dối triều đình có hậu ý (...) vì thầy giáo thì không có khả năng, giám mục lại là gián điệp (Thực chất... trang 115 và 117) Anh chứng minh việc thầy giáo không có khả năng là: một ông thi đậu cử nhân văn chương mà nói là biết phép toán học, bản đồ và điện khí, một ông thì mới gia nhập Hội truyền giáo, đi học khóa kiến trúc một năm mà nói là thạo về môn đồ bản và biết làm cột thu lôi... Tất cả những chuyện này Trương Bá Cần đều viết rõ trong tác phẩm N.T.Tộ con người và di thảo, và Ng. Kha đều sử dụng tư liệu của Tr.B.Cần, nhưng anh đã lờ đi đoạn văn quan trọng của Trương Bá Cần: Triều đình Tự Đức lúc bấy giờ chỉ quan tâm tới việc làm sao lấy lại được 6 tỉnh Nam Kỳ đã mất vào tay Pháp. Việc dự án mở trường ở Huế không thành là do sự cản trở của Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình là hai vị quan có thế lực trong triều đình cũng như ở các tỉnh tỏ ra dè dặt, lo sợ trước ảnh hưởng của các giáo sĩ Pháp (...) Những ngày tháng 4-1868 có một sự phản ứng rất dữ dội của các nho sĩ ở khắp nơi đối với người công giáo (Tr.B.Cần, sđd. Trang 51-53). Rõ ràng việc mở trường ở Huế không thành là do nguyên nhân thời thế chứ không phải do giám mục Gôchiê và N.T.Tộ là người đã cất công đi lo toan việc này trở mặt đánh lừa nhà vua bằng cách chọn thầy dạy học thiếu năng lực. Vả lại có ai cấm một cử nhân văn học mà có thêm hiểu biết về kỹ thuật, một linh mục học về kiến trúc một năm mà có được khả năng dạy vẽ đồ bản và cách làm cột thu lôi. Lời buộc tội của hai bạn Ng. Kha và Tr. Ch. Ngọc thật là gượng ép. Đọc hết cuốn sách của hai bạn Việt Kiều ở Mỹ, những người kính yêu Nguyễn Trường Tộ không khỏi liên hệ đến cách nhìn của các nhân vật chủ chiến thời Tự Đức từng để ra khẩu hiệu Bình Tây sát tả, và từng kiến nghị triều đình xử tử N.T.Tộ. Cuốn sách của hai bạn không phải vô tình mà là cố ý chôn vùi một danh nhân đất nước trong khi hầu hết các học giả trong nước đều tôn vinh ông, nhất là trong thời đại ngày nay, yêu cầu đổi mới đất nước đang là một yêu cầu nóng bỏng để đưa dân tộc ta tiến kịp đà văn minh thế giới hiện đại. Thật ra T. Ch. Ngọc còn có vài câu vớt vát cho N.T.Tộ như: Không có thể phủ nhận sự hiểu biết của ông N.T.Tộ rộng rãi và tiến bộ hơn sự hiểu biết của người dân và đa số sĩ phu trong nước thời ấy (Thực chất..., trang 196). Qua một số kiến nghị chính xác liên quan đến xã hội và nền giáo dục nước nhà, nếu áp dụng thì cũng có lợi ích trong việc phát triển đất nước, thí dụ như bỏ lối học từ chương, khuyến khích khoa học kỹ thuật, cải thiện nông nghiệp, khai thác tài nguyên v.v... (N.Tr. trang 253) Nhưng Tr. Ch. Ngọc khen để rồi chê: Thực chất những hiểu biết của ông có lợi hay có hại cho đất nước, có phải là mới mẻ đặc biệt hay không? (N.Tr. trang 196), và Nhưng đây là những chương trình lâu dài không thể áp dụng để đối phó lật ngược tình trạng sôi bỏng của đất nước thời bấy giờ (N.Tr. trang 253) Còn như số đông học giả trong nước đối với các đề nghị cách tân của N.T.Tộ thì khen thật sự, khen mà khâm phục chứ không phải khen để rồi chê. Khen ở chỗ những kế sách của ông đem ra thực hành trăn năm cũng chưa hết (...) thực ra là ông nói cho chúng ta (...) đó là một lời dự báo (tham luận của Nguyễn Văn Hồng - Xem Kỷ yếu Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước trang 181). Ngay như Thai Hồng, người phê phán đường lối chính trị của N.T.Tộ một cách sâu sắc nhất trong hội thảo 1991 cũng phải thừa nhận rằng: N.T.Tộ là một nhà yêu nước, người đã đề xuất những cải cách lớn hồi thế kỷ trước. Khát vọng của ông là khát vọng bảo vệ nền độc lập nước nhà, làm cho dân giàu nước mạnh. Khát vọng đó cũng là khát vọng muôn đời của nhân dân, của dân tộc. Ông lại cũng là người đã vượt qua được hoàn cảnh riêng của mình để cùng đi với dân tộc trong bước khó khăn đen tối. Do đó hình tượng của ông là hình tượng của một người có nghị lực phi thường, đã đấu tranh đến hơi thở cuối cùng cho tư tưởng độc lập và thịnh vượng của nước, của dân. Bao nhiêu đó đã khiến ông trở thành người Việt nam đáng kính, đáng trọng, một danh nhân văn hóa Việt nam. (xem kỷ yếu trang 269) Theo phương pháp luận khoa lịch sử thì đánh giá một nhân vật lịch sử cần xem xét những tiêu chí khác nhau: - Về chính trị, nhân vật đó có đề xuất được một đường lối chính trị phù hợp với yêu cầu lịch sử trong thời đại của mình hay không? có chính kiến gì sáng suốt hơn đời không? Nếu chính kiến của nhân vật lịch sử không phù hợp với thời thế đương đại thì nó có dự báo một điều gì cho tương lai không. - Về trí tuệ và văn hóa, nhân vật đó so với người trước và người đương thời có vượt lên cao hơn hay không. Tư tưởng và tác phẩm của người đó có tác dụng nâng cao nền văn hóa chung của đất nước hay của nhân loại không? Nếu đương thời quan điểm văn hóa của nhân vật đó chưa phù hợp thì nó có tác dụng tích cực cho tương lai không? - Về nhân cách, nhân vật đó có gì nổi bật, đáng làm gương cho đời? Có đặc điểm gì khác đời đáng coi là một điển hình lịch sử? Đối với nhân vật lịch sử Nguyễn Trường Tộ, các học giả trong nước nói chung có cách nhìn đúng đắn. Về mặt chính trị, nhiều người nhìn rõ điều bất cập của ông trong tinh thần chủ hòa, cho nên ít người ca ngợi ông về đường lối chính trị. Người ta chỉ có thể xét đến hoàn cảnh thực tại của ông, sống trong lịch lý. Nghịch lý tôn giáo, nghịch lý đất nước, nghịch lý thời đại. N.T.Tộ đã không đề xuất được một đường lối tạm hòa với những suy tư day dứt và một tấm lòng yên nước chân thành. Nhưng về mặt văn hóa, trí tuệ và nhân cách thì không ai phủ nhận N.T.Tộ đã đề lại một ấn tượng rất đẹp, ấn tượng của một trí tuệ vượt lên trên tầm thời đại của đất nước Việt nam giữa thế kỷ XIX. Ấn tượng về một tám lòng ái quốc trung quân. Sống trong cảnh bị nghi ngờ, bị gạt bỏ mà không một lời oán trách, lại còn lo toan cho đất nước vươn lên giàu mạnh để đối phó với quân thù xâm lược. Tư tưởng cách tân xã hội, phê bình xã hội của ông được đánh giá cao như mở đầu một giòng chảy tư tưởng canh tân cho đất nước. Có thể nói rằng thái độ bài xích của hai bạn Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc đối với N.T.Tộ là có thể hiểu được nhưng thực sự có thiên lệch, hoặc là quá nghiêm khắc, khi hai anh đứng trên một lập trường chủ chiến có phần cực đoan, tuyệt đối không chấp nhận bất cứ phương sách chủ hòa nào. Học giả Chương Thâu thường nhắc lại tinh thần mạn đàm giữa nhà hiền triết Cao Xuân Huy với Giáo sư Trần Văn Giàu hồi những năm 1960. Cả hai vị đều nhận định về một nghịch lý của thời Tự Đức trước cuộc xâm lăng của đế quốc Pháp: Thời ấy chủ chiến là đúng, nhưng các anh hùng chủ chiến nói chung đều nằm trong hệ tư tưởng Khổng giáo đã trở nên lạc hậu, bảo thủ, không tiếp thu nổi cái mới, không có được một đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, không biết nhìn bao quát thời thế trong toàn thế giới. Thời ấy chủ hòa là hữu khuynh. Trong những người chủ hòa không ít tư tưởng đầu hàng, tự ti dân tộc, nhưng lại có được một nhân vật chủ hòa mang tư tưởng canh tân hợp với bước tiến của thời đại. Đó là Nguyễn Trường Tộ. Vì thế mà N.T.Tộ tuy thất bại trước thời cuộc nhưng các kế hoạch canh tân của ông là sáng suốt, còn lưu lại cho đời sau và được đời sau chiêm ngưỡng. Còn các nho sĩ chủ chiến như Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Trần Xuân Soạn v.v... tuy thất bại nhưng tấm gương yêu nước, quyết chiến của các vị đó để lại ấn tượng sâu xa trong sự tôn vinh của nhân dân đương thời và đời sau. Một cách nhìn như vậy có thể coi là công bằng, chính xác, hợp với phương pháp luận khoa học lịch sử. Số đông học giả trong nước ngày nay tin rằng thái độ tôn vinh đối với N.T.Tộ là đúng đắn. Chẳng những ngày nay chúng ta tôn vinh danh nhân văn hóa N.T.Tộ trong không khí đổi mới tư duy, trong thời đại của nền văn minh tin học, văn minh trí tuệ; mà hơn nửa thế kỷ trước, chính Phan Bội Châu, người căm thù giặc Pháp hơn ai hết vẫn ca ngợi N.T.Tộ là người trồng mầm văn hóa đầu tiên ở nước ta (xem Việt nam quốc sử khảo - nxb KHXH 1982, tr. 214). Và cả Hồ Chủ Tịch nữa, trong những ngày chuẩn bị ráo riết chống xâm lược Pháp đầu năm 1946, Bác vẫn nhắc đến những đề nghị canh tân của N.T.Tộ và tiếc cho triều đình Tự Đức không biết tiếp thu. Trong con mắt của Bác, N.T.Tộ làmột điển hình giáo dân kính chúa và yêu nước. Viết những dòng này sau khi đọc kỹ cuốn sách của hai bạn Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc, chúng tôi bâng khuâng chưa rõ hai bạn mạt sát N.T.Tộ đến mức đó để làm gì? Phải chăng là để biểu thị mình có cách nhìn khác đời, khác với khuynh hướng chung của thời đại, để thành người nổi tiếng như anh chàng Erostrate đốt đền thờ thần Artemis ở Hy lạp 556 năm trước Công nguyên? Hay là hai bạn ra sức công kích N.T.Tộ để thỏa mãn yêu cầu của người đặt bài đang rất khó chịu vì những lời ca ngợi, đòi hỏi đổi mới? Hay là các bạn có một nhu cầu nội tâm thể hiện mối hận của những con em Phật tử ở miền Nam trước đây đã chịu nhiều đau thương dưới thời Ngô đình Diệm, một chính quyền Công giáo rất kỳ thị với Phật giáo. Điều khác nhau giữa số đông học giả trong nước với hai bạn là ở cái tâm, ở cách nhìn, ở thái độ đối với vấn đề văn hóa và cách tân. Giữa thời đại ngày nay, thời đại của hòa hợp dân tộc, đất nước vươn lên, một thái độ coi trọng trí tuệ, coi trọng nhân tài, một thái độ dung hòa, khoan dung, tiếp cận giữa các quan điểm đối lập là nên có, nên giữ, để cùng nhìn về tương lai, cùng vun đắp một cái gì chung cho văn hóa đất nước và văn hóa nhân lọai. Ở Huế, căn nhà cũ của nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn nằm trên đường mang tên ông này tức Nguyễn Trường Tộ, cũng con đường mang tên đó ở Hà Nội có một nhà xuất bản gì đó mà khi xuất bản phải hiện ra cái tên này trên bìa sách, việc đặt tên đều có kế hoạch chi tiết sâu xa nếu nhìn kỹ vào đấy. Đáng nhẽ con đường ở Huế mang tên Trịnh Công Sơn hay con đường ờ Hà Nội mang tên một danh nhân khác mới là thực sự xứng đáng. Đọc mấy bài viết lẻ của một số cá nhân, mỗi bài dăm trang giấy của vài tác giả mới thấy sự tâng bốc kinh hãi, cứ như tội Pháp đô hộ nước ta là do triều Nguyễn, nếu có ông này thì có lẽ Việt Nam có thể là Nhật Bản rồi, như vậy thì cho tới nay sự phát triền của Việt Nam cũng quá tệ chi là! nếu nhìn ra cái thiên tài đó thì đã khác rồi. Ghê thật, rất tinh vi. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 5, 2015 Thôi thì, bỏ "Cục nợ xấu" của dân tộc cho nó rồi! Nhẹ gánh giang san. THẢO LUẬN VỚI CỤ HOÀNG THANH ĐẠM VỀ NGUYỄN TRƯỜNG TỘBÙI KHA I. LỜI MỞ ĐẦU Cuối tháng 12 năm 2001, tôi có mua được cuốn “Nguyễn Trường Tộ Thời Thế & Tư Duy Cách Tân” mà tác giả là nhà sử học Hoàng Thanh Đạm, xuất bản vào tháng 3 năm 2001 tại TPHCM. Sách dày 336 trang, tác giả giành 24 trang để phê bình cuốn “Nguyễn Trường Tộ, Thực Chất Con người và Di Thảo” của Bùi Kha (bút hiệu là Nguyễn Kha) và Trần Chung Ngọc do Giao Điểm xuất bản vào tháng 4 năm 1998 (từ nay gọi là NTT,GĐ). Cuốn sách đem lại cho chúng tôi một niềm vui, vì từ lúc sách chúng tôi ra đời đến nay đã 4 năm, nhưng chỉ có một bài phê bình của ông Nguyễn Xuân Phong với lời tán thưởng. Nay có bài phê bình khác, chỉ trích nhiều hơn là đồng ý, vì thế, qua đó chúng tôi có dịp để đào sâu thêm vấn đề. Nhà sử học Hoàng Thanh Đạm có văn phong điềm đạm và thái độ chững chạc của một người nghiên cứu công phu, nên chúng tôi rất hân hạnh để trao đổi một số điểm dị đồng với nhà sử học lão thành nầy. Tổng quát, ông Hoàng Thanh Đạm có vài điểm tương đồng với chúng tôi lúc phê phán Nguyễn Trường Tộ, nhưng ông dùng chữ rất khéo như: “nhận thấy điều bất cập của Nguyễn Trường Tộ”, chứ không nói rõ hoặc có chỗ xử dụng lời lẽ “chua chát” như tôi (Bùi Kha), lúc thấy ai có thái độ hay hành động bán nước là tôi trở nên bực phiền. Do đó, văn phong có khi nặng về cảm tính mà cụ Hoàng (sinh năm 1926) lại cáo buộc sai lúc nghĩ rằng chúng tôi có tư tưởng “Bình Tây Sát Tả ”. Nhưng, có lẽ vì tuổi đời chồng chất và vì thiếu chứng liệu để bác bỏ luận điểm của chúng tôi về Nguyễn Trường Tộ nên rất nhiều chỗ cụ Hoàng tự mâu thuẫn với chính mình. Thí dụ: lúc phê bình Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc, trang 123, cụ Hoàng viết: “Đọc hết cuốn sách của hai bạn Việt kiều ở Mỹ, những người kính yêu Nguyễn Trường Tộ không khỏi liên hệ đến cách nhìn của các nhân vật chủ chiến thời Tự Đức từng đề ra khẩu hiệu “Bình Tây sát Tả ”. Đến trang 126, cụ viết: “Có thể nói rằng thái độ bài xích của hai bạn Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc đối với Nguyễn Trường Tộ là “có thể hiểu được” nhưng thực sự có thiên lệch, hoặc là quá nghiêm khắc, vì hai anh đứng trên một lập trường chủ chiến có phần cực đoan, tuyệt đối không chấp nhận bất cứ phương sách chủ hòa nào”. Nhưng qua trang 127, ông lại đoán rằng: “Hay là hai bạn ra sức công kích Nguyễn Trường Tộ để thỏa mãn yêu cầu của người đặt bài đang rất khó chịu vì những lời ca ngợi, đòi hỏi đổi mới...” Rất nhiều chỗ mâu thuẫn trong 24 trang phê bình cũng phát xuất từ những yếu tố khác, mà chủ yếu là tác giả muốn bẻ ngược lại những luận điểm của hai Việt kiều, nhất là muốn chứng minh tấm lòng của Nguyễn Trường Tộ đối với tổ quốc, nhưng lại không đủ sử liệu và logic, nên việc phê bình cho thấy quá nhiều “điều bất cập” của tác giả. Cũng vì thế, nên đoạn cuối trong bài phê bình (tr.128) tác giả viết thiếu logic: “Giữa thời đại ngày nay, thời đại của hòa hợp dân tộc...”. Tôi quan niệm rằng, hòa hợp dân tộc thì không nên hiềm khích hoặc khơi lại đống tro tàn, mà phải giáo dục quần chúng biết cái hay để bắt chước và cái dở nên bỏ đi, phải khoan dung và tha thứ tất cả, nhưng không có nghĩa là phải làm sai lạc hay chối bỏ lịch sử, hoặc sắp những kẻ Việt-gian ngang hàng với những anh hùng dân tộc. Đó là chưa nói đến những thành phần “sống trên quê hương nhưng vắng bóng giữa lòng quê hương”; họ chỉ kêu gọi hoà hợp và đoàn kết lúc ở thế yếu. Nhưng lúc mạnh hoặc đã kiếm được sự hậu thuẩn của ngoại bang, họ sẵn sàng rước voi dày mả tổ. Không thấy được điều nầy, quả là một “điều hết sức bất cập” khác của Hoàng sử gia. Thêm vào đó, bài viết có quá nhiều lỗi chính tả; không chấm câu trước lúc bắt đầu đoạn mới. Và trích ý chứ không phải trích nguyên văn bài viết của tôi, nhưng tác giả lại để đoạn văn trong ngoặc kép (“ “). Điều nầy cho thấy cách làm việc thiếu đứng đắn, làm sai lạc và đổi ý cả đoạn văn của người mà mình đang tranh luận. Đó là vài nhận xét tổng quát về bài phê bình trước khi đi vào những thảo luận lý thú về N.T.Tộ qua các sử liệu. Khách quan, Nguyễn Trường Tộ có vài ý tưởng xuất sắc như tôi đã nêu trong bài viết của mình: “...Trái lại có 3 Di Thảo không liên quan đến chính trị, kinh tế hoặc canh tân, nhưng về phương diện văn chương lý luận và sự kiện thì rất hay, xuất sắc, nhất là tác giả lúc bấy giờ đang ở lớp tuổi 35 và cách đây 130 năm. Đó là Di Thảo số 10 “Thảo Thư gởi Tây Soái ”; Di Thảo số 47 “Về Việc Cải Cách Phong Tục”; Di Thảo số 50 “Về Việc Chỉnh Đốn Quân Đội Và Quốc Phòng” (Ba Di Thảo nầy gồm 18 trang) {trích nguyên văn NTT, GĐ, tr. 11 &12}. Phần nhận định bản Di Thảo số 27 “Tám Điều Cần Làm Gấp” tôi cũng viết rõ về Nguyễn Trường Tộ: “Giọng văn điêu luyện có tính thuyết phục và nhiều đoạn rất thực tế đã mô tả được một số “bệnh trạng” của đất nước ta thời bấy giờ. Cách trình bày, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ dường như có thành tâm thiện chí đối với nước nhà” (tr.92)... Lác đác một vài ý tưởng khả dĩ có thể chấp nhận, được lồng vào trong vô số điều mâu thuẩn, sai lầm và tai hại của Nguyễn Trường Tộ đối với vận mạng quốc gia dân tộc, mà sử gia Hoàng Thanh Đạm, người đã để ra hơn 20 năm nghiên cứu ( ông cho biết như thế ) vẫn không thấy kế hoạch lộng giả thành chơn của ông N.T.Tộ. II. VẠCH NHỮNG SAI LẦM 1. Hợp tác với Pháp: Để có thể thấy rõ điều lợi hoặc hại lúc Nguyễn Trường Tộ đề nghị hợp tác với Pháp, chúng ta nên tìm hiểu tổng quát tình hình quân sự và chính trị thời bấy giờ. Về phía quân đội viễn chinh Pháp tại Việt Nam, thì từ 1858 đến 1863, họ đang ở trong tình trạng nguy khốn, mà chúng tôi đã trích thuật qua sáu văn thư mật của các ông đô-đốc Pháp gởi cho chính phủ của họ. Xin xem các trích dẫn trong cuốn Nguyễn Trường Tộ, Giao Điểm xuất bản (tr.21-29). Ở đây, chỉ lược trích vài đoạn ngắn : “...Quả thật tôi thấy cần thiết và hết sức đau đớn xác nhận với ngài về tình trạng tồi tệ... chúng ta đang nhanh chóng tuột dốc đến kiệt quệ và đến lúc phải bất động tại Đà Nẵng ”(Đđ. Genouilly, 4.1.1859)...“Vì thế Hoàng-thượng tin cậy vào kinh nghiệm và sự sáng suốt của ông...có nên theo đuổi việc thiết lập nền bảo hộ trên vương quốc An Nam không... hay cuối cùng là chúng ta đành bỏ các vị trí... và từ bỏ mọi mưu toan...” (Bộ Hải Quân 8.4.1859)... “Càng đi sâu vào tình hình Vương Quốc An Nam... Không thể không thừa nhận rằng cuộc chiến tranh chống lại xứ nầy còn khó hơn cuộc chiến tranh chống lại thiên triều” ( Genouilly 21.9.1859)... “Người An Nam đã tỏ ra dày dạn chiến đấu, họ đã làm đảo lộn vai trò, giờ đây họ tấn công ngay những vị trí của chúng ta” ( lời kêu cứu của Bonard)... “ Các cuộc khởi nghĩa đồng loạt nổi lên khắp nơi... tôi bị đẩy vào thế tự vệ...” (Bonard 18.12.1862). Ngày 27.1.1863 Bonard cũng than thở: “Lực lượng chúng ta giảm dần... đang bị đuối sức từng ngày... không thể tiếp tục trong sáu tháng một chiến trận như thế nầy”. Sử liệu Việt Nam cũng viết: “Ngày 17.12.1862 nghĩa quân Trương Định tấn công đồn Rạch Trà của giặc Pháp, thu nhiều thắng lợi”. Qua ngày 18, “1.200 nghĩa quân Trương Định tấn công đồn Thuộc Nhiêu (trên đường từ chùa Cây Mai đi Mỹ Tho) tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Hai trận tấn công thắng lợi liên tiếp trong hai ngày 17 và 18.12.1862 này của nghĩa quân Gò Công đã làm cho thực dân Pháp hoảng sợ. Bonard phải khẩn cấp xin viện binh” (Dương Kính Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử, 1858-1918, Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Viện Sử Học, TP HCM, 1999, tr.34). Những sử liệu trên cho thấy tình hình quân sự đen tối của Pháp xẩy ra và đã kéo dài gần 5 năm, từ tháng 9, 1858 đến tháng 2, 1863, nghĩa là khoảng một tháng trước lúc Nguyễn Trường Tộ viết bài “Thiên Hạ Đại Luận”. Trong lúc quân thực dân nguy khốn đến thế thì Nguyễn Trường Tộ lại hù dọa: Tàu diệt Việt, Pháp diệt Á-đông... “ Quân ta mới nghe thân thế họ đã phách lảng hồn xiêu rồi... Ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa, ai hòa với họ thì được yên... Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách... nên để cho quân lính nghỉ ngơi... để họ (Pháp) giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới..” (NTT, Giao-Điểm tr.24-40). Những nhận định sai lạc có dụng tâm nầy đã ảnh hưởng đến chính sách của triều đình vua Tự-Đức và tinh thần chiến đấu của nghĩa quân. Tại sao Nguyễn Trường Tộ có những tư tưởng nghịch lý đến thế ? Tôi thấy có hai lý do chính: Lý do tình thế : Sau hòa ước Nhâm Tuất,1862, phong trào chống Pháp rất mạnh, làm cho công cuộc bình định của Pháp gặp nhiều trở ngại. Triều đình Huế chia làm hai: phe chủ chiến và phe chủ hòa.“Phe chủ chiến có rất nhiều ảnh hưởng và thế lực”. Thượng-tướng Ohier (quyền đô đốc) gởi thư cho triều đình vua Tự-Đức phản đối phong trào chống Pháp làm trở ngại chương trình bình định của ông ta (Nguyễn Thế Anh,“Việt Nam thời Pháp đô hộ”, Lửa Thiêng xuất bản, Saigon 1970, tr.63-64). Phong trào nghĩa quân kháng Pháp gây cho địch khó khăn đến nỗi :“Thực dân Pháp ra điều kiện: sẽ trả lại tỉnh thành Vĩnh-Long cho triều đình Huế, một khi triều đình Huế chấm dứt được các cuộc khởi nghĩa chống đối Pháp ở các tỉnh Gia Định, Định Tường, và phải gọi tất cả các thủ lĩnh nghĩa quân trở về, tuyệt đối không còn bóng dáng một ai tại hai tỉnh đó nữa” (Dương Kính Quốc, SĐD, tr.32). Như thế, kế hoạch “hòa với Pháp là thượng sách... cho lính nghỉ ngơi để họ giữ bờ cõi cho mình” của Nguyễn Trường Tộ là cái phao đúng lúc để quân Pháp thoát hiểm và giúp cho chương trình bình định của thực dân có thể thực hiện được! Lý do tín lý và giáo dục : Nguyễn Trường Tộ không muốn thực dân Pháp rút về nước nên ông đã cố ý đưa ra những nhận định sai lầm về tình hình quân sự và khuyên hòa với Pháp để cứu vãn cơn nguy khốn cho thực dân. Sau đây là một số sử liệu giải thích tại sao. Người Công-giáo thường có khuynh hướng ly khai với tổ quốc, vì điều răn thứ nhất trong 10 điều răn của tôn giáo nầy là “Thờ Thiên Chúa trên tất cả mọi sự”, mà giáo-hoàng là người đại diện cho Chúa theo tín lý Công-giáo. Do đó, điều răn thứ nhất phải hiểu là “Thờ giáo-hoàng và Vatican trên tất cả mọi sự”, mà việc Pháp đánh chiếm Việt Nam là do Vatican vận động và chủ động như chúng tôi đã chứng minh bằng nhiều tài liệu mật trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người Và Di Thảo” nói trên . Bởi thế, chúng ta không lấy làm lạ, những người như các Linh-mục Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Trần Lục, giáo sinh Trương Vĩnh Ký, Giám-mục Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Giám-mục Hồ Ngọc Cẩn, Giám-mục Ngô Đình Thục... đều làm tay sai cho Pháp. Còn tín đồ Công-giáo Việt Nam thì chính Đô-đốc thực dân Page cũng mô tả: “Ngoài ra không một người Việt Nam nào theo đạo Công-giáo lại ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt nam không theo đạo không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài (Bộ-trưởng) đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ tử thù (Du reste, pas un Vietnamien catholique n’hesita à demander à s’enriler comme soldat sous les drapeau francais, les roi payen du Vietnam n’etait point leur roi “Votre Excellence comprenda sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemies ?" Depêche de L’amiral Page, du 14-12 et 25.12.1859. Archives Nationales, Fonds Marines BB4-777, cité par Cao Huy Thuan, pp. 128 & 129). Lịch sử cho thấy, đã là người Công-giáo thì luôn luôn nặng tình với Vatican hơn là đối với chính quốc gia của họ, danh từ thông thường để chỉ thái độ nầy là “vong-bản”. Thật vậy, ngay cả nước Mỹ, không có người nào theo đạo Công-giáo mà có thể đắc cử tổng thống. Ngoại trừ Kennedy là một trường hợp đặc biệt ngoại lệ trong lịch sử 44 tổng thống vừa qua của đất nước nầy, nhờ có tài, nói năng hoạt bát, đẹp trai. Lúc ra tranh cử, có người đặt câu hỏi với ông về bổn phận một công dân và bổn phận của một tín đồ. Kennedy trả lời rằng lúc nào có sự xung đột giữa quyền lợi tôn giáo và đất nước thì ông sẽ nghiêng về phía tổ quốc. Tuy nhiên, vào thập niên 1960, Vatican có thái độ hòa bình để cứu tín đồ của giáo hội trong các quốc gia chiến tranh, thì Kennedy cũng muốn triệt thoái quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam, và ông bị ám sát năm 1963, đến nay chưa tìm ra thủ phạm. Nhưng người ta nghi rằng, một trong những nguyên nhân chính đưa đến cái chết là vì ông có tư tưởng phản chiến như giáo-hoàng. Tư tưởng đó và việc dự định rút quân ra khỏi Việt Nam của Kennedy đã đi ngược lại quyền lợi của giới tư bản vì khí giới chiến tranh còn thặng dư sau Thế Chiến Thứ 2. Mà khí giới chiến tranh chỉ có thể tiêu thụ bằng chiến tranh khí giới. Đất Việt-Miên-Lào là thị trường thuận lợi nhất vào giai đoạn đó để Hoa-Kỳ trút bom đạn xuống. Nhưng bom đạn và dụng cụ chiến tranh đâu phải miễn phí. Chính phủ Mỹ dùng tiền đóng thuế của dân chúng và tiền của các nước đồng minh viện trợ để mua khí giới do các công ty Hoa-kỳ chế tạo. Một số lớn giai cấp tư bản được giàu nhờ có nhiều cổ phần trong các công ty và kỹ nghệ chiến tranh ấy. Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ là Tết Mậu-Thân, 1968, có nhiều nơi tại miền Nam (Việt Nam) không quân Hoa-Kỳ ồ ạt thả bom bình địa. Thủ tướng Trần Văn Hương (VNCH) rất bực phiền nhưng cũng chỉ phát biểu được: “Đánh con ruồi, chúng ta không cần phải dùng cái búa”. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ không những chỉ dùng cái búa con để đánh ruồi mà họ dùng cái búa tạ. Và trong cuộc chiến tranh Việt-Nam trước đây, “để giết một người lính cọng-sản, Hoa Kỳ phải tốn hơn 400 ngàn Mỹ kim” (To kill one communist soldier cost the U.S. no less than $400.000. Joseph Buttinger,Vietnam the Unforgetable Tragedy, NY. 1977, p. 93), một cuộc chiến tranh tốn kém chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Và số khí giới Hoa Kỳ tiêu thụ tại Việt Nam bằng tổng số khí giới của hai cuộc Chiến Tranh Thế Giới cọng lại. Tôi trình bày hơi dài dòng về vấn đề nầy để chúng ta thấy mối dây chằng chịt giữa các tôn giáo Tây-phương nhất là Công-giáo La-Mã và vấn đề chính trị cũng như giữa tư bản và ý thức hệ... Sử gia Hoàng Thanh Đạm bênh vực Nguyễn Trường Tộ và lý luận rằng: “... những khó khăn mà tướng soái Pháp nêu lên là ở thời điểm 1858-1862, trong đoạn khởi đầu xâm lược, còn điều mà Nguyễn Trường Tộ nói trong Thiên hạ đại thế luận về thế áp đảo của Pháp là ở thời điểm 1863 ” (Cách Tân, tr.112). Nhận định như vậy là nhà sử học Hoàng Thanh Đạm thấy một mà không thấy được nhiều hơn. Vì ông Nguyễn Trường Tộ tự khoe là cái gì cũng biết hết, vậy thì tình trạng quân Pháp yếu quân ta mạnh trong giai đoạn trước lúc, không phải sau khi , viết bài “Thiên hạ đại thế luận” tại sao ông không biết ? Hơn nữa, một trong 6 văn thư mật mà tôi nêu trên là vào năm 1863; thời gian Nguyễn Trường Tộ viết bài chiêu dụ ấy. Để biết rõ thêm thái độ Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình hòa với Pháp là có hậu ý và dụng tâm của một người Việt không ngay, chúng ta nên biết thêm sử liệu sau đây: Ngày 16.10.1858, Nguyễn Trường Tộ, Linh-mục Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và 5 người Việt Nam khác cùng đi với Giám-mục tình báo Gauthier đến cửa Mành Sơn, tại đây:“...Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà nẳng đứng đầu là Giám-mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng đô-đốc chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Saigon. Do đó trước khi đem quân vào Saigon, Đô-đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859” (Giao-Điểm, SĐD, tr.166-167, dẫn theo TBC, SĐD, tr.22). Nhắc lại đoạn sử liệu nêu trên để thấy rằng, Nguyễn Trường Tộ đã không tham gia các phong trào chống Pháp. Trái lại, ông theo sát gót giầy của thực dân từ ngày chúng bắt đầu chà đạp quê hương, 1.9.1858. Ông là một trong những phần tử “làm áp lực để Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm”. Bị Đô-đốc de Genouilly đuổi đi Hồng-Kông. Đến năm 1861 lại theo gót thực dân về làm thư ký cho Tổng hành-dinh Soái phủ tại Sài Gòn để chúng mở rộng vòng chiếm đóng. Từ năm 1858 đến năm 1863, ít nhất là hơn 4 năm ròng rã ông đi theo Pháp và sát cánh với Giám-mục tình báo Gauthier. Yêu nước Việt hay nước Pháp mà lạ đến thế ? Từ những sự kiện trên chúng ta có thể nói, Nguyễn Trường Tộ biết rất rõ tình hình nguy khốn của quân Pháp, nhưng ông sợ Pháp rút quân về nên viết bài để hù dọa quân dân ta và giữ chân Pháp. Nếu quả thật ông không biết tình hình của ta và Pháp đã và đang xảy ra xung quanh ông và trên các vùng mà Pháp vừa chiếm được tại Đà Nẵng và Sài Gòn, thì ông có thể biết được gì mà dám bàn “Thiên hạ đại thế luận”, tức là luận bàn những tình thế lớn trong thiên hạ! Sự mâu thuẫn quá lớn như thế, những người bênh vực N.T. Tộ trả lời thế nào ? Để hiểu rõ hơn, một lý do khác cho thấy hậu ý Nguyễn Trường Tộ khuyên dân Việt Nam hợp tác với Pháp, chúng ta nên tìm hiểu về nội tình của Pháp tại Việt Nam và tại Âu-châu trong giai đoạn Nguyễn Trường Tộ viết bài chiêu dụ “Thiên hạ đại thế luận” đầu năm 1863. ‘Theo hòa ước Nhâm Tuất, 1862, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị Pháp chiếm đóng, nhưng sự chiếm đóng nầy phần lớn là ở trung tâm thành phố, còn các đồng bằng và vùng lau sậy do nghĩa quân điều khiển. Các cuộc hành quân của Pháp rất vất vả trong các vùng nầy; lính bị muỗi đốt và nước độc sinh sốt rét và dịch tả chết rất nhiều. Mặt khác, nghĩa quân đánh theo lối du kích làm cho giặc Pháp tổn thất nặng nề. Hơn nữa, từ lúc bắt đầu đánh Nam-kỳ đến lúc đạt được hòa ước 1862, Pháp phải mất hơn 4 năm và thiệt mạng trên 2 ngàn người, đó là một con số rất lớn vào thời điểm ấy’ (Theo NTA, SĐD, tr. 25-54). Vì thế, các ông đô đốc Pháp đã than thở như chúng ta thấy ở trên. Với tình hình như thế, Nguyễn Trường Tộ làm việc dịch thuật cho Tổng hành dinh của quân đội viễn chinh Pháp, sống sát cánh với tên tình báo Gauthier, thì ông không thể không biết Pháp đang khốn đốn. Vì vậy, ông viết thêm nhiều bài khác khuyên triều đình cọng tác với Pháp để giải tỏa khó khăn cho thực dân. Còn sử gia Hoàng Thanh Đạm không đồng quan điểm nầy, nhưng ông đã không trưng bày được một sử liệu nào để làm nền tảng cho luận điểm của mình. Một cách gắn gọn, trong khi sáu bức thư mật của các đô đốc thực dân than thở về tình hình quân sự bi đát của họ tại Việt Nam, và tình hình chính trị tại Âu-châu cũng không thuận tiện cho lực lượng Pháp muốn mở rộng thêm vùng chiếm đóng tại Sài-gòn, thì Nguyễn Trường Tộ lại viết tiếp: “Theo cách ngày nay thì nên để cho quân lính nghỉ ngơi... để họ (thực dân Pháp, BK) giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới”. Lý luận nầy cũng giống như nói rằng trong nhà có nhiều cô con gái đẹp, nên để cho hải tặc gìn giữ thì bọn sở khanh sẽ không “bén mảng tới ”. Thật là “cao kiến” chẳng còn gì để phê phán ! Đọc kỹ “Thiên hạ đại thế luận” và những bài chiêu dụ khác của nhà thuyết khách họ Nguyễn, chúng ta sẽ thấy nhiều điều hết sức mâu thuẫn và sai lầm có dụng tâm. Lối trích dẫn của Hoàng sử gia cũng đầy mâu thuẩn và không để ý đến sự kiện và sử liệu. Ông viết: “Tháng 5.1863, viết Trần tình khải, ông (N.T.Tộ, BK) thanh minh rõ thái độ của mình trước quân thù xâm lược:“Đối với những hạng người cho quân Pháp là lớn mạnh mà sợ thì tôi giận ra mặt mà bảo như thế là làm tăng trưởng nhuệ khí của người ta mà tự diệt uy phong của mình...Tôi lại đem những lợi hại phương Tây xa xôi ra so sánh để thấy rằng chúng mạnh chỉ là tạm thời mà dễ yếu, còn ta tuy yếu mà dễ mạnh được lâu dài. Xin cứ hỏi những người xung quanh sẽ biết tôi nói có đúng không...” (Hoàng Thanh Đạm, SĐD, tr.114). Đoạn vừa dẫn cho chúng ta thấy một sự mâu thuẫn quá lớn: Bài “Thiên hạ đại thế luận” viết vào khoảng tháng 3-4.1863, ông nói rằng quân ta yếu, quân Pháp mạnh. Nhưng chưa đầy 2 tháng sau ông viết như trên: có nghĩa là quân Pháp yếu, quân ta mạnh. Như thế, ông đã phủ nhận những điều viết bậy có hậu ý trong bài “Thiên hạ đại thế luận”, và nói giống tôi. Thực ra, lúc viết “Thiên hạ đại thế luận”, N.T.Tộ cố tình xuyên tạc lịch sử để cứu nguy cho Pháp như tôi đã chứng minh. Nhưng có lẽ vì bị phản đối hoặc thấy sai lầm quá lộ liễu, nên viết bài khác để bào chữa và bảo vệ mình. Cũng vì tâm chất dối trá nên tiền hậu bất nhất. Vì thế, ông đã không thấy sự mâu thuẫn to lớn về hai bài vừa viết cách nhau chưa đầy 2 tháng ! Còn sử gia họ Hoàng đã nhọc công nghiên cứu đến hơn 20 năm, lại trích dẫn hai bài viết gần nhau của N.T.Tộ, trong đó mâu thuẫn rõ ràng đến thế mà không thấy, lại bênh vực ông ta và cho tôi viết sai về tình hình quân Pháp, và cố ý chối bỏ sự thực lịch sử trong các tài liệu mật của Pháp về thế khốn cùng của chúng, nên cụ Hoàng viết tiếp:“Chúng ta không vội nghi ngờ độ tin cậy của những câu trích dẫn (của Bùi Kha) được dịch ra tiếng Việt lại còn đăng tải cả nguyên văn tiếng Pháp” (HTĐ, SĐD, tr. 111). Một điểm quan trọng khác là trong bài nầy Nguyễn Trường Tộ viết :“...lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chận đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của quân đội Cần Vương...” . Mặc dầu Lm. Trương Bá Cần không nói rõ trong sách, nhưng tôi được biết rằng ông không biết chữ Nho, nên 58 bản chiêu dụ đều do ông Lý Kim Hoa dịch ra Việt-ngữ . Tuy vậy cả dịch giả lẫn tác giả Trương Bá Cần đã không thấy cụm từ “quân đội Cần-Vương ” [1] được nhắc đến trong bài “Thiên hạ đại thế luận” viết vào đầu năm 1863. Trong lúc đó, quân đội Cần-Vương chỉ xuất hiện 22 năm sau khi vua Hàm-Nghi bỏ kinh thành đi kháng chiến do cuộc nổi dậy chống Pháp bất thành tại Huế ngày 7. 5.1885. Nhiều tác giả, trong đó có sử gia Hoàng Thanh Đạm, đã trích dẫn và ca tụng ông N.T.Tộ hết mình qua bài chiêu dụ nầy, nhưng quên để ý sự sai lầm trong thời gian tính của từng biến cố, cho nên có thể đây là một bài ngụy tạo. Dù ngụy tạo hay thật, và cụm từ nào đó bị dịch nhầm thành “quân đội Cần Vương”, nhưng nếu đọc kỷ bài nầy chúng ta cũng sẽ thấy cái tư tưởng: Ăn cơm Việt nam, thờ giặc Pháp của N.T. Tộ như đã chứng minh. 2. “ Lấy thịt đè người” : Sử gia Hoàng Thanh Đạm đã dẫn chứng rất nhiều nhân vật tên tuổi ca ngợi Nguyễn Trường Tộ, trong đó có cụ Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh. Quan điểm của tôi là mỗi nhân vật đều có sở trường và sở đoản, nhất là trong thời kỳ Pháp thuộc và đất nước chiến tranh, nhiều tài liệu mật bị khóa chặt trong các thư khố, còn một số sách thì được viết bởi phần lớn các người theo Công-giáo, mang đầy tình cảm tôn giáo, che đậy và đảo lộn sự thực vì mặc cảm. Thí dụ, ngay cả đến sau năm 1994, tiến-sĩ Thần-học Linh-mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, trong cuốn “Divers Voyages Et Missions”, dịch cụm từ “Plusieur Soldats” là vài binh lính. Lại còn chú thích là lính thừa sai chứ không phải lính chiến. Giáo-sư Chương Thâu, Viện Sử-học Hà-nội, lại bênh vực và đồng ý ngữ nghĩa nầy. Mà thực ra chữ “plusieur soldats” có nghĩa là nhiều binh lính và chữ missionaires mới có nghĩa là lính thừa sai (tức là giáo sĩ), và chữ quelque mới có nghĩa là (một) vài. Người ta cố tình đổi nghĩa văn tự như vậy để che đậy cái tội vận động chính phủ Pháp vào xâm chiếm nước ta của Linh-mục A. De Rhodes (năm 1652). Một thí dụ khác, Thánh-kinh Tân Ước xuất bản tại thành phố HCM năm 1997. Theo mấy trang đầu và lời giới thiệu của Tổng Giám-mục Nguyễn Văn Bình thì ban dịch thuật có đến 14 người gồm các linh mục, tu sĩ và những người có hiểu biết chuyên môn về Thánh-kinh và đã để ra hơn 20 năm để nghiên cứu và dịch thuật, nhưng có nhiều chỗ sai, nhất là chương 15, đoạn 22-26 sách Ma-thi-ơ (Matthew). Các dịch giả đã cố tình dịch sai có hậu ý mà tôi đã vạch rõ trong cuốn “Vatican Thú Tội Và Xin Lỗi ?” (Giao Điểm, tái bản lần thứ nhất 2001, tr.13-18). [2] Vì thế, trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người và Di Thảo” trang 184 tôi có đặt câu hỏi :“Một con người như thế tại sao có nhiều người nhầm lẫn ? Để ca tụng ông bằng những danh từ cao quí...” Tôi đưa ra mấy lý do: 1. Thiếu sử liệu; 2. Vài tác giả trích vài câu, vài đoạn rồi ghép lại với nhau, nhưng không đọc hết toàn bài và lồng nó vào trong bối cảnh của tình hình lúc bấy giờ để tìm xem hậu ý của Nguyễn Trường Tộ đang thập thò sau bức màn canh tân là gì, v.v. Chính tôi lúc đầu cũng đã lầm và ca tụng ông về việc sửa đổi võ bị đến 11 trang trong bản thảo. Nhưng sau đó sực nhớ lại cuốn “Tôn Ngô Binh Pháp” mà tôi có đọc lúc học lớp 9. Sau khi đem ra đối chiếu, tôi đã tìm ra ít nhất là 6 binh lược mà Nguyễn Trường Tộ lấy từ trong đó lại còn không đề xuất xứ. Do đó, vấn đề đúng sai không thể hoàn toàn căn cứ vào số đông mà phải căn cứ vào sử liệu có chính xác hay không. Hơn nữa, chúng ta nên hiểu rằng lời ca ngợi của Chủ-tịch Hồ chí Minh đối với N.T.Tộ là mang tính chính trị và tâm lý của một chính khách, chứ không phải là lời phát biểu của một người nghiên cứu. 3. Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước?: Cũng thế, nhằm mục đích chứng minh cho bằng được Nguyễn Trường Tộ có lòng yêu tổ quốc, sử gia Hoàng Thanh Đạm viết “Sau khi đã mất 6 tỉnh Nam-kỳ, triều đình cuống quýt lo toan cử người sang Pháp chuộc lại, thì Nguyễn Trường Tộ trong di thảo số 36 ngày 7.4.1868, bàn với triều đình nên “bãi bỏ việc cử phái bộ đi Pháp...” Ông khuyên nên tính kế lâu dài, dầ⮠nuôi dưỡng sức ta, dần đi giao thiệp...” (Cách Tân, SĐD, tr.116). Sử gia họ Hoàng cứ nghĩ N.T.Tộ thật sự yêu nước nên mới có cái “cao kiến” ấy, chứ không chịu tìm hiểu tình hình Pháp và Âu-châu thời bấy giờ để biết cái hậu ý tại sao ông Việt gian nầy lại khuyên triều đình nên “Bãi bỏ việc cử phái bộ đi Pháp” ? Tôi xin trả lời hộ sử gia bằng sử liệu dưới đây: Tình hình Âu-châu lúc nầy rất bất lợi, không cho phép Pháp tiến hành một cuộc chiến tranh mới.“Đô-đốc La Grandiere nhận được lệnh phải từ bỏ mọi dự định chiếm đóng ba tỉnh miền tây Nam-kỳ”... “Chính phủ Pháp phản đối mọi biện pháp vũ lực có thể làm nước Pháp lâm vào một cuộc chiến lâu dài với Triều-đình Huế. Nhưng Đô-đốc de La Grandiere trông đợi ở sự thành công của hành động của ông để đặt chính phủ Pháp trước một sự việc đã rồi. Tân Bộ-trưởng Hàng-hải , Rigault de Genouilly, luôn luôn khuyến cáo La Grandiere phải tránh tất cả những gì có thể làm cho Triều-đình Huế lo ngại. Ngày 10.6.1867, ông còn viết cho La Grandere là: “Mặc dầu tình trạng (chính trị Âu-châu) bớt căng thẳng hơn, nhưng cho tới khi có lệnh mới ông đừng nghĩ tới chuyện biểu dương lực lượng đối với ba tỉnh. Cho nên, phản ứng đầu tiên của Rigault de Genouilly khi được tin quân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây là bất mãn đối với La Grandiere... Điều quan trọng đối với ông (La Grandiere, BK) là làm sao khiến Triều-đình Huế chấp nhận sự việc đã xảy ra (đã chiếm 3 tỉnh miền Tây, BK); ngày 30.6.1867, ông gởi thư cho vua Tự-Đức để đề nghị thương lượng, nhưng vua Tự-Đức bằng một văn thư lời lẽ cứng rắn, trách cứ La Grandiere đã lạm dụng sức mạnh mà xâm phạm quyền lợi của chính phủ Việt Nam... Nhà vua còn tỏ ý là sẽ phái sứ giả sang Paris để thương lượng thẳng với chính phủ Pháp” (Nguyễn Thế Anh, SĐD, tr. 54, 58, 59 & 60). Vua Tự-Đức nhất quyết không chịu thương thuyết với La Grandiere, nên tên thực dân nầy đã xử dụng đường lối chính trị khác. Theo phó tiến sĩ Y.Tsuboi thì:“Khi đạo quân bên nầy không thể áp đảo bên kia được thì tìm một giải pháp chính trị. Người Pháp biết rõ như thế và bằng cách sai một nhân viên mật vụ, Charles Duval, đến Bắc-kỳ với sứ mệnh xúi giục một cuộc nổi loạn chống chính quyền (Huế, BK), liên kết với giáo dân – đó là cuộc nổi loạn do Lê Duy Phụng chỉ huy – họ hướng Triều-đình Huế đến cuộc đình chiến ở Nam-kỳ” (Y.Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, 1847-1885, bản dịch của Nguyễn Đình Đầu, Ban Khoa Học Xã Hội Thành Ủy, TP HCM, 1990, tr.261-262). Như vậy, nếu Triều-đình Huế cử sứ bộ đi Pháp thì La Grandiere sẽ bị thượng cấp khiển trách và Việt-nam có thể đã lấy lại được 3 tỉnh miền Tây Nam-kỳ. Sự cố nầy dĩ nhiên là ông đô-đốc, các ông giáo sĩ, những kẻ Việt-gian, trong đó có Nguyễn Trường Tộ, không muốn ! Đó mới là lý do để ông viết thư khuyên triều đình “Bãi bỏ việc cử sứ bộ đi Pháp ” vào năm 1868, chứ chẳng phải ông Tộ có lòng yêu nước như sử gia Hoàng Thanh Đạm lầm tưởng ! Tôi sẽ trở lại vấn đề nầy ở một đoạn sau, và sẽ dẫn thêm một số sử liệu khác để thấy tâm địa thờ Pháp của N.T.Tộ. Biết được hậu ý của ông Tộ, nên trong bài trước đây tôi đã viết rõ :“...tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ không được bố cục một cách nhất quán, mà viết theo những biến chuyển của tình hình và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam cũng như theo bối cảnh lịch sử Việt Nam thời đó”(NTT, Giao Điểm, SĐD, tr.9) để dối gạt triều đình và cứu nguy cho Pháp ! 4. Nhà nuôi trẻ: Sử gia Hoàng Thanh Đạm viết “...Một kiến nghị thực tâm thiện chí như thế bị anh Nguyễn Kha thêm vào mấy chữ “do giám mục tình báo Gauthier cử người điều khiển” lập tức biến thành một âm mưu hại nước” (HTĐ, SĐD, tr.122). Như tôi đã viết trong bài, Nguyễn Trường Tộ lộng giả thành chơn; ông đưa ra một vài nhận định trông có vẻ hợp lý để đánh lừa, nhưng mục đích không phải nói cái nầy mà cái khác, cái hậu ý đàng sau đó. Nói theo kiểu người miền Nam:“Nói dậy nhưng không phải dậy ”. Tôi cũng đã đưa ra hai thí dụ về vai trò của các giáo-sĩ thời bấy giờ. Thứ nhất là vụ Linh-mục Ân ở Xuân Hòa (Huế). Thứ 2 là vụ Thiên Tân Giáo Án ở Trung Quốc (Nguyễn Trường Tộ, Giao Điểm, tr.131-133). Thực ra trong lịch sử có rất nhiều trường hợp phản loạn do người Công-giáo chủ xướng như Lê văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt, chiếm toàn tỉnh Gia Định năm 1835. Giáo-sĩ Marchand (cố Du) đóng vai cố vấn và yểm trợ với âm mưu thiết lập một “Vương quốc Công-giáo ly khai ”. Sau khi triều đình dẹp yên, gần 2000 giáo dân bị chém còn Marchand bị xử “lăng trì”. Cùng thời, tại Bắc-kỳ, Tạ Văn Phụng được các giáo sĩ đổi tên thành Lê Duy Phụng rồi cùng với giáo dân nổi loạn chống lại triều đình với chiêu bài “Khôi phục nhà Lê”. Năm 1850 ở Trung Quốc có loạn “Thái Bình Thiên Quốc” của Hồng Tú Toàn với đạo quân Giê-su đánh chiếm nhiều tỉnh. Hiện tượng núp dưới chiếc áo chùng thâm [3] và xử dụng chiêu bài tự do tôn giáo cho mục tiêu chính trị, cũng được công sứ Bonnal cho biết: “Khi một giáo sĩ đã thiết lập được một xứ đạo trong một làng rồi thì chuyện gì sẽ xảy ra? Người bản xứ từ chối không đóng thuế, tuyên bố không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của ông giáo sĩ, là người đích thân dạy cho giáo dân không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của giám mục...” (Tiến-sĩ Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam, 1858-1897, Hoa-kỳ 1995, tr. 360-361). Ngay cả đến năm 1886 mà ông linh mục Việt gian tên “Trần Lục, quản xứ Phát Diệm...nhận phép của Giám-mục Puginier rồi tiếp viện cho quân Pháp 5 ngàn giáo dân. Vì vậy chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng bị thất thủ” (... père Tran Luc, curé de Phát Diệm… Celui-ci avec la bénédiction de Mgr. Puginier vint à la rescousse des Francais avec 5000 chrétiens. Et Ba Dinh fut pris 뮠F. Rouvier, Loin du pays, Paris 1896, p.103-104, cité par le Father Tran Tam Tinh, Dieu et Casar, Paris 10.1978, pp. 41 & 42). Ngay gần 100 năm sau thời N.T. Tộ, con quạ lúc nào cũng vẫn màu đen: “Những giáo-sĩ Công-giáo tự động trở nên những“tác viên chính trị” tạo thành nền tảng quyền lực chính trị của Giáo-hội bất cứ nơi nào họ dựng lên những cọng-đồng Công-giáo” (Avro Manhattan, Catholic Imperialism and World Freedom, London 1952, P.365, NTT, Giao-điểm, SĐD, tr. 218, bài viết của Tiến-sĩ Vật-lý Trần Chung Ngọc ). Xin xem thêm kế hoạch Liên Minh Thánh và lời tuyên bố của Giáo hoàng Phao Lồ 2 trong cuốn NTT, GĐ, SĐD, tr.153, 154. Giám-mục Puginier cũng cho biết tín đồ Công-giáo là những người Pháp tay trong: “Không có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp cũng giống như cua bị bẻ gãy hết càng” (Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes). Hành động của giáo sĩ và giáo dân như thế mà ông Nguyễn Trường Tộ lại đề nghị mỗi tỉnh mở một nhà nuôi trẻ do giám mục cử người đến điều khiển. Phải chăng, đó không phải là một hành động giúp cua thêm càng để có được một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt Nam do chính các giáo sĩ chỉ huy con chiên dưới trướng họ? Sử gia Hoàng Thanh Đạm phê bình chúng tôi như trên, nhưng ông không nêu ra được một chứng cớ nào để cho thấy nếu theo kế sách đó của ông Tộ thì sẽ không có tình trạng nào đáng tiếc xẩy ra cho tổ quốc ? Giả sử N.T. Tộ có “thành tâm thiện chí” chứ không có âm mưu làm lợi cho Pháp như sử gia Hoàng Thanh Đạm hiểu lầm thì tôi đoan chắc rằng, kế hoạch nầy của N.T.Tộ sẽ giúp cho Pháp đánh chiếm Việt Nam mau lẹ và rút ngắn thời gian đồng hóa dân tộc ta mà thầy của ông từng chủ trương như tôi đã trình bày (NTT, SĐD , tr. 118-128 ). 5. Trọng tâm phê phán nhắm vào tôn giáo?: Đây cũng là một trong những điểm chính mà sử gia họ Hoàng phê bình. Ông còn cẩn thận hơn lúc viết :“Nguyễn Kha dùng tới 77 trang trong 188 trang của luận văn...và Trần Chung Ngọc dành 48 trang trong 70 trang để nói về các vấn đề tôn giáo nhằm phê phán Nguyễn Trường Tộ”. Tôi không xem lại để thấy số trang như vậy có đúng không. Nếu có, cũng không phải vì thế mà bài viết của chúng tôi giảm giá trị. Vả lại, tại sao chúng ta phải tránh né không chịu mỗ xẻ con người và cái tôn giáo đã tác hại cho tổ quốc và cả nhân loại ? Nhưng điều thiếu sót của Hoàng sử gia là không thấy trong hầu hết các bài viết, Nguyễn Trường Tộ đã lồng tư tưởng Thánh-kinh, nói đến giáo hoàng, nhắc tên mấy ông giám mục, linh mục Việt-gian và tình báo rồi đề nghị dùng họ vào việc canh tân và những việc khác. Ông Tộ đã xử dụng hầu hết 58 bản chiêu dụ để nói về Thánh-kinh, để thuyết khách theo sách lược của Pháp, của Vatican và của phái đoàn truyền giáo Hải-ngoại Paris. Dẫu sao, vấn đề quan trọng vẫn không phải ở chỗ tỉ số bao nhiều phần trăm trong bài viết nói về tôn giáo mà vấn đề là bàn đến “canh tân”(?), tại sao nhà thuyết khách họ Nguyễn lại đem những ý niệm sai lầm về Ki-tô-giáo, về Kinh Thánh, giáo-hội, giám-mục, linh-mục vào hầu hết các bản chiêu dụ với dụng tâm gì ? Do đó, nếu chúng tôi có nhiều trang viết về tôn giáo thì đó là điều không thể tránh. Nhưng nếu so với những bản chiêu dụ, chúng tôi thấy Nguyễn Trường Tộ thuyết minh về tôn giáo của ông đến khoảng 90 phần trăm. Và dĩ nhiên, Nguyễn Trường Tộ và có lẽ cả sử gia Hoàng Thanh Đạm chưa biết điều nầy: mấy năm trước đây,“Hội Jesus Seminar”, gồm các giám mục, mục sư, linh mục và các học giả người Công-giáo và Tin Lành, qua nhiều năm nghiên cứu Thánh-kinh, đã khám phá ra rằng “80% Thánh-kinh được ngụy tạo” (Jesus Seminar, which recently declared that Jesus did not say 80% of what is attributed to him. LA Times, 30.3.1991). Vì thế, Thánh-kinh được in thành hai loại mực, đỏ và đen. Mực đỏ là thật, mực đen là ngụy tạo. Thánh-kinh là tôn chỉ của một tôn giáo, cũng như hiến pháp là kim chỉ nam cho một quốc gia. Vậy mà tôn giáo đó lại được thiết lập trên cuốn Thánh-kinh ngụy tạo đến mức độ như thế thử hỏi còn gì là giá trị của nó ? Dẫu vậy, cuốn Thánh-kinh vẫn được xử dụng như một loại khí giới hiệu nghiệm nhất, và mấy chữ “tự do tôn giáo” đã được khai thác triệt-để trong quá khứ để chiếm thuộc địa và đồng hóa dân lành. Ngày nay nhãn hiệu tự do tôn giáo đang bị lạm dụng để ngoại bang theo đuổi một chính sách thực dân mới. Vì thế, Nguyễn Trường Tộ cặp kè với ông giám-mục tình báo và trình bày nhiều về tôn giáo của ông trong hầu hết các bài chiêu dụ là lý do cần phải hiểu . Ông là một trong những người xử dụng chiêu bài canh tân và sách lược tôn giáo nhằm đặt cái thứ có đến 80% ngụy tạo ấy lên đầu dân tộc ta để khống chế trước hết là lãnh thổ và tiếp theo là văn hoá. Chúng tôi không dám bàn thêm vấn đề nầy mà muốn thuật lại lời than phiền cay đắng về đạo Tin-lành và Công-giáo, [4] của vị giám mục Anh-giáo Desmond Tutu, người Phi-châu, được giải thưởng hòa bình Nobel năm 1984, như sau: “Lúc người da trắng đến, chúng tôi có đất đai, họ có cuốn Thánh-kinh. Chúng tôi tin tưởng họ, nhắm mắt lại và cầu nguyện với cuốn Thánh-kinh trong tay. Lúc mở mắt ra, chúng tôi có cuốn Thánh-kinh, còn họ có tất cả đất đai của chúng tôi..” (We have our lands and they came with their Bible. We believe in them and we pray with the Bible in our hands and our eyes closed. When we open our eyes, we have the Bible and they have our lands). Sử gia Hoàng Thanh Đạm có thể cũng chưa có thông tin sau đây:“Từ 1975, số tân tòng Tin Lành Việt-nam thuộc các dân tộc thiểu số tăng 4 lần...Ý niệm về ngày xuống thế thứ nhì của Chúa vang vọng hấp dẫn đặc biệt với dân Hmong...Cọng-sản VN không quên rằng người Pháp đã cho dân Hmong (Mường) tự trị, và Hmong cũng đã được Mỹ hứa hẹn nhiều thứ. Nicholas Tapp, một học giả Hmong, nói, “Dân Hmong luôn luôn muốn có một quê hương riêng...” Vài nhà truyền giáo đã không ngần ngại hứa hẹn với dân Hmong rằng nếu họ chấp nhận đức tin Kitô (Công-giáo và Tin-lành, BK) thì họ sẽ có quê hương riêng, cũng như sự giàu có như người Mỹ” (báo Thời-Luận, Los Angeles, CA. Hoa-Kỳ, 29. 9.1999). Hai cái bánh vẽ: Chúa xuống thế lần thứ nhì để cứu chuộc và giàu có như Mỹ đã làm cho một số bộ lạc dân-tộc Thiểu-số nỗi loạn muốn ly-khai. Mà chính họ lại không biết rằng, ngài Giê-su đã không tự cứu được mình nên bị đóng đinh vào cây Thập-ác, ngài quá đau khổ khóc la, nước mắt chảy tràn trụa. Cứ nhìn vào ảnh tượng của ngài trong nhà thờ thì thấy rõ. Còn sự giàu có, nhìn nước Phi luật-Tân kế cạnh Việt-nam. 80% theo Kitô nhưng có giàu hơn Việt-nam không? Mặc dầu Phi độc lập và tự trị trước Việt-nam từ lâu. Và nhiều quốc-gia Châu Mỹ La-tinh theo Tin-lành toàn diện, lại là những nước nghèo nhất thế giới! Trong lúc đó, Nhật chỉ có 1% Tinh lành, Công giáo không đáng kể, Phật giáo đa số lại là một nước giàu thứ nhì trên thế giới. Những người đi dụ kẻ khác cải đạo để làm hại cho tổ quốc Việt-nam trả lời thế nào? Một trong những chủ trương của tôn giáo độc thần Tây-phương là đổi đạo dân miền Thượng để thiết lập những quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn, chúng tôi đã báo động 6 kế hoạch của họ trong bài “Những Đại Pháp Nạn Của Phật Giáo Việt Nam” trong cuốn “Phật Giáo Trong Thế kỷ Mới” tập I, Giao Điểm xuất bản năm 1996, và được nhắc lại trong cuốn Nguyễn Trường Tộ nói trên. Do đó, tháng 2 năm rồi (2001), tại Pleiku người sắc tộc đòi độc lập tự trị, chúng tôi đã biết trước nên không ngạc nhiên . Mấy thí dụ trên cho thấy đến thế kỷ nầy mà người ta còn trắng trợn chủ trương như thế huống nữa là thời ông Nguyễn Trường Tộ. Và do đó, một lần nữa chúng ta thấy rõ hơn tại sao ông Tộ lồng ý niệm Thánh-kinh, nói về Thượng-đế, nhắc đến giáo sĩ... vào hầu hết các bài khuyến dụ. Nghiên cứu ông Tộ hơn 20 năm mà Hoàng sử-gia vẫn chưa thấy cái chiêu bài tôn giáo lại còn phê bình sai: “Trọng tâm phê phán của N. Kha và T. C. Ngọc đối với N. T. Tộ tập trung nhất vào vấn đề tôn giáo” (HTĐ, SĐD. tr. 105). 6. Thực tâm mở Trường Kỹ Thuật?: Bài viết trước đây, tôi đã dành gần 20 trang (từ tr.110-130) để bàn luận về vấn đề nầy một cách khá đầy đủ, từ việc tốn kém mua sắm dụng cụ đến việc khao đãi của nhà vua và sự tán đồng chương trình mở trường kỹ thuật của các quan đại thần trong triều. Tôi cũng nêu lên lập luận sai lầm của Linh-mục Trương Bá Cần về lý do khiến việc mở trường thất bại, cũng như sự mâu thuẫn giữa lý lịch do Bộ Truyền Giáo Paris cho biết và tờ trình về khả năng các thầy giáo mà Tộ và Gauthier trình lên vua Tự-Đức . Tôi nghĩ là vì thiếu thận trọng và cố tình đánh bóng cho ông Tộ, nên Lm Tiến-sĩ sử học Trương Bá Cần đã để lại vô số mâu thuẫn và sai lầm trong sách của ông mà tôi sẽ phê bình vào một dịp khác. Lúc phân tích và đối chiếu sự mâu thuẫn nầy, tôi để đoạn văn trong ngoặc kép và in chữ nghiêng rõ ràng. Nhưng sử gia Hoàng Thanh Đạm trích sai rồi chê tôi, và ca ngợi Nguyễn Trường Tộ điều mà ông ta không hề có. Hoàng Thanh Đạm viết (trang 122): “Anh (Nguyễn Kha) chứng minh việc thầy giáo không có khả năng là: một ông thi đậu cử nhân văn chương mà nói là biết phép toán học, bản đồ và điện khí, một ông thì mới gia nhập Hội-truyền-giáo, đi học khóa kiến trúc một năm mà nói là thạo môn đồ bản và biết làm cột thu lôi...” Ý cũng như lời của đoạn văn nầy không có trong bài viết của tôi. Trái lại, tôi trích nguyên văn của Linh-mục Trương Bá Cần như sau (Nguyễn Trường Tộ, Giao-Điểm 1998, tr.115-117): “Theo một tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23-2-1868): - “Linh mục Thông, (tức Montrouzies) biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi”. Nhưng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 1-5-1867 đã đậu cử nhân văn chương. - “Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ”. Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền Giáo Paris 14-10-1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam. - “Giáo sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi giáo sĩ như Nguyễn Trường Tộ⠣ũng được gọi là giáo sĩ, “thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc”. Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày “giáo sĩ” nầy do bệnh cũ tái phát đã xin về Pháp trở lại”. - “Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca sa nhi) là một người thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài gòn đem về giới thiệu với triều đình, nhưng Ca Xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dùng” (TBC, SĐD, tr. 49 & 50). Đoạn văn trên (trong sách của Linh-mục Trương Bá Cần, người ca tụng NTT) đã cho chúng ta thấy sự mâu thuẫn và lừa dối về khả năng của thầy giáo do Nguyễn Trường Tộ và Gauthier mời về để mở trường kỹ thuật hay không ? Sử-gia Hoàng Thanh Đạm viết bài tranh luận với chúng tôi nhưng trích dẫn sai cả ý lẫn lời. Ông tiếp tục: “Tất cả những chuyện nầy Trương Bá Cần đều viết rõ trong tác phẩm N.T.Tộ Con Người Và Di Thảo, và Nguyễn Kha đều sử dụng tư liệu của Tr.B.Cần, nhưng anh lờ đi đoạn văn quan trọng của Trương Bá Cần: “Triều đình vua Tự Đức lúc bấy giờ chỉ quan tâm tới việc làm sao lấy lại được 6 tỉnh Nam-kỳ đã mất vào tay Pháp (... nên có 3 chấm, BK). Việc dự án mở trường ở Huế không thành là do sự cản trở của Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình là hai vị quan có thế lực trong triều đình (...) Còn có cả một luồng dư luận khá rộng rãi trong triều đình cũng như ở các tỉnh tỏ ra dè đặt, lo sợ trước ảnh hưởng của các giáo sĩ Pháp (...) Những ngày tháng 4.1868 có một sự phản ứng rất dữ dội của các nho sĩ ở khắp nơi đối với người Công-giáo” ( Tr.B.Cần, sđd. tr. 51-53 , Hoàng Thanh Đạm, tr.122-123). Sử gia Hoàng Thanh Đạm trách không đúng. Vì cụ cho đoạn văn đó là quan trọng nhưng tôi không nghĩ như thế. Vì vậy mà tôi không trích chứ không phải “lờ đi ”. Thực ra, tôi đã bác bỏ luận điểm sai lầm của Linh-mục Trương Bá Cần về vấn đề thất bại trong việc mở trường và đã viết rõ như sau: “Qua sự khao thưởng như trên mà tôi trích dẫn dài giòng để thấy, triều đình Tự Đức cũng biết chiêu hiền đãi sĩ. Ngay cả việc vua Tự Đức đồng ý đề nghị của Giám mục Gauthier và Giám mục Sohier xây dựng trường sở trên hai mẫu đất nằm giữa nhà thờ Kim Long và tòa Giám mục Huế, theo thư của Giám mục Gauthier viết ngày 31-3-1868 (TBC, SĐD, tr. 50). “Nhưng việc mở trường chưa bao giờ được thực hiện. Lý do, theo Linh mục Trương Bá Cần là bị Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình, hai vị quan có thế lực trong triều ngăn cản. Cũng theo Linh mục Trương Bá Cần (SĐD trang 52) ngày 31-3-1868, Giám mục Gauthier gởi thư cho bộ truyền giáo có đoạn như sau: “Công việc sẽ tiến triển nhanh hơn nếu không có việc cử phái bộ đi Pháp và những sự chậm chạp của xứ nầy... Trong các quan thượng thư có hai vị cựu trào tìm cách cản trở quyết tâm của nhà vua”. “Linh Mục Trương Bá Cần nêu lý do trên để kết luận “vì thế mà trường không mở được”. Theo tôi lý do nầy không đúng. Thứ nhất, trong tờ tấu của Cơ Mật Viện, ngày 4-3-1868 mà chúng ta đã thấy ở trên, có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình đề nghị ban thưởng cho phái bộ và 4 giáo chức. Điều đó cho thấy, nếu hai vị nầy có ý cản trở thì họ đã không đề nghị vua Tự Đức ban thưởng như vậy. Thứ hai, thư của Giám mục Gauthier gởi cho bộ truyền giáo, đề ngày 31-3-1868, nghĩa là 27 ngày sau khi bảy vị đại thần đề nghị ban thưởng cho “phái bộ Gauthier...”. Thư cho biết, vua Tự Đức đồng ý dùng hai mẫu đất để xây trường sở. Sự đồng ý của vua Tự Đức không thể không có sự tham khảo với các đại thần trong đó có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình. Hơn nữa Trần Tiễn Thành mới là nhân vật chính trong Triều (chức phụ chính) sau vua Tự Đức chứ không phải Nguyễn Tri Phương hoặc Vũ Trọng Bình. Thứ ba, Linh mục Trương Bá Cần trích dẫn chỉ có một đoạn thư “gởi cho bộ truyền giáo" như trên, không nói lên được điều gì cho thấy hai vị thượng thư đó cản trở. Việc trích dẫn như vậy không rõ ràng, không chứng minh được luận điểm mà Linh mục Trương Bá Cần muốn nói. Theo tôi, những lý do chính để việc mở trường không thành vì triều đình Tự Đức quá tin tưởng Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ, trái lại hai ông nầy thì lừa dối triều đình có hậu ý: kẻ thì ngu muội chạy theo ngoại bang, người thì khoác áo chùng thâm để làm gián điệp. Sau đây là một số bằng chứng” (8 đoạn chữ nghiêng trên là trích nguyên văn trong cuốn NTT, Giao-Điểm, tr.113-115). Sử-gia Hoàng Thanh Đạm đọc nhưng không thấy được các chứng cớ tôi đưa ra, nên đã nhận định sai lầm về những sự kiện lịch sử cũng như về người mà mình đang tranh luận. Vì thế ông viết tiếp: “Rõ ràng việc mở trường ở Huế không thành là do nguyên nhân thời thế chứ không phải do giám-mục Gôchiê và Nguyễn Trường Tộ là người đã cất công đi lo toan việc nầy trở mặt đánh lừa nhà vua bằng cách chọn thầy dạy học thiếu năng lực. Vả lại có ai cấm một cử nhân văn học mà có thêm hiểu biết về kỹ thuật, một linh mục học về kiến trúc một năm mà có được khả năng dạy vẽ đồ bản và cách làm cột thu lôi. Lời buộc tội của hai bạn Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc thật là gượng ép” (HTĐ, SĐD, tr.123). Về nội dung đoạn văn này, tôi không những đồng ý cách đánh giá của sử-gia Hoàng Thanh Đạm về khả năng thầy giáo, mà còn muốn nói thêm rằng bằng cấp chỉ là một nấc thang giá trị nào đó của học vấn, chứ nó không nhất thiết sẽ cho thấy kinh nghiệm và khả năng chuyên môn của họ. Một chuyên gia không cần có bằng cấp nhưng có thể có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn về vấn đề mà mình muốn dạy cho người khác. Trong bài tôi không hề nói ông thầy giáo nầy chỉ có bằng cử nhân văn chương, ông linh mục kia chỉ có bằng kiến trúc sư ... Mà tôi trích văn thư của Bộ Truyền-giáo qua LM Trương Bá Cần. Rất mong sử gia Hoàng Thanh Đạm nên đọc kỹ hơn lúc tranh luận để tránh tình trạng “Trật đường rầy” (out of context). Giả sử không có ai cản ngăn và không vì hoàn cảnh v.v...như Lm. Trương Bá Cần nêu ra, nghĩa là trường kỹ thuật được mở như dự liệu, thì xin Sử-gia Hoàng Thanh Đạm cho biết bốn ông thầy giáo nêu trên với khả năng và tư cách (mà Bộ Truyền-giáo của họ cho biết) như thế, liệu họ có thể dạy cho trường kỹ thuật được không ? Tôi nghĩ không. Nhưng nếu có ai trả lời có thì câu hỏi khác được nêu ra: thầy trò gián điệp Gauthier - Nguyễn Trường Tộ một mặt : muốn “biến Bắc-kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ ” rồi đồng hóa toàn dân Việt Nam như tài liệu mật đã cho thấy, mặt khác lại muốn giúp dân Việt Nam tiến lên để giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân qua con đường giáo dục kỹ thuật, phải chăng không có một sự mâu thuẫn quá lớn ? Trong sách (từ tr.117-129) tôi đã dẫn 5 sử liệu mật của Pháp cho thấy Giám-mục Gauthier là một tên gián điệp nguy hiểm nhất tại Việt Nam thời bấy giờ, ông ta chỉ thua ông giám mục gian ác nhất, Puginier, có một bậc! Còn Nguyễn Trường Tộ ít nhất là 10 năm ròng rã, từ lúc ra cửa Mành-sơn, phụ sức “làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm” vào năm 1858, đến lúc lao xao mở trường kỹ thuật vào 1868, vai kề vai lòng cạnh lòng với tên gián điệp Gauthier mà không biết ông ta là gián điệp, có ai tin nỗi điều đó không? Câu “thầy sao trò vậy”, va蠦#147;Cho tôi biết anh lân la với ai tôi sẽ nói anh thuộc thành phần nào” (Dire moi qui tu hantes je dirai qui tu es) sẽ không sai trong trường hợp Nguyễn Trường Tộ. Giả sử Nguyễn Trường Tộ thật tình không biết thầy mình là tên gián điệp phá nước mình, hại dân ta, thì việc ông lớn tiếng tự khoe cái gì cũng biết (NTT, GĐ, tr.177) sẽ trở thành một kẻ đại ngôn khoác lác và dối trá. Nếu biết mà không tố cáo lại còn viết “... xin giám mục giúp đỡ... Đừng cho giám mục biết tôi đã bàn với triều đình như thế..., Những việc Giám-mục Gauthier có thể giúp”, như thế thì quả thật đó là một loại ngôn ngữ kiểu gián điệp để đánh lừa những người nhẹ dạ cả tin mà thôi. Nên dùng ngữ nghĩa nào để đánh giá N.T. Tộ đây? 7. Bình Tây Sát Tả?: Sử gia Hoàng Thanh Đạm cho chúng tôi có tư tưởng “Bình Tây sát Tả ”. Đó là lời cáo buộc chỉ đúng một nữa, Bình Tây. Cũng như nghĩ rằng chúng tôi viết bài theo lối đặt hàng, và không muốn nước nhà canh tân đổi mới. Xin trả lại những ý nghĩ không có cơ sở và vu khống này cho sử gia. Mong rằng, không nên cáo buộc bất cứ người nào lúc mình không có bằng chứng. Trở lại vấn đề bình Tây sát Tả. Sở dĩ chúng tôi không có tư tưởng“Sát Tả” vì tín đồ Công-giáo và Tin-lành nguyên họ là những người Việt chân thật đầy lòng yêu nước thương nòi. Nhưng lúc trở thành con chiên, chính sách giáo dục của hai tôn giáo nầy đã biến họ từ một người Việt yêu nước thành những kẻ bán nước. Do đó, họ là nạn nhân của các ông giáo hoàng, nạn nhân của các ông giám-mục, linh-mục và mục sư, mà trên hết là nạn nhân của hai cuốn “Thánh” kinh; Tân-ước và Cựu-ước. Vì thế, như trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ, Thực chất con người và di thảo” trước đây, chúng tôi đã chứng minh rằng tại Việt-nam, các tín đồ Phật-giáo, Khổng-giáo và Lão-giáo không bao giờ bị triều đình hay vua chúa trừng phạt, nhưng chỉ có các tín đồ đạo Ki-tô bị mà thôi vì lý do như đã nêu trên. Đó là mấu chốt của vấn đề, chứ chẳng phải có gì khó hiểu để sử gia Hoàng Thanh Đạm cho rằng chúng tôi không hiểu được cái nghịch lý của thời cuộc, nghịch lý tôn-giáo và nghịch lý của triều-đình. Để rõ hơn, chúng ta nên lắng nghe những lời phát biểu sau đây: Giáo-sư Lý Chánh Trung, một trí thức Công-giáo trong cuốn “Tôn Giáo và Dân Tộc” phát biểu rằng ‘Đặt mình vào địa vị của các vua quan nhà Nguyễn thời bấy giờ, chúng ta cũng không thể làm khác hơn được’. Đô-đốc R.de Genouilly cũng khẳng định: “Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Công-giáo, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ” (các giáo sĩ, BK). Hiến pháp 1917 của Mễ Tây Cơ đặt giáo hội Công-giáo ra ngoài vòng pháp luật, mặc dầu 80% dân Mễ theo Công-giáo. Giáo-hội Công giáo Mễ bị truất hữu tài sản, linh mục và bà xơ bị cấm không được dạy học, không được nuôi trẻ, không có quyền bầu cử, ứng cử, ra đường không được mặc áo dòng...Sở dĩ hiến pháp phải buộc chặt tay họ như thế vì sợ họ bán nước cho ngoại bang như họ đã từng làm trong quá khứ. Ngay cả đến ngày nay mà nhân loại còn đặt mình trong tình trạng báo động về Ki-tô-giáo (Công-giáo và Tin-Lành). Thật vậy, quốc hội Nga ngày 22.7.1997 thông qua một dự luật với đa số tuyệt đối “Cấm Tin Lành và Công-giáo truyền đạo tại Nga, ngoại trừ Hồi, Do Thái, Phật và Chính-thống-giáo” (It pleges respect for Islam, Judaism, Buddhism, and the nation’s largest faith, Russian Orthodoxy. LA Times, Wed. July 23, 1997). Còn Do-thái và hầu hết các quốc gia Hồi-giáo, vì an-ninh quốc-gia, vì chủ quyền đất nước và toàn vẹn lãnh thổ, nên họ không bao giờ cho phép các giáo-sĩ Kitô đến truyền đạo trên đất nước họ. Dẫu vậy, cũng chẳng có cường quốc nào hoặc tổ chức nhân quyền nào lên án vi phạm tự-do tôn-giáo và nhân quyền đối với các nước nầy. Gần chúng ta, hiện nay Trung Quốc cũng vẫn còn sợ cái “Đạo quân thứ năm (Fifth Column) là Công giáo và Tin-lành, đang mai phục sẵn trong nội địa ! Vì thế, trước ông Nguyễn Trường Tộ cả trăm năm, đại tư tưởng gia Voltaire (1694-1778) đã nhận định “Suốt 17 thế kỷ qua, Công-giáo và Tin Lành chẳng làm nên tích sự gì, chỉ có hại mà thôi ” ( The Christian sect has done nothing but harm). Tháng 2, 2001, đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin Lành ở Pleiku đòi độc lập tự trị. Vì an ninh quốc gia và vẹn toàn lãnh thổ, và giả sử đó là chính quyền do Sử-gia Hoàng Thanh Đạm lãnh đạo, tôi không nghĩ là ông có thể ngồi yên ? Thế kỷ 17, sau những cuộc nổi dậy của giáo dân, chính phủ Nhật nhờ có Hòa Lan giúp sức, đã tiêu diệt được những kẻ nội thù trên quê hương họ vào năm 1637. Do đó, lúc canh tân, Nhật không bị các lực cản. Còn Việt Nam, giả sử vua quan nhà Nguyễn có chương trình canh tân, thì chính thầy trò Nguyễn Trường Tộ sẽ chống phá trước tiên. Vì nếu không, làm sao ông Giám-mục tình báo Gauthier thực hiện được kế hoạch “biến Bắc-kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ” như ông đã từng chủ trương? Gauthier là một tên gián điệp cao cấp, tôi đã chứng minh bằng 5 tài liệu mật không thể chối cãi! Vì vậy, cựu thẩm phán Charlie Nguyễn, vốn là một trí thức Công-giáo, đã hô lớn: “Cách mạng 1 tháng 11, 1963 Muôn Năm. Điện Biên Phủ Muôn Năm. Bình Tây Sát Tả Muôn Năm” (Charlie Nguyễn, “Công-giáo Trên Bờ Vực Thẳm”, Giao Điểm, hè 2001, tr.). Mặc dầu chúng tôi chỉ đồng ý việc “bình Tây” mà không “sát Tả ”, nhưng mỗi người có một cách nhìn chủ quan tuy cùng phát xuất từ tinh thần yêu nước như chúng ta. Vì thế, suy nghĩ chín chắn và nhìn lịch sử theo chiều dài của nó, từ đó có thể rút ra được một bài học để tránh những tái phạm. Một số vấn đề khác mà nói ra sẽ bị mất lòng, đụng chạm và dễ bị hiểu lầm. Nhưng dù nói hay không, thì nó là một sự thực không thể chối cãi. Đó là Phật-giáo, Cao Đài và Hòa Hảo, tuy có số lượng tín đồ đông tại nhiều nơi ở Việt Nam nhưng họ không bao giờ đòi độc lập tự trị. Trái lại, nếu là Công-giáo hay Tin-lành thì sự việc sẽ xảy ra. Lúc ở thế yếu, họ kêu gọi đoàn kết và hô hoán “không có tự do tôn giáo”. Nhưng lúc mạnh, họ giết và cưỡng bách kẻ khác phải theo họ, đổi đạo. Ngay cả những vấn đề như hôn nhân giữa các cặp vợ chồng, họ cũng “bắt bí”, cũng như lợi dụng hoàn cảnh tang chế của những gia đình nghèo để vào phút lâm chung cải đạo người ta. Tình trạng nầy đã kéo dài từ lâu, nay vẫn còn tiếp diễn. Thật là một sự vi phạm nhân quyền và chà đạp quyền tự do tôn giáo trắng trợn và phi lý đến thế ! Vậy mà cứ mở miệng ra là hô hoán “Vi phạm nhân quyền, chà đạp quyền tự do tín ngưỡng ”. Làm như hai thứ đó là đặc sản của riêng họ, không ai được phép đụng đến ! Hơn tám cuộc “Thánh” chiến đẫm máu trong lịch sử nhân là một bài học bi thảm. Đông Timor ở Nam Dương, sau bao năm biểu tình bạo động xương rơi máu đổ, đã độc lập tự trị sau một cuộc bỏ phiếu (tháng 8, 1999) là một bài học khác. Tin Lành và Công-giáo tại Bắc Ái Nhĩ Lan đang còn chém giết nhau vì số lượng tín đồ của hai tôn giáo nầy xấp xỉ bằng nhau. Tại Việt Nam, nếu một ngày nào đó số lượng con chiên Công-giáo và Tin-lành tăng lên ngang ngửa với tín đồ các tôn giáo khác thì Việt Nam sẽ nội chiến, và sẽ có nhiều tiểu quốc tự trị trên giải đất hình cong chữ S! Do đó, bất cứ ai, có thái độ “bảo hoàng hơn vua”, không dám đối diện với sự thực hoặc uốn bút theo thời, xa rời lịch sử là điều rất đáng phàn nàn và đắc tội với tổ quốc. Sử gia Hoàng Thanh Đạm viết: “Trong lịch sử các tôn giáo khác nhau công kích nhau thậm tệ là chuyện bình thường. Có khi còn chém giết nhau nữa”. Chúng tôi cũng biết sử gia muốn nói gì trong câu nầy. Chúng tôi chỉ mong rằng ông đừng sợ, cứ nói rõ tên đó là tôn giáo nào, như thế câu văn mới đủ nghĩa. Và nếu khách quan, chúng ta sẽ thấy trong suốt chiều dài lịch sử, Phật-giáo chưa bao giờ và sẽ không bao giờ làm đổ máu bất cứ một ai để bảo vệ hay bành trướng hoặc bất cứ một lý do nào khác. Trong giáo lý đạo Phật, không có chỗ nào Phật dạy phải làm hại kẻ khác, kể cả các sinh vật hữu tình lẫn vô tình. Từ đó để thấy cuộc khủng bố tại Mỹ tháng 9 năm 2001 vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ thêm rằng từ nhiều ngàn năm nay, phần lớn các cuộc chiến tranh đều phát xuất từ tôn giáo, nhưng trong đó không có Phật-giáo. Chú thích: [1] Trong cuốn “NTT, GĐ, tr.8, phần chú thích tôi đã viết: “Bài viết nầy tôi không tìm hiểu mức độ chính xác của việc dịch các bài Điều Trần từ nguyên bản chữ Hán và lúc sao chép từ bản gốc, người chép lại có thêm bớt hay bỏ sót câu nào hoặc đoạn nào không” . [2] Đó là chưa nói đến, những gián điệp văn hóa và tình báo được ngoại bang huấn luyện rồi để lại trên đất nước Việt-nam sau năm 1975. Những thành phần nầy, thường cố tình tráo trở lịch sử để chạy tội và để phục vụ cho ngoại bang [3] Áo màu đen, rộng của các giáo-sĩ. [4] Lúc so sánh sự tác hại giữa Công-giáo và Tin-lành, Đại-tá Robert Ingersoll ví Công giáo như con cá sấu lớn (alligator) và Tin-lành như con cá sấu nhỏ( crocodile) [Công-giáo chính sử, Trần Chung Ngọc, tr.259-260]. III. NHỮNG MÂU THUẪN VÀ SAI THỰC TẾ Để thấy rõ hơn về ông Nguyễn Trường Tộ, chúng tôi tóm lược một số mâu thuẫn và sai thực tế giữa ý kiến của ông và tình hình chính trị cũng như thực trạng xã hội lúc bấy giờ. 1. Nguyễn Trường Tộ: “Ai hòa với họ là phúc, chống lại họ là họa... hòa với Pháp là thượng sách... nên cho lính nghỉ ngơi... để Pháp giữ bờ cõi cho mình như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới... Quân ta mới nghe thanh thế Pháp đã phách lãng hồn xiêu...”. Nhưng các tài liệu mật của Pháp cho thấy từ 1858 đến năm 1863, tình hình quân đội Pháp tại Việt Nam vô cùng nguy kịch. Họ có ý định rút về và bỏ hẳn mọi mưu toan đánh chiếm Việt Nam. Hơn nữa, lúc tổ quốc lâm nguy, giang sơn bị quân thù chiếm đóng mà “Cho lính nghỉ ngơi” thay vì tổng động viên. Một “danh nhân” cho đất nước nào mà kỳ quái đến thế ? 2. Nguyễn Trường Tộ: “Tại sao giết giáo sĩ ”. Ý kiến của Đô-đốc R. De Genouilly: “Không một nền cai trị nào, dẫu phục vụ cho đạo Công-giáo, lại có thể dung thứ...” 3. Nguyễn Trường Tộ: “... giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống gian tà,... chẳng liên quan gì đến việc tranh thành tranh đất cả ”. Nhưng Đô-đốc Boanrd (ngày 24.7.1862) cho biết: “Nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ phủ nhận tính chính thống của vua nầy, và khi lật đổ được triều đình hiện tại, thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ... Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha, thường chiếm cứ miền thượng du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn”. 4. Nguyễn Trường Tộ: “Lúc đầu dân bản xứ xem họ như thù địch, dần dần chịu gần gũi... những người dân ở đây đã học được hết những kỹ xảo của người phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đã đuổi được người phương Tây ra khỏi đất mình... Họ là kẻ phở hoang mà ta thì hưởng cái thành quả” ! Tộ viết như vậy để thuyết phục Việt Nam hợp tác với Pháp. Nhưng lịch sử cấu trúc của Hoa Kỳ không cho thấy như thế. Ông viết tiếp: “Xin kể ra các phương pháp làm hột nổ và đúc súng, đúc kim loại, cùng các môn quang học, cơ học, hóa học, khai thác mõ than”. Nhưng đọc trong bài và kể cả các bài chiêu dụ khác chúng ta cũng không thấy ông nêu ra một phương pháp nào cả. 5. Nguyễn Trường Tộ: “Rồi ta lại qua nước La Mã thông hiếu với giáo hoàng...” để nhờ giúp đỡ. Nhưng kể từ Giáo-hoàng Innocent X, 1652, đến những ông giáo hoàng kế tiếp, tất cả đều vận động để Pháp chiếm nước ta. Dưới đây, là vài sử liệu thu gọn: “Bí thư của phái đoàn Pháp ở Trung Quốc... tiếp xúc với các đại diện Giáo-hoàng ở Thái Lan, Việt Nam và Kampuchia. Căn cứ vào các tin tức do những người này cung cấp, chính phủ Pháp đã quyết định phái Montigny thực hiện sứ mệnh trong vùng này... các vận động được hỗ trợ bằng sự can thiệp của các nhân vật quan trọng như Tổng-giám-mục Bonnechose ở Rouen và của chính Hoàng-hậu, bà này đã thuyết phục được vua, dù lúc đó vua không có kế hoạch thực dân nào rõ rệt. Các vận động này được thực hiện bởi hai người truyền giáo: Linh-mục Huc,... cựu đại diện Giáo-hoàng ở Trung Quốc... và Giám-mục Pellerin đại diện Giáo-hoàng tại Bắc Nam-kỳ”... Kế đến tháng 11, Giám-mục Pellerin đi Rôma, Giáo-hoàng Pie IX tán thành các vận động...” (đánh chiếm Việt-nam, BK). Do đó, tôi đã kết luận: Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình thương hiếu với giáo hoàng cũng tương tự như khuyên cha mẹ gởi con cho cọp. 6. Nguyễn Trường Tộ: “Gấp rút việc sửa đổi võ bị”. Nhưng về chiến lược, thì ông cóp nhặt ý trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp. Về binh, ông khuyên nên cho lính nghỉ ngơi thay vì phải tổng động viên, phải nghiên cứu phương pháp huấn luyện như thế nào, đánh theo cách nào cho hợp với tình hình mới và các phong trào nghĩa quân hiện có nên chỉnh đốn bổ túc thế nào để chống Pháp có hiệu quả hơn, v.v... Giả sử đất nước có điều kiện và phương pháp để canh tân, và ngay cả trong thời bình, cũng cần binh lính để giữ an ninh trật tư,uống nữa là thời chiến mà lính thì ông Tộ khuyên nên cho nghỉ ngơi. Thật là nghịch lý! Còn giải pháp nhờ người Anh huấn luyện lính cho ta mà ông Tộ đề cập trong bài “Lục lợi từ”, tôi đã chứng minh là không thể thực hiện được. Hơn nữa, dụng tâm chính của Tộ là dụ triều đình gởi con cho cọp. Tất cả các bài chiêu dụ, trong đó có bài LLT, của Tộ cũng được viết theo tình hình chính trị của Pháp và Việt Nam thời bấy giờ để bủa lưới, nhưng được ngụy trang và theo lối tình báo để che đậy cái hậu ý của mình, chứ chẳng phải canh tân canh cải gì đâu mà lầm! Để rõ hơn xin đọc tiếp dưới đây. 7. Nguyễn Trường Tộ: “Giờ đây trong số các quan viên văn võ có những vị nào quê ở lục tỉnh Nam-kỳ, triều đình phải đặc biệt ưu ái họ. Cho họ thường xuyên về thăm anh em họ hàng. Phải đãi ngộ họ thân mật nồng nàn hơn trước, khuyên bà con họ hàng của họ không nên dời nhà cửa đi nơi khác, đừng lánh đi xa” (Di Thảo số 27, TBC, SĐD, tr.239). Tại sao Tộ khuyên như vậy ? Vì dân Nam-kỳ lúc đó đã làm cho thực dân khó bình định các vùng mới chiếm, như Sử-gia Chesneaux mô tả:“cuộc ra đi” hàng loạt của các bậc sĩ phu và của dân chúng, rời bỏ các tỉnh miền Đông Nam-kỳ bị người Pháp chiếm đóng, để về vùng tự do ở miền Tây, và tổ chức kháng chiến. “Thái độ bất hợp tác chung khắp nơi đó buộc các đô đốc toàn quyền, muốn duy trì bộ máy hành chính Pháp tại Nam-kỳ, chỉ còn xử dụng được một số tối thiểu những công chức Việt Nam (phiên dịch, thư ký...) mà thôi. Và duy chỉ có những phần tử kém hạnh kiểm nhất trong dân, tình nguyện đứng ra phục vụ cho những ông chủ mới. “Đề-đốc Rieunier, về sau, nói rằng “Chúng tôi chỉ có những giáo dân và bọn du thủ du thực” (Xin xem thêm NTT, Giao Điểm, SĐD, tr.59-65). Đó là thêm một bằng chứng cho thấy cái tâm địa và hành trạng của ông Tộ, là một người “phục vụ những ông chủ mới”, một phần tử trong“những giáo dân và bọn du thủ du thực” núp dưới chiêu bài canh tân ! Chúng ta nên thận trọng, chớ lầm. 8. Nguyễn Trường Tộ: “Bổ túc kế hoạch đánh-úp Gia Định” viết ngày 9.2.1871. Vì tình yêu tổ quốc và tự ái dân tộc, nên cụm từ “Kế hoạch đánh úp Gia Định” dễ khiến chúng ta có nhiều thiện cảm và kính trọng Nguyễn Trường Tộ, tác giả của kế hoạch. Sử gia Hoàng Thanh Đạm cũng nằm trong cái tâm tư yêu nước đáng quí ấy nên ông viết : “Thế rồi thời thế chuyển biến: năm 1870 nổ ra chiến tranh Pháp-Phổ. Pháp thua to,vua Pháp Louis Bonaparte bị bắt làm tù binh tháng 9-1870, rồi nổ ra cách mạng Công-xã Paris tháng 3-1871. N.T.Tộ thấy rõ đây là một cơ hội rất tốt phù hợp với điều ông dự đoán“cơ hội khôi phục phải sau 10 năm (N.tr.Tr.316). Từ tháng 2 đến tháng 5.1871 ông liên tục viết 7 bản điều trần liên quan đến kế sách khôi phục: Kế hoạch thu hồi 6 tỉnh Nam kỳ. Bổ túc kế-hoạch đánh úp thành Gia-định,” v.v. (HTĐ, SĐD, tr. 116 & 117). Sử gia bị thu hồn vào mấy chữ “kế hoạch thu hồi, kế hoạch đánh úp, cũng như kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh, chú trọng thực dụng, phải đổi mới, canh tân, v.v. ”, rồi cứ thế mà ca tụng ông Tộ lên tận mây xanh, chứ không chịu tìm hiểu xem các đề nghị được lồng dưới các cụm từ hoa mỹ đó có gì mâu thuẫn, khả thi và dụng tâm của N.T.Tộ là gì? Tôi nghĩ rằng Hoàng sử gia không phải nhọc công nghiên cứu ông Tộ đến 20 năm, mà chỉ cần khách quan tìm hiểu các đề nghị rồi đối chiếu với sử liệu, là sẽ cảm thấy vô cùng thất vọng vì những mâu thuẫn nội tại, sai lầm, phi-lý và dối trá trong hầu hết 58 bài chiêu-dụ của ông, và đặc biệt, cái gọi là “Kế hoạch đánh úp Gia-định”. Thật vậy, trước đó 7 năm (1863), ông đề nghị cho lính nghỉ ngơi để thực dân Pháp giữ bờ cõi cho mình. Năm 1868, La Grandiere bất chấp lệnh của chính phủ ông là “Không được chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam-kỳ”, nhưng y vẫn làm. Vua Tự Đức phản đối việc nầy và định cử sứ bộ qua Pháp tố cáo La Grandiere đã lạm quyền và đòi trả lại 3 tỉnh mới chiếm. Nếu sứ bộ đi Pháp thì có thể 3 tỉnh ấy đã được trao trả, nhưng ông Tộ viết bài chiêu dụ cản ngăn. Đến nay (1870), Pháp thua Phổ nhưng đã “cho lính nghỉ ngơi ” từ lâu lấy ai để đánh? Ông lại “bày mưu” đánh. Nhưng đề nghị bí mật tuyển người từ Bắc, Trung và một số khác tại địa phương, chứ không hề đề cập đến các phong trào đang kháng Pháp tại Nam-kỳ và kêu gọi họ hợp tác hay ủng hộ để đuổi kẻ thù chung? N.T.Tộ còn nói ông cũng vào Gia Định để chỉ huy nhưng ngụy trang đi giảng đạo, và đồng thời báo tin cho ông Giám-mục tình báo Ngô Gia Hậu (Gauthier) biết. Trong bài chiêu dụ nầy, có thêm vài chi tiết rất quan trọng khác chúng ta cần lưu ý: (a) Ông Tộ tiết lộ: “ Như lần trước, lúc tôi ở Gia Định, nguyên soái Gia Định đã nhiều lần muốn đem công việc bộ Công giao hết cho tôi ”(T.B. Cần, tr. 327). Điều nầy cho thấy ông ta được đô-đốc La Grandiere, tin dùng đến mức“đem công việc bộ Công giao hết cho” y. (b) N.T.Tộ viết :“Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế(Khoản nầy các câu bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc bị vùi dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết” (T.B. Cần, SĐD, tr.330). Tại Gia Định làm gì có sông nào, đê nào ngăn nước để phá để chôn thuyền như thế ? Và dưới đây là một đề nghị hết sức quan trọng: © Nếu N.T.Tộ đề nghị đánh gấp, thì ông ta quả tình là một người yêu nước không còn phải bàn cãi. Nhưng rất tiếc, ông viết :“Kế nầy phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành” (T.B. Cần, SĐD, tr.331). Thời gian “hai năm” đã tố cáo cái dã tâm của ông. Thế mà một sử gia đã nghiên cứu ông ta đến hơn 20 năm mà vẫn không thấy hoặc cố tình không muốn thấy ? Thật vậy, ông Tộ nói đến chuyện đánh nhưng không phải đánh ngay bây giờ; sau tháng 9, 1870, thời cơ đã đến, mà phải hai năm sau, tức là 1873. Tại sao vậy? Vì nếu đánh bây giờ thì ta nhất định thắng mà Pháp chắc chắn thua. Đó là điều mà ông Tộ, những người Việt-gian và thực dân không bao giờ muốn ! Cáo buộc N.T.Tộ không muốn Việt-nam thắng Pháp có oan không, chứng minh ? Một, như trên đã nói, ông Tộ đề nghị xử dụng những thường dân (không phải lính) chiêu mộ từ Bắc, Trung, Nam chứ không kêu gọi nghĩa quân tại địa phương, người vừa có tinh thần chiến đấu vừa đã được huấn luyện và có kinh nghiệm v.v., thì làm sao thắng được ? Hai, lịch sử cho thấy nếu đánh vào giai đọan sau tháng 9.1870 Việt Nam nhất định thắng. Dưới đây là sử liệu: “Ở Âu-châu, chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Phổ ngày 19.7.1870, nhưng mãi tới ngày 5.8.1870 tin ấy mới tới Sài Gòn. Cornulier-Lucinere vội cho tổ chức sự phòng thủ sông Sài Gòn vì sợ rằng Triều-đình Huế thừa cơ hội mà tiến quân xuống miền Nam hay ra lệnh cho Lục-tỉnh Nam-kỳ nổi loạn. Song cả cho đến ngày 25.9.1870 là khi tin quân Pháp đại bại ở Sedan tới Sài Gòn, Triều-đình Huế vẫn án binh bất động. Quốc triều chánh biên toát yếu chép là: “Năm Canh Ngọ tháng 9, nước Đại Pháp đánh với Phổ-lỗ-sĩ, quan Pháp-soái thương cho ta biết, ngài khiế⮠quan thương-bạc hỏi thăm”. Thái độ của Triều-đình Huế còn kỳ quặc hơn khi triều đình tỏ lòng mong muốn quân Pháp sẽ rút khỏi Nam-kỳ để trở về Pháp cứu vãn tổ quốc lâm nguy. Triều đình đã hoàn toàn không lợi dụng những nỗi khó khăn của Pháp khi nền đệ nhị thế chế sụp đổ thay thế bởi một chính thể cộng hòa, và khi mà quân Pháp bị cô lập ở Nam-kỳ” (Nguyễn Thế Anh, SĐD, tr.66). Tình hình chín muồi như vậy, nếu không đánh ngay thì mấy tháng sau đó phải đánh, nhưng N.T.Tộ khuyên phải “hai năm” sau. Ông ta yêu nước nào mà lạ đến thế ? Mấy hàng đầu của bài“Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh” (viết trước bài “Kế hoạch đánh úp Gia-định” 8 ngày) ông Tộ nói “Đại phàm việc thiên hạ, để thời cơ trôi qua mà hối tiếc...gặp thời làm được thì gấp rút ra tay, không bỏ lỡ cơ hội”. Nói một đường làm một nẻo, một người mâu thuẫn dối trá không biết ngượng, thế mà sử gia Hoàng Thanh Đạm cứ cặm cụi ca tụng “một danh nhân văn hóa, một người đã lao tâm khổ tứ lo cho dân cho nước”! Giả sử triều-đình bị mắc lừa bởi kế hoạch của ông Tộ, hai năm sau mới đánh, thì kết quả sẽ thế nào? Hai năm sau tức là năm 1873. Lúc nầy Việt Nam ở vào thế rất yếu nhưng Pháp rất mạnh, khó lòng thắng. Vì tại chính quốc, tình hình chính-trị đã được ổn định, chính phủ mới đã được thành lập. Tại thuộc địa, Pháp đã bình định 3 tỉnh miền Đông Nam-kỳ được 11 năm, và 3 tỉnh miền Tây được 6 năm. Họ rất rảnh tay. Còn tại Bắc-kỳ, chính phủ Pháp ngăn cấm Đô-đốc Dupré về một cuộc phiêu lưu mới tại Bắc-kỳ, nhưng cũng giống như La Grandiere, ông ta không tuân lệnh thượng cấp. Và các viên chức trong tòa lãnh sự Pháp tại Trung Hoa cũng muốn chính phủ họ chiếm Bắc-kỳ như Dupré. Sử liệu cho thấy:“Vào năm 1873, lãnh sự Pháp ở Quảng Đông, Bá-tước Chappedelaine, báo cáo về Paris như sau: “Ở Bắc-kỳ, quan lại An-nam-mít bị thù ghét dữ dội. Không phải dùng đến 2000 người và 4 tuần-dương-hạm, mà chỉ cần phái một tuần-dương-hạm cùng vài pháo-hạm và một đại đội thủy quân lục chiến tới cửa sông Hồng Hà là đủ làm xứ Bắc-kỳ trở thành một thuộc địa Pháp” (J. Dupis, Le Tonkin de 1872 à 1886, Histoire et Politique. Paris,1910, p.125. Dẫn theo Nguyễn Thế Anh, SĐD, tr. 81). N.T.Tộ, một người “yêu nước, cao kiến, sáng kiến lớn” là thế đấy! Trên đây là vài phân tích để thấy cái hậu ý và âm mưu “Đánh úp Gia-định” của N.T.Tộ! Nếu nhìn kế sách nầy dưới khía cạnh tình báo, gián điệp và phản gián, chúng ta sẽ biết thêm một số dụng tâm khác của N.T.Tộ lúc đề nghị “phải hai năm” nữa mới đánh chứ không phải bây giờ. Mời độc giả đọc mục số 9 kế tiếp, để hiểu rõ thêm cái dụng tâm của ông. 9. “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh” : viết ngày 1.2.1871, và“Kế hoạch đánh úp Gia-định” viết ngày 9.2.1871. Hai bài nầy viết cách nhau 8 ngày, mâu thuẫn với nhau và cũng được viết theo kiểu “nước rút”. Tại sao vậy ? Vì tình hình chính trị và quân sự của Pháp quá nguy khốn như sử liệu dẫn trên cho thấy. Tại chính quốc, Pháp bị “tang gia bối rối ” vì thua Phổ. Triều đình Napoleon III bị giải tán, chính phủ mới chưa thành lập, một quốc gia vô chủ. Đó chính là thời điểm nghìn năm một thuở để đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước bằng võ lực, nhưng triều-đình vua Tự-Đức lại quá ngây thơ không chịu đánh. Dẫu vậy, quân đội Pháp tại Nam kỳ dĩ nhiên là thấp thỏm đứng ngồi không yên vì run sợ một trận đánh úp của quân đội Việt-nam có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Do đó, ông Tộ hẳn được lệnh quan thầy phải gấp rút viết các bài chiêu dụ, để “kẻ thù của Pháp” xử dụng con đường ngoại giao thay vì quân sự. Trong đó có việc cử phái đoàn đi Pháp, đi Anh và Y pha-nho để vận động xin lại phần lãnh thổ bị chiếm, chứ không dùng võ trang. Đó là kế đẩy đối phương (Việt-nam) về hướng khác, hướng ngoại-giao. Tuy vậy, khuyên theo kế sách ngọai-giao trông lộ liễu và phi lý quá! ngoài ra, để cầm chắc triều đình Việt-nam theo con đường đi xin chứ không dùng võ lực, nên 8 ngày sau, ông Tộ lại viết bài chiêu dụ “Kế hoạch đánh úp Gia-định” nhằm mục đích nhận diện xem ai xuất hiện đề nghị đánh, thì Pháp sẽ tiêu diệt ngay từ đầu. Và nhóm nào muốn đánh nhưng không thể bắt hoặc cản ngăn được thì dùng kế hoản binh, khuyên không nên đánh bây giờ mà phải “hai năm” sau, như đã phân tích ở mục số 8 nói trên ! Nói gọn, thời vua Tự-Đức có hai cơ hội tốt nhất để đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi. Cơ hội một là từ 1858 đến 1863. Nếu toàn dân và triều đình một lòng quyết chiến chứ không hòa thì Pháp đã rút khỏi Việt-nam như đã chứng minh ở phần trước. Nhưng ông Tộ khuyên nên cho lính nghỉ ngơi, hợp tác và để Pháp giữ bờ cõi cho mình! Cơ hội hai là từ tháng 9 năm 1870 đến nửa năm 1871, Pháp thua Phổ, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Pháp bị rối loạn. Đó là một cơ may hiếm có, nếu đánh thì tất thắng, nhưng ông Tộ khuyên nên theo đường lối ngoại giao. Tuy vậy, vẫn sợ quân đội Việt-nam có thể đánh, nên ông cũng bày ra chuyện đánh, nhưng không đánh bây giờ, mà phải hai năm sau. Nói rõ hơn, mặc dầu Hoàng sử gia hồ hởi ca ngợi, nhưng thực sự 7 bài viết của ông Tộ từ tháng 2 đến tháng 5,1871, chỉ xoáy vào một trọng điểm mang tính sinh tử cho số phận, chiến lược và chính sách thuộc địa của Pháp là tránh, đừng để Việt-nam xử dụng vũ lực đối với quân Pháp tại Nam-kỳ. Và nếu để ý thêm, chúng ta sẽ thấy rằng hầu hết 58 bài chiêu dụ của ông N.T.Tộ cũng chỉ nhắm vào hai điểm then chốt. Một, bằng mọi cách, phải kêu gọi hòa và hợp tác chứ đừng bao giờ để quân dân Việt-nam xử dụng võ lực đối với thực dân Pháp. Hai, xử dụng tất cả các thủ đoạn chính trị lươn lẹo để đưa các ông giám-mục linh-mục lọt vào hầu hết các cơ quan công quyền nhằm Công-giáo hóa rồi Pháp hóa dân tộc ta. Để che đậy các âm mưu ấy, ông Tộ phải giả vờ nguyền rủa Pháp, phải xử dụng những danh từ hoa mỹ, phải bày ra chương trình nầy, kế hoạch nọ để đánh lạc hướng và đẩy triều đình theo con đường mà thực dân Pháp và Vatican mong muốn. Cũng thế, hành động của ông Tộ giống như ông Huỳnh văn Trọng, một điệp viên tình báo cao cấp của miền Bắc, được gài vào chức cố vấn cho cựu Tổng-thống Nguyễn văn Thiệu trước năm 1975 tại Sai-gòn. Ông Trọng phải giả bộ nguyền rủa “Bác và Đảng”, phải chê bai các nước Cọng-sản thậm tệ, phải năng nổ bày ra kế hoạch nầy chính sách nọ v.v., mới có thể che được mắt cơ quan tình báo của Mỹ và Việt-nam Cọng-hoà, để hoàn thành nhiệm vụ mà đảng và nhà nước đã tin tưởng giao phó. Dưới đây, tôi sẽ phân tích một bài chiêu dụ khác của ông Tộ để thấy rõ thêm rằng, cứ mỗi bài viết, ông đều hoàn toàn tùy thuộc vào tình hình và quyền lợi của thực dân Pháp và của Vatican. 10. N.T.Tộ chỉ nhắc tên các giáo sĩ: Cùng thời với ông có những tấm lòng muốn canh tân đất nước như: Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Phan Thanh Giản... và các sĩ phu yêu nước như : Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Thanh, Quản Lịch...N.T.Tộ được gán cho hai chữ “canh tân” và “yêu nước”, nhưng đọc tất cả 58 bản điều trần, chúng ta không thấy có chỗ nào ông Tộ nhắc đến tên vài người Việt nam yêu nước, hoặc nêu tên một vài sĩ phu nói trên để dùng vào việc canh tân, vào việc “đánh úp” mà chỉ thấy ông lặp đi lặp lại nhiều lần tên giáo-hoàng, các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt-gian. Tại sao vậy? Chúng ta nên nghe cuộc đối thoại giữa ông Toàn Quyền de Lanessan và Giám-mục Puginier như sau: “ De Lanessan: Theo ông thì nước Pháp nên đối xử với tầng lớp sĩ phu như thế nào? Puginier: Phải thủ tiêu họ đi. De Lanessan: Tại sao? Puginier: Vì các sĩ phu có một ảnh hưởng rất lớn, một uy tín rất lớn; họ được kính trọng mỗi khi họ ra làm quan, cho nên cần thiết phải thủ tiêu họ đi. Chừng nào tầng lớp sĩ phu còn, thì chúng ta còn phải lo sợ tất cả, bởi vì với lòng yêu nước nồng nàn, họ không thể nào chấp nhận nền đô hộ của chúng ta. Còn một điều nữa là chẳng ai trong họ chịu theo đạo Công-giáo cả.” (Nguyễn Xuân Thọ, SĐD, tr.436-437). Chúng ta nhớ rằng, Gauthier (thầy của ôngTộ) là thuộc hạ của Puginier tại Việt-nam vào giai đoạn ấy. Đó là lý do để giải thích tại sao Tộ không bao giờ nhắc đến tên một sĩ phu nào ngoại trừ các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt-gian. Đầy dẫy những mâu thuẫn và sai lầm trong 58 bài chiêu dụ của ông Tộ, trong sách “Nguyễn Trường Tộ con người và di-thảo” của Lm. Trương Bá Cần cũng như trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ thời thế & tư duy cách tân ” của H. T.Đạm. Nhưng, bài nầy chỉ liệt kê10 trường hợp tiêu biểu nhân lúc viết về một chương sách mà Hoàng sử gia đề cập đến cuốn sách của chúng tôi. IV. KẾT LUẬN Như tôi đã viết trong bài trước đây, đọc hết 58 bản chiêu dụ của Nguyễn Trường Tộ, một vài chỗ ông tỏ ra thành khẩn, có lòng yêu nước và vài đề nghị hợp lý như cải cách phong tục, chỉ huy đào Thiết Cảng. Về kiến thức, so với những thanh niên Việt Nam khác lúc bấy giờ vào tuổi khoảng 35, thì Nguyễn Trường Tộ là người xuất sắc nhờ chu du nhiều nước. Nhưng về những đề nghị gọi là“cải cách” của Nguyễn Trường Tộ, thì dưới đây là một bức tranh khá chính xác về ông ta: 1. Ý thức hệ chủ đạo: ông Tộ phán: “Tạo vật đã định như vậy, sao cưỡng được”. 2. Lúc đất nước lâm nguy: tình trạng quân Pháp suy thoái nguy hiểm muốn rút về, ông khuyên“cho lính nghỉ ngơi” . 3. Về thế quốc tế: “thương hiếu với giáo hoàng La Mã” , như gởi con cho cọp. 4. Cố vấn: ông “Giám-mục tình báo Gauthier có thể giúp”. 5. Trường kỹ thuật: được điều hành bởi “3 ông linh mục” không có khả năng, “còn ông Ca Xanh đòi lương quá cao và nhiều điều kiện không thể dùng”. 6. Nhà giữ trẻ, viện mồ côi: “các giám mục tình báo sẽ cử người coi sóc”. 7. Canh tân đất nước: có “4 ông linh mục” Việt-gian phụ trách : Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Nguyễn Lâu [1] (Tất cả những chữ nghiêng và trong ngoặc kép là của N.T.Tộ và của Lm. Trương Bá Cần ) . Như thế, từ tư tưởng chủ đạo, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, từ ông có thế lực đến gả cố vấn, nhân viên thừa hành đều do ngoại bang, gián điệp và các tên giáo sĩ Việt-gian điều khiển hết ! Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng Nguyễn Trường Tộ cũng như Giám-mục Gauthier là hai tên tình báo song hành, đồng tác giả của 58 bản chiêu dụ, trong đó, ý thì của Gauthier nhưng lời thì của N.T.Tộ. Xuyên qua Gauthier, Pháp và Vatican muốn ông Tộ phải viết như thế nào, lộng giả thành chơn và ngụy trang như thế nào, để có thể dụ được triều đình Việt Nam lọt vào các bẫy sập của chúng. Vì thế, nên chúng ta không lấy làm lạ tại sao những ý kiến trong các bài khuyến dụ của ông vừa trái ngược với tình hình, lại vừa mâu thuẫn với nhau, bủa một mạng lưới Công-giáo toàn cõi Việt Nam . Công-giáo toàn cõi Việt-nam thì sao? Có gì sai trái mà hai ông Bùi Kha và Trần Chung Ngọc“dị ứng” ? Sợ bị hiểu lầm có tư tưởng “Bình Tây Sát Tả”, nên chúng tôi mượn ý kiến và nhận xét của những người Pháp có thẩm quyền để trả lời câu hỏi ấy một cách chính xác như sau: Giám-mục Puginier: “Lúc nào Bắc-kỳ trở thành Công-giáo thì nó cũng trở thành một nước Pháp nhỏ” và “Không có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp như cua bị bẻ gãy hết càng”. Đô-đốc Page: “Không có một người Công-giáo An Nam nào lại không muốn làm lính dưới cờ Pháp”. Công-sứ Bonnal: “Khi một ông giáo sĩ lập được một họ đạo thì giáo dân từ chối không đóng thuế, ...không thừa nhận chính quyền”. Đô-đốc Paul Bert: “Nếu tất cả dân An Nam đều Công-giáo, thì chúng ta sẽ lãnh đạo họ một cách dễ dàng theo ý muốn của chúng ta”. Nguyễn Trường Tộ, một người “yêu nước” nồng nàn, một nhà “canh tân” lớn, một kiến thức “vượt thời đại” đã hăm hở nhưng lại thập thò núp sau màn sa mù canh tân để đưa dân tộc ta vào kế hoạch mà 4 ông thực dân, gồm đô đốc, công sứ và giám-mục đã cho thấy như trên ! IV. CÔNG VÀ TỘI Nếu lọc lựa ý tưởng của Nguyễn Trường Tộ trong 58 bài chiêu dụ rồi ghép lại có thứ lớp thì một số đề nghị của ông có giá trị và dùng được, nhất là thời bấy giờ. Rất tiếc, vì đường lối giáo dục của Vatican đã biến N.T.Tộ thành một người phục vụ cho Pháp và La-Mã, nhưng được núp sau bức màn canh tân và những mỹ từ :“Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh, chỉnh trang quốc phòng, kỹ thuật, thực dụng, đánh úp...”. Vì thế, nhiều người bị cuốn hút bởi những mỹ từ trống rỗng và lừa dối ấy. Một số khác ca tụng vì tình cảm tôn giáo và óc địa phương, hoặc nhặt vài khúc gỗ quí trong rừng rồi nghĩ cả cánh rừng đều chứa đầy gỗ quí. Nhưng không có cái gì có thể che đậy lâu dài dưới ánh sáng mặt trời. Thật ra, chúng ta có thể biết tâm chất của N.T.Tộ lúc thấy ông cùng với Giám-mục tình báo Gauthier đến cửa Mành-sơn ngày 16.10.1858 để hỗ trợ đồng bọn. Ở đó, đã có “Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà nẳng, đứng đầu là Giám-mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm”. Với hành động ấy, chúng ta kết luận như thế nào về N.T.Tộ, ông là một người yêu nước hay một tên đại Việt gian? Nhưng để được công bằng hơn, chúng tôi đề nghị công và tội của ông như sau: Công : 1. Chỉ huy đào Thiết cảng, 2. Làm được hai cái nhà thờ mặc dầu thời bấgiờ là chỗ để cho các giáo sĩ gián điệp và Việt-gian cư trú, 3. Có vài tư tưởng tiến bộ, có thể xử dụng được, ở rải rác trong một số bài như Cải cách phong tục, Thư gởi Tây-soái, Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng, v.v. Tội : 1. Ngày 16..10.1858 cùng với các linh mục, giám mục Việt và ngoại quốc “làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm”, 2. Năm 1861“làm thư ký và thông dịch” cho Tổng hành dinh của quân thực dân Pháp“để mở rộng vùng chiếm đóng” tại Sài-gòn, 3. Vai kề vai lòng cạnh lòng với tên tình báo Gauthier hơn 10 năm, cùng với tên nầy thập thò núp bóng sau bức màn canh tân và cùng nhau viết 58 bài chiêu dụ để lừa dối nhân dân và phỉnh gạt triều đình cho quyền lợi của Pháp và Vatican, 4. Cố tình nhận định tình hình sai lạc để cứu vãn cảnh lâm nguy của quân đội Pháp từ 1858, 5. Dối trá trong việc mở trường kỹ thuật ở Huế, 6. Âm mưu đề nghị đào kênh từ Hải-dương vào Huế để toàn dân nổi loạn, 7. Đề nghị thương hiếu với giáo-hoàng để thúc đẩy tiến trình Công-giáo hóa Việt-nam. 8. Đề nghị dùng linh-mục Việt-gian vào việc canh tân đất nước, và mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ và viện dưỡng lão do các giám mục thực dân cử người coi sóc. Lúc các ông linh-mục và giám-mục đã có mặt khắp nơi, họ sẽ biến những người Việt hiền hòa thành những kẻ ly khai với tổ quốc, rồi hô hào một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt-nam, 9. Năm 1868, ngăn cản triều-đình cử phái bộ đi Pháp khiếu nại để lấy lại 3 tỉnh miền tây Nam-kỳ, 10. Thay vì phải đánh gấp để đuổi giặc về nước vào những tháng cuối năm 1870 và đầu năm 1871. Vì sợ Pháp bại trận, nên N.T.Tộ khuyên phải dùng con đường ngoại giao, thay vì vũ lực. Và nếu xử dụng vũ lực, thì không nên thực hiện ngay mà phải hai năm sau. Ba tội 1, 2 và 3 thuộc về đại hình, bảy tội sau thuộc về khinh tội. Những tội danh tóm lược như trên, cũng là nguyên nhân để giải thích lý do tại sao N.T. Tộ phải trốn ra nước ngoài và bị triều-đình nghi ngờ. Chứ chẳng có gì gọi là “Điều nghịch lý” như Hoàng sử-gia hiểu sai. Và chính ông Tộ, có lẽ, cũng đã cảm thấy những việc làm bán nước hại dân của mình nên đã trăn trở ân hận trước lúc chết: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận!” (Một lần lỡ bước, hối hận ngàn năm). Mặc dầu bản tính của người Việt luôn luôn biết cảm thông và tha thứ cho những người đã biết ăn năn hối hận những việc làm sai quấy của mình. Nhưng để răn đe hậu thế, nên những con đường hay trường học mang tên N.T.Tộ để vinh danh ông cần phải tháo gỡ để khỏi nhục quốc thể, và để làm gương. Trên bia mộ cũng cần liệt kê công và tội của ông để lịch sử được phân minh. Viện sử học Việt Nam và Bộ Văn Hóa nên cử một ban nghiên cứu công và tội của một số người được vinh danh trước đây, trong đó có ông Nguyễn Trường Tộ, rồi công bố cho quốc dân biết. Còn ý kiến của chúng tôi dĩ nhiên không tránh khỏi khiếm khuyết cần được các bậc cao minh chỉ giáo. Bùi Kha22. 2. 2002 VÀI LỜI VỚI CỤ HOÀNG THANH ĐẠM Lúc viết bài thảo luận với cụ về ông N.T.Tộ, tôi chỉ đọc 24 trang cụ phê bình cuốn sách của chúng tôi. Và nghĩ rằng, vì thiếu sử liệu nên cụ đã không thấy bộ mặt thực núp sau bức màn “canh tân” của ông Tộ, nên cụ mới phạm quá nhiều lầm lẫn về sử kiện, và để lại không ít những luận điểm sai và mâu thuẫn với nhau trong chương phê bình sách của chúng tôi. Nhưng lúc viết xong, tôi đã đọc hết cả cuốn sách. Tôi rất đổi ngạc nhiên và thành thật để thưa rằng, cụ chẳng phải là nhà nghiên cứu sử học hoặc sử gia, ít nhất là về N.T.Tộ. Tôi tìm thấy nơi cụ đã có một định kiến và cái khuôn đúc sẵn về ông Tộ, nên lối lập luận của cụ chỉ dựa vào cách suy diễn mang đầy cá tính và tùy tiện, thay vì khách quan và căn cứ vào sử liệu để phân tích, tổng hợp và kiểm chứng để truy tìm sự thật. Nói rõ hơn, sách cụ không phải là một tác phẩm nghiên cứu, mà chủ yếu là sắp xếp Linh-mục Trương Bá Cần... nói thế nầy, ông Tộ nói thế kia chứ không cần biết nói như vậy là hàm ý gì? Nói như kia đâu là bằng cớ? Cũng như hoàn cảnh và môi trường nào thúc đẩy ông ta nói như thế? Trong “Danh mục sách và tư liệu tham khảo”, cụ liệt kê một số sách mà tôi có đọc như : Cuốn sổ bình sanh của Trương vĩnh Ký của Nguyễn sinh Duy, Hành trình và truyền giáo của A. de Rhodes, Biên niên sử Việt-nam 1858-1896 của Dương kính Quốc, Việt-nam dưới thời Pháp đô hộ của Nguyễn thế Anh, Kinh Thánh Tân ước, v.v.. Đọc sách cụ, và đối chiếu số sách dùng để tham khảo, tôi thấy cụ chẳng để tâm đọc những cuốn sách nầy một cách nghiêm chỉnh, và cách trình bày lại thiếu phương pháp luận và sai lầm. Đặc biệt là trong danh mục tham khảo có liệt kê hai cuốn sách của hai giáo sư Dương Kính Quốc và Nguyễn thế Anh, cụ chẳng đọc để thấy sự dối trá của ông Tộ. Trái lại, cũng qua hai cuốn đó, tôi được biết thêm cái hậu ý của N.T.Tộ về việc khuyên triều-đình trong bài chiêu dụ“Bải bỏ việc cử phái bộ đi Pháp”, bài “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh” và bài“Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia-định” v.v. như đã trình bày phần trước. Trong bài viết từ trang 95-98 (NTT, GĐ, SĐD), tôi đã chứng minh rõ: ông Nguyễn Trường Tộ lấy ý trong cuốn “Tôn Ngô Binh Pháp” về “Việc sửa đổi võ bị”. Trang 118 cụ viết:“Khi N.T.Tộ bàn về kế sách quân sự thì Ng.Kha đối chiếu các câu văn trong Tôn Ngô binh pháp và phê phán “Hầu như N.T.Tộ lấy ý trong sách nầy, đã vậy ý của N.T.Tộ còn kém xa”. Điều đó có nghĩa là cụ đã biết ông Tộ ăn cắp ý của người khác. Thế nhưng, trong sách từ trang 209-212 (NTT, thời thế & tư duy cách tân) nhằm ca tụng ông Tộ cho bằng được, nên cụ không cần để ý đến điều nầy nữa. Trái lại, cụ viết,“ông (Tộ) đặt vấn đề một cách độc đáo”, rồi liệt kê 6 điều độc đáo để ca ngợi ông ta, mà thực ra 6 điều đó là của ông Tôn Tử trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp. Cách viết như vậy, thật là vô trách nhiệm. Độc giả đều cảm thông những người nhầm lẫn hoặc thiếu sử liệu, nhưng có lẽ không ai chấp nhận kẻ cố tình lấy văn và ý của người nầy gán cho người kia! Ngay cả lúc cụ tóm lược ý kiến của Chủ-tịch Hồ chí Minh (SĐD, tr. 56) nhận xét về ông N.T.Tộ, được trích ý từ cuốn hồi ký của cụ Vũ đình Huỳnh do nhà văn Sơn Tùng sưu tầm (cụ cho biết như thế), cụ đã không nhận ra quan điểm của một chính khách và chính sách của nhà nước, khác với lối nhìn dựa vào lịch sử của một nhà nghiên cứu. Đó là chưa nói đến xuất xứ và bối cảnh lúc phát biểu của Chủ tịch Hồ chí Minh về N.T.Tộ, và ngay cả việc Linh-mục Lê Hữu Từ (người chủ trương khu Công-giáo tự trị thân Pháp) mà cũng còn được mời làm cố vấn. Nếu có ai ngây thơ tưởng rằng Chủ-tịch Hồ Chí Minh cũng đồng ý “khu vực tự trị thân Pháp”, nên mới mời linh-mục nầy làm cố vấn cho mình, thì người đó nên trở lại trường tiểu học! Ngoài ra, cụ cũng không cho độc giả biết tên cuốn hồi ký, số trang trích dẫn và năm xuất bản . Đã vậy, trong Lời Bạt, giáo sư Chương Thâu lại để trong ngoặc kép và in chữ nghiêng đoạn văn mà cụ tóm lược từ cuốn hồi ký không tên không tuổi nói trên. Như thế, cụ được giáo sư Chương Thâu phụ họa để biến một ý kiến chưa chắc đúng và có thật, thành một “sử liệu nguyên bản” có nguồn gốc ! và ông còn cho đó là một“tư liệu lịch sử” ( SĐD, tr. 250). Tôi thấy cách viết như thế là một lối đánh lừa độc giả, ngụy tạo sử liệu, làm mất uy tín giới cầm bút. Và làm giảm giá trị nền học thuật nước nhà sau bao năm gian khổ chống ngoại xâm để dành lại độc lập và chủ quyền . Ở đây, tôi chỉ phát biểu cảm tưởng và dẫn chứng vài điểm trong vô số sai lầm trong tác phẩm viết cẩu thả và vô trách nhiệm của cụ. Một tác phẩm viết về sử, nhưng không căn cứ vào sử liệu, một tác phẩm vơ vét và lượm lặt những cái vụn vặt mà ông Tộ nói, chứ không cần tìm hiểu điều mà ông ta muốn nói. Tôi rất tiếc và xin lỗi, vì đã phát biểu những điều không vui cho cụ, mà đáng ra cụ cần có nhiều niềm vui trong những năm tháng còn lại của cuộc đời, nhất là niềm vui về đứa con “tinh thần” của cụ sau hơn 20 năm miệt mài nghiên cứu. Dẫu vậy, tôi vẫn vô cùng biết ơn, vì nhờ bài phê bình của cụ mà chúng tôi có dịp biết rõ hơn và chính xác hơn về ông N.T.Tộ, một người được nhầm lẫn vinh danh do vô tình hoặc cố ý qua nhiều thế hệ! Về giáo sư Chương Thâu, tôi cũng đã có lần góp ý về bài viết quá sai lầm và hầu như cố ý của ông, trong âm mưu chính trị của Linh-mục Alexandre de Rhodes và nguồn gốc chữ quốc ngữ. Bài viết đó có tựa đề,“Từ một câu chữ của Alexandre de Rhodes đến các dẫn dụng khác nhau”, Hà-nội 14.12.1995, đăng trong nguyệt san Công-giáo tại Việt-nam và tờ Hiệp Nhất của giáo-phận Orange, California, USA . Bùi Kha31.2.2002Ghi chú: [1] Cũng như N.T.Tộ, 4 ông linh mục nầy có đến đón quân Pháp và làm reo để Pháp đánh thuế cho chúng dứt điểm, 16.10.1858. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 5, 2015 Nguyễn Trường Tộ, biện chính với Gs Hoàng Kỳ Bùi Kha VHNA: Sau hai bài của tác giả Bùi Kha đăng trên t/c HồnViệt (NguyễnTrường Tộ và vấn đề chủ hòa - 12/2009, Nguyễn Trường Tộ và vấn đề làm cho dân giàu nước mạnh - 1/2010) có những nhận định, đánh giá khác, thậm chí trái ngược với các nhận định, đánh giá của giới nghiên cứu lâu nay về Nguyễn Trường Tộ, tác giả Hoàng Kỳ đã có bài trao đổi lại đăng trên t/c Văn hóa Nghệ An (4/2010). Tác giả BùiKha đã có bài trao đổi lại với tác giả Hoàng Kỳ theo quan điểm riêng của mình. Tôn trọng các ý kiến khác nhau trong nghiên cứu khoa học nhằm hướng tới một nhận thức khách quan, trung thực, chính xác các hiện tượng, vấn đề thuộc về lịch sử, trên tinh thần tôn trọng học thuật, tôn trọng người đối thoại, chúng tôi đăng tải bài viết trao đổi của tác gỉa Bùi Kha và hy vọng sẽ có nhiều ý kiến khác cùng trao đổi, thảo luận để tiếp cận chân lý. Hôm qua, 30.9.2010, tình cờ có người gởi cho bài của Gs Hoàng Kỳ với tựa đề “Trao đổi ý kiến với tiến sỹ Bùi Kha về Nguyễn Trường Tộ” đăng trên web “Văn hóa Nghệ An ngày 3.4.2010. Dưới đây tôi sẽ lần lượt làm sáng rõ những nhận định thiếu cơ sở của Gs Hoàng Kỳ. Gs Hoàng Kỳ viết: “…Tất nhiên với trình độ một người từ Hán học chuyển qua Tây học được thời gian có 3 năm (1858-1861) khi qua Singapore, Hồng Kông, Malaixia...,1 năm qua Pháp và ý (từ tháng 1-1867 đến tháng 2-1868) và chỉ là học mót chứ không qua trường lớp chính quy thì tất nhiên là sự hiểu biết còn nông cạn, chắc chắn là chưa đầy đủ, nhưng không vì thế mà ta sổ toẹt tấm lòng ưu dân, ái quốc của NTT và thất bại của triều đình nhà Nguyễn không phải là do nghe lời của NTT vì những bản Điều trần lúc đầu của ông không hề được triều đình để ý gì, các bản về sau có được xem xét nhưng cũng chẳng ăn thua gì” -Bùi Kha: NTT chưa bao giờ có “tấm lòng ưu dân, ái quốc”như Gs Hoàng Kỳ nhầm. Chứng minh: Ngày 16/10/1858, Nguyễn Trường Tộ cùng với Gm tình báo Gauthier (Cố Hậu) đến cửa Mành Sơn, Đà Nẵng. Ở đó, đã có “Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo, đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài gòn. Do đó trước khi đem quân vào Sài gòn, Đô Đốc Rigault deGenouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi sang Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859”. Năm 1861, từ Hồng Kông, NTTcùng với Gm. Gauthier và Phó Đô đốc Léonard Charner, về lại Việt Nam, ông được thuê làm thư ký cho Tổng hành dinh của quân thực dân Pháp để mở rộng vùng chiếm đóng (theo Linh mục Trương Bá Cần trong cuốn Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, tr. 22,23 &24). Trong lúc đất nước lâm nguy, toàn dân nhất là trai tráng xông pha đánh giặc cứu nước thì hành động của Nguyễn Trường Tộ như thế mà được cho là có “tấm lòng ưu dân, ái quốc” sao? Ông biết chữ Nho nhưng tiếng Pháp kém, chỉ đủ để làm Từ hàn (thư ký thường) cho Pháp mà thôi (theo cụ Đào Duy Anh trong Tạp chí Tri Tân số 7, trang 167, xb. 1941.Vai kề vai lòng cạnh lòng với ông tình báo Gauthier gần 20 năm và, có thể, cùng với ông này, viết 58 bài Điều trần gửi đến triều vua Tự Đức đầy hậu ý. Tôi sẽ chứng minh thêm “tấm lòng” của NTT trong những đoạn sau. Trong tất cả các bài viết về NTT tôi chưa hề nói rằng Triều đình nhà Nguyễn nghe lời NTT mà còn cho thấy rằng may mà triều đình không nghe! 2. Gs Hoàng Kỳ: “NTT có chủ hoà trong thời gian đầu khi thấy so sánh lực lượng của quân đội triều đình với quân Pháp quá chênh lệch, với mục đích là để có thời gian củng cố lực lượng, xiết chặt hàng ngũ của ta trước một đội quân xâm lược có vũ khí tối tân hơn và ông luôn luôn quan tâm đến việc tu chỉnh võ bị...” -Bùi Kha: Gs. Hoàng Kỳ sai, NTT chưa bao giờ nhằm “mục đích là để có thời gian cũng cố lực lượng…” Chứng minh. NTT viết: �“Theo cách ngày nay thì nên để cho quân lính nghỉ ngơi, rồi làm theo chước Hán Cao Tổngày xưa cắt Quan Trungcho hạng Võ (?) để họ giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới…”�(Thiên hạ đại thế luận, Trương Bá Cần, tr. 111). Vẫn biết về sau NTT có đề nghị chỉnh trang võ bị v.v. nhưng viết như thế để làm như mình có lòng yêu nước. Trong thực tế đã cho lính nghỉ ngơi tức là bỏ súng, đầu hàng, lính về nhà để Pháp giữ bờ cỏi cho mình thì lực lượng đâu còn nữa để củng cố, để chỉnh trang võ bị như Gs Hoàng Kỳ nghĩ tốt cho NTT điều mà ông ta không hề có ! 3. Gs Hoàng Kỳ: “Hơn nữa lúc đầu ông hiểu nhầm là bọn Pháp chỉ yêu cầu được tự do giảng đạo, xin mở bến tàu, lập phố xá, thông cửa bể để buôn bán, nhưng về sau thấy rõ dã tâm của chúng cố tình đánh chiếm nước ta thì ông đã có những đề nghị khác như Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (Di thảo số 39) và aBổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định (Di thảo số 40)”. - Bùi Kha: NTT tự khoe các gì cũng biết từ cái cao của thiên văn…đến tạp hóa dị nghệ… ông đều học và biết rõ. Thế thì tại sao “ông hiểm nhầm”? Gs Hoàng Kỳ muốn bênh vực NTT và cho rằng ông ta “hiểu nhầm”. Mà “hiểu nhầm” đến mức dộ không thể chấp nhận được, nhưng NTT có bao giờ viết thư xin lỗi Triều đình và dân chúng không? Gs Hoàng Kỳ tiếp “…nhưng về sau thấy rõ dã tâm của chúng cố tình đánh chiếm nước ta thì ông đã có những đề nghị khác như Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (Di thảo số 39) và Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định (Di thảo số 40). - Bùi Kha: Gs Hoàng Kỳ đã không đọc cẩn thận để biết hai Di thảo 39 và 40 nói gì, cũng như không biết bối cảnh lịch sử trong giai đoạn ấy như thế nào nên viết hoàn toàn sai. Chứng minh: Thật vậy, như đã nói trên, trước đó 7 năm (1863) ông đề nghị cho lính nghỉ ngơi để thực dân Pháp giữ bờ cõi cho mình. Năm 1868, La Grandière bất chấp lệnh của chính phủ ông là Không được chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ, nhưng y vẫn làm. Vua Tự Đức phản đối việc nầy và định cử sứ bộ qua Pháp tố cáo La Grandière đã lạm quyền và đòi trả lại 3 tỉnh mới chiếm. Nếu sứ bộ đi Pháp thì có thể 3 tỉnh ấy đã được trao trả, nhưng NTT viết bài chiêu dụ cản ngăn [Di thảo # 36: “Bải bỏ việc cử phái bộ đi Pháp”]. Đến nay (1870), Pháp thua Phổ nhưng đã cho lính nghỉ ngơi từ lâu lấy ai để đánh? Di thảo số 39 (ngày 1.2.1871) NTT đề nghị dùng phương pháp ngoại giao, chứ không phải quân sự để xin lại các tỉnh bị Pháp chiếm. Sau đó 8 ngày ông lại đề nghị dùng giải pháp quân sự: Di thảo số 40 [“Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định”, viết ngày 9.2.1871). Nhưng đề nghị bí mật tuyển người từ Bắc, Trung và một số khác tại địa phương, chứ không hề đề cập đến các phong trào đang kháng Pháp tại Nam Kỳ, như Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực v. v., và kêu gọi họ hợp tác hay ủng hộ để đuổi kẻ thù chung? Vì giới hạn của bài viết nên tôi không phân tích lý do tại sao NTT đổi ý từ NGOẠI GIAO đến QUÂN SỰ chỉ trong vòng 8 ngày. Nguyễn Trường Tộ lại viết: “Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế (Khoản nầy các câu bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc bị vùi dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết” (T.B. Cần, SĐD, tr.330). Tại Gia Định, và cả miền Lục tỉnh, thời bấy giờ và ngay cả thời bây giờ, làm gì có sông nào, đê nào ngăn nước để phá và thuyền sẽ bị chôn vùi? Nếu N.T.Tộ đề nghị đánh gấp, thì ông ta quả tình là một người yêu nước không còn phải bàn cãi. Nhưng rất tiếc, ông viết: Kế nầy phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành (T.B. Cần, SĐD, tr. 331). Thời gian hai năm đã tố cáo cái dã tâm của ông. Thật vậy, ông Tộ nói đến chuyện đánh nhưng không phải đánh ngay bây giờ; sau tháng 9, 1870, thời cơ đã đến, mà phải hai năm sau, tức là 1873. Tại sao vậy? Vì nếu đánh bây giờ thì ta có nhiều cơ hội thắng mà Pháp chắc chắn thua. Đó là điều mà ông NTT, những người Việt gian và thực dân không bao giờ muốn! Cáo buộc Nguyễn Trường Tộ không muốn Việt Nam thắng Pháp có oan không, chứng minh? ● Một, như trên đã nói, ông Tộ đề nghị xử dụng những thường dân (không phải lính) chiêu mộ từ Bắc, Trung, Nam chứ không kêu gọi nghĩa quân tại địa phương, người vừa có tinh thần chiến đấu vừa đã được huấn luyện và có kinh nghiệm v.v., thì làm sao thắng được? Hơn nữa thời bấy giờ muốn mộ binh từ Bắc và Trung vào Nam phải đi bộ hoặc đi xe ngựa mất khoảng 6 tháng, thời gian, lương thực đâu, làm sao thực hiện việc mộ binh kiểu đó? ● Hai, lịch sử cho thấy nếu đánh vào giai đọan sau tháng 9.1870 Việt Nam nhất định thắng. Dưới đây là sử liệu: “Ở Âu-châu, chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Phổ ngày 19. 7. 1870, nhưng mãi tới ngày 5 .8. 1870 tin ấy mới tới Sài Gòn. Cornulier-Lucinere vội cho tổ chức sự phòng thủ sông Sài Gòn vì sợ rằng Triều đình Huế thừa cơ hội mà tiến quân xuống miền Nam hay ra lệnh cho Lục-tỉnh Nam kỳ nổi loạn. Song cả cho đến ngày 25. 9. 1870 là khi tin quân Pháp đại bại ở Sedan tới Sài Gòn, Triều-đình Huế vẫn án binh bất động. Quốc triều chánh biên toát yếu chép là: Năm Canh Ngọ tháng 9, nước Đại Pháp đánh với Phổ-lỗ-sĩ, quan Pháp soái thương cho ta biết, ngài khiến quan thương bạc hỏi thăm. Thái độ của Triều-đình Huế còn kỳ quặc hơn khi triều đình tỏ lòng mong muốn quân Pháp sẽ rút khỏi Nam kỳ để trở về Pháp cứu vãn tổ quốc lâm nguy. Triều đình đã hoàn toàn không lợi dụng những nỗi khó khăn của Pháp khi nền đệ nhị thế chế sụp đổ thay thế bởi một chính thể cộng hòa, và khi mà quân Pháp bị cô lập ở Nam kỳ” (Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Dưới Thời Pháp Đô Hộ, Sài gòn, Lữa thiêng 1970, tr. 66). Tình hình chín muồi như vậy, nếu không đánh ngay thì mấy tháng sau đó phải đánh, nhưng NTT khuyên phải hai năm sau. Ông ta yêu nước nào mà lạ đến thế? Mấy hàng đầu của bài “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh (viết trước bài Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia-định chỉ có 8 ngày) ông Tộ nói Đại phàm việc thiên hạ, để thời cơ trôi qua mà hối tiếc...gặp thời làm được thì gấp rút ra tay, không bỏ lỡ cơ hội”. Nói một đường làm một nẻo, một người mâu thuẫn không biết ngượng, thế mà một số người cứ cặm cụi ca tụng một người đã lao tâm khổ tứ lo cho dân cho nước! Giả sử triều đình bị mắc lừa bởi kế hoạch của NTT, hai năm sau mới đánh, thì kết quả sẽ thế nào? Hai năm sau tức là năm 1873. Lúc nầy Việt Nam ở vào thế rất yếu nhưng Pháp rất mạnh, khó lòng thắng. Vì tại chính quốc, tình hình chính trị đã được ổn định, chính phủ mới đã được thành lập. Tại thuộc địa, Pháp đã bình định 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ được 11 năm, và 3 tỉnh miền Tây được 6 năm. Họ rất rảnh tay. Còn tại Bắc Kỳ, chính phủ Pháp ngăn cấm Đô-đốc Dupré về một cuộc phiêu lưu mới tại Bắc kỳ, nhưng cũng giống như La Grandière, ông ta không tuân lệnh thượng cấp. Và các viên chức trong tòa lãnh sự Pháp tại Trung Hoa cũng muốn chính phủ họ chiếm Bắc-kỳ như Dupré. Sử liệu cho thấy: Vào năm 1873, lãnh sự Pháp ở Quảng Đông, Bá tước Chappedelaine, báo cáo về Paris như sau: Ở Bắc kỳ, quan lại An nam mít bị thù ghét dữ dội. Không phải dùng đến 2000 người và 4 tuần dương hạm, mà chỉ cần phái một tuần dương hạm cùng vài pháo hạm và một đại đội thủy quân lục chiến tới cửa sông Hồng Hà là đủ làm xứ Bắc kỳ trở thành một thuộc địa Pháp (J. Dupis, Le Tonkin de 1872 à 1886, Histoire et Politique. Paris, 1910, p. 125. Dẫn theo Nguyễn Thế Anh, “Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ”, tr. 81). Nguyễn Trường Tộ, một người có tấm lòng ưu dân, ái quốc là thế đấy 4. Gs Hoàng Kỳ: “Sáu điều lợi NTT trình bày chính là chủ trương ngoại giao đa phương do NTT đề xuất, việc mà hiện nay đảng ta cũng chủ trương như vậy, chứ không phải như TS võ đoán là: “Bang giao với Vatican. Đây là một trong hai chủ đích chính trong bản Điều trần này của NTT, còn 5 đề nghị kia chỉ là hoa lá cành, là củ cà rốt rỗng ruột không ăn được, nhằm che đậy hậu ý khuyên triều đình thoả hiệp với Pháp và bang giao với Vatican để thực hiện sách lược tôn giáo hoá Việt Nam (TS BK cho in đậm). Điều đó cũng có nghĩa là để cho Pháp dễ cai trị Việt Nam”. Đó là thái độ “không ưa đổ thừa cho xấu”, “nói lấy được” của người viết có ác ý!” –Bùi Kha: Chính sách của nhà nước hiện nay là bang giao đa phương đa quốc chắc chắn không liên hệ gì đến việc NTT đề nghị triều Nguyễn bang giao với Vatican cả thế kỷ trước. Do đó, mong đừng so sánh lạc điệu như thế, không nên. Để xem tôi có ác ý với NTT hay không, vui lòng theo giỏi các chứng cứ qua sử liệu dưới đây: 4.1 Lm. Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) người đầu tiên trong lịch sử, vận động Pháp đánh chiếm nước ta và được Giáo Hoàng đồng ý. Ông viết: “Tôi tưởng nước Pháp là nước ngoan đạo nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn cõi Đông Phương đưa về qui phục chúa Ki Tô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó tôi rời Rôma ngày 11-9-1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo Hoàng. ........... "Trên đường từ Lyon tới Paris tôi nghiệm thấy có sự quan phòng rất đặc biệt của Chúa tôi vẫn coi như kim chỉ nam và mẫu mực. Để ra mắt ở Pháp tôi cần có thiên thần hộ vực để đưa tôi lọt vào triều đình vua cao cả nhất hoàn cầu. Thế là tôi gặp ở Roanne đức Henri de Maupa, giám mục thành Puy, tu viện trưởng Saint Denis, đệ nhất tuyên úy của hoàng hậu. Ngài có nhã ý cùng đi với tôi trong cuộc hành trình nhỏ bé này. Trong mười lăm ngày, tôi thấy nơi ngài rất nhiều nhân đức và thương yêu suốt đời tôi, tôi quí mến công ơn và sẽ đề cao hội ngộ may mắn nhất trong suốt các cuộc hành trình của tôi. Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Quốc, ở Đàng Trong, ở Đàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanchicô Xavie tới ba trăm quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm ở những nơi cùng kiệt cõi đất...”� 4.2. Linh mục Huc và Giám mục Pellerin cũng thế: "Bí thư của phái đoàn Pháp ở Trung Quốc, theo lệnh của Hoàng đế muốn tập trung tài liệu về các phái bộ truyền giáo ở Đông Dương, đã tiếp xúc với cácđại diện Giáo Hoàng ở Thái Lan, Việt Nam và Kampuchia. Căn cứ vào các tin tức do những người này cung cấp, chính phủ Pháp đã quyết định phái Montigny thực hiện sứ mệnh trong vùng này. Nhưng đây là các vận động được hỗ trợ bằng sự can thiệp của các nhân vậtquan trọng như Tổng Giám Mục Bonnechose ở Rouen và của chính Hoàng Hậu, bà này đã thuyết phục được vua, dù lúc đó vua không có kế hoạch thực dân nào rõ rệt. Các vận động này được thực hiện bởi hai người truyền giáo: Linh Mục Huc, hội viên Hội thánh Lazare, cựu đại diện Giáo Hoàng ở Trung Quốc, tác giả cuốn “Đạo Thiên Chúa ở Trung Quốc, Tartarie và Tây Tạng” cùng nhiều tác phẩm khác về Trung Hoa, và Giám mục Pellerin đại diện Giáo Hoàng tại Bắc Nam Kỳ”. 4.3. Đến Pháp vào đầu tháng 5, ngày 16-5 ông trình bày trước Ủy ban và ngày 21-5 trao cho họ một bảntrần tình chi tiết trước khi được Napoléon III tiếp kiến. Giám mục đã cho chúng ta thấy vài chỉ dẫn đáng lưu ý về cuộc hội kiến trong một bức thư gửi cho một người truyền giáo tại Tây Tạng: Nhà vua đã tiếp tôi rất niềm nở và còn ban cấp cho tôi nhiều hơn những điều tôi xin. Hoàng thượng hết sức sẵn lòng giúp đỡ các phái bộ và ý ngài muốn rằng các nhà truyền giáo Pháp phải được tự do khắp nơi, cần phải cầu nguyện Thượng Đế giữ lại người của Chúa ở lại trên ngôi. Các phái bộ của Ngài, ở Cao Ly, Nhật Bản, cũng sắp được tự do nay mai, phải hy vọng điều đó. Nước Pháp sẽ đứng vững tại các xứ đó và rồi sẽ không còn có sự đàn áp nữa. Nhưng sự việc hình như cứ kéo dài mãi, giám mục sốt ruột thấy là nên nhắc lại vấn đề với Napoléon III. Xin Chúa thượng, người ta đọc trong thư đề ngày 30-8-1857 của ông. Cho phép thần lại nói đến các người mới theo đạo khốn khổ ở xứ Cochinchine và các nhà truyền giáo ở nước An Nam, hiện giờ máu họ đang đổ và tình cảnh họ còn kinh khủng hơn từ cuộc vận động sau chót của nước Pháp. Nếu bây giờ người ta vẫn không làm gì cho bọn thần cả, e rằng đạo Thiên Chúa bị tận diệt ở tại các vùng hình như sẵn sàng tiếp đón lợi ích của đạo Thiên Chúa và nền văn minh. Thần đến xin Chúa Thượng đừng bỏ rơi bọn thần. Điều bệ hạ làm cho bọn thần sẽ khiến cho ân phúc cuả Chúa ban xuống cho bệ hạ và triều đại huy hoàng của bệ hạ... 4.4. Kế đến tháng 11, Giám mục Pellerin đi Rôma, Giáo Hoàng Pie IX tán thành các vận động để giúp đỡ cho các phái bộ truyền giáo." Nguyên văn tiếng Pháp: Arrivé en France au début de mai, il fut entendu le 16 mai par la commission et lui remit un mémoire détaillé le 21 mai, avant d'être recu par Napoléon III. L'évêque nous donne quelques indications intéressantes sur cette entrevue dans une de ses lettres à un missionnaire du Thibet: “L'empereurs m'a très bien accueilli et m'a accordé plus même que je n'avais demandé. Sa Majesté est parfaitement disposé pour les Missions, et son intention est que les missionnaires francais soient libres partout; il faut prier Dieu de conserver sur le trône l'homme de la providence. Vos Missions, celles de la Corée, du Japon seront aussi bientôt libres, il faut l'espérer. La France va s'établir solidement dans ces pays, et alors il n'y aura plus de persécution possible” (1)… (Để giảm số trang, tôi chỉ dẫn một đoạn tiếng Pháp tượng trưng). Archives Missions Entrangères - lettre à Mgr Thonuire - Desmazures, 30-7-1858, cité par Franchini, Ouv. cité. Archives du ministère des Affaires Étrangère Vol. 27 (Cao Huy Thuan Christianisme Et Colonialisme Au Vietnam 1857-1914, p. 67 & 68). Qua một tài liệu khác, chúng ta cũng thấy vai trò quan trọng của Giám mục Pellerin trong việc vận động Pháp xâm lăng nước ta. Và đã được Giáo hoàng La Mã Pie IX chấp thuận: 4.5. Lợi dụng lý do truyền giáo, cấm đạo tại Việt Nam, thực dân Pháp qua trung gian Giám mục Pellerin đã đệ trình đề án kế hoạch xâm lược Việt Nam lên Giáo hoàng Pie IX và đã được La Mã chấp thuận (Xem A. Delvaux, Mgr. Pellerin, Nazattreth, Hồng Kông, 1937, tr. 54, nguyên văn: �Une des facteurs qui influèrent favorablement sur la mise en campagne de l'expédition de Cochinchine fut l'avis favorable de Pie IX qui avait approuvé pleinement les démarches de Mgr Pellerin lors de son voyage à Rome� (Phần tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, trích trong cuốn Phong Trào Nghĩa Hội Quảng Nam, tác giả Nguyễn Sinh Duy, nhà xuất bản Đà Nẵng, 1996, trang 17). Qua năm trích dẫn trên, chúng ta thấy các Giáo Hoàng đã đi vào con đường chính trị, đã vận động và song hành với quân đội thực dân phương Tây để xâm chiếm nước ta. Thế mà NTT khuyên triều đình nên thông hiếu với Giáo Hoàng. Người chuyên nghề thuyết khách là thế! Dưới đây tôi nêu thêm hai thí dụ nhỏ trong muôn ngàn thí dụ để thấy sự sai lầm mà hầu như cố ý của nhà thuyết khách Nguyễn Trường Tộ. Một đoạn trong mật thư đề ngày 24-7-1862, Đô đốc Bonard gởi cho Chasseloup Laubat như sau. 4.6.“Ai (các giáo sĩ, BK) cũng ôm ấp lý tưởng trở lại thời kỳ mà Giám-mục Bá Đa Lộc được xem như ông vua thực sự của xứ An Nam, thời kỳ mà mọi việc chỉ có thể được thực hiện theo lời khuyến cáo của ông giám mục nầy, hoặc được ông cho phép. Để đạt mục đích đó, các nhà truyền giáo đã dùng kế hoạch sau đây: nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ tìm cách phủ nhận tính chính thống của vua nầy, và khi lật đổ được triều đình hiện tại thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ.”� Nguyên văn tiếng Pháp: "Tous caressent l'idée de revenir au temp où l'Évêque d'Adran était le véritable souverain du royaume d'Annam, temps où rien ne se faisait que par ses conseils ou sa permission. Pour parvenir à ce but voici quels moyens ils ont employés: les unes et les autres, ne trouvant pas que les successeurs de la dynastie de Gia Long obtempérassent assez à leurs désirs, ont contesté la légitimité de ceux-ci et ont cherché à mettre en avant un candidat qui, s'il renversait la dynastie régnante, leur offrit plus de garanties pour arriver à leurs fins”. (Trích trong “Archives du Ministère des Affaires Étrangères, Asie, Mémoires et Documents”, Vol, 28, Fol.85 - 88: Thư khố Bộ Ngoại giao, Á châu, kỷ yếu và tài liệu, tập 28, trang 85-88, CHT, SĐD trang 150). 4.7. Đoạn thư của Bonard nói trên mô tả về âm mưu của các linh mục, giám mục người Pháp. Và một đoạn khác trong thư đó viết về hành động của các giáo sĩ dòng tu Đô-Mi-Níc người Tây Ban Nha như sau: 4.8. “Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha thường chiếm cứ nhiều vùng miền Thượng Du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn: hăng hái và quá cuồng tín, đa số trong bọn nầy phát xuất từ các đoàn du kích và phe Carlistes, họ rời bỏ Tây Ban Nha và sẵn sàng mang gươm, súng và thánh giá chữ thập dốc toàn lực tham dự vào các cuộc nổi loạn gây tai họa cho xứ Bắc Kỳ.” (Quant aux Dominicains espagnols qui occupent généralement le haut Tonkin ils sont beaucoup plus ingouvernables: ardents et fanatiques au dernier degré, un assez grand nombre d'entre eux sortant des bandes de guérillas et de carlistes ayant abandonné l'Espagne portent assez volontiers le sabre et le mousquet avec la croix et sont mêlés, et de coeur et le corps, aux révoltes qui affligent le Tonkin. (CHT, SĐD, p. 152). Hai dẫn dụ nêu trên, đã cho thấy Nguyễn Trường Tộ bênh vực và đánh giá sai về vai trò của các giáo sĩ. Chúng ta nên để ý rằng giáo hội Công giáo là một tổ chức theo đẳng cấp tuyệt đối. Giáo Hoàng là người đại diện Chúa ở trần gian, ông có quyền cách chức, bổ nhiệm, cấm đoán hoặc cho phép các Hồng y, Giám mục, Linh mục, con chiên thi hành các công tác đức tin và công tác trần thế. Do đó, chúng ta hiểu rằng A. de Rhodes đã được Giáo hoàng đồng ý và cho phép qua Pháp vận động triều đình đánh chiếm Việt Nam. Một linh mục, giám mục không làm điều gì khác nếu không được Giáo hoàng chấp thuận. Như thế, việc vận động một thế lực chính trị ngoài Vatican để xâm chiếm Việt Nam đã có từ 1652 do Giáo hoàng chỉ thị cho ông A. de Rhodes (xin xem thêm bài “Góp ý với giáo sư Chương Thâu về Linh mục A. De Rhodes và chữ quốc ngữ” trong cuốn Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại (Văn Hóa Cali. xuất bản, Hoa kỳ, 1996). Qua sử liệu không thể chối cải như thế, phải chăng ông Bùi Kha có “thái độ “không ưa đổ thừa cho xấu”, “nói lấy được” của người viết có ác ý!” ? 5. Gs. Hoàng Kỳ viết: “Một người dù bị triều đình đối xử bất công do chính sách sai đối với giáo dân; có điều kiện để có thể “vinh thân phì gia” nếu sẵn sàng cộng tác với giặc, nhưng vẫn quyết từ bỏ để về sống cực khổ ở quê nhà.” - Bùi Kha: Ông NTT có về sống cực khổ ở quê nhà hay luôn luôn sống sát cánh với ông tình báo Gauthier gần 20 thì trong bài nầy tôi đả viết rỏ. Còn cho rằng NTT “Một người dù bị triều đình đối xử bất công do chính sách sai đối với giáo dân”, có thật như vậy không? Để cho vấn đề được vô tư hơn, và để thấy ngay các hành động mà giáo sĩ đã tác hại cho đất nước Việt Nam, xẩy ra lúc mà Nguyễn Trường Tộ vào khoảng 30 tuổi, chúng ta nên nghe lời than phiền của Đô đốc Rigault de Genouilly về hành động mà họ gọi là “kẻ tử đạo". “Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Công giáo, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ (các giáo sĩ, BK). Nếu cũng vì những yếu tố buộc tội đó mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm quyền An Nam trục xuất thì báo chí của người truyền đạo lại kêu la om sòm là họ bị bạo hành”. (Fut - elle au service de l'intérêt chrétien, ne pouvait tolérer leur intrusion permanente et insolente dans les affaires politiques, civiles et militaires qui ne sont et ne doivent pas être de leur ressorts. Si l'expulsion du Mgr Pellerin avait été prononcée, pour les mêmes chefs d'accusation, par une autorité Vietnamienne, la presse des missionnaires aurait crié partout persecution (CHT, p. 113). Ý kiến của Đô đốc Page trong văn thư đề ngày 14-12-1859 và 25-12-1859 cũng có những ý kiến tương tự: Sau khi đi khắp nước thấy nhiều, nghe nhiều cuối cùng Đô đốc Page công nhận lý lẽ vững chắc của triều đình Huế, chính ông cũng bực mình về thái độ của các nhà truyền đạo và con chiên của họ: “Thật vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo đến và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân thì 3000 tín đồ Công giáo đi theo Pháp và xin được đưa vô Saigòn là nơi mà Page đã dựng lên một thị trấn. Tôi ngạc nhiên biết bao? khi hôm sau các nhà truyền giáo đến nói với tôi, rằng các con chiên An Nam không tuân theo một quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Óa! Họ cũng không muốn có cảnh sát để chận đứng trộm cướp du đảng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất hổ thẹn khi thú nhận với Ngài rằng Giáo Hội Công giáo tại An Nam đã ngạo nghễ đi rao giảng các nguyên lý đó: Ngoài ra không người Việt Nam theo Công giáo nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ thù?” Xem thế, một Đô đốc thực dân Pháp cùng tín ngưỡng, cũng không thể chịu nổi những hành động của các giáo sĩ chứ trách gì các vua quan triều Nguyễn. Nguyên Văn tiếng Pháp: Après avoir beaucoup parcouru le pays, beacoup regardé, beaucoup écouté, l'amiral Page finit par reconnaitre le bienfondé des arguments du gouvernement de Huế, lui même ayant été choqué par l'attitude des missionnaires et de leurs chrétiens. En effet, tandis que la population fuyait avec épouvante à l'approche des troupes francaises et que des milices armées s'organisaient là où il y avait un centre de population, 3.000 catholiques se rallièrent aux Francais et demandèrent à être ramenés à Saigon où Page avait crée une municipalité. “Quelle a été ma surprise? Lorsque le lendemain les missionnaires sont venus me déclarer que les chrétiens annamites ne pouvaient pas obéir à une autorité payenne, c'est leur mot. Quoi! Pas même pour la police municipale? Pour empêcher les voleur, les vagabonds de mettre la ville au pillage? Et je suis confus d'avouer à Votre Excellence que ces principes sont professés hautement par les associations annamites catholiques... “Du reste, pas un Vietnamien catholique n'hésita à demander à s'enriler comme soldat sous le draupeau francais. Le roi payen du Vietnam n'était point leur roi. “Votre Excellence comprendra sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemis? (Dépêche de l'amiral Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales, Fonds, Marine BB4 777.CHT, p. 128 & 129). Thực ra đó là hành động của một số con chiên không ít thời Pháp chiếm Việt Nam, nhưng ngày nay đã đổi khác. Chúng ta vô cùng trân quý những tâm tình đó. 6. Gs Hoàng Kỳ: “…đề nghị nhà vua cho mở các trường dạy kỹ thuật mà sau này ông đã trình”. Bùi Kha: Gs Hoàng Kỳ muốn nói đến trường kỹ thuật mà NTT và Gm Gauthier đề nghị mở ở Huế năm 1868. Đó là thêm một đề nghị không thành thật của NTT. Thật vậy, việc mở trường (huấn nghệ, kỹ nghệ) yếu tố quan trọng hàng đầu sau trường sở, dụng cụ ... là phải có quyết tâm, thứ hai giáo chức phải có bằng cấp hoặc kiến thức chuyên môn về ngành mà mình được mời dạy. Theo tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 23-2-1868 gởi cho vua Tự Đức thì các vị giáo chức có bằng cấp chuyên môn để dạy huấn nghệ, kỹ nghệ. Nhưng theo Hội truyền giáo Paris thì mấy vị nầy không có các bằng cấp hoặc khả năng mà Giám mục Gauthier mô tả. Nguyên văn: “Theo một tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23-2-1868): - Linh mục Thông, (tức Montrouzies) biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi. Nhưng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 1-5-1867 đã đậu cử nhân văn chương. - Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ. Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền Giáo Paris 14-10-1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam. - Giáo sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi giáo sĩ như Nguyễn Trường Tô cũng được gọi là giáo sĩ, thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc. Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày giáo sĩ nầy do bệnh cũ tái phát đã xin về Pháp trở lại. - Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca sa nhi) là một người thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài gòn đem về giới thiệu với triều đình, nhưng Ca xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dung” (TBC, SĐD, tr. 49 & 50). Các đối chiếu nên trên chứng tỏ Vua quan triều Tự Đức bị thầy trò Nguyễn Trường Tộ dối trá lừa bịp có hậu ý. Mong Gs Hoàng Kỳ nên cẩn thận lúc viết. Dưới đây là sáu sử liệu cho thấy Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ, người cùng với NTT mà vua Tự Đức lầm nhờ đi mua dụng cụ và thuê thầy giáo về mở trường kỷ thuật ở Huế, là một tên tình báo: Sau khi hiệp ước 1862 ký giữa Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha, triều đình vua Tự Đức kiếm cách chuộc lại ba tỉnh đã mất. Trong chiều hướng nầy, một người Công giáo cuồng nhiệt là Trung Tá hải quân Aubaret vận động, được bộ ngoại giao Pháp và vua Napoléon III đồng ý. Vì thế một hiệp ước mới (thế hiệp ước cũ 1862) được bộ ngoại giao và bộ hải quân soạn thảo theo quan điểm của vua Napoléon III, và được ký tại Huế ngày 15-1-1864. Theo hiệp ước nầy, ba tỉnh bị chiếm trong năm 1862 được trả lại cho Việt Nam, ngoại trừ thành phố Sài Gòn, Mỹ Tho, Vũng Tàu và Côn Đảo. Để đổi lại việc trả 3 tỉnh nầy, Pháp có quyền bảo hộ 6 tỉnh Nam bộ, ba hải cảng Đà nẵng, Ba Lạt và Quảng Nam... Theo hiệp ước 1864, Aubaret chủ trương chiếm Nam Kỳ bằng con đường tôn giáo và thương mại, chứ không phải Aubaret có lòng tốt gì đối với dân Việt Nam đâu (CHT. SĐD, trang 174, 175). Trong triều đình Pháp chia làm hai phe, phe ủng hộ và phe chống. Phe chống khuyên vua đừng phê chuẩn hiệp ước. 5.1.- Gauthier theo phe Aubaret: Về phía các nhà truyền giáo cũng chia làm 2 phe, phe chống, phe bênh. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng chống hoặc bênh cũng cùng một mục đích là đồng hóa dân Việt Nam nhưng theo cách nầy hay theo đường khác mà thôi. Trong phe ủng hộ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier hai người có liên hệ đến việc mở trường nói trên. Thư của Giám mục Lefèbre viết cho Linh mục Pernot, cho chúng ta thấy điều đó: “Hiệp ước Aubaret bị dìm, đó không phải là điều rủi ro. Chỉ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier là tán đồng hiệp ước, nhưng đứng trên quan điểm chính trị thực sự và quyền lợi của hội truyền giáo chúng ta, việc trả lại ba tỉnh để lấy tiền thật là một sự ngu ngốc kỳ lạ. Vấn đề bây giờ là phải lấy luôn ba tỉnh phía Nam: Đó là ý đồ của chính phủ và của toàn thể Bộ Tham Mưu chúng ta, nhưng cần phải có một nguyên cớ nghe được, vì cần phải có tôn trọng công lý và tôi không biết từ khi hiệp ước được ký kết với Bonard, người An Nam có cố tình phá vở hiệp ước hay không; vì không có gì rõ ràng là triều đình Huế không tôn trọng, dù có nhiều vi phạm ở địa phương mà họ có thể quy trách nhiệm cho dân chúng và quan lại, là những người, dĩ nhiên, không mấy sẵn sàng chấp nhận bất cứ hiệp ước nào với nước ngoài, nhất là ở Bắc Kỳ. Chắc Cha đã gặp Giám mục Sohier, người theo phe Aubaret, nhưng bất đồng ý kiến với tôi. Ông Aubaret đã trở lại Xiêm, hết sức xấu hổ về việc thất bại ngoại giao của ông, sự thất bại tôi đã cho ông thấy trước, khi ông ghé Sài gòn”. Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ). (Lettre de Mgr. Lefèbre au Père Pernot, datée du 27-9-1864, citée par Taboulet, Bulletin de la Société des Études Indochinoise 1943, tom XVIII, N" 4, 4ème trimestre. Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier sont respectivement évêque de Huế et évêque du Tonkin méridionnal (CHT, p. 181). 5.2.-Gauthier được mời họp mật: Năm 1872 tàu Bouragne chở trung tá hải quân Senez ra Bắc kỳ để dò xét tin tức cho một cuộc chiếm cứ vùng nầy. Trong thư báo cáo của hạm trưởng Senez gởi cho Đô đốc Dupré chúng ta thấy có mời Giám mục Gauthier họp mật với vị sĩ quan Senez nầy: “...Vừa lên bờ tôi gửi ngay thư cấp tốc cho Giám mục Gauthier cách đó lối mười cây số và hẹn gặp ở trong làng. Chúng tôi sống suốt ngày giữa đám dân Thiên Chúa giáo, họ rất niềm nở với chúng tôi...Lúc 4 giờ chúng tôi thấy một nhà truyền giáo, Cha Frichot đến nói chuyện với chúng tôi vì Giám mục đi vắng. Cha xác nhận lại những gì mà chúng tôi biết lúc sáng do sự tiết lộ của những phái viên: loạn lạc ngày càng bành trướng, từ các tỉnh Lạng sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang lan đến Sơn Tây, Bắc Ninh, Quảng Yên, Hải Dương và những người khởi nghĩa làm loạn, trộm cướp, đã làm những điều cực kỳ táo bạo. Cha xứ vùng Phát Diệm xác nhận các tin tức đó ngoại trừ vấn đề chính thống và tôn giáo của người dòm ngó ngôi Vua, về hai điểm này có những ý kiến mâu thuẫn nhau. Nhưng sự kiện chắc chắn là cầm đầu cuộc nổi loạn này có một người đang dòm ngó ngôi vua Bắc Kỳ, dù thuộc dòng chính thống hay không”. (Tôi bỏ phần tiếng Pháp để giảm số trang). 5.3.- Giám mục Gauthier viết: “Triều đình Huế chỉ nghe tiếng nói của đại bác mà thôi”. Trong thư đề ngày 12-2-1873, 19-2-1873 gởi cho Đô đốc Dupré, Giám mục Gauthier viết: “Cuộc chiến nầy làm hao mòn tài chánh và giết hại những tinh hoa của dân tộc (dĩ nhiên là dân tộc Pháp, BK). Giám mục Gauthier viết như vậy và còn than phiền về những việc sách nhiễu con chiên. Theo tôi (giám mục Gauthier) khi nói đến triều đình Huế và quan lại. Các người đó chỉ có nghe theo tiếng nói của đại bác, còn thì điếc hẳn không nghe gì khác.” (Tức là Giám mục khuyên không nên nghe triều đình Huế về một giải pháp ở Bắc kỳ mà phải chiếm nhanh, BK). Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ) 5.4.- Gauthier muốn có một chính phủ Ki Tô tại Bắc Kỳ. “Bằng những sự phóng đại đó, các kẻ truyền đạo cố lôi cuốn các viên chỉ huy quân sự Pháp vào các cuộc chinh chiến và họ tin rằng một khi sự xung đột tái diễn thì nhất định Pháp sẽ mắc kẹt trong guồng máy chiến tranh. Tôi tin rằng Giám mục Gauthier và Giám mục Puginier, nhất là ông thứ nhì, không chịu nỗi ý kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề: Giải pháp này sẽ phá tan hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng biệt, chính phủ này có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo. Các tín đồ Cônggiáo lại càng phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi giục các linh mục, các người chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa hai chính phủ... Suốt ngày, chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và các lời yêu cầu đem quân chinh phạt các tỉnh đó”.� Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ). 5.5.- Tại sao giám mục Gauthier muốn có một chính phủ Công giáo tại Bắc Kỳ? Trả lời: Sẽ dễ dàng biến người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô giáo hoàn toàn. Có ích gì lúc người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô? Giám mục Puginier trả lời thế cho chúng ta: “Tôi xác nhận rằng, khi nào Bắc Kỳ trở thành Công giáo, thì nó cũng trở thành một nước Pháp nhỏ, hoàn toàn giống như các đảo Philippines đã thành một nước Tây Ban Nha nhỏ… Giám mục Puginier viết tiếp: Nếu chính phủ hiểu rõ quyền lợi thực sự của nước Pháp mà ủng hộ chúng tôi một cách thật sự dù che đậy đôi chút để tránh đụng chạm dư luận, tôi quả quyết rằng trong sứ mệnh của tôi, mỗi năm chúng ta có thể thu về cho nước Pháp khoảng 20.000 người bạn bằng cách cải đạo, chắc chắn tỉ lệ nầy sẽ gia tăng hàng năm, và có đủ lý do mạnh để hy vọng rằng sau 30 năm, gần hết xứ Bắc Kỳ đều trở thành Công giáo, nghĩa là trở thành người Pháp hết”.� Nguyên văn tiếng Pháp(bỏ) Tất cả các giám mục linh mục Pháp đều là những tên thực dân cuồng nhiệt. Trong số đó, GiámmụcPuginierđược xếp hạng nhất, Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ đứng hạng nhì. Là hai kẻ đắc lực và nguy hiểm nhất trong chủ trương biến Bắc Kỳ thành một nước Pháp nhỏ và độc lập khỏi triều đình Huế.Giám mục Puginier đã uổng công đích thân đến Sài Gòn (Từ Bắc Kỳ, BK) để bàn trực tiếp với Đô đốc Dupré, nhưng Dupré vẫn cương quyết không can thiệp vào những vấn đề của nội bộ Bắc Kỳ�. 5.6.- Biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ sau khi đã đổi đạo dân Bắc, chủ trương nầy cũng được Đô đốc Dupré chỉ trích là quá nguy hiểm. Trong thư gởi cho Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa ngày 30-12- 1874 cho chúng ta thấy điều đó: Dupré viết: “Những lần tôi nói chuyện với Giám mục Puginier. Trước khi ông rời Sài Gòn, lòng tôi vẫn không thay đổi: vì thế tôi vẫn giữ nguyên các nhận xét mà tôi đã trình bày với ngài, dù vị giám mục nầy đã khổ công khuyến cáo rằng hãy bỏ cái chính nghĩa đã tạo cho dân chúng (An -Nam) có cảm tình với nước Pháp và theo con đường mà ông Garnier, một anh hùng bị kết án, đã vạch sẵn, nhưng người ta đã không biết những khó khăn của tình thế, do viên sĩ quan khốn nạn nầy để lại mà chúng ta phải gánh chịu”. Giám mục Gauthier cũng thuyết phục, nhưng Dupré cũng không thay đổi ý kiến: “Chắc chắn tôi sẽ không làm vừa lòng hoàn toàn Giám mục Gauthier được, ông ta quá hăng say và trong nhiều trường hợp tôi nhận thấy thật sự quá nguy hiểm nếu nhắm mắt nghe lời của ông giám mục nầy”. Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ). (Dupré au ministre de la Marine etdes Colonies, 30-12-1874, Archives ministère de la F.O.M. A 30 (25) carton 13. CHT, p. 366). Mgr. Gauthier ne pouvait non plus changer les idées de Dupré: Il me sera certainement impossible de donner une entière satisfaction à Mgr. Gauthier; son ardeur est extrême, et en maintes circonstances, j'ai pu reconnaitre combien il serait dangereux d'accepter sans réserves les appréciations de ce prélat”. (Dupré au ministre de la Marine et des Colonies, 26-7-1876, Archives du ministère de la F.O.M. A 30 (26) carton 14. CHT, p. 367). Qua sáu dẫn chứng nêu trên, chúng ta mới biết rõ Gm Gauthier là một tên tình báo hạng nặng. Và chúng ta có thể quả quyết rằng, đưa ra miếng mồi Mở Trường Kỹ Thuật là một mưu chước đã được bàn luận kỹ lưỡng giữa Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ để thăm dò và phỉnh gạt triều đình. Và qua đó chúng ta cũng thấy rõ thêm cái tư tưởng chẳng thà mất nước chứ không thà mất ngoại bang của Nguyễn Trường Tộ. Cũng thế chúng ta mới hiểu rõ tại sao mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình nên Thương hiếu với Giáo Hoàng, Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân, Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp, Thương lượng với Giám mục Croc” v.v... Và Nguyễn Trường Tộ gần suốt 20 năm đi đứng nằm ngồi ăn ở bên cạnh ông tình báo Gauthier chứ đâu có “từ bỏ để về sống cực khổ ở quê nhà” như Gs Hoàng Kỳ bênh vực không có chứng cứ! Kết luận: Một cách công bằng chúng ta có thể kể một số công của Nguyễn Trường Tộ (như tôi đã đề cập trong nhiều bài viết trước đây), và bên cạnh đó cũng phải cho thấy cái tội của ông đối với đất nước. * Công: 1. Chỉ huy đào Thiết cảng, 2. Làm được hai cái nhà thờ mặc dầu thời bấy giờ là chỗ để cho các giáo sĩ gián điệp và Việt gian cư trú, 3. Có vài tư tưởng tiến bộ, có thể xử dụng được, ở rải rác trong một số bài như Cải cách phong tục, Thư gởi Tây-soái, Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng, v.v. CÔNG thì như một giọt nước mà tội thì cả đại dương. Sau đây chỉ giản lược 10 tội: * Tội: 1. Ngày 16..10.1858 cùng với các linh mục, giám mục Việt và ngoại quốc làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm, 2. Năm 1861 làm thư ký và thông dịch cho Tổng hành dinh của quân thực dân Pháp tại Sài gòn để mở rộng vùng chiếm đóng, 3. Vai kề vai lòng cạnh lòng với tên tình báo Gauthier suốt gần 20 năm, cùng với tên nầy, thập thò núp bóng sau bức màn canh tân và cùng nhau viết 58 bài chiêu dụ để lừa dối nhân dân và phỉnh gạt triều đình nhằm phục vụ cho ước vọng của ngoại bang, 4. Cố tình nhận định tình hình sai lạc để làm nhụt khio1 quân ta nhằm cứu vãn cảnh lâm nguy của quân đội Pháp từ năm 1858, 5. Dối trá trong việc mở trường kỹ thuật ở Huế, 6. Âm mưu đề nghị đào kênh từ Hải dương vào Huế để toàn dân nổi loạn, 7. Đề nghị thương hiếu với giáo hoàng để thúc đẩy tiến trình Công giáo hóa Việt Nam. Có như thế Pháp mới dễ biến Bắc kỳ thành một nước Pháp nhỏ như Giám mục Puginier chủ trương. 8. Đề nghị dùng các linh mục Việt gian vào việc canh tân đất nước, và mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ và viện dưỡng lão do các giám mục thực dân cử người coi sóc. Lúc các ông linh mục và giám mục có mặt khắp nơi, họ sẽ biến những người Việt hiền hòa thành những kẻ ly khai với tổ quốc, rồi hô hào một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt nam, 9. Năm 1868, ngăn cản triều đình cử phái bộ đi Pháp khiếu nại để lấy lại 3 tỉnh miền tây Nam kỳ, 10. Thay vì phải đánh gấp để đuổi giặc về nước vào những tháng cuối năm 1870 và đầu năm 1871. Vì sợ Pháp bại trận, nên N. T. Tộ khuyên phải dùng con đường ngoại giao, thay vì vũ lực. Và nếu xử dụng vũ lực, thì không nên thực hiện ngay mà phải hai năm sau. Và chính ông Tộ, có lẽ, cũng đã cảm thấy những việc làm bán nước hại dân của mình nên đã trăn trở ân hận trước lúc chết: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận”! (Một lần lỡ bước, hối hận ngàn năm). Tôi rất thông cảm Gs cũng như nhiều người viết sai về Nguyễn Trường Tộ mà lý do chình là thiếu sử liệu, cũng như không đọc kỷ các bài chiêu dụ của ông ta rồi đối chiếu với tình hình chính trị, quân sự và tôn giáo của ngoại bang thời bấy giờ, và đặc biệt là vì phát xuất từ lòng yêu nước nồng nàn nên không ngớt lời ca ngợi những ai có tinh thần yêu nước. Nhưng trường hợp Nguyễn Trường Tộ thì chúng ta bị lầm trên 150 năm qua. Chúc giáo sư an lạc. Bùi Kha, 1.10.2010 Share this post Link to post Share on other sites
Posted 31 Tháng 5, 2015 Nguyễn Trường Tộ: Đối Luận Với TS, GM Nguyễn Thái Hợp Bùi Kha LTS: Ngày nay, không ai còn lạ gì những ý kiến bất đồng đến trái ngược giữa những người theo đạo Chúa ở Việt Nam và đại đa số quần chúng trong các quan niệm về những "anh hùng", những "vị thánh", và những người "yêu nước", hay những "kẻ tội đồ" của dân tộc, nhất là những nhân vật trong thời kỳ sau khi đạo Thiên Chúa du nhập vào Việt Nam. Lẽ dễ hiểu vì những gì có lợi cho Vatican, tức sáng danh "Chúa", đương nhiên đa phần là phải thiệt thòi cho dân tộc về mặt tinh thần lẫn vật chất. Cái họ gọi là mở mang dân trí hay khai sáng văn minh, thực ra là để mở mang nước Chúa, và lót đường cho thực dân xâm lược và cũng là để cho dân Chúa được tôn vinh. Ngược lại, các bậc anh hùng của nước ta chống lại sự xâm lăng của họ thì bị họ dèm pha, hạ bệ khi có thể. Những bài đối thoại về các nhân vật lịch sử mà chúng tôi cố gắng trình bày, đã có từ chục năm nay khi người ta được tiếp cận những tài liệu về giai đoạn thuộc địa đã qua, chứng minh ngược lại những gì mà Giáo Hội Công giáo Việt Nam muốn ngụy tạo lịch sử. Mỗi lần những kẻ chăn chiên hay các con chiên mở miệng ca ngợi một nhân vật lịch sử liên hệ đến giai đoạn này, thì gần như trăm lần như một, kẻ đó chắc chắn đã giúp ích không nhỏ cho con đường xâm chiếm Việt Nam của Vatican hay của Tây phương. Do đó ta nên tìm hiểu cho kỹ. Các tác phẩm của họ in ra đều luôn luôn "lén" pha trộn, nửa nạc nửa mở để vinh danh các "anh hùng đạo Chúa", biến kẻ đi giúp ngoại xâm thành người yêu nước, để đứng bên cạnh các anh hùng và các nhà yêu nước của ta. Việc này có một số tác giả đã lên tiếng. Xin nhiều người tiếp tục cảnh giác các tác phẩm của họ, nhất là trong giai đoạn mở cửa tự do ở bên nhà trong thập niên qua. (SH) Nguyễn Trường Tộ Tôi hơi ngại lúc viết bài đối luận với Tiến sĩ, Giám mục Nguyễn Thái Hợp vì tôi nguyên là một con chiên trong thời kỳ rất ấu thơ, nay thì không còn nữa. Nhưng vì đây là vấn đề sử nên, cần làm sáng tỏ để định vị cho đúng công hoặc tội của một số nhân vật lịch sử mà Nguyễn Trường Tộ là một. Bài của TS, GM Nguyễn Thái Hợp dưới hình thức phóng vấn có tựa đề “Nguyễn Trường Tộ là người yêu nước một trăm phần trăm"do Vĩnh Khánh thực hiện, đăng ở web Văn Hóa Nghệ An, link http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song/khach-moi-cua-tap-chi/3629-tien-si-nguyen-thai-hop-nguyen-truong-to-.html Dưới đây tôi tóm lược những ý chính trong phần trả lời của Tiến sĩ, Giám mục Nguyễn Thái Hợp và biện chính những tư duy sai sự thật để góp phần trả lại cho ông Nguyễn Trường Tộ những gì mà ông từng cưu mang. Tiến sĩ, Giám mục Nguyễn Thái Hợp (từ nay: Nguyễn Thái Hợp): Phần đóng góp xuất sắc nhất của Nguyễn Trường Tộ là những sáng kiến, những kế hoạch, những hoạt động cụ thể để bảo vệ và xây dựng đất nước, trong thời gian đế quốc Pháp vào xâm chiếm nước ta. ☞ Bùi Kha: Ngài trả lời như thế nhưng không cho độc giả, như tôi, biết ông Nguyễn Trường Tộ đã đóng góp những gì? Và xuất sắc ra sao? Trong các phần đối luận của tôi sẽ làm sáng tỏ nhận định sai lầm nầy của ngài. Nguyễn Thái Hợp: 58 bản điều trần nhằm giải phóng quê hương và canh tân xứ sở. Tất cả 58 điều trần của Nguyễn Trường Tộ đệ lên triều đình tạo thành một khối nhất thống nhằm mục đích duy nhất là giải phóng 3 tỉnh rồi cả 6 tỉnh Nam kỳ. ☞ - Bùi Kha: Cũng không thấy ngài cho chứng cớ? Để rộng đường dư luận, tôi muốn phụ ngài tóm lược 58 bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ: 58 bản Điều trần (Trương Bá Cần, “Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo”, nhà xb TP HCM, 1988) được sắp theo thứ tự thời gian, từ bài số 1: Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ (Thiên hạ đại thế luận) viết vào khoảng tháng 3–4/1863, đến bài cuối cùng, thứ 58: Bài tựa sách Đàm thiên luận (viết gần cuối đời của ông). Nếu sắp 58 bản Điều trần theo thứ tự thời gian, chúng ta sẽ thấy tư duy của Nguyễn Trường Tộ không được bố cục một cách nhất quán, mà viết theo những biến chuyển của tình hình quân sự và tham vọng của Pháp tại Việt Nam lúc bấy giờ để, xoáy vào chủ điểm chính: Tại sao nên hợp tác với Pháp? Với giọng văn điêu luyện, sắc sảo, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ sử dụng hai luận điểm “Củ cà rốt và cục xương” để thuyết phục dân Việt Nam; không nên làm cho quân Pháp đổ máu. Chiến thuật “củ cà rốt” là đưa ra một miếng mồi béo bổ như phải canh tân, phải đổi mới, phải khai thác hầm mỏ, sử dụng tài nguyên thiên nhiên... để làm cho dân giàu nước mạnh. Muốn đạt được mục đích đó thì phải hợp tác với Pháp (Di thảo số 5). Chiến thuật “cục xương” là đưa ra một số đề nghị không thể thực hiện được như chỉnh trang võ bị, đào kênh từ Hải Dương đến Huế v.v... (Di thảo số 27) để qua đó muốn triều đình nhà Nguyễn phải mất thì giờ gặm xương. Nguyễn Trường Tộ khéo và tài tình lồng tư tưởng Kinh Thánh vào hầu hết những bản Di thảo để một mặt thì hăm dọa: “Tạo vật đã định như vậy, sao cưỡng được” (Di thảo số 1), mặt khác thì an ủi chấp nhận số phận... “Vì tạo vật đã an bài” (trong nhiều Di thảo khác). Một số Di thảo, thì đưa ra các dữ kiện sai lầm về sử liệu để bi thảm hóa tình hình quân ta, nhằm kêu gọi người Việt nên hòa với Pháp (Di thảo số 1), và để biện minh cho những đề nghị của mình (Di thảo số 5 và 27). Nguyễn Trường Tộ nhìn đất nước Việt Nam trong lăng kính tôn giáo, mang đầy tính cuồng tín, để từ đó dẫn đến hai hệ luận: * Thứ nhất, Việt Nam là một phần tử trong tổng thể của vạn vật mà tạo hóa đã sáng tạo, do đó “không có tự do làm theo ý muốn” (Di thảo số 2). Và vì là sản phẩm của tạo vật nên phải chịu số phận cần được khai hóa (Di thảo số 1). * Thứ hai, liên đới với hệ luận thứ nhất về mặt trần thế, do đó, Việt Nam nên “dùng giám mục và linh mục vào việc canh tân đất nước” (Di thảo số 17). * Có 3 trong số 58 Di thảo không có nhiều giá trị cho việc đề nghị “canh tân” cũng như văn chương, học thuật, nên không đáng được quan tâm nhiều như Di thảo số 6: Về việc mua đóng thuyền máy; Di thảo số 7: Về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền máy”; Di thảo số 9: Về việc mua tàu London; Di thảo số 11: Tâm sự với Trần Tiển Thành; Di thảo số 16: Bài Bạt mừng đào xong thiết cảng; Di thảo số 28: Biểu tạ ơn vua, tháng 3/1868; Di thảo số 56: Bài Khải Quyên tiền sửa cầu; Di thảo số 58: Bài Tựa sách Đàm thiên luận (cộng chung có 17 tr., khổ 8x11). * Trái lại, có 3 Di thảo dù không liên quan nhiều đến chính trị, kinh tế hoặc canh tân, nhưng về phương diện văn chương, lý luận và sự kiện thì rất hay, xuất sắc, nhất là tác giả lúc bấy giờ đang ở lớp tuổi 35 và cách đây khoảng 135 năm. Đó là Di thảo số 10: Thảo thư gửi Tây Soái; Di thảo số 47: Về việc cải cách phong tục; Di thảo số 50: Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng (3 Di thảo này gồm 18 tr.). * 4 Di thảo khác được viết trong bối cảnh bị triều đình Tự Đức nghi ngờ nên giọng văn và ý tưởng có vẻ nịnh bợ hoặc phân trần, hoặc viết để thăm dò ý của triều đình. Đó là Di thảo số 13: Ngôi vua là qúy; chức quan là trọng; Di thảo số 40: Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định; Di thảo số 51: Cần nắm vững tình hình chính trị ở Pháp; Di thảo số 52: Canh tân và mở rộng quan hệ ngoại giao (cộng chung có 18 tr.). * Có 3 Di Thảo dài nhất và gói ghém phần lớn tư duy của Nguyễn Trường Tộ. Đó là Di thảo số 1: “Thiên hạ đại thế luận” (gồm 6 tr.); Di thảo số 5: “Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh” (17 tr.); Di thảo số 27: “Tám việc cần làm” (56 tr.). Như vậy, 3 bài chính chứa đựng phần lớn tư duy của Nguyễn Trường Tộ, tổng cộng khoảng 80 trang và hai Di thảo có tính tôn giáo. Về Kiến thức: Nguyễn Trường Tộ tự khoe về kiến thức của mình như sau: “Về việc học không môn nào tôi không để ý tới, cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi không khảo cứu, nhất là để nghiên cứu về sự thế dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ”(Di thảo số 3). Nhưng thực tế, tất cả 58 bản Di thảo của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta hiện có được, Nguyễn Trường Tộ dẫn chứng điển tích hầu hết là của Trung Hoa, không có bao nhiêu điển tích về Tây Âu, ngoại trừ về Tân Thế Giới (Hoa Kỳ), “Năm xứ Ấn Độ” (Thiên hạ đại thế luận), và tình hình giữa Anh và Pháp…, nhưng lại dẫn sai sự kiện lịch sử có hậu ý. Ngay cả về võ bị (Tế cấp bát điều, TBC, trang 225), Nguyễn Trường Tộ cũng không có những sáng kiến nào về cách bày binh bố trận theo lối hiện đại của phương Tây thời bấy giờ, mà toàn là lặp lại những mưu lược trong cuốn Tôn Ngô binh pháp (Xem Bùi Kha, Nguyễn Trường Tộ & vấn đề canh tân, Nhà xuất bản Văn học, 30.3.2011, tr.116-118). Sở dĩ Nguyễn Trường Tộ không thể sử dụng một số điển tích Tây Âu vì tiếng Pháp của Nguyễn Trường Tộ chỉ đủ để làm từ hàn tức là thư ký - phiên dịch (Theo bài viết Nguyễn Trường Tộ học ở đâu, học giả Đào Duy Anh trong tạp chí Tri Tân, số 7 năm 1941, trang 167). Về sự nghiệp: Nguyễn Trường Tộ đồng lõa lừa dối triều đình vua Tự Đức trong việc mua máy, mời thầy giáo để mở trường kỹ thuật ở Huế, không có mặt trong hàng ngũ nhân dân Việt Nam để kháng Pháp, trái lại cùng đi với Giám mục tình báo Gauthier, với Linh mục Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và 4 người khác đến Đà Nẵng trước giờ Pháp đánh chiếm để chào mừng, và có mặt trong đám giáo sĩ người Pháp và cùng với những người này làm áp lực để quân Pháp đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bị Đô đốc Genouilly đuổi đi Hồng Kông. Trong đám giám mục, linh mục bị đuổi có Nguyễn Trường Tộ. Năm 1861, vâng lời của phó Đô đốc Charner để cùng với Giám mục tình báo Gauthier về lại Việt Nam để phụ giúp việc mở rộng vùng chiếm đóng tại Sài Gòn. Sau khi thôi làm việc thư ký này, Nguyễn Trường Tộ làm một công việc trọng đại hơn là tùy theo tình hình xâm lược của Pháp để viết các bản Điều trần, lộng giả thành chơn, lúc thì hăm dọa quân dân Việt Nam “Ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa”, lúc thì đưa ra những đề nghị canh tân không tưởng, hoặc những đề nghị vô cùng tai họa cho quốc gia để có lợi cho Pháp, lúc thì nịnh bợ Triều đình để dễ bề chui sâu trèo cao như bài Ngôi vua là quý, chức quan là trọng, lúc thì làm như có vẻ yêu tổ quốc và chống Pháp như bài Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định viết năm 1871. Hô hào canh tân: Như chúng ta đã thấy có nhiều đề nghị của Nguyễn Trường Tộ không thế áp dụng được, vì: Thứ nhất, xa vời với thực tế, sai sử liệu và nguy hiểm như trong bài Thiên hạ đại thế luận, Lục lợi từ, Tế cấp bát điều v.v... Thứ hai, hoàn cảnh đất nước không cho phép và quốc gia không có chủ quyền, như vụ mua tàu London bị lừa gạt, vụ tên lái buôn Dupuis ở Bắc Kỳ. Do đó, lúc đề nghị dùng “Hội nước ngoài để khai thác tài nguyên” là quá không tưởng. Thứ ba, thực ra, Nguyễn Trường Tộ viết những bản Điều trần theo sách lược củ cà rốt và cục xương và NÚP BÓNG dưới chiêu bài CANH TÂN để làm lợi cho Pháp. Mặc dầu một vài bản Điều trần trông có vẻ thành khẩn và thực tế như Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh, “không nên cho giám mục biết tôi nói”...Nhưng hậu ý của Nguyễn Trường Tộ là cái khác chứ không phải cái đó. Thứ tư, một số đề nghị khác của Nguyễn Trường Tộ, nếu triều đình Tự Đức áp dụng thì Việt Nam trở thành một cổ ba tròng: Tròng thứ nhất, là thỏa hiệp với thực dân Pháp mà tôi đã chứng minh là hoàn toàn sai lầm: Mục đích của Nguyễn Trường Tộ là để cho Pháp có thì giờ Dưỡng binh súc nhuệ (chữ của Nguyễn Trường Tộ) để thực hiện kế hoạch tằm ăn dâu. Tròng thứ hai, là giao hảo với Giáo hoàng để cho các Giáo sĩ thực dân như Legrand, Pellerin, Retort, Huc... và các linh mục Việt Nam bản xứ được có đầy đủ Trị ngoại pháp quyền để dễ đồng hóa và Ki Tô hóa dân tộc ta, đem tổ quốc dâng hiến cho Pháp . Tròng thứ ba, là đề nghị một số giám mục, linh mục tình báo vào trong triều đình để dễ dàng đồng hóa biến người Việt Nam trở thành người Pháp và nước Việt Nguyễn Thái Hợp: Nguyễn Trường Tộ dâng điều trần “Bàn về tự do tôn giáo” (ngày 29.3.1863). ☞ – Bùi Kha: Đúng ngài là một Giám mục chứ không phải người nghiên cứu sử như chúng tôi. Hân hạnh được hầu ngài vài suy nghĩ của các Đô đốc người Pháp về tôn giáo. Nguyễn Trường Tộ viết: “Xét ra đạo Công giáo vào nước ta từ thời Lê. Đầu tiên, các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lão, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đãi nhau, năng lui tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào vòng hình phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục, nếu ngừng thì chốc lát sẽ trong trở lại”(Giáo môn luận, TBC, Sđd, tr. 116). Mật thư đề ngày 24/7/1862, Đô đốc Bonard gửi cho Chasseloup Laubat cho ta thấy tình hình tôn giáo thời bấy giờ: “Ai (các giáo sĩ, BK) cũng ôm ấp lý tưởng trở lại thời kỳ mà Giá-mục Bá Đa Lộc được xem như ông vua thực sự của xứ An Nam, thời kỳ mà mọi việc chỉ có thể được thực hiện theo lời khuyến cáo của ông giám mục này, hoặc được ông cho phép. Để đạt mục đích đó, các nhà truyền giáo đã dùng kế hoạch sau đây: Nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ tìm cách phủ nhận tính chính thống của vua này, và khi lật đổ được triều đình hiện tại thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ”. Nguyên văn tiếng Pháp: “Tous caressent l'idée de revenir au temp où l'Évêque d'Adran était le véritable souverain du royaume d'Annam, temps où rien ne se faisait que par ses conseils ou sa permission. Pour parvenir à ce but voici quels moyens ils ont employés: les unes et les autres, ne trouvant pas que les successeurs de la dynastie de Gia Long obtempérassent assez à leurs désirs, ont contesté la légitimité de ceux-ci et ont cherché à mettre en avant un candidat qui, s'il renversait la dynastie régnante, leur offrit plus de garanties pour arriver à leurs fins”. (Trích trong Archives du Ministère des Affaires Étrangères, Asie, Mémoires et Documents, Vol, 28, Fol.85 - 88: Thư khố Bộ Ngoại giao, Á châu, kỷ yếu và tài liệu, tập 28, trang 85-88, CHT, Sđd, trang 150). Một đoạn khác trong thư đó viết về hành động của các giáo sĩ dòng tu Đô-Mi-Níc người Tây Ban Nha: “Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha thường chiếm cứ nhiều vùng miền thượng du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn: Hăng hái và quá cuồng tín, đa số trong bọn này phát xuất từ các đoàn du kích và phe Carlistes, họ rời bỏ Tây Ban Nha và sẵn sàng mang gươm, súng và thánh giá chữ thập, dốc toàn lực tham dự vào các cuộc nổi loạn gây tai họa cho xứ Bắc Kỳ”. Nguyên văn tiếng Pháp: “Quant aux Dominicains espagnols qui occupent généralement le haut Tonkin ils sont beaucoup plus ingouvernables: ardents et fanatiques au dernier degré, un assez grand nombre d'entre eux sortant des bandes de guérillas et de carlistes ayant abandonné l'Espagne portent assez volontiers le sabre et le mousquet avec la croix et sont mêlés, et de coeur et le corps, aux révoltes qui affligent le Tonkin” (CHT, Sđd, p.152). Hai trong nhiều thí dự nêu trên, đã cho thấy Nguyễn Trường Tộ bênh vực và đánh giá sai về vai trò của các giáo sĩ. Nguyễn Thái Hợp: Nguyễn Trường Tộ đệ đạt nhiều kế hoạch giải phóng vùng bị xâm chiếm, kể cả mưu tính đánh úp Gia Định mà ông đóng vai chính. ☞Bùi Kha: Ngài Nguyễn Thái Hợp viết sử mà giống như phán cho con chiên nên không cần phải dẫn sử liệu. Mời Giám mục lướt qua một số sử liệu sau đây: Nguyễn Trường Tộ: Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định, viết ngày 9/2/1871. Tự sự: Năm (1863), ông đề nghị cho lính nghỉ ngơi để thực dân Pháp giữ bờ cõi cho mình. Năm 1868, La Grandière bất chấp lệnh của chính phủ ông là Không được chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, nhưng y vẫn làm. Vua Tự Đức phản đối việc này và định cử sứ bộ qua Pháp tố cáo La Grandière đã lạm quyền và đòi trả lại 3 tỉnh mới chiếm. Nếu sứ bộ đi Pháp thì có thể 3 tỉnh ấy đã được trao trả, nhưng Nguyễn Trưởng Tộ viết bài chiêu dụ cản ngăn. Đến nay (1870), Pháp thua Phổ nhưng đã cho lính nghỉ ngơi từ lâu lấy ai để đánh? Ông lại bày mưu đánh. Nhưng đề nghị bí mật tuyển người từ Bắc, Trung và một số khác tại địa phương, chứ không hề đề cập đến các phong trào đang kháng Pháp tại Nam Kỳ, như Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Nguyễn trung Trực v.v…, và kêu gọi họ hợp tác hay ủng hộ để đuổi kẻ thù chung? Nguyễn Trường Tộ còn nói ông cũng vào Gia Định để chỉ huy nhưng ngụy trang đi giảng đạo, và đồng thời báo tin cho ông Giám mục tình báo Ngô Gia Hậu (Gauthier) biết. Nguyễn Trường Tộ viết: “Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế (Khoản này các câu bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc bị vùi dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết” (TBC, Sđd, tr. 330). Tại Gia Định, và cả miền Lục tỉnh lúc bấy giờ và ngay bây giờ, làm gì có sông nào, đê nào ngăn nước để Nguyễn Trương Tộ phá và thuyền sẽ bị chôn vùi? Nếu Nguyễn Trường Tộ đề nghị đánh gấp, thì ông ta quả tình là một người yêu nước không còn phải bàn cãi. Nhưng rất tiếc, ông viết: “Kế này phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành”(TBC, Sđd, tr. 331). Thời gian hai năm đã tố cáo cái dã tâm của ông. Lý do: Một, như trên đã nói, ông Tộ đề nghị sử dụng những thường dân (không phải lính) chiêu mộ từ Bắc, Trung, Nam chứ không kêu gọi nghĩa quân tại địa phương, người vừa có tinh thần chiến đấu vừa đã được huấn luyện và có kinh nghiệm, thì làm sao thắng được? Hai, lịch sử cho thấy nếu đánh vào giai đoạn sau tháng 9/1870 Việt Nam nhất định thắng. Dưới đây là sử liệu: “Ở Âu-châu, chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Phổ ngày 19/7/1870, nhưng mãi tới ngày 5/8/1870 tin ấy mới tới Sài Gòn. Cornulier-Lucinere vội cho tổ chức sự phòng thủ sông Sài Gòn vì sợ rằng triều đình Huế thừa cơ hội mà tiến quân xuống miền Nam hay ra lệnh cho lục tỉnh Nam Kỳ nổi loạn. Song cả cho đến ngày 25/9/ 1870 là khi tin quân Pháp đại bại ở Sedan tới Sài Gòn, triều đình Huế vẫn án binh bất động. Quốc triều chánh biên toát yếu chép là: Năm Canh Ngọ tháng 9, nước Đại Pháp đánh với Phổ Lỗ Sĩ, quan Pháp soái thương cho ta biết, ngài khiến quan thương bạc hỏi thăm. Thái độ của triều đình Huế còn kỳ quặc hơn khi triều đình tỏ lòng mong muốn quân Pháp sẽ rút khỏi Nam Kỳ để trở về Pháp cứu vãn tổ quốc lâm nguy. Triều đình đã hoàn toàn không lợi dụng những nỗi khó khăn của Pháp khi nền đệ nhị thể chế sụp đổ thay thế bởi một chính thể cộng hòa, và khi mà quân Pháp bị cô lập ở Nam Kỳ” (Nguyễn Thế Anh, “Việt Nam thời Pháp đô hộ”, Lửa thiêng xuất bản, Sài gòn 1970, tr. 66). Giả sử triều đình bị mắc lừa bởi kế hoạch của ông Tộ, hai năm sau mới đánh, thì kết quả sẽ thế nào? Hai năm sau tức là năm 1873. Lúc này Việt Nam ở vào thế rất yếu nhưng Pháp rất mạnh, khó lòng thắng. Vì tại chính quốc, tình hình chính trị đã được ổn định, chính phủ mới đã được thành lập. Tại thuộc địa, Pháp đã bình định 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ được 11 năm, và 3 tỉnh miền Tây được 6 năm. Họ rất rảnh tay. Còn tại Bắc Kỳ, chính phủ Pháp ngăn cấm Đô đốc Dupré về một cuộc phiêu lưu mới tại Bắc Kỳ, nhưng cũng giống như La Grandière, ông ta không tuân lệnh thượng cấp. Và các viên chức trong tòa lãnh sự Pháp tại Trung Hoa cũng muốn chính phủ họ chiếm Bắc Kỳ như Dupré. Sử liệu cho thấy: Vào năm 1873, lãnh sự Pháp ở Quảng Đông, Bá tước Chappedelaine, báo cáo về Paris như sau: Ở Bắc Kỳ, quan lại An Nam bị thù ghét dữ dội. Không phải dùng đến 2000 người và 4 tuần dương hạm, mà chỉ cần phái một tuần dương hạm cùng vài pháo hạm và một đại đội thủy quân lục chiến tới cửa sông Hồng Hà là đủ làm xứ Bắc kỳ trở thành một thuộc địa Pháp (J. Dupis, Le Tonkin de 1872 à 1886, Histoire et Politique. Paris, 1910, p. 125. Dẫn theo Nguyễn Thế Anh, Sđd, tr. 81). Nguyễn Trường Tộ, một người yêu nước là thế đấy! “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh” Nguyễn Trường Tộ viết ngày 01/02/1871, và “Kế hoạch đánh úp Gia Định” (9/02/1871), cách nhau chỉ có 8 ngày, mâu thuẫn với nhau và cũng được viết theo kiểu nước rút. Tại sao vậy? Vì tình hình chính trị và quân sự của Pháp quá nguy khốn như sử liệu dẫn trên cho thấy. Tuy vậy, khuyên theo kế sách ngoại giao trông lộ liễu và phi lý quá đáng!(vì theo sử gia Nguyễn Thế Anh thì tình thế đã chín muồi, phải đánh). Hơn nữa, để cầm chắc triều đình Việt Nam theo con đường “đi xin” chứ không dùng võ lực, nên 8 ngày sau, ông Tộ lại viết bài chiêu dụ “Bổ túc ckế hoạch đánh úp Gia Định” nhằm nhận diện xem ai xuất hiện “đánh”, thì Pháp sẽ tiêu diệt ngay từ trứng nước. Và nhóm nào muốn đánh nhưng không thể bắt hoặc cản ngăn được thì dùng kế hoãn binh, khuyên không nên đánh bây giờ mà phải hai năm sau, như đã phân tích ở trên! Nói gọn, thời vua Tự Đức có hai cơ hội tốt nhất để đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi. Cơ hội một là từ 1858 đến 1863 nhưng Nguyễn Trường Tộ khuyên cho lính nghỉ ngơi. Cơ hội thứ hai là khoảng 1870 lúc Pháp thua Phỗ, nhưng Nguyễn Trường Tộ lừa đảo và đề nghị hai năm sau mới đánh. Và nếu để ý thêm, chúng ta sẽ thấy, hầu hết 58 bài chiêu dụ của Nguyễn Trường Tộ cũng chỉ nhắm vào hai điểm then chốt. Một, bằng mọi cách, phải kêu gọi hòa và hợp tác chứ đừng bao giờ để quân dân Việt Nam sử dụng võ lực đối với thực dân Pháp. Hai, sử dụng tất cả các thủ đoạn chính trị lươn lẹo để đưa các ông giáo sĩ lọt vào hầu hết các cơ quan công quyền nhằm Công giáo hóa rồi Pháp hóa dân tộc ta. Để che đậy các âm mưu ấy, Nguyễn Trương Tộ phải giả vờ nguyền rủa Pháp, phải sử dụng những danh từ hoa mỹ, canh tân, đổi mới, thưc dụng, phải bày ra chương trình này, kế hoạch nọ để đánh lạc hướng và đẩy triều đình theo con đường mà thực dân Pháp mong muốn. Thật vậy, Nguyễn Trường Tộ chỉ nhắc tên các giáo sĩ: Cùng thời với ông có những tấm lòng muốn canh tân đất nước như: Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Phạm Phú Thứ và các sĩ phu yêu nước như: Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Thanh, Quản Lịch... Nguyễn Trường Tộ được gán cho hai chữ canh tân và yêu nước, nhưng đọc tất cả 58 bản Điều trần, chúng ta không thấy có chỗ nào ông nhắc đến tên vài người Việt Nam yêu nước, hoặc nêu tên một vài sĩ phu nói trên để dùng vào việc canh tân, vào việc đánh úp mà chỉ thấy ông lặp đi lặp lại nhiều lần tên giáo hoàng, các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt gian. Tại sao vậy? Chúng ta nên nghe cuộc đối thoại giữa ông Toàn quyền de Lanessan và Giám mục Puginier như sau: De Lanessan: Theo ông thì nước Pháp nên đối xử với tầng lớp sĩ phu như thế nào? Puginier: Phải thủ tiêu họ đi. De Lanessan: Tại sao? Puginier: Vì các sĩ phu có một ảnh hưởng rất lớn, một uy tín rất lớn; họ được kính trọng mỗi khi họ ra làm quan, cho nên cần thiết phải thủ tiêu họ đi. Chừng nào tầng lớp sĩ phu còn, thì chúng ta còn phải lo sợ tất cả, bởi vì với lòng yêu nước nồng nàn, họ không thể nào chấp nhận nền đô hộ của chúng ta. Còn một điều nữa là chẳng ai trong họ chịu theo đạo Công giáo cả (Nguyễn Xuân Thọ, Sđd, tr. 436-437). Đầy dẫy những mâu thuẫn và sai lầm trong 58 bài chiêu dụ của ông Tộ. Nguyễn Thái Hợp: Cơ sở tư duy của ông luôn đậm đà bản sắc dân tộc tương tự như Võ Trường Toản hay La Sơn Phu Tử, và giàu kiến thức đông tây kim cổ khác nào Lê Quý Đôn. ☞ Bùi Kha: Không nên thấy người sang bắt quàng làm họ. Thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Nguyễn Thái Hợp: “Nguyễn Trường Tộ là người yêu nước một trăm phần trăm và cũng là tín hữu Công giáo một trăm phần trăm”. ☞- Bùi Kha: “Nguyễn Trường Tộ là tín hữu Công giáo một trăm phần trăm”. Đúng thế. Nhưng có yêu nước 100% hay không, mời Giám mục Nguyễn Thái Hợp đọc vài thông tin trong sử liệu sau đây: *Ngày 16.10.1858, Nguyễn Trường Tộ ra cửa Mành sơn Đà Nẵng để chào mừng quân Pháp và cùng với đồng bọn là áp lực để Pháp đánh Huế. Sử liệu: “Theo lời khai của một lang y (người thôn Thuận An, tổng Thanh Vân, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) tên Trần Vinh bị tàu Pháp bắt đem đi rồi sau trốn thoát được, kể lại thì ngày 10 tháng 9 (tức 16/10/1858), tàu Pháp (trên đó có Trần Vinh) đến đảo Nhãn Sơn, trước cửa Mành Sơn, để đón “Đức Thầy Huy và Cố Lý” (tức Giám mục Gauthier và Linh mục Croc, cũng có tên là Hậu và Hòa) nhưng “hôm qua hai vị đã lấy thuyền Nhà Chung với 8 người đi rồi”. Khi tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà nẵng, thì thấy thuyền Nhà Chung đã ở đó rồi” (xem Châu bản Triều Nguyễn CBR 22/47). Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Sài Gòn, Đô đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859” (TBC, Sđd, tr. 22). * Năm 1861 Nguyễn Trường Tộ cùng với ông tình báo Gauthier về Sài gòn để giúp Pháp mở rộng vùng chiếm đóng: Sử liệu: “Hơn nữa, nếu Nguyễn Trường Tộ có đi Pháp thì sớm nhất là giữa năm 1859 (14) mới tới nơi và khó có thể có mặt ở Hồng Kông đầu năm 1861 để cùng với Giám mục Gauthier trở về Sài Gòn, theo yêu cầu của Đô đốc Charner viên chỉ huy được giao trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài gòn (TBC, Sđd, tr. 22). Để thấy rõ hơn về ông Nguyễn Trường Tộ, tôi tóm lược một số mâu thuẫn trong các bài chiêu dụ của ông và tình hình thực tế lúc bấy giờ: Giám Mục Jean Denis Gauthier (tên Việt Ngô Gia Hậu0 Giám Mục Jean Denis Gauthier, Nguyễn Trường Tộ liên hệ với ông tình báo nầy gần 20 năm, 6 tài liệu mật cho thấy điều đó (xem Bùi Kha, SĐD, tr.137-147). 1. Nguyễn Trường Tộ: “Ai hòa với họ là phúc, chống lại họ là họa... hòa với Pháp là thượng sách... nên cho lính nghỉ ngơi... để Pháp giữ bờ cõi cho mình như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới... Quân ta mới nghe thanh thế Pháp đã phách lạc hồn xiêu...”. Nhưng các tài liệu mật của Pháp cho thấy từ 1858 đến năm 1863, tình hình quân đội Pháp tại Việt Nam vô cùng nguy kịch. Họ có ý định rút về và bỏ hẳn mọi mưu toan đánh chiếm Việt Nam. 2. Nguyễn Trường Tộ: Tại sao giết giáo sĩ. Ý kiến của Đô đốc R. de Genouilly: “Không một nền cai trị nào, dẫu phục vụ cho đạo Công giáo, lại có thể dung thứ...” 3. Nguyễn Trường Tộ: ... Giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống gian tà,... chẳng liên quan gì đến việc tranh thành tranh đất cả. Nhưng Đô đốc Bonard (ngày 24/7/1862) cho biết: “Nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ phủ nhận tính chính thống của vua này, và khi lật đổ được triều đình hiện tại, thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ... Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha, thường chiếm cứ miền thượng du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn”. 4. Nguyễn Trường Tộ: “Lúc đầu dân bản xứ xem họ như thù địch, dần dần chịu gần gũi... những người dân ở đây đã học được hết những kỹ xảo của người phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đã đuổi được người phương Tây ra khỏi đất mình... Họ là kẻ vỡ hoang mà ta thì hưởng cái thành quả!”. Nguyễn Trường Tộ viết như vậy để thuyết phục triều đình Việt Nam hợp tác với Pháp. Ông viết tiếp: “Xin kể ra các phương pháp làm hột nổ và đúc súng, đúc kim loại, cùng các môn quang học, cơ học, hóa học, khai thác mỏ than”. Nhưng đọc trong bài và kể cả các bài chiêu dụ khác chúng ta cũng không thấy ông nêu ra một phương pháp nào cả. 5. Nguyễn Trường Tộ: “Rồi ta lại qua nước La Mã thông hiếu với Giáo hoàng ... để nhờ giúp đỡ”. Nhưng kể từ Giáo hoàng Innocent X, năm 1652, đến những giáo hoàng kế tiếp, tất cả đều vận động để Pháp chiếm nước ta. 6. Nguyễn Trường Tộ: Gấp rút việc sửa đổi võ bị. Nhưng về chiến lược, thì ông cóp nhặt ý trong cuốn Tôn Ngô binh pháp. Về binh, ông khuyên nên cho lính nghỉ ngơi thay vì phải tổng động viên. 7. Nguyễn Trường Tộ: Giờ đây trong số các quan viên văn võ có những vị nào quê ở lục tỉnh Nam kỳ, triều đình phải đặc biệt ưu ái họ. Cho họ thường xuyên về thăm anh em họ hàng. Phải đãi ngộ họ thân mật nồng nàn hơn trước, khuyên bà con họ hàng của họ không nên dời nhà cửa đi nơi khác, đừng lánh đi xa (Di thảo số 27, TBC, Sđd, tr. 239). Dân Nam Kỳ lúc đó được sử gia sử gia Chesneaux mô tả: “Cuộc ra đi hàng loạt của các bậc sĩ phu và của dân chúng, rời bỏ các tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị người Pháp chiếm đóng, để về vùng tự do ở miền Tây, và tổ chức kháng chiến… 8. Nguyễn Trường Tộ: Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định, viết ngày 9/2/1871. Nhưng chỉ để dối gạt dân chúng. 9. Nguyễn Trường Tộ chỉ nhắc tên các giáo sĩ: Cùng thời với ông có những tấm lòng muốn canh tân đất nước như: Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Phan Thanh Giản... và các sĩ phu yêu nước như: Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Thanh, Quản Lịch... Nguyễn Trường Tộ được gán cho hai chữ canh tân và yêu nước, nhưng đọc tất cả 58 bản Điều trần, chúng ta không thấy có chỗ nào ông Tộ nhắc đến tên vài người Việt Nam yêu nước, hoặc nêu tên một vài sĩ phu nói trên để dùng vào việc canh tân, vào việc đánh úp mà chỉ thấy ông lặp đi lặp lại nhiều lần tên giáo hoàng, các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt gian. Tại sao vậy? Chúng ta nên nghe cuộc đối thoại giữa ông Toàn quyền de Lanessan và Giám mục Puginier như sau: De Lanessan: Theo ông thì nước Pháp nên đối xử với tầng lớp sĩ phu như thế nào? Puginier: Phải thủ tiêu họ đi. De Lanessan: Tại sao? Puginier: Vì các sĩ phu có một ảnh hưởng rất lớn, một uy tín rất lớn; họ được kính trọng mỗi khi họ ra làm quan, cho nên cần thiết phải thủ tiêu họ đi. Chừng nào tầng lớp sĩ phu còn, thì chúng ta còn phải lo sợ tất cả, bởi vì với lòng yêu nước nồng nàn, họ không thể nào chấp nhận nền đô hộ của chúng ta. Còn một điều nữa là chẳng ai trong họ chịu theo đạo Công giáo cả (Nguyễn Xuân Thọ, Sđd, tr. 436-437). 10. Chúng ta nhớ rằng, Gauthier (thầy của Nguyễn Trường Tộ là một tên tình báo) là thuộc hạ của Puginier tại Việt Nam vào giai đoạn ấy. Đó là lý do để giải thích tại sao không bao giờ nhắc đến tên một sĩ phu nào ngoại trừ các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt gian. Đầy dẫy những mâu thuẫn và sai lầm trong 58 bài chiêu dụ của Nguyễn Trương Tộ. Nhưng, bài này chỉ liệt kê 10 trường hợp tiêu biểu để đối luận với Tiến sĩ, Giám mục Nguyễn Thái Hợp vì ngài viết không có cái gì đúng! Bùi Kha* 30.11.2011 * Bùi Kha, “Nguyễn Trường Tộ & Vấn đề canh tân”, nhà xuất bản Văn học, 30.30.2011. Có bán tại các nhà sách, hoặc liên lạc Trung tâm nghiên cứu quốc học(84-8) 6290 7430. ĐC: 72 Trần Quốc Thảo, P.7, Q.3, TP HCM. Giá 75 ngàn, bìa cứng, in rất đẹp. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 5 Tháng 6, 2015 Trao đổi ý kiến với tiến sĩ Bùi Kha về Nguyễn Trường Tộ Hoàng Kỳ Thứ bảy, 03 Tháng 4 2010 10:16 Tạp chí Hồn Việt có đăng 2 bài báo của TS Bùi Kha (California):“Nguyễn Trường Tộ và vấn đề chủ hoà” số 30 (12-2009) trích dẫn một số báo cáo của các tướng viễn chinh Pháp gửi về nước phản ánh tình hình khó khăn bi đát của quân đội chúng để kết luận rằng đề nghị chủ hoà của NTT là sai lầm nghiêm trọng, những lời khuyên và nhận xét hoàn toàn sai lạc về tình thế về lịch sử mà NTT viết trong bản Điều trần, giả sử ông không có hậu ý giúp Pháp thì ông cũng nên được lịch sử phê phán cho đúng mức vì đề nghị sai chỉ có lợi cho Pháp mà thôi; bài “Nguyễn Trường Tộ và kế hoạch “làm cho dân giàu nước mạnh”” số 31(1-2010) phân tích những ý kiến đề xuất của NTT trong Lục lợi từ là sai nên chúng ta có thể đổi tên bản Điều trần Lục lợi từ của NTT thành Lục hại từ . Trước hết rất cảm ơn TS Bùi Kha đã có công phu sưu tầm tài liệu về NTT để giúp ta đánh giá đầy đủ hơn về nhân vật này. Song xin phép TS chúng tôi có vài ý kiến trao đổi thêm một số suy nghĩ của mình về sự đánh giá của TS. Trước hết phải thấy rằng NTT là một người công giáo gốc nên nặng tư tưởng về tôn giáo và ý thức về tôn giáo chi phối những suy nghĩ của NTT (như ý kiến của TS) là điều chắc chắn và đó là những hạn chế của ông. Nhưng cho rằng “NTT khéo léo lồng tư tưởng tôn giáo vào hầu hết những bản Di thảo (nên gọi là bản Điều trần, từ Di thảo là sau này ta gọi) để một mặt thì hăm doạ, mặt khác thì an ủi chấp nhận số phận” như TS đã viết, là không thoả đáng! Tất nhiên với trình độ một người từ Hán học chuyển qua Tây học được thời gian có 3 năm (1858-1861) khi qua Singapore, Hồng Kông, Malaixia...,1 năm qua Pháp và ý (từ tháng 1-1867 đến tháng 2-1868) và chỉ là học mót chứ không qua trường lớp chính quy thì tất nhiên là sự hiểu biết còn nông cạn, chắc chắn là chưa đầy đủ, nhưng không vì thế mà ta sổ toẹt tấm lòng ưu dân, ái quốc của NTT và thất bại của triều đình nhà Nguyễn không phải là do nghe lời của NTT vì những bản Điều trần lúc đầu của ông không hề được triều đình để ý gì, các bản về sau có được xem xét nhưng cũng chẳng ăn thua gì. NTT có chủ hoà trong thời gian đầu khi thấy so sánh lực lượng của quân đội triều đình với quân Pháp quá chênh lệch, với mục đích là để có thời gian củng cố lực lượng, xiết chặt hàng ngũ của ta trước một đội quân xâm lược có vũ khí tối tân hơn và ông luôn luôn quan tâm đến việc tu chỉnh võ bị. Rất nhiều những bản điều trần về sau NTT đề xuất về việc tu chỉnh võ bị như: Kế hoạch vay tiền để dùng vào việc binh (Di thảo số 44);Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng (Di thảo số 50). Hơn nữa lúc đầu ông hiểu nhầm là bọn Pháp chỉ yêu cầu được tự do giảng đạo, xin mở bến tàu, lập phố xá, thông cửa bể để buôn bán, nhưng về sau thấy rõ dã tâm của chúng cố tình đánh chiếm nước ta thì ông đã có những đề nghị khác như Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (Di thảo số 39) và Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định (Di thảo số 40). Do đó cho rằng NTT trước sau đều chủ hoà là không đúng. Về ý kiến: “NTT và kế hoạch “làm cho dân giàu nước mạnh”, TS có nhắc đến một mục trong bản điều trần là “Làm hột nổ và khai thác mỏ than”(Di thảo số 5) và chỉ trích “không hề thấy trong bài ông trình bày phương pháp nào cả!”. Tôi nghĩ: có sai là ở chỗ NTT nêu đề mục không phù hợp thôi, chứ một bản điều trần gửi lên triều đình ông chỉ nêu lên nguyên lý khái quát: “Điều cốt yếu để thực hiện các phương pháp trên, trước hết phải có khí cụ (...).Nói tổng quát thì phương pháp đúc súng đạn và chế hột nổ cần nhất ở cơ học, và có cả quang học giúp vào. Còn phép đúc kim loại và khai thác mỏ than thì cần nhất về cơ học và có hoá học giúp vào. Về phép lái tàu thì cốt ở quang học và có trắc lượng học, toán học giúp vào...”. Thiết nghĩ, đây không phải là giáo trình để dạy cho kỹ sư hay công nhân mà phải trình bày cách làm cụ thể đầy đủ như yêu cầu của TS. Ông chỉ nêu như thế để có thể đề nghị nhà vua cho mở các trường dạy kỹ thuật mà sau này ông đã trình. Còn về sáu điều lợi mà TS nêu ra trong bài thì có chỗ sai như sau: Điều thứ 5. Thông hiếu với giáo hoàng: “Ngày nay nếu ta biết qua lại giao thiệp với các nước lớn phương Tây...Rồi ta lại qua nước La Mã thông hiếu với Giáo hoàng...Nếu Giáo hoàng cho việc giúp ta là phải, thì mọi người đều vui lòng thực hiện, ta không lo người Pháp không nghe...”.Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần bản Di thảo này(trang 135-151) ở trong cuốn NTT con người và Di thảo của Trương Bá Cần, thì thấy những dòng TS đã viết chỉ ở 6 dòng cuối Điều thứ 4: “Thứ tư là nhờ nước khác lấy danh nghĩa mà áp chế họ” dài 32 dòng. Sáu điều lợi NTT trình bày chính là chủ trương ngoại giao đa phương do NTT đề xuất, việc mà hiện nay đảng ta cũng chủ trương như vậy, chứ không phải như TS võ đoán là: “Bang giao với Vatican. Đây là một trong hai chủ đích chính trong bản Điều trần này của NTT, còn 5 đề nghị kia chỉ là hoa lá cành, là củ cà rốt rỗng ruột không ăn được, nhằm che đậy hậu ý khuyên triều đình thoả hiệp với Pháp và bang giao với Vatican để thực hiện sách lược tôn giáo hoá Việt Nam(TS BK cho in đậm). Điều đó cũng có nghĩa là để cho Pháp dễ cai trị Việt Nam”. Đó là thái độ “không ưa đổ thừa cho xấu”, “nói lấy được” của người viết có ác ý!Xin lưu ý rằng một người bị triều đình và dân chúng thì nghi ngờ vì là người công giáo lại đã có thời gian làm việc cho Pháp nên dù có nhiều hiểu biết NTT cũng khó lòng bày tỏ được tấm lòng yêu nước của mình. Trước sau NTT đều thể hiện tâm sự lo lắng của một sĩ phu trước sự tồn vong của đất nước, theo lý tưởng của những tín đồ Khổng giáo: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Tâm sự đó ông đã nhiều lần bày tỏ, đặc biệt là trong bản Trần tình gửi cho triều đình (Di thảo số 3) ông đã từng gửi thư cho Phan Thanh Giản: Mặt trời cho dẫu không soi đến/ Hướng Dương xin vẫn nếp hoa quỳ. NTT đã nói rõ tấm lòng mình đối với đất nước khi do vì cách phân biệt đối xử của nhà vua đối với người công giáo, ông buộc lòng phải sống với người ngoại bang: Nguỵ Tào sống gửi: Từ Nguyên Trực/ Tần Lã không thờ: Lỗ Trọng Liên. Một người dù bị triều đình đối xử bất công do chính sách sai đối với giáo dân; có điều kiện để có thể “vinh thân phì gia” nếu sẵn sàng cộng tác với giặc, nhưng vẫn quyết từ bỏ để về sống cực khổ ở quê nhà nhưng vẫn một lòng lo cho đất nước, vẫn vắt hết tâm can của mình suy nghĩ kế hoạch đề xuất với triều đình để làm cho dân giàu nước mạnh, chống được ngoại xâm; sẵn sàng giúp cho tổng đốc Nghệ An hoàn thành việc đào Kênh Sắt, công việc mà từ thời nhà Lê đã phải bỏ gián đoạn, giúp cho sau này phát huy tác dụng rất lớn trong công cuộc chống Mỹ cứu nước; nhiệt tình giúp cho dân xã Nghi Đồng (Nghi Lộc-Nghệ An) dời đến vùng đất khí hậu và đất tốt, tránh được hoạ diệt vong; tài giỏi trong việc giúp cho các họ đạo ở Sài Gòn, Xã Đoài xây dựng nhà thờ, nhà Chung...chỉ trong một thời gian ngắn (10 năm). Thử hỏi những người được đi du học chính quy, đầy đủ ngày nay đã mấy người đóng góp được như vây? Nếu NTT có ý hai lòng như TS viết thì vua quan Tự Đức đã xử ngay thời ấy rồi chứ không chờ đến nay phê phán. Nhân dân cả nước nói chung và Nghệ Tĩnh nói riêng, các học giả như các giáo sư Lê Thước, Nguyễn Lân..., nhà chí sĩ Phan Bội Châu chắc cũng không thể hiểu lầm được về con người NTT. Tôi nghĩ đến người phải từ giã cõi đời giữa lúc tuổi còn trẻ, còn nhiều hoài bão thiết tha giúp dân giúp nước, với tâm sự đau đớn “Nhất thất túc thành thiên cổ hận”(một lỡ bước đi muôn thuở hận) vì có thời gian sai lầm là làm việc cho Pháp (tuy mục đích của ông khi nhận làm cho chúng là để trung gian giúp cho triều đình trong việc thương lượng chuộc lại ba tỉnh) không thể có tâm địa như TS họ Bùi đã viết. Có thể có những đề nghị của NTT chưa đúng và đầy đủ do những hạn chế như đã nêu trên nhưng đại bộ phận đề nghị canh tân của ông về nông nghiệp, công nghiệp, tài chính, quốc phòng, giáo dục, văn hoá khoa học kỹ thuật...rất đáng trân trọng và có một tầm hiểu biết đi trước thời đại hàng trăm năm. Do đó đánh giá về NTT cần công bằng và thể tình, không nên có những nhận định quá quắt và ác ý. Hoàng Kỳ-Cựu giáo chứcThay mặt các giáo viên trường THPT Nguyễn Trường Tộ-TPVinh-Nghệ An Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 6, 2015 Keith Weller Taylor: Hành trình của một sử gia Trần Trọng Dương, đăng ngày 09/06/2015 Nhà sử học Keith Weller Taylor (Mỹ) Keith Weller Taylor được coi là một trong những nhà Việt Nam học ngoại quốc nổi tiếng nhất ở Việt Nam cũng như trong giới học thuật quốc tế. Thường thì, một học giả nghiên cứu về Việt Nam hoặc chỉ có thể thành danh trong nước, hoặc ngược lại, chỉ được học giới nước ngoài tán dương, bởi sự chênh lệch giữa các lề thói làm việc. Nhưng, K.W. Taylor lại được cả hai. Vậy lý do đó là gì? Theo tôi, cần nhìn nhận ông cũng như những gì ông viết từ góc độ thân phận con người. Taylor là cựu chiến binh Mỹ tại chiến trường Việt Nam. Cái “hội chứng” mà ông mắc phải thời Hậu chiến, những câu hỏi rằng: vì sao ông và nước Mỹ của ông lại thất bại trong một cuộc chiến không cân sức? Những người đánh bại ông là ai, họ đến từ đâu trong lịch sử thăm thẳm của nhân loại?1 có lẽ đã thôi thúc Taylor trở thành người xông pha miệt mài trong lĩnh vực Việt Nam học trong suốt quãng đời của mình. Thành tựu mà ông đã công bố trong lý lịch khoa học cá nhân (được cập nhật lần cuối vào 4/11/2014), bao gồm: ba chuyên luận cá nhân, ba cuốn sách viết chung, và hàng chục bài nghiên cứu chủ yếu về lịch sử và văn hóa Việt Nam, được đăng tải trên các tạp chí như Journal of Vietnamese Studies, Journal of Asian Studies, Journal of Southeast Asian Studies Vietnam Review, Asia Journal... Phạm vi của các tiểu luận khoa học không chỉ tiếp cận những vấn đề “bếp núc” của sử liệu học và sử học trải dài từ cổ sử cho đến lịch sử hiện đại, mà còn hướng đến các vấn đề tôn giáo, triết học, văn học, dân tộc học, Tiếng Việt lịch sử,... Không nghi ngờ gì nữa, Taylor chính là chiếc cầu nối, để đưa ra những diễn giải về lịch sử và văn hóa Việt Nam đến với thế giới sử dụng Anh ngữ trong vòng 40 năm qua. Trong 40 năm ấy, Taylor xuất hiện như người nhạc trưởng của giới nghiên cứu Việt Nam học ở nước ngoài, những quan điểm và lý thuyết của ông đã gợi mở cho nhiều nhà nghiên cứu khác như Li Tana, Victor Lieberman, Choi Byung Wook,... Cũng trong 40 năm ấy, ông đã liên tục đào tạo nên nhiều thế hệ nhà Việt Nam học trẻ/ mới khác như C. Liam Kelley, Peter Zinoman, Duong John Phan, Claudine Ang, B. Zottoli,... để Hoa Kỳ trở thành một trong những quốc gia phát triển hàng đầu về Việt Nam học. Chừng ấy thôi, cũng đã đủ thấy những công sức mà Taylor đóng góp cho giới học thuật. Bài viết này sẽ nhìn nhận K.W. Taylor như một thực thể của lịch sử qua hai mốc chính trong sự nghiệp nghiên cứu của ông: The Birth of Vietnam (1983) và A History of the Vietnamese (2013). Kẻ chiến bại hát theo giọng của người chiến thắng Đây có lẽ là một nhận xét sẽ khiến một số người giật mình. Nhưng theo tôi, chính “giọng hát” này là điều tạo nên sự thành công của Taylor ở Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây. Ngoài một số bài viết sắc sảo hoặc rất chuyên sâu bếp núc2, Taylor được biết đến chủ yếu qua chuyên luận nổi tiếng The Birth of Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1983), nghiên cứu về lịch sử Việt Nam từ thế kỷ 3 TCN đến thế kỷ 10 SCN. Đó là một công trình tham khảo về quá trình đấu tranh cho sự tồn tại và độc lập của người Việt chống lại người láng giềng phương Bắc3. Nhưng chuyên luận này, theo tôi, chỉ có giá trị chủ yếu ở phương diện: nó là một kênh truyền tải tiếng nói của các nhận thức lịch sử ở trong nước [Việt Nam] đến với giới học thuật quốc tế thông qua lăng kính khúc xạ mang tên K.W. Taylor. Taylor có một lợi thế rất lớn khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam: góc độ của người đứng bên ngoài, gần như không chịu áp chế của chính trị từ bên trong, nhưng ông đã nhanh chóng phá bỏ ranh giới ấy, nhìn lịch sử Việt Nam với con mắt của người Việt Nam (hoặc ít nhất bằng con mắt của một số sử gia Việt Nam). Ông đã nhìn như thế nào? Ông nhận thức được rằng, “chiến tranh Việt Nam” là một yếu tố quan trọng bậc nhất tạo nên cung cách viết sử ở Việt Nam. Ông hiểu rằng: ông là người ở bên kia chiến tuyến, và có lẽ vì thế, sau khi thất trận, ông đã thử nhập thân vào cách suy nghĩ của người bên này lằn đạn, để hiểu xem họ thực sự đang nghĩ gì. Nhưng dường như ông đã “nhập vai” hơi đạt quá, dùng lại những khái niệm mà sử gia Việt Nam và người dân Việt Nam đã và đang sử dụng. Nào là “truyền thống”, “bản sắc của người Việt”, “quốc gia”, “dân tộc”,... Tức là ông đã sử dụng những khái niệm mới hình thành trong thế kỷ XX (khi Việt Nam va đập với chủ nghĩa thực dân) để tư duy về những đối tượng lịch sử xuất hiện trước đó cả ngàn năm. Riêng khái niệm “Việt Nam” cũng đã phức tạp rồi! “Việt Nam thống nhất” của năm 1975 trở về sau khác với “Việt Nam chia tách” của thập niên 1960, Việt Nam thập niên 1960 lại cực kỳ khác so với nước “Đại Cồ Việt” (chỉ nằm ở đồng bằng sông Hồng đầy đầm lầy và lau sậy vào cuối thế kỷ X - đầu thế kỷ XI), lại càng khác so với cái được gọi là “nhà nước Âu Lạc”,... Liệu chúng ta có thể đánh những dấu bằng an nhiên theo đẳng thức {Việt Nam = Đại Cồ Việt = Âu Lạc = Bách Việt} hay {văn hóa Bách Việt= văn hóa Âu Lạc = văn hóa Đại Cồ Việt= bản sắc văn hóa Việt Nam}? Chúng ta hãy xem ông lập luận: Đôi khi, người ta tưởng tượng rằng: “cốt cách bản địa Việt Nam tính” đã sống sót, không hề hấn gì dưới ngọn lửa cai trị của Trung Quốc. Ở một khía cạnh nào đó, điều này là đúng, ví như tiếng Việt đã sống sót, cũng như những huyền thoại của Việt Nam từ thời kỳ “tiền Trung Quốc” đã sống sót. Nhưng cả ngôn ngữ lẫn những truyền thống huyền thoại của Việt Nam cũng đã biến thể qua những giao tiếp với Trung Quốc.4 Khi ông phát ngôn như vậy, ông đã coi rằng đã có/ đã tồn tại một “cốt cách bản địa Việt Nam tính” trước khi người Hán xâm lược vào thế kỷ III TCN, ông đã coi rằng tiếng Việt và các huyền thoại bản địa thời Tiền Trung Quốc cũng tồn tại từ đó. Cốt cách đó/ bản sắc đó tồn tại dai dẳng hơn 12 thế kỷ cho đến khi người Hán chấm dứt vai trò cai trị ở mảnh đất này dù bản sắc đó đã ít nhiều bị Hán hóa. Dẫu ông biết rằng “người Việt Nam thế kỷ X rất khác so với tổ tiên của họ trước đó 12 thế kỷ”, nhưng ông đã thụt lùi, ít nhất khi so sánh với giới ngữ học trong nước như Nguyễn Tài Cẩn chẳng hạn5. Taylor có một lợi thế rất lớn khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam: góc độ của người đứng bên ngoài, gần như không chịu áp chế của chính trị từ bên trong, nhưng ông đã nhanh chóng phá bỏ ranh giới ấy, nhìn lịch sử Việt Nam với con mắt của người Việt Nam (hoặc ít nhất bằng con mắt của một số sử gia Việt Nam). Ông cũng đã mặc nhiên cho rằng, các huyền thoại truyền miệng thời cổ về giai đoạn lịch sử cổ xưa là một loại tư liệu có tính sử liệu, nó tồn tại trước cả chữ viết. Điều đó có nghĩa là ông chưa thể tách bạch được hai chuyện: cái có thể nhận thức được và cái chưa bao giờ có thể xác định được là có thể nhận thức được hay không. Như thế, Taylor bỗng nhiên trở thành một biểu hiện di thực của chủ nghĩa dân tộc quốc gia ở nước ngoài. Ông bắt đầu viết lịch sử Việt Nam bằng chương 1 “Lạc hầu” với “những truyền thống thuở sơ khai”6 qua Lĩnh Nam trích quái - tác phẩm văn học thuộc thể loại “chí quái” [ghi chép về những chuyện quái dị], hay những cóp nhặt “huyền thoại” trong sử liệu của Việt sử lược hay Đại Việt sử ký toàn thư. Theo tôi, thay vì chú tâm bóc tách xem các huyền thoại có phần lõi sự thật lịch sử nào không, thì ông nên tìm hiểu vì sao những câu chuyện đó được sáng tạo ra, quá trình sáng tạo và biến đổi của chúng ra sao, chúng được sửa đổi với những động cơ gì, trong bối cảnh lịch sử - văn hóa nào... Tức là hãy nhìn các huyền thoại đó từ góc độ của lịch sử văn học, lịch sử văn hóa, chứ không phải lấy nội dung trong đó làm cứ liệu của ngành khoa học lịch sử. Như trên đã nói, việc dùng lại những khái niệm, cùng những thao tác của giới học giả bản địa, đã khiến cho Taylor bị mắc bẫy: “Những huyền tích này cũng biểu lộ sự thực tâm lý cơ bản của xã hội Việt Nam thời cổ: quyền tối cao của xứ sở đến từ biển khơi. Lạc Long Quân là vị thần biển. Chúng ta đã thấy có một số chi tiết trong những huyền tích Việt Nam cũng giống như những huyền tích của những xứ sở ở ven biển Đông Nam Á. Khái niệm về một vị thần biển như biểu tượng của quyền lực chính trị và tính chính thống, đi cùng với sự hình thành của dân tộc Việt Nam thời tiền sử, chính là dấu hiệu sớm nhất đã cho ta thấy rằng người Việt Nam là một dân tộc tự giác và đặc thù. Chính khái niệm này đã được biểu hiện qua nghệ thuật trống đồng Đông Sơn với những con chim biển và những động vật khác vây quanh những chiếc thuyền chở các chiến sĩ.”7 Đoạn văn trên cho thấy, tác giả đang chấp chới giữa việc nghiên cứu lịch sử với các lĩnh vực khác như: nghiên cứu văn hóa folklore hay văn học trung đại. Ông cho rằng huyền tích thể hiện biểu tượng, còn biểu tượng có khả năng có một cốt lõi lịch sử nào đó. Cái cốt lõi ấy lại được củng cố bằng các cứ liệu khảo cổ học, như trống đồng Đông Sơn. Dù có thể biết rằng, “trống đồng Đông Sơn” chỉ là tên gọi được hình thành trong đầu thế kỷ XX khi các hiện vật trống đào được tại làng Đông Sơn (Thanh Hóa), nhằm để định danh cho một cộng đồng người nào đó trong số vô số các chủ thể văn hóa đã tạo nên một bản đồ trống đồng dày đặc ở khắp địa bàn Nam Trung Hoa và Đông Nam Á ngày nay. Công thức {tài liệu văn học viết + văn học truyền khẩu + tài liệu khảo cổ học} đã ít nhiều có tác dụng. Chẳng những bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa quốc gia dân tộc, Taylor còn bị ám ảnh vô thức bởi sự cường điệu về sức mạnh của nông dân trong tư duy của người Việt Nam thế kỷ XX. Ví dụ, như khi ông viết về Đinh Bộ Lĩnh để khái quát hóa về “nghệ thuật sinh tồn” của người Việt: “Trải qua nhiều thế kỷ, quan niệm của người Việt Nam về vương quyền dần dà được vây bủa bằng lớp lý thuyết và những quy cách của Trung Quốc, nhưng ở nguồn gốc nó vẫn duy trì cái tính chất đặc biệt của người nông dân Việt bướng bỉnh và thông minh đã nắm vững được nghệ thuật sinh tồn. Người sáng lập nền quân chủ của nước Việt Nam độc lập ở thế kỷ thứ 10 không phải là người được uốn nắn bởi truyền thống đế quốc Trung Hoa, mà chỉ là một nông dân quê kệch, từng trải chiến trận để đạt được hai thành tích là thống nhất được người dân Việt và giữ vững được nền quốc phòng. Hai đức tính thiết yếu ấy đã soi đường cho mọi nền lãnh đạo chính trị của Việt Nam cho tới tận ngày nay”.8 Kết luận về bộ ba {“nông dân” + “từng trải chiến trận” + nghệ thuật sinh tồn} có lẽ là một kết luận xuất phát từ sự trải nghiệm của bản thân tác giả qua lần tham chiến vào đầu thập kỷ 1970. Và dường như ông đã muốn khái quát nó như một nét hằng xuyên trong lịch sử Việt Nam bằng ví dụ tương tự về Đinh Bộ Lĩnh - người được coi là thống nhất “12 sứ quân”, được coi là nguồn gốc nông dân (là trẻ chăn trâu). Nhưng có một sự thực khác, rằng Đinh Bộ Lĩnh có gốc gác quan lại quý tộc, bố ông là Đinh Công Trứ - Thứ sử Châu Hoan kiêm Ngự phiên Đô đốc9. Việc Taylor quá tin tưởng vào những huyền thoại được ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư giống như nhiều người khác ở Việt Nam đã khiến cho kết luận của ông chỉ là sự minh họa cho một ý tưởng có trước. Nói chung, với cuốn The Birth of Vietnam (1983), Taylor đã mất gần 400 trang viết, để chứng minh cho một định đề có sẵn: truyền thống Việt Nam được xây dựng bởi một dân tộc thống nhất, một quốc gia thống nhất suốt từ giai đoạn thế kỷ X trở về trước cho đến thế kỷ X, và từ thế kỷ X đến thế kỷ XX. Và nếu, Taylor chỉ dừng lại ở đó, thì sẽ không có nhiều điều để bàn luận. Ông dần nhận ra rằng, cần phải đứng ra ngoài các phe phía để nhìn lại quá khứ. Một sử gia cần phải nói bằng giọng nói của chính mình, chứ không phải là hát lên bằng cổ họng của người khác. Cuốn A History of the Vietnamese được ra đời là vì thế! Khi sử gia tìm được giọng nói của chính mình Như trên đã nói, may thay, Taylor có lẽ đã hoài nghi với những gì mình viết vào năm 1983. Trong một lần trả lời phỏng vấn đài BBC vào năm 2003, ông đã nói: “Quyển sách của tôi in 20 năm trước rồi. Trước kia tôi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia, tôi đã nghĩ rằng không có quan điểm quan trọng gì giữa thời cận đại và thời quá khứ... Cho nên, tôi nghi ngờ về ý kiến phát triển lịch sử liên tục, một lịch sử thống nhất liên tục, tức là lịch sử của một nhóm lấy quyền hành chính trị muốn dùng chuyện lịch sử để giảng dạy và tuyên truyền dân chúng phải theo chính sách quốc gia của chính phủ. Lịch sử thống nhất liên tục là lịch sử bị chính trị hóa, không là lịch sử khoa học”10. Nhận thức được điều đó, ông đã tự thanh tẩy toàn bộ/ hoặc phần lớn những tri thức của mình về lịch sử Việt Nam. Taylor đã dành hơn hai chục năm vừa rồi để viết lại những nhận thức KHÁC. Chính vì vậy, trong cuốn sách mới này, ông chỉ dành vỏn vẹn 30 trang, để xóa bỏ hết những gì đã viết trong gần 400 trang của cuốn The Birth of Vietnam. Ông lấy An Dương Vương làm vị vua khởi đầu của lịch sử11, và gần như đã không đề cập gì đến những huyền thoại Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân- Âu Cơ (bọc trăm trứng), Sơn Tinh- Thủy Tinh, Tản Viên, Chử Đồng Tử,... nữa. Cả khái niệm “Bách Việt” do người Hán sáng tạo để áp đặt/nô dịch tinh thần những cộng đồng dân cư khác Hán ở Phương Nam, đến đây cũng đã bị loại thải. Cái quan niệm của chủ nghĩa huyết thống tập thể, rằng “tất cả những người có cùng quốc tịch (bất kể thuộc về dân tộc nào) đều là những người cùng huyết thống, là cùng một bọc sinh ra, là đồng bào, anh em cốt nhục”..., đến đây, cũng đã được cho vào quên lãng. Ông viết rằng: “nhu cầu truy tầm nguồn gốc trong quá khứ xa xăm là nỗ lực nhận thức chung của nhiều dân tộc ở mọi thời điểm và mọi không gian... Nhưng nhu cầu bức thiết kết nối với quá khứ đó chỉ là một ham muốn chứng thực tự thân, chứ không phải là nỗ lực học thuật”12. Ông cũng nói rõ rằng, những gì mà các sử thần thời Trần và Lê sơ đã làm khi biên soạn những bộ sử đầu tiên của người Việt là cắt dán, lắp ghép các nguồn tư liệu Hán văn cho phù hợp với sự tưởng tượng về quá khứ và tổ tiên của mình, nhằm tạo ra lịch sử của phương Nam trong thế đối chọi với lịch sử của phương Bắc. Sử Tàu dài bao nhiêu sử Việt nhiều từng ấy, họ có gì thì ta có đó. Với cách làm như vậy, phần lớn sử thần Nho gia thời trung đại đã mắc bẫy các sử thần Nho gia Trung Hoa, bằng cách kéo nhập lịch sử Việt Nam “đồng nguyên” [cùng một gốc] với lịch sử Trung Quốc. May thay, Taylor có lẽ đã hoài nghi với những gì mình viết vào năm 1983. Trong một lần trả lời phỏng vấn đài BBC vào năm 2003, ông đã nói: “Quyển sách của tôi in 20 năm trước rồi. Trước kia tôi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia, tôi đã nghĩ rằng không có quan điểm quan trọng gì giữa thời cận đại và thời quá khứ... Cho nên, tôi nghi ngờ về ý kiến phát triển lịch sử liên tục, một lịch sử thống nhất liên tục, tức là lịch sử của một nhóm lấy quyền hành chính trị muốn dùng chuyện lịch sử để giảng dạy và tuyên truyền dân chúng phải theo chính sách quốc gia của chính phủ. Lịch sử thống nhất liên tục là lịch sử bị chính trị hóa, không là lịch sử khoa học”. Trở lại với vấn đề mà Taylor phát biểu: “ham muốn nhận thức về tổ tiên” với “nỗ lực học thuật để hiện thực hóa ham muốn ấy”, ông có hàm ý rằng, không phải bất cứ một hành vi nghiên cứu nào để thể hiện tình yêu dân tộc và đất nước cũng đều cho ra các thành tựu khoa học, có khi nó chỉ cho ra các kết quả có sẵn được nhiều người ưa thích, để cùng bình luận, tán thưởng trong không khí khải ca, chứ chưa chắc đó đã có ích gì cho nhận thức và quá trình cải tạo thực trạng cuộc sống. Tình yêu về đất nước con người không phải lúc nào cũng đồng hành tịnh tiến với nỗ lực học thuật, và ngược lại. Người Việt và các sử gia Việt cần phải duy lý hơn chăng!? Taylor phát biểu: “tôi tin rằng, công việc của giới sử học là nhìn vào những gì may mắn còn sót lại từ quá khứ trong mối quan hệ tương hỗ với sự tồn tại của những người đương thời, chứ không phải là bằng chứng về những người được coi là tổ tiên của người hôm nay.”13 y xem ông đã ngoảnh lại nhìn những đồng nghiệp trong nước như thế nào: “Các học giả Việt Nam đã/ đang nỗ lực triển khai dự án để đẩy bản sắc dân tộc trở ngược về quá khứ xa nhất có thể. Trong thời kỳ hiện đại, điều đó đã trở thành phổ thông/ phổ biến với người Việt khi họ xác nhận lịch sử quốc gia kéo dài 4.000 năm, cho đến tận thời điểm mà các niên đại và hiện vật khảo cổ học được tập hợp và phân loại trong nền văn hóa Phùng Nguyên... Nhiều học giả người Việt toan tính vạch đường “chỉ đỏ xuyên suốt” ở lĩnh vực văn hóa, thậm chí cả ở ngôn ngữ - dân tộc, [để chứng minh] sự phát triển nối liền từ thời Phùng Nguyên đến tận Việt Nam hiện đại.”14. Ông viết tiếp về cách thức trình bày, và biên soạn như sau: “Trong cuốn sách này, tôi kết hợp một tự sự chính trị theo tuyến tính lịch đại, với trình bày theo đề mục thuyết minh, và thảo luận về địa lý, giáo dục, tư tưởng, ngôn ngữ, văn học, tôn giáo, xã hội, chính quyền, kinh tế, và chiến tranh... Như một thám sát hoa tiêu, cuốn sách này cung cấp một điểm vào/ một lối vào lịch sử Việt Nam, và chưa thể phát quật hết khối sử liệu đã tạo nên những ý tưởng của tôi. Nó hy vọng sẽ cung cấp những phác thảo về quá khứ người Việt bằng việc sử dụng các thông tin về chính trị, hành chính, kinh tế, và văn hóa”.15 Như lối nói của Taylor, ông đang cố gắng viết lại lịch sử Việt Nam với tính đa diện, đa chiều của nó, lịch sử Việt Nam không phải chỉ là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm, lịch sử của chính trị với vua chúa và quan lại, mà còn là lịch sử của thơ ca, nghệ thuật, thương mại... Trong cuốn sách với bố cục 13 chương, tác giả có ý phân kỳ làm bốn giai đoạn chính: Giai đoạn đầu: trình bày về mảnh đất (nay gọi là Bắc bộ) là một khu vực địa lý hành chính của chính quyền Trung Hoa trong nhiều thế kỷ. (Chương 1) Giai đoạn hai: bốn thế kỷ của thời Lý- Trần, trong đó quý tộc Phật giáo xác lập quyền lực ở đồng bằng sông Hồng. (Chương 2 và 3). Giai đoạn ba: bốn thế kỷ đóng góp của triều Lê với những vị vua gốc xứ Thanh, Khổng giáo là tư tưởng chính thống, người Việt mở rộng về phía Nam, và giai đoạn dài chia cắt lãnh thổ bởi chiến tranh. (Chương 4, 5, 6, 7 và 8). Giai đoạn bốn: hai thế kỷ gần đây nhất, quốc gia Việt Nam hiện đại đã thành hình. (Chương 9, 10, 11, 12 và 13). Đọc cả cuốn sách, chúng ta thấy, Taylor “đang nỗ lực dấn vào một lối đi mới” bằng cách “tạo ra một tự sự về hơn 2000 năm của lịch sử Việt Nam”16. Để cuối cùng ông đi đến một vài nhận định cho người bản địa, rằng: quá khứ của Việt Nam là chuỗi dài của những thử nghiệm thất bại trong việc tổ chức và trị lý xã hội17, rằng bất cứ hành động nào muốn thay đổi chính trị ở Việt Nam đều liên đới đến chính giới Trung Quốc từ xưa đến nay. Còn nhiều nhận định khác nữa về căn tính văn hóa, về xung đột vùng miền, về tính thống nhất của lịch sử, tính nhất nguyên dân tộc ở Việt Nam,… trong cuốn sách này, sẽ gây ra nhiều thảo luận trái chiều, thậm chí gay gắt. Chưa bàn đến đúng/sai một cách chi tiết, nhưng việc người Việt luôn để các học giả nước ngoài “nghiên cứu hộ/suy nghĩ hộ” về chính mệnh vận của mình âu cũng là một việc bất đắc dĩ, bởi ngoài những bất cập về cơ chế, hạn hẹp về kinh tế,…người Việt hiện vẫn đang hãm mình trong những quán tính của quá khứ, của những tư duy hậu phong kiến và hậu thực dân! ------------------------------------------------------------------------- Chú thích: 1. Lời nói đầu Preface. The Birth of Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1983), p.xv.2. "Voices within and without: Tales from Stone and Paper about Do Anh Vu," (Ithaca, NY: Cornell Southeast Asia Publications, 1995), pp. 59-80.3. Kent Blaser. Review The Birth of Vietnam by Keith Weller Taylor. The History Teacher. Vol.18. No.1 (Nov., 1984). pp.152-153.4. ibid. P.xv.5. Với “hộ chiếu” do Stalin cấp cho giới ngôn ngữ học: ngôn ngữ không có tính giai cấp, Nguyễn Tài Cẩn đã kết luận rằng tiếng Việt chỉ có lịch sử 12 thế kỷ (từ thế kỷ 8 đến nay). Nguyễn Tài Cẩn. 1998. Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của Tiếng Việt. TC Ngôn ngữ, số 6/1988. Tb2001. Trong Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội. P.401-411.6. “Lac Lords”- “The Earliest Traditions”. Ibid. 1983. P.1-7.7. Ibid. 1983. P. 6-7.8. Ibid. 1983. P.vi.9. Trần Trọng Dương. Đinh Bộ Lĩnh - loạn sứ quân: từ sử liệu đến sử thực. TC Nghiên cứu và Phát triển. Huế. Số 01/2012. Trần Trọng Dương. Loạn 12 sứ quân? TC Tia sáng số 14, 20 7/ 2013. tr.50-53. Trần Trọng Dương. Đinh Bộ Lĩnh: huyền thoại và lịch sử. TC Tia sáng số 16- 20.8.2013. tr.36-38.10. Bài phỏng vấn BBC (London). 26-6-2003. Nguồn link: www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/.../030912_keithtaylor.shtml11. Ibid. 2013: pp.14-17.12. A History of the the Vietnamese (Cambridge University Press, 2013, pp.3).13. Ibid. Pp.3.14. A History of the Vietnamese (Cambridge University Press, 2013, pp.2-3).15. A History of the Vietnamese (Cambridge University Press, 2013, pp.6-7.)16. C.L. Kelley. Review of “A History of the Vietnamese by Keith Weller Taylor”. (Điểm sách Lịch sử dân tộc Việt Nam của Keith Weller Taylor). Journal of Vietnamese Studies, Volume 9 (1) – Jan 1, 2014.17. Ibid. 2013. Pp.620. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 21 Tháng 6, 2015 LINH MỤC ĐẮC LỘ BIỆN CHÍNH VỚI ÔNG NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU nguồn http://giaodiemonline.com/2009/02/bienchinh.htm Bùi Kha 24 tháng 2, 2009 Sachhiem.net đính kèm ở đây: tài liệu dẫn: Loạt bài của ông Nguyễn Đình Đầu trong báo "Công Giáo và Dân Tộc" Alexendre de RhodesSau khi bài Alexandre de Rhodes – công và tội (http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha5.php) của tôi xuất hiện trên Tạp chí Hồn Việt số 17 (Tháng 11/2008) , ông Nguyễn Đình Đầu viết bài phản biện đăng trên tuần san Công giáo và Dân tộc với tựa đề Lại một bài báo vu khống cha Đắc Lộ (http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha3.php). Tôi rất thích những ý kiến phản biện để làm sáng rõ vấn đề nhưng bài viết phải nghiêm túc và có chứng liệu, không nên chụp mũ và nhất là phải khách quan vô tư không bị chi phối bởi tình cảm, nhất là tình cảm tôn giáo. Trước hết, xin cảm ơn ông Nguyễn Đình Đầu đã sửa cho một lỗi chính tả là vua Louis thứ 14 thay vì thứ 4. Điểm kế tiếp rất đáng được trân trọng là ông Nguyễn Đình Đầu, một trong những người bênh vực Lm Đắc Lộ hết mực, cũng phải công khai thừa nhận “không một ai (dĩ nhiên là bao gồm ông Nguyễn Đình Đầu, BK) trong hội thảo cho rằng Đắc Lộ “là người sáng nghĩ ra chữ Quốc ngữ”, mà chỉ là người học nói tiếng ta từ chính người Việt...”. Và nếu xác nhận như thế thì không có lý do gì để vinh danh ông linh mục này, và ông Nguyễn Đình Đầu cũng không cần phải nhọc công phản biện bài viết nghiêm túc của tôi về một vấn đề lịch sử bị hiểu nhầm qua nhiều thế hệ. Ngoài hai điểm vừa kể, bài viết của ông có nhiều điều bất cập, thiếu chứng liệu và chụp mũ. Dưới đây là một số chứng cớ: 1. XUYÊN TẠC TƯ LIỆU: Đoạn mở đầu, ông Nguyễn Đình Đầu cáo buộc tôi “đây là một bài báo xuyên tạc tư liệu lịch sử với ác ý vu khống kết tội cá nhân De Rhodes”. Kế tiếp, ông liệt kê một số tác giả mà ông cho là họ ca tụng Lm Đắc Lộ, nhưng không cho thấy tôi (Bùi Kha) đã xuyên tạc lịch sử như thế nào! Chẳng lẽ, ông muốn nói, có nhiều người nhất là nhiều linh mục và nhiều tờ báo đăng bài “ca tụng” Đắc Lộ tất nhiên phải là ĐÚNG hay sao, còn những ai, trong đó có Bùi Kha, viết theo đúng sử liệu thì tất nhiên phải là “xuyên tạc tư liệu lịch sử”? Chúng ta nghiên cứu lịch sử là cần dựa vào những sử liệu giá trị và những bài nghiên cứu nghiêm túc để kiểm chứng, đối chiếu phân tích nhằm đưa đến một kết luận khả dĩ chứ đâu phải dựa vào số đông để đánh giá một nhân vật hoặc một sự kiện lịch sử. 2. KIẾM ĐỒNG MINH VÀ CẮT XÉN CÂU VĂN CỦA NGƯỜI KHÁC: Và để kiếm thêm đồng minh, ông Nguyễn Đình Đầu viết: “Cho nên, chúng tôi rất ngạc nhiên thấy tác giả Bùi Kha viết: “Vinh danh linh mục Đắc Lộ từ sự nhầm lẫn trong dịch thuật”. Ông lên giọng đánh giá giới khoa học bằng nhận định: Hầu hết các nhà nghiên cứu chưa đọc hết các tác phẩm của Đắc Lộ, đặc biệt là cuốn Hành trình và truyền giáo. Lời nói đầu cuốn Từ điển Việt Bồ La và cuốn Phép giảng tám ngày” [chữ đậm là của BK muốn nhấn mạnh]. Tôi viết “Chúng ta có cảm tưởng là hầu hết các nhà nghiên cứu…”. Ông Nguyễn Đình Đầu cắt xén dòng chữ “Chúng ta có cảm tưởng là” nên câu văn của tôi đổi nghĩa từ giả thiết đến khẳng định. Sở dĩ, tôi nghĩ như trên vì hai lý do: Một, Hội thảo lần thứ nhất là vào tháng 12/1992 và lần hai là tháng 3/1993 mà cuốn Phép giảng tám ngày mới in xong vào tháng 5/1993 còn cuốn Hành trình và truyền giáo chỉ mới được xuất bản năm 1994. Cuốn Phép Giảng Tám Ngày của Lm Đắc Lộ không đáng để phê bình vì đó là tác phẩm “không đúng đắn”, không phải của một thừa sai trí thức. Còn cuốn Hành Trình và Truyền Giáo viết sai và xuyên tạc nhiều vấn đề. Xin đọc bài phê bình khá chi tiết của GS Trần Chung Ngọc đăng trên: http://www.sachhiem.net/TCNtg/TCN50.php Hai, tôi nghĩ, những ai có đọc ba cuốn sách nói trên và nghiêm túc thì không thể chấp nhận: lối dịch thuật tùy tiện và đánh giá Lm Đắc Lộ theo kiểu của ông Nguyễn Đình Đầu như tôi đã trình bày khá rõ trong bài viết trước. Thiết tưởng tôi có lý do để nhận định như thế. Nhận định này có thể có chủ quan nhưng không phải “lên giọng” hạ thấp ai như ông Nguyễn Đình Đầu gán ép có hậu ý. Theo tôi, ông Nguyễn Đình Đầu dịch “plusieurs soldats” là “lính thừa sai”, đó là ngụy nghĩa, và dịch “La conquête de tout l’Orient” là “nước cha trị đến” là dịch tùy tiện vì không hiểu thế nào là “nước cha trị đến”. Còn Bùi Kha dịch “plusieurs soldats” là “lính chiến có súng để đánh giặc”, và “la conquête de tout l’Orient” là “chinh phục toàn cõi Phương đông” là dịch theo ý và sát nghĩa của tác giả Đắc Lộ. Tôi đã đưa ra 5 luận điểm, mà đúng ra là có nhiều hơn, để giải thích tại sao tôi dịch như thế. Còn ông Nguyễn Đình Đầu dịch nhưng ông đã không thể đưa ra một lý do nào. Do đó, tôi cho là một lối dịch đầy cảm tính để vinh danh sai lầm một người có nhiều oan trái với lịch sử nước ta. Nhân đây, tôi trích thêm một đoạn trong cuốn Hành trình và truyền giáo để xem Lm Đắc Lộ có muốn xin lính chiến (plusieurs soldats) hay không: “Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Quốc, ở Ðàng Trong, ở Ðàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanchicô Xavie tới ba trăm quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm những nơi cùng kiệt cõi đất.” (Sách Hành trình và truyền giáo, giữa tr. 264>). Để có thêm tư liệu so sánh xem Bùi Kha có vu khống cha Đắc Lộ hay không, mời ông Nguyễn Đình Đầu và độc giả tìm hiểu thêm Lm Đắc lộ, các vấn đề chính trị và tôn giáo trong thế kỷ XVII: a. Cao Huy Thuần trong Christianisme et Colonialisme au Vietnam 1857-1914 (Ðạo Công giáo và Chủ nghĩa Thực dân Pháp tại Việt Nam 1857-1914). Đây là một luận án tiến sĩ quốc gia (docteur d’état) bảo vệ tại Pháp và đã được ban giám khảo đánh giá rất cao. ... Ðến Bắc Kỳ năm 1627, Linh mục de Rhodes nhận được ân huệ của Chúa Trịnh Tráng ngoài Bắc, .... Linh mục đã viết trong các báo cáo gởi về cấp trên như sau: “Vua xứ Bắc cho chúng tôi xây cất nhà cửa và nhà thờ gần hoàng cung. Tại đó, chúng tôi đã được giúp đỡ rất nhiều trong khi thi hành phận sự.”... Nhưng ở đây, cũng đã xảy ra những phản ứng như ở Trung Quốc và Nhật Bản. Chính phủ lo lắng khi thấy đạo mới tấn công thẳng vào các nguyên lý đạo đức và chính trị Nho giáo vốn là nền tảng của xã hội cổ truyền Việt Nam. Thật vậy, toàn thể cơ cấu chính trị và xã hội của nước Việt Nam xây dựng trên quan niệm đạo đức của Nho giáo: lòng hiếu thảo, sự thờ cúng ông bà, lòng trung với vua. Nhưng đạo mới từ Tây Phương đến lại muốn phế truất các quy luật tín ngưỡng cũ. Không những việc thờ cúng ông bà bị kết án quyết liệt mà lòng sùng đạo của con chiên phải đứng trên lòng hiếu thảo và lòng trung với vua.... “Về Paris, Alexandre de Rhodes gặp một nhóm linh mục trẻ đang có quyết tâm biến việc đào tạo các linh mục này thành một công việc của Pháp. Ðó là thời kỳ chính trị Pháp bắt đầu chịu ảnh hưởng sự thu hút của biển cả. Ðược Hoàng hậu Pháp và một vài nhân vật cao cấp ủng hộ, nhưng kế hoạch này bị Bồ Ðào Nha công kích mạnh mẽ, họ viện dẫn sự bảo trợ hoàn toàn mà Giáo hoàng Alexandre VI cho họ từ năm 1493. Alexandre de Rhodes chết năm 1660, khi chưa thấy được kế hoạch của mình thực hiện. Nhưng các cố gắng của ông đã thành tựu”. b. Stanley Karnow trong Việt Nam, A History. The First Complete Account of Việt Nam at War, (Việt Nam, Lịch sử. Mô tả đầu tiên đầy đủ về cuộc chiến Việt Nam) viết như sau: “Chẳng bao lâu Linh mục Alexandre de Rhodes nhận thấy rằng uy tín ngày càng phai nhạt nên Bồ Ðào Nha không còn ích lợi cho Gia Tô giáo ở Á Châu. Ông cũng toan tính rằng có thể chinh phục được “con tim và khối óc” con người một cách có hiệu quả bằng các giáo sĩ người Việt Nam hơn là người Âu Châu. Ông đến La Mã vận động xin hủy bỏ sắc lệnh của Giáo hoàng có từ thế kỷ 15 cho phép Bồ Ðào Nha độc quyền tại Á Châu. Nhưng ông gặp phải sự chống đối quyết liệt của người Bồ và khó lòng chinh phục được các giới chức ở La Mã, thế rồi ông trở về Pháp, quê hương ông, để xin giúp đỡ. Ðể thành công được chương trình dự định, ông thuyết phục các lãnh tụ tôn giáo và thương gia Pháp bằng một hình ảnh là nước Việt Nam đã đến giai đoạn chín muồi để dân chúng theo Công giáo, và là một quốc gia thần tiên với tài nguyên vô tận, ngay cả người đánh cá cũng dùng lưới làm bằng tơ lụa”. Ông NĐĐ có biết tại sao Giáo sĩ phải nói dối như thế? c. Avro Manhattan, trong Vietnam: Why Did We Go? The Shocking Story of the Catholic “Church’s” Role in Starting the Vietnam War (Việt Nam: Tại sao chúng ta đến đó. Chuyện chấn động về vai trò của Giáo hội Công giáo trong việc gây ra cuộc chiến tranh Việt Nam) viết như sau: “Giáo sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes đến Ðông Dương năm 1610. Một thập niên sau, ông gửi về cho Vatican và Pháp một bản phúc trình mô tả rất chính xác về tiềm năng thương mại, chính trị và chiến lược. Nhiều giáo sĩ Dòng Tên Pháp được tuyển mộ ngay và gửi sang giúp ông ta thực hiện hai công tác: đổi đạo theo Công giáo và bành trướng thương mại. La Mã và Ba Lê xem những hoạt động này như những bước khởi đầu không thể tách rời khỏi sự dẫn đến việc chiếm đóng về chính trị và quân sự trên các quốc gia này.” Đọc ba tài liệu trên trong vô số tài liệu của các sử gia nước ngoài, ông Nguyễn Đình Đầu nghĩ thế nào? 3. HÀI TỘI GIÁO HOÀNG ? : Ông Nguyễn Đình Đầu viết: “Tác giả Bùi Kha tìm hết cách chứng minh Đắc Lộ luôn luôn vận động có nhiều lính chiến để chinh phục toàn cõi Đông Phương, kể cả những cách ngụy tạo hay xuyên tạc tài liệu lịch sử. Như khi ông khẳng định Giáo hoàng đã giao quyền “sinh sát”… thì một là ông nghĩ quá xa hai là ông có ác ý hài tội cho Giáo hoàng…”. Ðể tránh tình trạng có thể bị hiểu lầm hay “nhạy cảm” về tôn giáo, thay vì trích sắc lệnh của Giáo hoàng ở một sách khác, tôi trích từ sách Thập giá và lưỡi gươm của linh mục Trần Tam Tỉnh. Nguyên văn: “..., quyền lợi của Bồ Ðào Nha đã được phân định rõ ràng trong sắc chỉ “Romanus Pontifex” do (Giáo hoàng) Nicholas V (1447-1455) ra ngày 8 tháng Giêng năm 1454. Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa thánh, Ðức Giáo hoàng ban cho triều đình Lisbon (Bồ Ðào Nha) “toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất, đô hộ và cướp tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn.” (Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm, Paris: Sudestasie, 1978, tr. 14-15). “Năm 1492, Christopher Columbus khám phá ra những vùng đất mới mà ông nghĩ là Ấn Ðộ. Một nửa thế kỷ trước đó, thương thuyền Bồ Ðào Nha cũng đã chạy dọc theo bờ biển phía Tây Châu Phi. Ít năm sau, năm 1497, Vasco de Gama, người Bồ Ðào Nha, đã phát hiện đúng con đường sang Ấn Ðộ. “Ngày 4 tháng 5 năm 1493, qua sắc chỉ “Inter caetera” (“giữa những điều khác”), Giáo hoàng Alexander VI giao quyền chinh phục các vùng đất kể trên mà các dân Phương Tây chưa từng biết, cho các triều đình nước Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha. Tây Ban Nha có quyền đi chiếm tất cả các đất đai gặp được ở một trăm dặm kể từ quần đảo Azores, còn Bồ Ðào Nha, tất cả các nước nằm ở mạn Ðông đường ranh đó (quần đảo Azores ở mạn giữa cắt đôi Ðại Tây Dương.” (Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 14). Các Giáo hội Công giáo ở các quốc gia, dĩ nhiên, không ai dám phản đối các sắc lệnh của Giáo hoàng. Nhưng chính quyền các nước Âu châu ngay từ lúc có giáo lệnh của các Giáo hoàng, cho đến mãi về sau, đã không thừa nhận các giáo lệnh đó. Ngay cả nữ hoàng Elizabeth I (1533-1603) cũng phản đối. Năm 1540, vua Francis I của Pháp công khai chống đối ra mặt bằng câu mỉa mai: “Ai có thể chỉ cho ta thấy di chúc của ông tổ Adam giao tất cả thế giới cho Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha?” (“Who can show me the will of father Adam leaving all the world to Spain and Portugal?” trong This is America’s Story, của Howard B. Wider, Robert P. Ludlum & Harriett McCune Brown, do Houghton Mifflin Company, Atlanta, xuất bản năm 1975. trang 63). Tôi đã để hai chữ “sinh sát” vào ngoặc kép nhưng ông Nguyễn Đình Đầu hầu như muốn xách động và hướng vấn đề đến mục tiêu khác. Tuy nhiên, đọc đoạn trích dẫn trên chúng ta đã thấy Giáo hoàng không trao quyền sinh sát mà chỉ cho cướp của (chưa giết người) … và bắt làm nô lệ vĩnh viễn; về sau nạn nhân chết sống thế nào thì chưa ai biết được! Chẳng có ai “hài tội” Giáo hoàng vì lịch sử các Giáo hoàng nay đã không còn xa lạ đối với giới trí thức. Muốn biết các giáo hoàng ra sao, tôi khuyên ông Nguyễn Đình Đầu nên đọc một chút về lịch sử của một số giáo hoàng viết bởi Giáo sĩ Peter de Rosa trong cuốn “Vicars of Christ” hay của học giả Mỹ Lloyd M. Graham trong cuốn Deceptions & Myths of the Bible. Có bản tiếng Việt trên: www.sachhiem.net/TCNtg/TCN20.php 4. LỜI THỀ CỦA DÒNG TÊN : Ông Nguyễn Đình Đầu viết: “Không biết ông Bùi Kha đào đâu ra cái gọi là Lời thề Dòng Tên trên đây? Kẻ viết bài này thực tình run tay, hoa mắt khi phải nhắc lại đoạn văn vô nhân tính kinh tởm quá sức như vậy. Bất cứ cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng nào từ xưa đến nay hay ở nơi đâu đi nữa trên địa cầu lại có Lời thề dã man tương tự. Ông Bùi Kha trưng dẫn tư liệu (?). Ai cũng thấy Lời thề của ông Bùi Kha là không có thực”. Ông lại viết sai nữa. Lời Thề Dòng Tên là một văn kiện có thực. Tôi hoàn toàn thông cảm và chia sẻ tâm tình ông Nguyễn Đình Đầu, không tin được một văn kiện của Hội Thánh lại dã man như thế. Nhưng tài liệu về “Lời Thề Dòng Tên” đã được phổ biến rộng rãi trên Internet. Ông chỉ cần vào Internet, đánh ba chữ: “The Jesuit Oath” là ông có thể biết tất cả về Lời Thề Dòng Tên (hoặc theo mạng luới này: http://www.ianpaisley.org/article.asp?ArtKey=jesuit). 5. LÊN GIỌNG PHÊ PHÁN… : Ông Nguyễn Đình Đầu lại muốn kiếm thêm đồng minh rồi phịa ra điều mà tôi không hề viết: “Ông Bùi Kha lên giọng phê phán các thế hệ nghiên cứu học thuật, cả Viện sử học lẫn Hội sử học…”. Thực tế, tôi đã viết trong bài: “Là một người nghiên cứu sử, tôi xin mạn phép đề nghị với quý vị giáo sư sử học, nên có một dự án nghiên cứu đặc biệt về Lm Đắc Lộ để giá trị của ông được đánh giá đúng đắn…”. Mong ông NĐĐ nên thành thật; đừng thêm thắt và vu khống. Tôi nhận định vài người trong đó có ông Nguyễn Đình Đầu:“dịch thuật tùy tiện theo cảm tính… về hai cụm từ plusieurs soldats và La conquête de tout l’Orient”. Có thể đó là nhận định chủ quan, nhưng nên cho tôi có cái quyền nói lên điều đó. Ông Nguyễn Đình Đầu đã không đủ lý lẽ để phản biện, nên dùng phương pháp chụp mũ để áp đảo. 6. BÀI BÁO GÂY BẠO LOẠN… : Ông Nguyễn Đình Đầu cứ tiếp tục vu khống: “Tôi hết sức ngạc nhiên thấy một bài báo gây bạo loạn, chia rẽ dân tộc…”. Tôi chỉ viết bài biện chính cách dịch thuật nói trên chứ “chưa tuyên bố Thánh chiến”…, chưa đòi “chém Ông Thích Ca” như Lm Đắc Lộ thì bài báo của tôi gây bạo loạn chỗ nào? Và chia rẽ dân tộc chỗ nào? Nhận định về Giáo sĩ Đắc Lộ là chia rẽ dân tộc? Ông Nguyễn Đình Đầu hiểu nghĩa chữ dân tộc như thế nào? Một cá nhân, một giáo sĩ là dân tộc ư? Qua những công cuộc nghiên cứu, thì Giáo sĩ Đắc Lộ là một người có tội với dân tộc ta. Vậy phê bình để đồng bào ta biết rõ về ông làm sao có thể là gây bạo loạn hay chia rẽ dân tộc? Tóm lại, Chữ Quốc ngữ do hai giáo sĩ người Bồ là ông Amaral và Barbosa (chứ không phải do Lm Đắc Lộ như có một số người gán ép sai lầm hoặc có hậu ý). Chúng ta cũng biết rõ các giáo sĩ Bồ Đào Nha sáng tạo chữ Quốc ngữ từ mẫu tự La-tinh với mục đích duy nhất là để truyền đạo cho người Việt Nam; chứ không hề có hảo ý giúp người Việt dễ học và dễ đọc tiếng của nước họ bằng mẫu tự La-tinh. Về sau, thứ chữ này được sử dụng theo hai chiều hướng và hai mục đích khác nhau. Chiều THUẬN: Qua các thông tin văn hoá, nhất là Nam phong tạp chí và Đông Dương tạp chí, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Biểu Chánh, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Thạch Lam, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… cũng góp phần sáng tạo và đại biểu xứng đáng trong quá trình hoàn chỉnh chữ viết tiếng Việt trong từng giai đoạn biến thiên của ngôn ngữ nước ta. Thời Việt Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng loại chữ viết này để mở mang dân trí, xóa nạn mù chữ. Hướng NGHỊCH gồm có: - Linh Mục Đắc Lộ: Cuốn Phép giảng tám ngày viết bằng tiếng Việt và tiếng Pháp với mục đích để truyền đạo và bên cạnh đó ông đã sử dụng để công kích về Khổng, Lão và Phật giáo. Thật vậy, Khổng Tử được hầu hết người Trung Quốc xưng tụng là Vạn thế sư biểu, và nhiều học lý của Nho giáo vẫn còn giá trị đến ngày nay. Còn ông Phật Thích Ca được Liên hiệp quốc đánh giá là một vĩ nhân văn hóa của nhân loại. Thế nhưng, Lm Đắc Lộ đã sử dụng chữ Quốc ngữ để có những nhận định sai lạc: Ông phê bình Khổng Tử: “Chẳng phải hiền chẳng phải thánh mà độc dữ…” (Phép giảng tám ngày, trang 113). Và phê bình Nho, Lão, Phật:“Bởi Tam giáo này, như bởi nguồn độc, nhiều sự dối khác. Song le bắt mỗi sự dối ấy chẳng có làm chi, vì chưng biết là bởi đâu mà ra, cho hay tỏ tường là dối thì vừa. Như thế có chém cây nào độc cho ngã, các ngành cây ấy tự nhiên cũng ngã với. Vậy thì ta làm cho Thích Ca là thằng hay dối người ta, ngã xuống, ...” (Aleaxandre de Rhodes, Phép giảng tám ngày, trang 115 & 116, Tủ sách Ðại Kết, TP. HCM, 1993). Ông Nguyễn Đình Đầu trong phần cuối của bài phản biện đã bênh vực cho Lm Đắc Lộ như sau: “Ngày nay, chúng ta thấy Đắc Lộ phê phán Thích ca thực là điều đáng trách. Nhưng trên 350 năm trước đây, khi viết Phép giảng tám ngày, Đắc Lộ đã lựa chọn thái độ trọng Nho giáo (chữ đậm là của BK muốn nhấn mạnh) và chê Phật giáo…”. Ông Nguyễn Đình Đầu cứ viết mà không cần biết đúng hay sai! Đắc Lộ trọng Nho giáo chỗ nào qua đoạn văn vừa dẫn? - Giám mục Puginier: “…tôi xem việc tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần dần ban đầu bằng tiếng An Nam (chữ Quốc ngữ, BK), rồi bằng tiếng Pháp như là phương tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập nên tại Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Ðông”. - Trương Vĩnh Ký: Thư đề ngày 12/01/1882, từ Chợ Quán “Kính gởi các vị trong Hội Đồng Thuộc Địa”, Bao-ti-xi-ta Trương Vĩnh Ký viết rõ hơn về mục đích các tác phẩm của ông: “Thưa quí vị, Tôi hân hạnh gởi đến quí vị một bản trình bày từng tác phẩm xuất bản mà tôi đã biên soạn. Làm như vậy, ý định của tôi là để chứng tỏ với quý vị rằng trong 13 cuốn sách tôi đã xuất bản cho đến nay do tiền tôi bỏ ra, tôi chưa bao giờ đi lệch mục tiêu chính và trực tiếp mà tôi đã trình bày trước đây trong các thư tôi viết vừa cho nhà cầm quyền, vừa cho Ủy ban Phụ trách Cứu xét những tác phẩm của tôi. Mục tiêu đó là sự biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam" (Nguyễn Sinh Duy, “Cuốn sổ bình sinh của Trương Vĩnh Ký”, NXB Nam Sơn, Sài gòn, tháng 3,1975). Do đó, một lần nữa, chúng ta nên nghiên cứu thêm để tránh việc vinh danh những kẻ nên lên án và lên án những người cần vinh danh. California, 8/12/2008 Lời thề của Dòng Tên The following is the text of the Jesuit Extreme Oath of Induction as recorded in the Journals of the 62nd Congress, 3rd Session, of the United States Congressional Record (House Calendar No. 397, Report No. 1523, 15 February, 1913, pp. 3215-3216), from which it was subsequently torn out. The Oath is also quoted by Charles Didier in his book Subterranean Rome (New York, 1843), translated from the French original. Dr. Alberto Rivera, who escaped from the Jesuit Order in 1967, confirms that the induction ceremony and the text of the Jesuit Oath which he took were identical to what we have cited below. Chúng tôi xin trích đăng bản Tuyên thệ cực đoan của Dòng Tên, nằm trong Biên bản chính thức của phiên thứ ba, Kỳ họp Quốc hội Liên Bang Hoa Kỳ lần thứ 62 (Dự luật được Nghị viện thông qua số 397, Bút lục số 1523, đề ngày 15 tháng 2 năm 1913, các trang 3215 đến trang 3216) (ngay sau đó đã bị loại ra). Bản tuyên thệ này cũng đã được Charles Didier trích dẫn trong cuốn “Subterranean Rome” (New York, 1843), dịch từ nguyên bản Pháp ngữ của Tiến sĩ Alberto Rivera, người đã xuất tu khỏi Dòng Tên vào năm 1967, khẳng định rằng nghi thức mở đầu và nội dung Bản tuyên thệ của Dòng Tên mà chúng tôi viện dẫn dưới đây chính là những gì ông đã từng trải nghiệm. … I furthermore promise and declare that I will, when opportunity present, make and wage relentless war, secretly or openly, against all heretics, Protestants and Liberals, as I am directed to do, to extirpate and exterminate them from the face of the whole earth; and that I will spare neither age, sex or condition; and that I will hang, waste, boil, flay, strangle and bury alive these infamous heretics, rip up the stomachs and wombs of their women and crush their infants' heads against the walls, in order to annihilate forever their execrable race… Tạm dịch: … Con xin tuyên hứa thêm rằng con sẽ, nếu có cơ hội, con sẽ gây ra và tham gia chiến tranh tàn nhẫn, bí mật hoặc công khai, chống mọi kẻ dị giáo, Tin Lành và Tự Do, như con được lệnh thi hành, tận diệt chúng khỏi mặt địa cầu; và con sẽ không chừa một ai, bất kể tuổi tác, nam hay nữ hay tình trạng xã hội; và con sẽ treo cổ, thiêu sống, luộc sống, mổ bụng, siết cổ và chôn sống những kẻ dị giáo ô nhục đó, phanh bụng moi bào thai của vợ chúng, và quật đầu con sơ sinh của chúng vào tường để tận diệt vĩnh viễn cái giống dân đáng ghét của chúng… Bùi Kha Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 6, 2015 CHUNG QUANH MỘT CUỘC TRANH LUẬN HÀO HỨNGTrần Chung Ngọc http://sachhiem.net/TCN/TCNdt/TCNdt042.php24 tháng 11, 2009 Đầu tháng 10, 2009, 2500 người mua vé vào Đại sảnh Methodist ở Westminster, Luân Đôn, để nghe một cuộc tranh luận về chủ đề “Giáo hội Ca-tô có phải là một sức mạnh để tạo nên sự tốt đẹp trong thế giới không?” [is the Catholic Church a force for good in the World?] thuộc chương trình Intelligence Squared Debate, một diễn đàn tranh luận thiết lập ở Anh trước đây 6 năm. Điều khiển cuộc tranh luận là nữ ký giả Zeinab Badawi, tốt nghiệp đại học Oxford về chính trị, triết học và kinh tế. Có bốn thuyết trình viên thuộc hai phe. Phe ủng hộ [for], đồng ý với chủ đề trên gồm có hai nhân vật của Ca-tô giáo: Tổng giám mục John Onaiyekan ở Nigeria và bà Ann Widdecombe, một thành viên bảo thủ của quốc hội Anh. Phe chống [against] gồm có Christopher Hitchens thuộc Hiệp Hội Thế Tục Quốc Gia (National Secular Society), một hiệp hội được thành lập tại Anh từ năm 1866, và Stephen Fry, nhà văn, diễn viên, nhà đạo diễn phim ảnh v.. v… Christopher Hitchens nổi tiếng về những cuốn như “The Missionary Position”, vạch trần sự đạo đức giả và thực chất làm từ thiện của bà Teresa ở Ấn Độ mà mục đích chính là để truyền đạo và vơ vét tiền bạc của những người có hảo tâm, dấu kín trong ngân hàng cho giáo hội, và cuốn“God is not Great”, một cuốn sách gây nên sự phân hóa trong xã hội Mỹ. Stephen Fry cũng là tác giả của nhiều cuốn sách và phim ảnh. Cuộc tranh luận được quay phim và đài BBC trình chiếu ngày 7 và 8 tháng 11, 2009. Phim chia ra làm 5 đoạn, mỗi đoạn chỉ độ 9 phút.Khán giả dự thính được yêu cầu bỏ phiếu cho hai lập trường trên: “for” và “against”, trước và sau khi nghe tranh luận. Số phiếu trước và sau cuộc tranh luận cho chúng ta thấy cuộc tranh luận đã diễn tiến như thế nào. Quý độc giả có thể xem toàn bộ cuộc tranh luận trên tại URL: http://www.youtube.com/watch? có thể xem ở dưới bàiSau đây là kết quả cuộc bỏ phiếu trước và sau cuộc tranh luận:Trước cuộc tranh luận:Số phiếu “for”: 678Số phiếu “against”: 1102Số phiếu “không có ý kiến”: 346Sau cuộc tranh luận:Số phiếu “for”: 268 (Giảm 410 phiếu)Số phiếu “against”: 1876 (Tăng 774 phiếu)Số phiếu “không có ý kiến”: 34 (Giảm 312 phiếu) Nếu nói đến chuyện thắng thua trong một cuộc tranh luận thì phe của TGM John Onaiyekan và bà Ann Widdecombe đã thua đậm. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ thắng thua, mà là “đức tin”, đồng nghĩa với mê tín, không bao giờ có thể thắng nổi “lý trí”, đồng nghĩa với sự hiểu biết chân thật. Hay nói cách khác, đức tin không thể che dấu được thực chất của Ca-tô giáo, mà qua những sự kiện lịch sử đã nói lên điều bất khả phủ bác: Giáo hội Ca-tô, qua suốt dòng lịch sử, chưa bao giờ, và có thể là không bao giờ, là một sức mạnh để tạo nên sự tốt đẹp trong thế giới. Và đây chính là nhận định kết luận bất khả phủ bác của cuộc tranh luận [The Catholic Church is not a force for good in the world: that was the overwhelming verdict after a heated debate]py Diễn giả đầu tiên: Diễn giả đầu tiên là TGM John Onaiyekan. Ông này đúng là một TGM Ca-tô vì không biết gì hơn là những luận điệu mà người Ca-tô thường viện ra để bênh vực cho Ca-tô Rô-maGiáo. Đại khái thì ông ta nói nếu Giáo hội Ca-tô không tốt đẹp thì ông ta đã không theo suốt cả cuộc đời. Ông ta còn viện là trong Giáo hội Ca-tô có đủ hạng người, từ bình dân cho đến các nhà trí thức, và có cả nguyên thủ quốc gia, làm như những lời đó có thể thuyết phục mọi người về cái tốt của Giáo hội. Ông ta còn đưa ra con số thống kê là Ca-tô giáo có tới 1.2 tỷ tín đồ mà quên mất một điều, 1.2 tỷ người tin vào một điều hoang đường nhảm nhí thì điều đó bản chất vẫn chỉ là một điều hoang đường nhảm nhí. Ông ta cũng viện lẽ là giáo hội đã chịu sự thử thách trong 2000 năm và vẫn tồn tại mà quên rằng tại sao giáo hội tồn tại lâu dài. Robert G. Ingersoll đã chẳng nói thẳng trước một cử tọa đông đảo mà mỗi người phải bỏ ra $2 (năm 1890) để nghe ông diễn thuyết (Joseph Lewis, Ingersoll: The Magnificient, p. 140): Ca-tô Rô-maGiáo thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ rằng quần chúng thì ngu dốt (ignorant) và các linh mục thì xảo quyệt [cunning]. [Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It proves that the people are ignorant and that the priests are cunning.] py Diễn giả thứ hai:Christopher HitchensDiễn giả thứ hai là Christopher Hitchens. Thực chất bài nói của Christopher Hitchens không phải là tranh luận hay thảo luận mà là một chuỗi những lời lên án Giáo hội Ca-tô về những tội ác của Giáo hội chống nhân loại [a devastating prosecution of the Catholic Church for crimes against humanity]. Chỉ trong ít phút đồng hồ, khán giả có thể thấy những sự xấu ác của Giáo hội Ca-tô thật là hiển nhiên mà không ai có thể chối cãi được. Nhưng Hitchens không thể đưa ra tất cả những tội ác của Giáo hội Ca-tô mà chỉ đưa ra một số điển hình như: giáo điều “bao cao su có thể gây nên bệnh AIDS [p1]”; những sự tàn bạo trong lịch sử [p2]; ủng hộ các nhà độc tài [p3]; biện minh cho chế độ nô lệ [p4]; sự nô dịch hóa phái nữ [p5]; đàn áp những tư tưởng khai sáng tiến bộ [p6]; tra tấn và giết những khoa học gia lạc đạo; hiếp đáp và ghét những người đồng giống luyến ái [p7] v…v… Mở đầu, Hitchens nói với ông TGM John Onaiyekan là nếu ông muốn bảo vệ cho Giáo hội Ca-tô thì hãy nên đến đây, và nhân danh cái giáo hội ác ôn của ông ta để mà xin lỗi nhân loại chứ không phải để tranh luận[p8]. Hitchens cũng nhắc đến vụ Giáo hoàng John Paul II đã chính thức xưng thú 7 núi tội ác của giáo hội đối với nhân loại ngày 12/3/2000 như sau:1. Xưng thú “tội lỗi chung”.2. Xưng thú “tội lỗi trong khi phục vụ “chân lý””.3. Xưng thú “tội lỗi đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”.4. Xưng thú “tội lỗi trong sách lược bách hại dân Do Thái”.5. Xưng thú “tội lỗi trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.6. Xưng thú “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.7. Xưng thú “tội lỗi trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”. Và Giáo hội cũng thú nhận là Galilei đã đúng và giáo hội đã sai. Hitchens cũng nêu lên những tội ác của giới linh mục và nữ tu (priests and nuns) đã bị xét xử ở Rwanda, xứ toàn tòng Ca-tô giáo ở Phi Châu. Về vụ giáo hội cấm dùng bao cao su (condom), Hitchens quy trách nhiệm cho giới chăn chiên về cái chết của hàng triệu anh chị em họ ở Phi Châu [the priests are responsible for the death of millions of their brothers and sisters in Africa]. Một điều đáng nói khác là Hitchens đã lên án chính sách giáo dục nhồi sọ trẻ con của giáo hội đại khái như sau: “Nếu anh là thành viên của giáo hội thì anh đã sinh ra trong tội lỗi. Nếu anh không đi lễ nhà thờ thì anh không lên được thiên đường [p9].” Hitchens cho rằng như vậy là giáo hội đã “lạm dụng trẻ con ngay trong nhà thờ của giáo hội [p10]” . Về thể chế hãm hiếp và tra tấn, ngược đãi trẻ con dưới sự chăm sóc của Giáo hội Ca-tô[p11], Hitchens trích dẫn một câu của Giáo hoàng Benedict XVI: “Đây là một sự khủng khoảng nghiêm trọng đòi hỏi chúng ta phải đối với những nạn nhân lòng ưu ái nhất của giới chăn chiên [p12]” Hitchens phê bình một câu rất ý nhị: “Thật vậy sao, tôi lấy làm tiếc rằng, những đứa trẻ đó đã có được sự ưu ái đó rồi [p13]” , ngụ ý là những đứa trẻ đó đã bị giới chăn chiên ưu ái qua sự cưỡng bách tình dục rồi. Câu phê bình trên cũng nói lên sự vô cùng đạo đức giả và vô liêm sỉ của Giáo hoàng, vì ai cũng biết, chính Giáo hoàng đã đưa ra chính sách bao che cho hơn 5000 linh mục can tội loạn dâm. Hitchens cũng nêu trường hợp Vatican không để cho Hồng Y Bernard Law, Tổng giám mục giáo phận Boston, trả lời cảnh sát tiểu bang Massachusetts về vai trò của ông ta trong xì-căng-đan về các linh mục loạn dâm [p14]. Hồng y Law đã thăng chức, bao che và bênh vực những linh mục can tội loạn dâm đối với trẻ con trong giáo phận. Để tránh bị truy tố, ông ta được Vatican gọi về Vatican, trao cho một chức vụ. Và hiện nay, có tin là giáo dân Ca-tô Việt Nam đang hồ hởi đón tiếp tưng bừng tên Hồng Y vô đạo đức này ở Việt Nam, đến làm chủ một thánh lễ gì đó ở Việt Nam. Thật là đẹp mặt cho Giáo hội Ca-tô ở Việt Nam. Hitchens cũng còn đưa ra một danh sách những sự ác ôn của giáo hội qua nhiều thế kỷ như các cuộc thánh chiến, những tòa án xử dị giáo và những kẻ lạc đạo, và sự tra tấn và giết hại khoa học gia và tín đồ Tin Lành. Và lẽ dĩ nhiên, Hitchens không bỏ qua sự kiện là Giáo hội đã vu cho người Do Thái tội giết Chúa cho đến năm 1964 (công đồng Vatican II) và phải có trách nhiệm về những lò sát sinh người Do Thái của Đức Quốc Xã [p15]. Đó là những sự kiện lịch sử mà không ai có thể chối cãi. py Diễn giả thứ ba:AnnWiddecombeDiễn giả thứ ba là Ann Widdecombe. Bà này quảng cáo nhiều cho các việc từ thiện của giáo hội trên khắp thế giới. Nhưng ngày nay, thế giới đã biết rõ bộ mặt từ thiện của Ca-Tô Rô-MaGiáo, và chỉ có những tín đồ u mê, không biết gì, mới còn ra công tô hồng đánh bóng cho những công việc từ thiện của Giáo hội. Một trong những sách lược tuyên truyền, quảng cáo của Giáo hội là thổi phồng việc làm của vài cá nhân trong Giáo hội, đánh bóng hình ảnh của họ và đưa đến tâm cảnh tôn sùng cá nhân giữa đám tín đồ. Gần đây, điều mà giáo hội Ca-Tô quảng cáo nhiều nhất và ồn ào nhất là những công tác từ thiện của Giáo hội. Bất cứ có một cơ hội nào là Giáo hội và các con chiên ngoan đạo Việt Nam lại mang Mẹ Teresa, người mà Giáo hội tôn là Thánh Mẫu (Holy Mother), ra làm bình phong từ thiện, lạc dẫn dư luận, làm như Mẹ là con người rất mực thánh thiện, và tất cả tín đồ Ca-Tô đều như Mẹ Teresa cả. Nhưng thực chất việc làm từ thiện của bà Teresa đã bị phơi bày: Bà làm việc từ thiện không phải là do từ tâm mà mục đích chính là kiếm linh hồn cho Chúa và vơ vét tiền bạc của những người có hảo tâm. Tiền thu được nhiều triệu đô-la [khoảng 150 triệu đô-la], đáng lẽ để dùng giúp đỡ những kẻ xấu số, thì lại dấu kín trong các ngân hàng, để làm gì, ai mà biết được. Nghiên cứu tường tận về các công việc từ thiện của Giáo hội từ xưa tới nay, chúng ta rất ít thấy ở đâu là thuần túy từ thiện, mà mục đích chính của các việc làm từ thiện là dùng vật chất để truyền đạo, và chúng ta phải công nhận đây là nguyên nhân chính về sự thành công của Ca-Tô giáo trong những thế kỷ qua. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy từ thời các giáo sĩ thừa sai đầu tiên xâm nhập Việt Nam cho tới thời Ngô Đình Diệm ở miền Nam, bả vật chất đã là một phương tiện hữu hiệu để truyền đạo và thu nhặt tín đồ của Ca-Tô Giáo. Dưới thời Ngô Đình Diệm, các Linh mục Việt Nam được toàn quyền xử dụng viện trợ từ thiện của Mỹ và dùng nó như một vũ khí để ép người vào đạo, khoan kể đến chuyện bắn pháo binh vào những làng không theo đạo để ép buộc dân trong làng theo đạo để đổi lấy sự an toàn của làng xóm. Người Việt Nam đâu đã có ai quên cái câu bất hủ được truyền tụng trong dân gian: "Theo đạo có gạo mà ăn." Cảnh này cũng lại tiếp diễn trong các trại tị nạn mà các Linh mục được sự viện trợ của các cơ quan từ thiện KiTô giáo, họ giữ chặt của viện trợ cho giáo dân và chỉ cho người ngoài khi bằng lòng theo đạo. Tôi không nói là các việc từ thiện của Ca-Tô giáo không có ích lợi gì, chúng góp phần làm vơi bớt sự khó khăn mà con người gặp phải. Nhưng cái động cơ đằng sau những công việc từ thiện này và phương cách xử dụng thì chẳng thiện chút nào. Ngày nay, những tài liệu về thực chất “từ thiện” của Ca-Tô Rô-MaGiáo không thiếu, cho nên bình phong “từ thiện” của Ca-Tô Rô-MaGiáo chỉ có thể lừa dối được những kẻ không biết gì. B. S. Rajneesh, tác giả cuốn Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests & Politicians: The Mafia of the Soul), đã viết như sau, trang 25: Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca Tô Giáo. Những trường học, nhà thương, và viện mồ côi của họ chẳng qua cũng chỉ là những xưởng để dụ người ta trở thành tín đồ Ca Tô [p16]Rajneesh đã không nhắc đến sự kiện là với những sự trợ cấp của chính phủ và sự đóng góp của những người có từ tâm, nhiều cơ sở "từ thiện" đã là những nguồn kinh tài cho giáo hội, vơ vét tiền bạc trên sự đau khổ của các trẻ em mồ côi và những người xấu số. Sơ Lê Thị Tríu ở Phi Luật Tân cũng đã hốt được 2 triệu đô-la để thành lập “làng Việt Nam ma” ở Phi Luật Tân. Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm một sự kiện về những tổ chức "từ thiện" của Vatican. Sách vở, báo chí và TV Âu Mỹ đã phanh phui ra vụ Vatican dùng những cơ quan từ thiện như Caritas International, Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là "Giây chuột" (Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông hành giả, tài chánh v..v.. cho nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã ẩn náu trong các tu viện chờ cơ hội chuồn sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina). Nói tóm lại, những công cuộc “từ thiện” của Ki Tô Giáo, Ca-Tô Giáo cũng như Tin Lành, chỉ là những sơn phết màu mè che dấu những âm mưu đen tối đàng sau. Tuy vậy, những lớp sơn phết này cũng đánh lừa được nhiều người, kể cả những chính quyền phi Ki-Tô không biết rõ bản chất “từ thiện” của Ki Tô Giáo.Điều hiển nhiên là ở trên trái đất này không phải chỉ có Ca-Tô Giáo mới làm việc từ thiện. Bất cứ nơi nào có những cảnh khổ trong xã hội bất cứ vì lý do gì, thiên tai, lụt lội, đói kém, bệnh tật v..v.. lòng con người lại mở để góp phần làm vơi bớt những nỗi đau khổ của đồng loại. Trong hầu hết các xã hội khác, tôn giáo khác, việc từ thiện bao giờ cũng phát xuất từ những tấm lòng, thương người vị tha. Chỉ có Ca-Tô giáo làm việc thiện cho những mục đích bất thiện: dùng bả vật chất để khuyên dụ người đi đạo, làm việc thiện để lấy tiếng, kiếm thêm tín đồ cho Chúa, hoặc với mục đích chính trị nhơ nhớp như vừa được trình bày ở trên. Ở đây tôi chỉ nói đến sách lược chung của Giáo hội chứ không nói đến cá nhân tín đồ Ca-Tô trong đó chắc chắn có nhiều người có lòng bác ái thuần túy không thua gì những người trong các tôn giáo khác. Ai cũng biết Giáo hội Ca-Tô là một tổ chức giàu có nhất thế giới với đầy đủ các phương tiện truyền thông để tạo nên một hình ảnh theo ý Giáo hội về các công cuộc "từ thiện" mà giáo hội muốn cho quần chúng, và nhất là những tín đồ ở các nước kém mở mang, phải tin và tôn thờ. Nhưng ở thế giới văn minh Âu Mỹ này thì không gì có thể qua mắt được những chuyên gia đầy đủ khả năng về mọi vấn đề, những người có tinh thần tôn trọng tuyệt đối sự thực và quyền tự do phát biểu ý kiến. Cho nên, thường thường trước sau gì rồi cái mặt trái của một chiếc mề đay cũng phải phơi bày. Cổ nhân đã dạy: muốn cho người khác không biết thì đừng có làm. Chân lý này không bao giờ thay đổi. Thông điệp chính của bà Ann Widdecombe trong bài nói là “thông điệp về hi vọng và cứu rỗi”,một huyền thoại mà các tín đồ Ki Tô Giáo đã hi vọng từ 2000 năm nay mà chưa ai thấy thành tựu. Bà ta cho rằng mọi người trên thế giới đều cần đến cái thông điệp hi vọng và cứu rỗi của Giáo hội Ca-tô [p17]. Đây là thông điệp cho những người mê mẩn về một cái bánh vẽ trên trời, theo nhận định của Mục sư Ernie Bringas. Lẽ dĩ nhiên bà này chưa đọc bài “Huyền Thoại Cứu Rỗi [p18]”của Linh mục James Kavanaugh, hay bài “Giê-su như là đấng cứu thế: một vai trò cần phải dẹp bỏ [p19]” của Giám Mục John Shelby Spong. Là một tín đồ Ca-Tô thuần thành, bà Ann Widdecombe còn cho rằng mười điều răn (the ten commandements) của Thiên Chúa là tiêu chuẩn đạo đức cho cả thế giới bất kể là, phân tích những điều răn này các học giả đã cho rằng chẳng có gì đặc biệt, vì các tôn giáo dân gian cũng đều dạy những điều tương tự trừ ba điều răn đầu mà Christopher Hitchens cho rằng chỉ có mục đích đe dọa để làm cho tín đồ phải sợ Gót [p20](God) . py Diễn giả thứ tư:StephenFryDiễn giả cuối cùng là Stephen Fry. Mở đầu, Fry khẳng định là ông ta không coi thường và có xích mích gì đối với các cá nhân tín đồ trong giáo hội. Đây là điều mà các tín đồ Ca-tô Việt Nam cần biết. Những bài viết thuộc loại đưa ra những sự thật về Ca-tô Rô-maGiáo trên giaodiemonline.com hay sachhiem.net thuộc loại nghiên cứu nghiêm chỉnh với đầy đủ tài liệu để mở mang kiến thức của quần chúng về Ca-tô Rô-maGiáo chứ không phải để chống các cá nhân tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo. Stephen Fry cho rằng tín ngưỡng tôn giáo là quyền thiêng liêng của con người. Nhưng ông ta nói: “Tôi cũng có những niềm tin của tôi, đó là sự khai sáng trong tư tưởng và khám phá ra thêm những chân lý trong thế giới, và Giáo hội Ca-tô không thích thú gì hơn là tấn công những niềm tin này [p21].” Stephen đưa ra một trường hợp điển hình về sự đạo đức giả của Giáo hội Ca-tô và thực chất các Thánh trong Ca-tô Rô-maGiáo. Đó là trường hợp của Thomas More người đã tra tấn và thiêu sống một số người vì đã dám phát tán và đọc cuốn Kinh Thánh bằng tiếng Anh (those daring to own a Bible in their own language). Tìm hiểu sự kiện này tôi đọc được trên Internet đoạn sau đây về Thomas More, tôi xin để nguyên văn: In 1531, Richard Bayfield, a graduate of the University of Cambridge and formerBenedictine monk, was burned at Smithfield for distributing copies of Tyndale's English translation of the New Testament.[8]Further burnings followed at More's instigation, including that of the priest and writerJohn Frith in 1533. In The Confutation of Tyndale's Answer, yet another polemic, More took particular interest[citation needed] in the execution of Sir Thomas Hitton, describing him as "the devil's stinking martyr".[9]Rumours circulated during and after More's lifetime concerning his treatment of heretics;John Foxe (who "placed Protestant sufferings against the background of ... the Antichrist")[10] in his Book of Martyrs claimed that More had often used violence or torture while interrogating them. A more recent Evangelical author, Michael Farris, also used Foxe's book as a reference in writing that in April 1529 a heretic, John Tewkesbury, was taken by More to his house in Chelsea and so badly tortured on the rack that he was almost unable to walk. Tewkesbury was subsequently burned at the stake.[11] Stephen Fry đặt vấn đề: “Có thể tưởng tượng được không, vậy mà Thomas More về sau được Giáo Hoàng phong Thánh”. Và ngày nay chúng ta thấy trong Ca-tô Giáo có những cơ sở như Trường Trung Học Thomas More, Trường Đại Học Thomas More, Nhà Thương Thomas More v…v… Ca-tô Giáo ở đâu cũng vậy, ở Việt Nam có trường Trần Lục, trường Nguyễn Bá Tòng, trường Pétrus Ký v…v…, toàn là các trường mang tên Đại Việt Gian cả. Chưa kể là Ca-tô Việt Nam cũng có 117 thánh, hay á thánh, toàn là những kẻ cuồng tín phản bội gia đình, truyền thống dân tộc, và quốc gia cả. Hiện tượng thần thánh hóa những nhân vật mà một số người sùng tín, qua những thông tin sai lạc một chiều, vốn không phải là điều xa lạ trong lịch sử nhân loại. Trong Ca-Tô Rô-MaGiáo (Công Giáo) có rất nhiều Thánh, đếm không xuể. Có Thánh Abraham lấy em làm vợ, có Thánh David cướp vợ thuộc hạ, có Thánh Giu-se, ông thợ mộc được phong Thánh chỉ vì đã cay đắng chấp nhận làm cha của Giê-su mà cha thật của Giê-su không ai biết là ai trừ bà Mary nhưng bà lại không chịu nói ra, có Thánh Augustine dốt nát về vũ trụ và con người, kỳ thị phái nữ một cách điên cuồng, có cả Thánh André Phú Yên, một Việt gian tội đồ của dân tộc Việt Nam đi theo tên thừa sai gián điệp Alexandre de Rhodes từ ngày đầu v..v.. Stephen Fry cũng lên án chính sách giáo dục của Giáo hội Ca-tô là “Nhồi sọ trẻ con để chúng tin vào những tín lý của Giáo hội [p22]” . Vấn đề Stephen Fry tấn công giáo hội Ca-tô mạnh nhất là lập trường của giáo hội về vấn đề ngừa thai. Fry đưa ra sự kiện ngăn ngừa bệnh AIDS ở Uganda, thành công phần nào qua chính sách ABC [Abstinence – Be Faithful – Correct use of Condoms], nghĩa là tiết chế tình dục, giữ đức tin, và dùng bao cao su đúng cách. Nhưng Fry lên án Giáo hoàng đương thời là Benedict XVI đã nói láo là bao cao su làm tăng thêm bệnh AIDS. Như vậy là ông ta (giáo hoàng) cho rằng điều kiện để tránh bệnh AIDS là không dùng bao cao su (condoms) [p23]. Sự đau khổ, hậu quả của chính sách này thật là khủng khiếp Về chuyện Benedict XVI nói bậy này, chúng ta đã biết là Richard Dawkins, Giáo sư người Anh, khoa học gia, nhà sinh học và vô thần lỗi lạc, nổi tiếng, nói rằng bàn tay của Giáo hoàng Benedict XVI sẽ đẫm máu nếu những niềm tin của ông ta được các tín đồ trên thế giới tuân theo. Tại một đại học ở Tây Ban Nha, Giáo sư nói: “Tôi tự hỏi đặt trên căn bản nào mà một người nào đó có thể nói là bao cao su sẽ làm tăng bệnh AIDS. Giáo hoàng hoặc ngu, hoặc dốt hay đầu óc lờ mờ.” Nếu các tín đồ coi lời ông ta làm trọng thì ông ta sẽ chịu trách nhiệm về cái chết của hàng ngàn, ngay cả hàng triệu con người [p24]. Sau phần thuyết trình của các diễn giả là phần khán giả đặt câu hỏi. Và cuối cùng là các diễn giả nói vài lời sau cùng để kết thúc [p25]. Tôi đề nghị quý độc giả hãy xem toàn bộ cuộc tranh luận đã có trên Internet. Tất cả chưa tới 1 giờ đồng hồ. Tôi bảo đảm “closing statement” của Christopher Hitchens và Stephen Fry cũng rất là hào hứng. [p1][the teaching that condoms can cause AIDS][p2][the historical atrocities][p3][the endorsement of dictators][p4][the justification of slavery];>[p5][the subjugation of women][p6][suppression of enlightenment thingking][p7][the torture and murder of heretic scientists and the bullying and hatred of homosexuals][p8][Hitchens suggested that the Archbishop should not have come here to debate, but to beg for forgiveness on behalf of his wicked organisation..][p9] [if you are a member of the church you were born in sins. If you don’t go to church, you cannot go to heaven)[p10](abuse the children in their own church)[p11][On the institutionalisation of rape and torture, maltreatment of children under their care][p12][‘It is a very serious crisis which demands us in the need for applying to the victims, the most loving pastoral care.’][p13][Well, I’m sorry, they have already had that.”][p14][Hitchens tore into the Vatican for its refusal to hand over Cardinal Bernard Law, the former Archbishop of Boston, to Massachusetts police for questioning about his role in the child abuse scandals.][p15][He laid the responsibility for the Holocaust at the Church’s door, which he claims was made possible by role in inciting hatred of Jews over the centuries: “That the church taught that the Jewish people were collectively responsible for the death of Christ until 1964, twenty years after the Nuremberg trials, may or may not have had something to do with the availability of a reservoir of hate to tap into in Germany, Poland, Austria, Spain, Italy and elsewhere.”][p16] (If people are poor and hungry, they can be easily converted to Christianity, particularly into the Catholic Church. Their schools, their hospitals, their orphanages are nothing but factories for converting people into Catholics)[p17][The church is about hope and salvation. And it is intellectual arrogance to say people around the world can simply live without that. People are trying their hardest to live by Christ’s message; by the commandments, by the interpretation of those commandments.][p18][The salvation Myth[p19][Jesus as a rescuer: An Image That Has to Go][p20][just to terrify people to fear God][p21][it is important as I also happen to have my own beliefs, in the the Enlightenment thinking, and trying to discover more truth in the world. It is an empirical fight that began with, and there is nothing the Catholic Church likes to do more, than attack it.][p22][The children were endoctrinated to believe in the dogma of the Church][p23][“I don’t deny abstinence is a good way of not getting AIDS. It really works. But so do condoms!" he thundered. "(The Pope) spreads the lie that condoms increase the incidence of aids. He actually makes sure that aids is conditional on saying no to condoms. The pain and suffering you see as a result is appalling.”][p24] [british Professor scientist Richard Dawkins, the prominent biologist and atheist, said that Benedict XVI would have blood on his hands if his beliefs were followed by Catholics around the continent.Speaking at a university in Spain, he said: "I wonder on what basis anyone can say condoms make Aids worse. The Pope is either stupid, ignorant or dim."If people take his words seriously he will be responsible for the deaths of thousands, perhaps millions of people."] Nguồn: http://www.telegraph.co.uk/news/news...is-stupid.html[p25][closing statement] Nếu xương cốt người chết hóa thạch trở lại thì các toà thánh, giáo đường sẽ được chất đầy, nơi đấy chả có gì mà tìm cả, toàn máu xương và âm mưu. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 6, 2015 Thưa quí vị và anh chị em. Luận điểm của tôi về cổ sử Việt luôn khẳng định rằng: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử và là cội nguồn của nền văn minh Đông phương. Cũng có nhiều nhà nghiên cứu có xu hướng tương tự như tôi, nhưng phương pháp chứng minh hoàn toàn khác nhau và cũng có những luận cứ khác nhau. Bài viết dưới đây của nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy về hiện tương giáo sư sử học Hoa Kỳ Keith Weller Taylor được trao giải Phan Chu Trinh vừa gửi cho tôi qua email. Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy cũng có quan điểm tương đồng với tôi về cội nguồn Việt sử. Nhưng phương pháp và luận cứ chứng minh khác tôi. Do đó cùng một hiện tượng liên quan đến cổ sử Việt của giáo sư sử học Hoa kỳ K.W.Taylor với giải thưởng giành cho ông cũng có cái nhìn khác nhau. Tôi đăng bài của nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy lên topic này để quý vị và anh chị em rộng đường tham khảo từ một góc nhìn khác về hiện tượng này. Xin trân trọng giới thiệu. Cảm ơn sự quan tâm của quý vị và anh chị em. ============================ VỀ HIỆN TƯỢNG KEITH WELLER TAYLOR Hà Văn Thùy Trong lễ trao Giải thưởng Phan Châu Trinh cho sử gia người Mỹ K.W.Taylor, diễn ra tại khách sạn Caravelle thành phố Hồ Chí Minh ngày 24-3-2015, nhà văn Nguyên Ngọc ca ngợi người nhận giải bằng những lời có cánh: “Keith Taylor là một trong những nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất, cả ở Việt Nam cả ở nước ngoài. Ông cũng là một nhà Việt Nam học độc đáo, từ điểm xuất phát, đến con đường nghiên cứu Việt Nam học ông đã đi, các chặng khác nhau và những chuyển hướng trên con đường đó, và có lẽ cả ở sự gắn bó, gần gũi kỳ lạ của ông với giới nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam, những chuyển động bên trong nghiên cứu ấy.” Và: “Xin cám ơn Keith Weller Taylor, vì tình yêu chân chính và nổ lực trằn trọc của ông cho khoa học lịch sử Việt Nam, cho Việt Nam.” Không ít phản ứng trái chiều đã rộ lên. Nhưng với người am hiểu, sẽ thấy rằng, đó không phải lời lẽ của riêng Nguyên Ngọc. Ông Nguyên Ngọc chỉ là người phát ngôn cho xu hướng đang ngự trị giới sử học Việt Nam hiện nay. Đó là xu hướng xét lại, phủ định lịch sử Việt Nam hình thành từ xa xưa tới thời Việt Nam dân chủ công hòa. Một xu hướng được bắt đầu bằng việc trục xuất nhà Triệu khỏi sử Việt, bằng chối bỏ nhà nước Xích Quỷ cùng Kinh Dương Vương để dựng lên nhà nước Văn Lang 2700 năm tuổi. Đó cũng là xu hướng phủ định một dân tộc Việt Nam thống nhất, có lịch sử lâu dài. Xin mời đọc: Trần Trọng Dương-Keith Weller Taylor: Hành trình của một sử gia (http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=8708) Để rộng đường ngôn luận, tôi xin thưa lại đôi lời. Về sử gia Keith Weller Taylor và môn phái của ông, tôi đã có những bài viết: Bài học khó thuộc (2005), Một cách nhìn lịch sử xuyên tạc và méo mó (2006), Học giả Mỹ viết gì về sử Việt (2014). Ở đây chỉ xin nói một cách khái quát. I. Hoàn cảnh khai sinh của sử gia K.W. Taylor Năm 1972, chàng trai trẻ vốn dòng hào kiệt K.W.Taylor ôm đầu máu trở về từ Việt Nam trong lúc cao trào chống chiến tranh xâm lược sôi động khắp nước Mỹ. Chung số phận nhiều cựu chiến binh khác, chàng trai đã có lúc mất phương hướng. Nhưng rồi là người có nghị lực nên lý trí trở lại. Vốn sẵn có lợi thế tiếng Việt của một sĩ quan tình báo quân đội và những trải nghiệm cá nhân từ Việt Nam, Taylor ghi tên học Việt học. Năm 1976 nhận bằng Tiến sĩ Đại học Michigan. Cuộc chiến Việt Nam chia rẽ nước Mỹ với câu hỏi đau đớn: Vì lẽ gì, con voi thua con kiến?! Lúc này những chính trị gia và học giả trung thực cho rằng, Mỹ đã chọn lầm đối tượng. Việt Nam là nước nhỏ nhưng tinh thần dân tộc rất cao và được dẫn dắt bởi một vĩ nhân là Hồ Chí Minh. Với tinh thần thượng võ, không ít người Mỹ nghiêng mình bái phục dân tộc Việt. Cũng lúc này, chủ súy ngành Việt học nước Mỹ là Giáo sư O.W. Wolters. Là người Anh, từng sống nhiều năm ở Malaysia, hiểu biết và có cái nhìn chân thực về lịch sử Đông Nam Á, ông có tiếng nói quan trọng với giới học thuật. Trong bối cảnh đó, cuốn The Birtth of Vietnam (Việt Nam khai quốc) ra đời. Nhưng cũng vào năm tháng đó, cùng với những thất bại của chính quyền Việt Nam như việc chiếm đóng Campuchia, bóp nghẹt nhân quyền, vụ thuyền nhân, nền kinh tế suy sụp… một phong trào chống Cộng được dấy lên trong nước Mỹ. Những tư tưởng phục thù dai dẳng từ sau 1975 được dịp vùng dậy. Không ăn được thì đạp đổ là tâm lý của những người này. Họ đã ra sức đạp đổ bằng cách vùi dập dân tộc Việt. Từ vùi dập Hồ Chí Minh, đến vùi dập lý tưởng cao cả giải phóng dân tộc của người Việt. Với giới học thuật, không gì tiện hơn là phủ định sử Việt: phủ định cái nguyên nhân căn cốt làm nên chiến thắng. “Việt Nam không hề là một dân tộc thống nhất mà chỉ là đám người nói tiếng Việt tụ tập nhau tại đồng bằng sông Hồng vào thiên niên kỷ cuối trước Công nguyên”. “Đó là những con người hiếu chiến luôn chém giết nhau bằng những cuộc tranh giành giữa các vùng miền…” K.W. Taylor quay ngược ngọn cờ. Bằng nhiều bài viết mà tập trung là cuốn Có một lịch sử của người Việt Nam A History of the Vietnamese (2003) ông đã thể hiện mãnh liệt ý hướng đó. II. Đánh giá “công trình” của K.W.Taylor. “Sự nghiệp” Việt học của K.W.Taylor được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn đầu với The Birth of Vietnam. Giống như đứa trẻ “lần giường tập đi”, khi bước vào lĩnh vực mới mẻ, Taylor phải nương vào sách sử Việt Nam từ Đại Việt sử ký toàn thư cho tới thành quả của nền sử học Việt Nam hiện đại. Cuốn sách gần như một bản chuyển ngữ từ cuốn thông sử Việt Nam sang tiếng Anh. “Nó là một kênh truyền tải tiếng nói của các nhận thức lịch sử ở trong nước [Việt Nam] đến với giới học thuật quốc tế thông qua lăng kính khúc xạ mang tên K.W. Taylor.” [Trần Trọng Dương - bài đã dẫn]. Các nhà chép sử người Việt có thể vui mừng vì có một cậu học trò thuộc bài. Ở Việt Nam không ai đánh giá cao cuốn sách này. Giai đoạn sau với cuốn A History of the Vietnamese (2003). Nhận định về cuốn sách này, Tiến sĩ Trần Trọng Dương viết: “… ông đã tự thanh tẩy toàn bộ/ hoặc phần lớn những tri thức của mình về lịch sử Việt Nam. Taylor đã dành hơn hai chục năm vừa rồi để viết lại những nhận thức KHÁC. Chính vì vậy, trong cuốn sách mới này, ông chỉ dành vỏn vẹn 30 trang, để xóa bỏ hết những gì đã viết trong gần 400 trang của cuốn The Birth of Vietnam.” [TTD-bài đã dẫn] Và đây là cái KHÁC của tác giả: “Ông lấy An Dương Vương làm vị vua khởi đầu của lịch sử, và gần như đã không đề cập gì đến những huyền thoại Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân- Âu Cơ (bọc trăm trứng), Sơn Tinh- Thủy Tinh, Tản Viên, Chử Đồng Tử,... nữa. Cả khái niệm “Bách Việt” do người Hán sáng tạo để áp đặt/nô dịch tinh thần những cộng đồng dân cư khác Hán ở Phương Nam, đến đây cũng đã bị loại thải. Cái quan niệm của chủ nghĩa huyết thống tập thể, rằng “tất cả những người có cùng quốc tịch (bất kể thuộc về dân tộc nào) đều là những người cùng huyết thống, là cùng một bọc sinh ra, là đồng bào, anh em cốt nhục”..., đến đây, cũng đã được cho vào quên lãng. Ông viết rằng: “nhu cầu truy tầm nguồn gốc trong quá khứ xa xăm là nỗ lực nhận thức chung của nhiều dân tộc ở mọi thời điểm và mọi không gian... Nhưng nhu cầu bức thiết kết nối với quá khứ đó chỉ là một ham muốn chứng thực tự thân, chứ không phải là nỗ lực học thuật”. Ông cũng nói rõ rằng, những gì mà các sử thần thời Trần và Lê sơ đã làm khi biên soạn những bộ sử đầu tiên của người Việt là cắt dán, lắp ghép các nguồn tư liệu Hán văn cho phù hợp với sự tưởng tượng về quá khứ và tổ tiên của mình, nhằm tạo ra lịch sử của phương Nam trong thế đối chọi với lịch sử của phương Bắc. Sử Tàu dài bao nhiêu sử Việt nhiều từng ấy, họ có gì thì ta có đó. Với cách làm như vậy, phần lớn sử thần Nho gia thời trung đại đã mắc bẫy các sử thần Nho gia Trung Hoa, bằng cách kéo nhập lịch sử Việt Nam “đồng nguyên” [cùng một gốc] với lịch sử Trung Quốc. (TTD-bài đã dẫn) Và “Các học giả Việt Nam đã/ đang nỗ lực triển khai dự án để đẩy bản sắc dân tộc trở ngược về quá khứ xa nhất có thể. Trong thời kỳ hiện đại, điều đó đã trở thành phổ thông/ phổ biến với người Việt khi họ xác nhận lịch sử quốc gia kéo dài 4.000 năm, cho đến tận thời điểm mà các niên đại và hiện vật khảo cổ học được tập hợp và phân loại trong nền văn hóa Phùng Nguyên... Nhiều học giả người Việt toan tính vạch đường “chỉ đỏ xuyên suốt” ở lĩnh vực văn hóa, thậm chí cả ở ngôn ngữ - dân tộc, [để chứng minh] sự phát triển nối liền từ thời Phùng Nguyên đến tận Việt Nam hiện đại.” (TTD-bài đã dẫn) Tới đây, ta hãy thử bàn về những “khám phá” của “nhà Việt học.” Nói nôm na, Việt học là việc nghiên cứu tất cả những gì thuộc về người Việt trong tư cách một dân tộc, một đất nước. Do vậy, vấn đề tiên quyết đặt ra là xác định: người Việt là ai, có cội nguồn từ đâu, qua quá trình lịch sử thế nào để có mặt trên đất nước Việt Nam như ngày hôm nay? Cho đến giữa thế kỷ trước, từ cổ thư Trung Hoa và những khám phá khảo cổ học sơ khởi ở Đông Á, học giả Pháp cho rằng: “Tổ tiên ngưởi Việt xuất hiện trên đất Trung Hoa từ thế kỷ XI TCN mà hậu duệ là nước Việt của Việt vương Câu Tiễn. Năm 333 TCN, nước Sở diệt nước Việt, một bộ phận người Việt chạy xuống Bắc Việt Nam, trở thành người Việt hôm nay.” Nhưng tới thập niên 1980s, bằng khảo sát hơn trăm cốt sọ tìm được ở Việt Nam và Đông Nam Á cùng với những khám phá khảo cổ học mới nhất, khoa học đã xác nhận: suốt Thời Đá mới, dân cư trên đất Việt Nam thuộc chủng Australoid nhưng sang Thời kỳ Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở nên chủ thể dân cư đất nước này.[1] Như vậy, bằng khảo cổ và cổ nhân chủng học, khoa học khẳng định, người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam định cư trên đất Việt Nam từ hơn 4000 năm trước. Không chỉ vậy, sang thế kỷ này, nhiều tài liệu di truyền học khám phá rằng: Người tiền sử đặt chân tới Việt Nam từ 70.000 năm trước, sau đó tăng nhân số rồi lan tỏa ra toàn bộ châu Á.[2] Người Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất trong các dân cư châu Á.[3] Như vậy, bằng việc “tra hỏi” các mẩu xương, các hòn đá và cả ADN, khoa học chỉ ra, người Việt Nam là tổ tiên các dân cư châu Á, đất Việt là nơi phát tích của con người châu Á. Người tiền sử đặt chân lên trước hết tới Việt Nam. Sau khi hòa huyết, hòa trộn tiếng nói, người từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Khoảng 7000 năm trước, tại phía nam Hoàng Hà, người Việt Australoid hòa huyết với người Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid) sinh ra người Mongoloid phương Nam, là chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều. Khoảng 5000 năm trước, tại lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử xuất hiện nhà nước sớm nhất của người Việt với vị vua huyền thoại Thần Nông mà kinh đô là Lương Chử. Khoảng 2879 năm TCN, trên đất đai của nhà nước Thần Nông, nhà nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương ra đời. Khoảng năm 2698 TCN, người du mục Mông Cổ mở trận quyết chiến ở Trác Lộc đánh bại liên quân Việt của Lạc Long Quân và Đế Lai. Do bại trận, người Việt chủng Mongoloid phương Nam từ Núi Thái - Sông Nguồn (đồng bằng Trung Nguyên ngày nay) di cư về Việt Nam và Đông Nam Á. Người di cư mang nguồn gen Mongoloid phương Nam hòa huyết với dân Australoid bản địa, làm chuyển hóa đại bộ phận dân cư Đông Nam Á sang mã di truyền Mongoloid phương Nam. Và đó là người Đông Nam Á hiện đại. Không phải đám trôi sông lạc chợ tụ tập nhau ở đồng bằng sông Hồng thiên niên kỷ cuối Trước Công nguyên mà người Việt có mặt ở Việt Nam từ 70.000 năm trước. “Đồng bào”- cùng một bọc - là chữ chính xác nhất và hay nhất để nói về dân cư Việt Nam: Trên đất Việt, chỉ duy nhất chủng người Việt Mongoloid phương Nam với nhiều sắc tộc khác nhau.[4] Cũng từ chứng cứ không thể phản bác, khoa học chứng minh rằng, phần chủ thể của dân cư Trung Hoa là người Việt. Do vậy, tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa. Từ những phát hiện khảo cổ học về ký tự ở văn hóa Giả Hồ, Bán Pha, Lương Chử, nhất là phù tự Cảm Tang cuối năm 2011 cùng chữ viết của 340.000 người thiểu số tộc Thủy Quảng Tây và từ chính chữ Trung Hoa cho thấy, người Việt là chủ thể sáng tạo của Giáp cốt văn. Không chỉ vậy, những thành tựu rực rỡ của văn hóa Trung Hoa như kinh Dịch, kinh Thi… cũng là sản phẩm của tộc Việt.[5] Từ những khám phá mới về lịch sử phương Đông nhìn vào hai cuốn sách của K.W.Taylor ta thấy: The Birth of Vietnam tuy không có bổ sung hay diễn giải mới về sử Việt nhưng là việc làm lương thiện vì có công chuyển ngữ cuốn sử Việt Nam sang tiếng Anh. Trong khi đó A Hystory of the Vietnamese là một sự xuyên tạc thô bạo lịch sử Việt Nam, tạo ra một lịch sử giả tưởng theo chủ quan người viết. Jared Diamond, nhà nhân học hàng đầu nước Mỹ có câu nói đáng suy ngẫm: “Giờ không còn là lúc chơi với những mẩu xương và những hòn đá nữa. Tất cả những gì liên quan tới con người mà không được di truyền học kiểm định đều không đáng tin.” Khi viết sử Việt Nam, ông K.W. Taylor chưa thể tiếp cận những tài liệu di truyền học là điều có thể hiểu được vì lúc đó những tài liệu như vậy chưa có. Nhưng việc không biết tới những phát hiện khảo cổ học của Solheim II [6], sách Eden in the East [7] … là điều không thể chấp nhận! Sứ mạng sử gia là đem lại chân lý cho lịch sử. Với cuốn sách sai lạc như vậy, ông không những không góp được gì mà trái lại, làm rối loạn học thuật. Một câu hỏi cũng cần được đặt ra: vì sao K.W.Taylor được ủng hộ không chỉ ở nước Mỹ mà ngay cả ở Việt Nam? Ở Mỹ, câu chuyện khá đơn giản. Khi giới sử gia già như Wolter khuất bóng thì với The Birth of Vietnam, K.W.Taylor được ngộ nhận trở thành thống soái môn Việt học nước Mỹ. Không ít đệ tử trẻ tuổi cùng xu hướng tư tưởng như ông. Và cũng có sự thực là, chính những lời tán dương của học giả Việt Nam góp phần không nhỏ chắp cánh cho “uy tín” của “nhà Việt học hàng đầu”! Xin dẫn một thí dụ. Đầu năm 2005, sau khi khai quật di chỉ Mán Bạc ở Ninh Bình, Tiến sĩ Marc Oxenham tuyên bố: “Người từ Trung Quốc mang nông nghiệp tới Việt nam.” Bị giới làm sử Việt Nam phản đối, vị học giả của Đại học Canberra phải lên tiếng cải chính. Hẳn sau này ông sẽ viết lách thận trọng hơn. Nhưng với Taylor thì khác. Trong khi cố tình lờ đi, coi như không biết tới bài Tôi đã bắt đầu giảng dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào? Một bài viết với giọng hằn học xúc phạm dân tộc Việt cùng cuộc chiến tranh giải phóng thì người ta dịch rồi in trên tạp chí Xưa&Nay, bài Các xung đột vùng miền giữa các dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 13 đến 19, một bài viết xuyên tạc trắng trợn lịch sử Việt Nam Trung đại! Nếu các nhà chép sử Việt Nam lên tiếng phản bác một quan điểm như vậy, chắc tình hình sẽ khác đi! Còn ở Việt Nam, câu trả lời cũng không khó. Do bị hàng ngàn năm chiếm đóng nên lịch sử Việt Nam là những trang vô cùng mong manh với rất nhiều nghi vấn. Vì vậy, từ lâu, người Việt không hài lòng với cuốn sử của mình. Nhu cầu chỉnh sửa là mong ước tự thân. Truyền thuyết một bọc trăm trứng từng được coi là ma trâu thần rắn, nay có người thấy cần thay bằng cái gì đó “biện chứng” hơn, “duy vật” hơn. Và những điều khác nữa… Tuy nhiên, vì lo sợ cho sự an toàn của bản thân, họ đã im lặng. Trong hai năm 1993-1994 sang Việt Nam nghiên cứu trở lại, Taylor là cơ hội bằng vàng để đồng nghiệp Việt Nam chia sẻ với ông tâm tư của họ. Kết quả là một số ý tưởng của học giả Việt Nam chuyển sang cho Taylor để rồi được phát biểu trên đất Mỹ. Cố nhiên, người ta chỉ chờ có thế để tung hô như một sự “phát hiện, sáng tạo”! Ông Nguyên Ngọc đã đánh giá rất đúng: “và có lẽ cả ở sự gắn bó, gần gũi kỳ lạ của ông với giới nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam, những chuyển động bên trong nghiên cứu ấy.” Đúng là sự “gắn bó” một đồng một cốt! Những lời như thế không thể là tự có của một nhà văn mà nó tới tai ông từ những “sử gia”. Hãy nghe Giáo sư Lê Văn Lan trong Lời giới thiệu cuốn Nguồn gốc người Việt người Mường của Tạ Đức: “Tuy nhiên thật mừng là khá lâu rồi, bây giờ mới thấy có người đủ sức, đặc biệt là đủ gan để làm những chuyện này. Cái gan đầu tiên, chính là việc không những chê, mà còn gỡ bỏ, điều mà tác giả gọi là “vòng kim cô” của những học thuyết một thời chính thống về sự phát triển bản địa tuyệt đối (liên quan đến các vấn đề tự lực tự cường, độc lập tự chủ…) của dân tộc, về sự coi nhẹ, thậm chí phủ nhận, các tác động và ảnh hưởng quyết định ngoại lai, đặc biệt là các cuộc và kiểu thiên di (liên quan đến sự nghiệp chống ngoại xâm, chống can thiệp từ bên ngoài…) của lịch sử”. “Nhưng rồi qua từng trang, từng mục, đọc rất hấp dẫn, thấy tác giả, khi nói ra những điều này, là nói với cái gan dạ từ một tinh thần khoa học thực sự cầu thị, từ một ý chí và tấm lòng kiên định, nhiệt thành vì sự phát triển-đổi mới của khoa học lịch sử; và nhất là cái hệ thống mà Tạ Đức xây dựng nên ở đây, là sản phẩm của một qúa trình tìm tòi, khám phá, đặc biệt là tổng hợp, công phu, rộng lớn và có phương pháp; đồng thời thăng (cân) bằng rành rẽ trên nền của bước phát triển khoa học và công nghệ thông tin hiện đại.” Xu hướng đòi viết lại lịch sử Việt Nam là có thực. Nhưng một nguyên nhân quan trọng là nhà chép sử của chúng ta, do tri thức lịch sử hạn hẹp, lại thiếu một bản lĩnh văn hóa nên không thấu hiểu bản chất của một dân tộc có lịch sử lâu dài, thống nhất. Họ trông gà hóa cuốc rồi phủ định giá trị sâu bền nhất của lịch sử dân tộc. Do những áp lực nội tại, họ không dám nói thẳng suy nghĩ của mình nhưng đã truyền cho những người như Taylor. Với thói quen nô lệ vọng ngoại, người ta nống một cậu học trò làm thầy, đem đặt lên bệ thờ để mượn tay thầy đập phá bát hương trong ngôi đền thiêng dân tộc! Tác hại nhỡn tiền là sinh ra đám con nhang đệ tử trẻ người non dạ, ăn theo nói leo kiểu Tiến sĩ Trần Trọng Dương cùng luận thuyết “Kinh Dương Vương là sản phẩm của văn hóa Tàu”! Điều xót xa là, trong khi cay độc vùi dập dân tộc Việt thì ông K.W.Taylor không ngờ rằng, 40.000 năm trước, có một dòng con cháu người Việt từ Đông Á qua Trung Á tới Nam Âu. Tại đây, họ lai giống với người Europid vừa từ Trung Đông lên, sinh ra người Eurasian da sậm màu, là tổ tiên của người châu Âu hiện đại. Vì vậy, trong dòng máu Anglo Saxon của ông Taylor, chắc là có một phần máu Việt. Ngay cả những tếng mẹ đẻ của ông như Water, sand, people… cũng là từ gốc Việt: nước, sạn, bầu bí! Sau này, nếu con cháu ông có tâm và hiểu biết, hẳn sẽ hành hương về Việt Nam, tới Núi Đọ bái kính nơi phát tích của tổ tiên! Cuốn sách của Taylor in năm 2003 nay đã lạc hậu, không nói làm gì. Chỉ nực cười là, cho tới năm 2015 này, thông tin về cội nguồn đích thực của tộc Việt tràn trên mạng thì xảy ra chuyện, tại một nơi rất sang trọng, có những người rất quan trọng, làm cái việc rất long trọng là trao vương miện cho cái xác chết! III. Kết luận Suốt thế kỷ XX, bằng tất cả những phương cách sáng tạo được như khảo cổ học, cổ nhân học, văn hóa học, ngôn ngữ so sánh… khoa học cũng không thể giải quyết vấn đề căn cốt nhất: Tổ tiên người Việt là ai? Từ đâu ra? Trải quá trình lịch sử như thế nào để có diện mạo như hôm nay? Vì vậy, cuốn sử Việt Nam có nhiều bất cập. Viết lại lịch sử là nhu cầu bức thiết. Từ thập niên 1970 xuất hiện những nhà duy sử với ý tưởng xóa bỏ truyền thuyết huyền thoại để xác lập một lịch sử duy vật như bản thân nó có, dựa vào cổ thư Trung Hoa cùng những tài liệu khảo cổ thời Đông Sơn. Là người nắm bắt ý hướng này, K.W. Taylor đã đẩy tới cực đoan, biến tác phẩm của mình trở thành tài liệu không chỉ xuyên tạc, bóp méo lịch sử Việt Nam mà còn xúc phạm dân tộc Việt. Có những người ủng hộ “sử gia” này. Nhưng theo tôi, đại đa số người dân Việt Nam không đồng tình. Dù không giải thích được nhưng trong tâm cảm, người Việt vẫn ngưỡng vọng về Kinh Dương Vương, về Lạc Long Quân, về nơi phát tích của tổ tiên Núi Thái Sông Nguồn… Những khám phá của công nghệ di truyền thập niên đầu thế kỷ chứng tỏ niềm tin nguyên sơ dai dẳng của người Việt là đúng. Và cuốn sử Việt Nam đang được viết lại. Nhưng không phải như K.W.Taylor và môn đồ của ông tưởng tượng. Không chỉ là lịch sử 4000 năm mà tộc Việt có tới 70.000 năm sống, sinh ra toàn bộ dân cư châu Á và sáng tạo nền văn hóa phương Đông rực rỡ. Sài Gòn, 6. 2015 ============================ Tài liệu tham khảo: 1 Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. (NXB DH&THCN, H. 1983) 2. J.Y. Chu et al: Genetic relationship of population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 N. 95 tr. 11763-11768. 3. S.W. Ballinger et al: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. (Genetic 1992 N.130 Tr.139-45) 4. Hà Văn Thùy. Tiến trình lịch sử văn hóa Việt. http://www.amazon.com/Tien-Trinh-Lich-Vietnamese-Edition/dp/1502407043/ref=pd_sim_b_1?ie=UTF8&refRID=0166EHCRB7JE84435N41 5. Hà Văn Thùy. Viết lại lịch sử Trung Hoa http://www.amazon.com/Viet-Lai-Lich-Trung-Vietnamese/dp/1500462675/ref=sr_1_1?s=books&ie=UTF8&qid=1407022568&sr=1-1&keywords=ha+van+thuy 6. W. G. Solheim II. Ph. D: New light on Forgotten Past. National Geographic Vol 1339 N.3 Mar. 1971. 7. Stephen Oppenheimer. Eden in the East : the Drowned Continent of Southeast Asia - Phoenix London 1998 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 6, 2015 Thưa quí vị và anh chị em. Luận điểm của tôi về cổ sử Việt luôn khẳng định rằng: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử và là cội nguồn của nền văn minh Đông phương. Cũng có nhiều nhà nghiên cứu có xu hướng tương tự như tôi, nhưng phương pháp chứng minh hoàn toàn khác nhau và cũng có những luận cứ khác nhau. Bài viết dưới đây của nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy về hiện tương giáo sư sử học Hoa Kỳ Keith Weller Taylor được trao giải Phan Chu Trinh vừa gửi cho tôi qua email. Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy cũng có quan điểm tương đồng với tôi về cội nguồn Việt sử. Nhưng phương pháp và luận cứ chứng minh khác tôi. Do đó cùng một hiện tượng liên quan đến cổ sử Việt của giáo sư sử học Hoa kỳ K.W.Taylor với giải thưởng giành cho ông cũng có cái nhìn khác nhau. Tôi đăng bài của nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy lên topic này để quý vị và anh chị em rộng đường tham khảo từ một góc nhìn khác về hiện tượng này. Xin trân trọng giới thiệu. Cảm ơn sự quan tâm của quý vị và anh chị em. ============================ VỀ HIỆN TƯỢNG KEITH WELLER TAYLOR Hà Văn Thùy Trong lễ trao Giải thưởng Phan Châu Trinh cho sử gia người Mỹ K.W.Taylor, diễn ra tại khách sạn Caravelle thành phố Hồ Chí Minh ngày 24-3-2015, nhà văn Nguyên Ngọc ca ngợi người nhận giải bằng những lời có cánh: “Keith Taylor là một trong những nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất, cả ở Việt Nam cả ở nước ngoài. Ông cũng là một nhà Việt Nam học độc đáo, từ điểm xuất phát, đến con đường nghiên cứu Việt Nam học ông đã đi, các chặng khác nhau và những chuyển hướng trên con đường đó, và có lẽ cả ở sự gắn bó, gần gũi kỳ lạ của ông với giới nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam, những chuyển động bên trong nghiên cứu ấy.” Và: “Xin cám ơn Keith Weller Taylor, vì tình yêu chân chính và nổ lực trằn trọc của ông cho khoa học lịch sử Việt Nam, cho Việt Nam.” Không ít phản ứng trái chiều đã rộ lên. Nhưng với người am hiểu, sẽ thấy rằng, đó không phải lời lẽ của riêng Nguyên Ngọc. Ông Nguyên Ngọc chỉ là người phát ngôn cho xu hướng đang ngự trị giới sử học Việt Nam hiện nay. Đó là xu hướng xét lại, phủ định lịch sử Việt Nam hình thành từ xa xưa tới thời Việt Nam dân chủ công hòa. Một xu hướng được bắt đầu bằng việc trục xuất nhà Triệu khỏi sử Việt, bằng chối bỏ nhà nước Xích Quỷ cùng Kinh Dương Vương để dựng lên nhà nước Văn Lang 2700 năm tuổi. Đó cũng là xu hướng phủ định một dân tộc Việt Nam thống nhất, có lịch sử lâu dài. Xin mời đọc: Trần Trọng Dương-Keith Weller Taylor: Hành trình của một sử gia (http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=8708) Để rộng đường ngôn luận, tôi xin thưa lại đôi lời. Về sử gia Keith Weller Taylor và môn phái của ông, tôi đã có những bài viết: Bài học khó thuộc (2005), Một cách nhìn lịch sử xuyên tạc và méo mó (2006), Học giả Mỹ viết gì về sử Việt (2014). Ở đây chỉ xin nói một cách khái quát. III. Kết luận Suốt thế kỷ XX, bằng tất cả những phương cách sáng tạo được như khảo cổ học, cổ nhân học, văn hóa học, ngôn ngữ so sánh… khoa học cũng không thể giải quyết vấn đề căn cốt nhất: Tổ tiên người Việt là ai? Từ đâu ra? Trải quá trình lịch sử như thế nào để có diện mạo như hôm nay? Vì vậy, cuốn sử Việt Nam có nhiều bất cập. Viết lại lịch sử là nhu cầu bức thiết. Từ thập niên 1970 xuất hiện những nhà duy sử với ý tưởng xóa bỏ truyền thuyết huyền thoại để xác lập một lịch sử duy vật như bản thân nó có, dựa vào cổ thư Trung Hoa cùng những tài liệu khảo cổ thời Đông Sơn. Là người nắm bắt ý hướng này, K.W. Taylor đã đẩy tới cực đoan, biến tác phẩm của mình trở thành tài liệu không chỉ xuyên tạc, bóp méo lịch sử Việt Nam mà còn xúc phạm dân tộc Việt. Có những người ủng hộ “sử gia” này. Nhưng theo tôi, đại đa số người dân Việt Nam không đồng tình. Dù không giải thích được nhưng trong tâm cảm, người Việt vẫn ngưỡng vọng về Kinh Dương Vương, về Lạc Long Quân, về nơi phát tích của tổ tiên Núi Thái Sông Nguồn… Những khám phá của công nghệ di truyền thập niên đầu thế kỷ chứng tỏ niềm tin nguyên sơ dai dẳng của người Việt là đúng. Và cuốn sử Việt Nam đang được viết lại. Nhưng không phải như K.W.Taylor và môn đồ của ông tưởng tượng. Không chỉ là lịch sử 4000 năm mà tộc Việt có tới 70.000 năm sống, sinh ra toàn bộ dân cư châu Á và sáng tạo nền văn hóa phương Đông rực rỡ. Sài Gòn, 6. 2015 ============================ Trong lịch sử tiến hóa của nền văn minh nhận thức được hiện nay - từ đồ đá, đồ đồng. đồ sắt.....- chưa phải là một bức tranh hoàn chỉnh cho cả quả trình tiến hóa đó. Tất cả mốc thời gian đều chỉ là giả thuyết. Do đó, tôi chỉ xác định lịch sử Việt tính từ thời Hùng Vương dựng nước bên bờ nam Dương Tử là gần 5000 năm lịch sử (2879 BC - 2015 AC). Đây chính là cột mốc của Việt sử do ông cha ta sáng lập. Cột mốc này phù hợp với định nghĩa hiện đại về lịch sử của một dân tộc như sau: Lịch sử của một dân tộc được tính từ khi dân tộc đó lập quốc. Việc phủ nhận Việt sử đã quá đà đến mức tự nó lột trần bản chất của thứ tư duy nô lệ văn hóa. Nghiên cứu sinh đàn bà Đỗ Ngọc Bích tại Hoa Kỳ đã trắng trợn tuyên bố trên đài phát thành quốc tế BBC rằng: "Lịch sử văn hóa Việt có cội nguồn từ Trung Quốc". Khi bị chỉ trích, ả còn nhâng nháo nói đây là những điều y thị được học trên ghế nhà trường. Thật là nhục nhã đến mức vô liêm sỉ. Cá nhân tôi không thể tiếp tục trao đổi học thuật với đám trơ tráo vô liêm sỉ này. Bởi vậy, tôi cần xác định rõ rằng: Nếu cả các học giả của thế giới này do dốt nát, trơ tráo, vô liêm sỉ tiếp tục phủ nhận chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở bờ nam sông Dương Tử , thì Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh vẫn xác định rằng: "Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở bờ nam sông Dương tử và là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương. Người Việt chính là hậu duệ của một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ đã tồn tại trên trái đât này, trước nền văn minh của chúng ta. mà tôi tạm đặt tên là văn minh Atlantic. Và thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ". Để thành Phật có tới 84.000 pháp môn. Cho nên, để chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, không nhất thiết phải đối thoại với những loại người vô liêm sỉ, tự sỉ nhục một cách ngoan cố phủ nhận tổ tiên của mình. Tôi sẽ tìm hiểu những biện pháp thể hiện Việt sử từ lời tiên tri của bà Vanga: "Một lý thuyết cổ xưa sẽ trở lại với nhân loại. Nhưng còn lâu lắm. Chỉ đến khi dân tộc Arxyria bị tiêu diệt". 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 27 Tháng 6, 2015 Thưa quí vị và anh chị em quan tâm. Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy vừa gửi cho tôi một bài viết của tác giả Kelley. Ông này lại là một nhà nghiên cứu trẻ cũng chuyên ngành Sử học và là giáo sư Đại học ở Hawai. Tất nhiên bài viết này của ông ta cũng tỏ ra quan tâm tới các vấn đề thuộc cổ sử Việt. Ông này chưa được giải thưởng Phan Chu Trinh vì viết về Việt sử không nhiều bằng ông K.W.Taylor. Nhưng tôi vẫn xếp vào hàng ngũ thuộc "Cộng đồng khoa học thế giới ủng hộ" quan điểm của "hầu hết những nhà khoa học trong nước" phủ nhận cội nguồn truyền thống văn hóa sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử. Một bằng chứng cho việc phân loại của tôi chính là bài viết của ông ta, mà nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy gửi cho tôi dưới đây. ================ Sử gia lớn nhất (không ai biết đến/không được công nhận) của Việt Nam Kelley Lê Minh Khải | Trà Mi dịch Ông này mới chỉ mới nhận được cái Ngọn mà chưa hiểu Tận cái Gốc của con Ngưòi và Tinh thần Dân tộc Việt Nam . Kim Định nhờ Tinh thần triết học Đông phương tức là triết lý An Vi mới khai quật lên được nền Văn hoá Độc đáo Việt Nam, Kim Định không phải là một Sử gia . V.Nhân. Tôi dành mùa hè để đọc các tác phẩm của Kim Định, một linh mục Công giáo, một triết gia và một nhà sử học đã viết rất nhiều trong những năm 1960 và đầu những năm 1970 ở miền Nam Việt Nam. Khi đọc những gì ông đã viết, không cần nhiều thời gia để kết luận rằng Kim Định, cho đến nay, là sử gia táo bạo nhất và giàu trí tưởng tượng nhất mà Việt Nam đã từng biết. Nói đơn giản, Kim Định là một thiên tài. Tuy nhiên, theo như tôi có thể nói, không ai có thể nhìn thấy thiên tài trong những gì ông đã làm, nhưng đồng thời, giống như nhiều thiên tài khác, ông cũng đã đẩy tư tưởng của mình quá xa. Kết quả là nhiều người ngày nay là một là không biết gì về Kim Định đã hoặc bỏ qua sự uyên bác của ông. Điều này, tôi cho là một sai lầm to lớn. Để tôi giải thích lý do tại sao tôi nghĩ như thế. Trước khi đọc bài viết của ông, tôi chỉ nghe nói về Kim Định và đã chỉ đọc những gì người khác đã viết về ông. Từ thông tin này, tôi đã nghĩ Kim Định là một người quốc gia quá khích, người đã có tư tưởng điên rồ cho rằng kinh điển Nho giáo (Ngũ Kinh) là những sáng tạo của người Việt, và kết quả là, về căn bản tất cả mọi thứ mà chúng ta bây giờ nghĩ là văn hóa “Trung Quốc” đã thực sự tự nguồn là văn hóa “Việt”. Đúng là Kim Định đã có một lập luận như thế. Tuy nhiên, con đường trí tuệ dẫn ông đến kết luận này đã đi qua một số tư tưởng học thuật vĩ đại nhất của thế kỷ XX, và đây là lý do tại sao tôi nói rằng Kim Định được cho là sử gia quan trọng nhất Việt Nam trong mọi thời đại (không phải là “hạng nhất” nhưng “quan trọng nhất”). Hành trình trí tuệ của Kim Định đã dẫn ông qua các tác phẩm của hai học giả Pháp nổi tiếng, Marcel Granet và Claude Lévi-Strauss. Marcel Granet vừa là một nhà Hán học và một nhà Xã hội học. Ông là một trong những học giả đầu tiên đi tìm những giải thích xã hội về những điều ông đọc thấy trong các văn bản cổ điển Trung Quốc. Trong quá trình đó, ông đã cách mạng hóa quan điểm của mọi người (cả bên trong và bên ngoài Trung Quốc) về thời cổ đại Trung Quốc. Nổi tiếng nhất, Granet giải thích lại Kinh Thi (Shijing 詩經). Qua nhiều thế kỷ học giả ở Trung Quốc đã giải thích những vần thơ trong Kinh Thi bằng thuật ngữ đạo đức. Granet, tuy nhiên, xem chúng như các sản phẩm của nghi lễ và lễ hội địa phương, không có gì liên quan đến sự diễn giải về đạo đức của truyền thống học thuật ở Trung Quốc. Có lẽ quan trọng hơn cho những sáng tác của Kim Định là cuốn “La Pensée Chinoise” (Tư tưởng Trung Quốc) của Granet. Trong tác phẩm dày đặc và uyên bác này, Granet tìm cách chứng minh các khái niệm trong những văn kiện Trung Hoa cổ đại như thuyết nhị nguyên âm và dương, và số học trong ngũ hành, v.v. không chỉ khái niệm số, nhưng là “biểu tượng” (hoặc những gì mà giới theo chủ nghĩa cấu trúc sau này gọi là “dấu hiệu”) cho các cấu hình của xã hội, và nếu chúng ta nhìn vào hiện tượng như thân tộc và hôn nhân chúng ta có thể nhìn thấy bằng chứng về các khái niệm trong cách những hiện tượng đã được sắp xếp và thực hiện. Trong khi tác phẩm của Granet như một nhà Hán học, đã bị các học giả như Bernhard Karlgren chỉ trích là không phân biệt giữa văn bản từ các giai đoạn khác nhau, thì những tác phẩm khác của Granet như là một nhà khoa học xã hội có ảnh hưởng đến những tác phẩm của các học giả như Claude Lévi-Strauss, một người tầm cỡ trong lĩnh vực cấu trúc nhân chủng học . Tư tưởng của Lévi-Strauss bật lên chống lại những ý tưởng của các học giả như Bronisław Malinowski. Malinowski cho rằng chúng ta có thể hiểu được xã hội bằng cách quan sát và giải thích những gì chúng ta thấy. Mặt khác Lévi-Strauss lập luận rằng những gì chúng ta thấy trong các xã hội trên toàn thế giới khác nhau. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn dưới mặt nổi của những gì chúng ta thấy và tìm cách hiểu được “cấu trúc” của những ý tưởng cho biết mọi người làm gì thì chúng ta có thể hiểu khác đi, và cuối cùng có thể thấy rằng có những điểm chung trên toàn thế giới. Khi Kim Định đọc các tác phẩm của Claude Lévi-Strauss trong năm 1960, ông cảm thấy rằng Marcel Granet đã tiết lộ những gì mà “cấu trúc” bên dưới bề mặt đã được – đó là âm dương (âm dương), và năm giai đoạn (ngũ hành) , v.v... Hơn thế nữa, ông cảm thấy rằng tất cả những điều này là “Việt.” Đó không phải là một cái gì đó “Trung Quốc” đã được “nhập cảng” vào Việt Nam sau đó. Đây là những gì học thuật của Kim Định muốn chứng minh. Như vậy, tại sao Kim Định lại quan trọng đến thế? Trước hết, ông là sử gia duy nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại, mà tôi biết, đã thực sự đa ngành. Ý tưởng cho rằng học thuật cần phải được đa ngành là một điều được đề cập rất nhiều, nhưng để đa ngành người ta phải biết những thông tin “cập nhật” mới nhất trong các lĩnh vực khác nhau. Đây là điều mà người ta không thấy trong học thuật Việt Nam. Thay vào đó, nhiều học giả chỉ đơn giản là “chọn” thông tin từ các lĩnh vực khác nhau để phù hợp với một ý tưởng (và thường là một ý tưởng dân tộc chủ nghĩa) mà họ đã có sẵn. Kim Định, mặt khác, đã biết đến những thông tin cập nhật trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông hiểu Saussure (ngôn ngữ học), Lévi-Strauss (nhân chủng học), Granet, Creel, Needham (tất cả trong Trung Hoa học), Foucault (triết học), v.v... Và ông đã xây dựng ý tưởng của mình trên những tư tưởng của các học giả khác. Đó mới thực sự có nghĩa là đa ngành. Thế vấn đề với các tác phẩm của Kim Định là gì? Nó cũng giống như vấn đề với học thuật của Marcel Granet. Kim Định đã không phân biệt giữa văn bản. Đối với ông, những gì đã được viết trong Sử ký của Tư mã Thiên hoặc Kinh Thi (cả hai từ thời BC) cũng giống như những gì đã được viết trong Lĩnh Nam chích quái ở thế kỷ thứ mười lăm, v.v... Thông tin trong tất cả các văn bản đó đều có thể được sử dụng để chứng minh sự hiện hữu của một “cấu trúc” của nghĩa ẩn dưới những văn bản này. Đó là vấn đề. Tuy nhiên, các nhà nhân chủng học như Lévi-Strauss, đã xây dựng tư tưởng của mình bằng cách nghiên cứu các xã hội (“nguyên thủy”) hiện đại, và thông tin mà họ có đã phải là của những thời đại khác. Điều này, tôi cho rằng, đã khiến những lập luận như vậy có sức thuyết phục hơn. Học thuật tiến bộ khi các học giả sử dụng lý thuyết để đưa ra những tuyên bố táo bạo. Những tuyên bố đó đôi khi “quá” táo bạo, khiến các học giả khác thách thức những tuyên bố đó và dẫn đến một sự hiểu biết hợp lý hơn. Tuy nhiên, kết quả là học thuật tiến bộ. Nói cách khác, nó là điều tốt để có những học giả đã tuyên bố táo bạo (như Edward Said, Benedict Anderson, James Scott, v.v...), bởi vì nó khiến các học giả khác thách thức và điều chỉnh những tuyên bố đó. Tuy thế; để điều đó xảy ra, các học giả thách thức những tuyên bố táo bạo cần phải tinh thông về mặt lý thuyết như các học giả đã đưa ra những tư tưởng ban đầu. Đây là điều đã không bao giờ xảy ra với Kim Định. Kim Định có một số tuyên bố táo bạo trong các thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 đưa sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử Việt Nam (quá xa) về phía trước, nhưng kể từ thời điểm đó đã không có người nào có những kiến thức về lý thuyết như Kim Định, vì vậy đã không một thách thức, hoặc chỉnh sửa tư tưởng của Kim Định nào hết. Kết quả là tư tưởng Kim Định hoặc đã bị gạt bỏ hoặc bị nhạo báng, hoặc ý tư tưởng của ông đã bị hiểu lầm. Đây là một điều xấu hổ, vì Kim Định, tôi cho là sử gia Việt Nam duy nhất trong thời hiện đại, người đã thực sự đi đến một giải thích mới về lịch sử thời sơ khai của nước Việt (Nam). Để có thể gạt bỏ ý tưởng của Kim Đinh, trước tiên người ta phải cọ sát với tư tưởng của ông. Cho đến nay, chưa ai làm được điều đó. Một khi ai đó làm việc đó, họ sẽ thấy rằng có lẽ có cái gì đó trong những tư tưởng của Kim Định thật là sâu sắc (cũng như các học giả vẫn tìm thấy những điểm sâu sắc trong các tác phẩm của Marcel Granet), và đó là những gì sẽ đưa học thuật lịch sử tiến về phía trước. Cho đến khi đó… ----------------------------------------------- Nguồn: Vietnam’s Greatest (unknown/unrecognized) Historian, Lê Minh Khải, Le Minh Kha’s SEAsian History Blog, 19 Jun 15 ----------------------------------------------- Tiểu sử Triết gia Lương Kim Định Triết gia KIM ĐỊNH sinh ngày 15.6.1914 tại Trung Thành, Nam Định. Sau khi tốt nghiệp triết học tại Giáo Hoàng Chủng Viện Sait Albert Le Grand, ông dạy triết tại Đại Chủng Viện Bùi Chu (1943-1946). Năm 1947, ngài sang Pháp 10 năm nghiên cứu về triết học tại Institut des Hautes Etudes Chinoise để thâu thập tài liệu xây đắp nền triết lý Việt Nam. Trở về nước năm 1957, ngài dạy triết Đông tại Học Viện Lê Bảo Tịnh, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh và Đại Học Đà Lạt. Từ năm 1960, triết gia bắt đầu cho ra mắt một loạt những cuốn sách về triết Việt, mở đầu là cuốn Cửa Khổng, Triết Lý Giáo Dục, Nhân Bản, Căn Bản Triết Lý Trong Văn Hóa Việt Nam . . . Học giả Linh Mục Vũ Đình Trác viết về công trình của ngài như sau: “Nhờ công phu mở đường trở về triết Đông của Giáo Sư Bửu Dưỡng và Nguyễn Văn Thích cũng như tâm huyết của Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục, chương trình triết học Đông Phương được khai giảng tại Đại Học Văn Khoa Sàigòn năm 1958. Sẵn đường trở về Đông Phương, triết gia Kim Định tiện đường, đơn thương độc mã, ông lên một nước táo bạo, mở đường đi vào Triết Lâm Việt Nam. Trong suốt 16 năm trời tại giảng đường Đại Học Văn Khoa Sàigòn, giáo sư đã ảnh hưởng sâu rộng cho cả một thế hệ thanh niên và sinh viên. Mặc dầu bao chống đối, ông đã im lặng xây dựng một hệ thống Việt Nho khá trung thực và hấp dẫn. Không ai có thể chối cãi công phu xây dựng và ảnh hưởng sâu rộng của ông trong lãnh vực văn hóa dân tộc. Từ Đại Học Văn Khoa Sàigòn, ông mở rộng mặt trận tới các Đại Học khác: Đại học Đà Lạt, Vạn Hạnh, Minh Đức, Thành Nhân và An Giang. Chính trong giai đoạn này ông đã sáng lập chủ thuyết AI VI và ViỆT NHO”. Nhận định về địa vị của triết gia Kim Định trên trường Việt Nho, Việt Triết - học giả Linh Mục Vũ Đình Trác còn viết như sau: “Nhờ công khai thác và biên khảo, sáng tác của giáo sư, những bậc thức giả khắp nơi đã suy tôn ông là Triết Gia Việt Nam. Aûnh hưởng Việt Triết và Việt Nho của ông đã gây ý thức cho người Việt khắp nơi nhìn lại thực tại văn hóa của mình. Các đồ đệ của ông đã đáp ứng nguyện vọng của Thầy để khai thác và phổ biến Việt Lý của Thầy qua tổ chức AN VIỆT. Các nhóm An Việt được thành lập khắp nơi: San Jose, Orange, Houston, Louisiana, Washington DC, Philadelphia, Seattle, và tại Canada, Uùc Châu, Anh, Pháp, Đức v.v ... An Vi đã như một luồng gió dân tộc bùng lên khắp nơi có người Việt định cư. Các nhóm này coi Triết Gia Kim Định như bậc Đại Sư, mà họ tôn làm Tổ: TỔ SƯ AN VI, TỘC PHỤ AN VIỆT. Aûnh hưởng của Triết Gia không những thế mà còn lan rộng tới các học giả, triết gia ngoại quốc: Âu Mỹ và khối Viễn Đông”. Năm 1987 hội nghị Quốc Tế về “Khổng Học Với Thế Giới Ngày Nay” (International Symposium on Confucianism and the Modern World) tổ chức tại Đài Bắc, Đài Loan, qui tụ 400 học giả khắp thế giới. Triết gia Kim Định cùng với Lm Vũ Đình Trác đã thuyết trình đề tài “Đạo Trường Chung Cho Đông Nam Á” (A Tao-Field for South East Asia). Bài tham luận do Giáo Sư Trần Văn Đoàn, Giáo Sư Đại Học Quốc Gia Đài Loan trình bày (Professor of Philosophy at Taiwain National University). Đề tài này đã gây tiếng vang rất lớn trong giới Nho Lâm Á Châu. Sau đó ngài còn tham dự Hội Nghị Triết Học tại Brighton Anh Quốc năm 1988 (The World Congress of Philosophy) – Hội Nghị Triết Học Á Châu và Bắc Phi lần thứ 33 tại Toronto Canada năm 1990 (The XXXIII International Conference on Asian and North African Studies). Ngài nói với các đồ đệ; “Thầy phải đi để nói cho thế giới biết con người, tư duy và đạo sống cao đẹp của dân tộc Việt Nam”. Triết gia Kim Định từ trần ngày 25 tháng 3 năm 1997 tại dòng Đồng Công hải ngoại, Carthage, Missouri, Hoa Kỳ, hưởng thọ 83 tuổi. Ngài để lại cho đời bộ triết Việt Nho và An Vi, gồm 42 cuốn để giúp cho dân tộc có Chủ Đạo để tránh cảnh vô hướng vô hồn và giúp cho dân tộc có một Minh Triết để sống an vui hạnh phúc giữa Trời và Đất. ================ Thưa quý vị và anh chị em quan tâm Thành thật mà nói, cách viết của ông Kelley tỏ ra khôn ngoan, Ông ta chỉ đặt vấn đề và hướng người đọc theo cách nghĩ của ông ta muốn phủ nhận những giá trị học thuật trong luận điểm của giáo sư Kim Định. Nhưng ông ta đã khôn ngoan khi cho rằng: Tuy nhiên, các nhà nhân chủng học như Lévi-Strauss, đã xây dựng tư tưởng của mình bằng cách nghiên cứu các xã hội (“nguyên thủy”) hiện đại, và thông tin mà họ có đã phải là của những thời đại khác. Điều này, tôi cho rằng, đã khiến những lập luận như vậy có sức thuyết phục hơn. Học thuật tiến bộ khi các học giả sử dụng lý thuyết để đưa ra những tuyên bố táo bạo. Những tuyên bố đó đôi khi “quá” táo bạo, khiến các học giả khác thách thức những tuyên bố đó và dẫn đến một sự hiểu biết hợp lý hơn. Tuy nhiên, kết quả là học thuật tiến bộ. Nói cách khác, nó là điều tốt để có những học giả đã tuyên bố táo bạo (như Edward Said, Benedict Anderson, James Scott, v.v...), bởi vì nó khiến các học giả khác thách thức và điều chỉnh những tuyên bố đó. Tuy thế; để điều đó xảy ra, các học giả thách thức những tuyên bố táo bạo cần phải tinh thông về mặt lý thuyết như các học giả đã đưa ra những tư tưởng ban đầu. Đây là điều đã không bao giờ xảy ra với Kim Định. Kim Định có một số tuyên bố táo bạo trong các thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 đưa sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử Việt Nam (quá xa) về phía trước, nhưng kể từ thời điểm đó đã không có người nào có những kiến thức về lý thuyết như Kim Định, vì vậy đã không một thách thức, hoặc chỉnh sửa tư tưởng của Kim Định nào hết. Kết quả là tư tưởng Kim Định hoặc đã bị gạt bỏ hoặc bị nhạo báng, hoặc ý tư tưởng của ông đã bị hiểu lầm. Đây là một điều xấu hổ, vì Kim Định, tôi cho là sử gia Việt Nam duy nhất trong thời hiện đại, người đã thực sự đi đến một giải thích mới về lịch sử thời sơ khai của nước Việt (Nam). Nhà sử học Kelley Luận cứ của giáo sư Kelley là một thứ láu cá trong học thuật - tôi muốn nói thẳng thắn như vậy. Bởi vì, một tiêu chí khoa học xác định rằng: "Một giả thuyết, hoặc một lý thuyết được coi là khoa học thì người ta có thể căn cứ vào nền tảng tri thức khoa học để có thể chỉ ra được cái sai trong luận cứ của nó". Ông Kelley đã phủ nhận và sổ toẹt tất cả hệ thống luận điểm của giáo sư Kim Định bằng cách xác định rằng không có ai có thể chỉ ra được cái sai trong hệ thống luận điểm của giáo sư Kim Định - Kim Định có một số tuyên bố táo bạo trong các thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 đưa sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử Việt Nam (quá xa) về phía trước, nhưng kể từ thời điểm đó đã không có người nào có những kiến thức về lý thuyết như Kim Định, vì vậy đã không một thách thức, hoặc chỉnh sửa tư tưởng của Kim Định nào hết. Trước khi tôi trình bày luận điểm của tôi về vấn đề này, tôi cần nói qua về nhân duyên tôi tìm hiểu về hệ thống luận điểm của giáo sư Kim Định. Bản thân tôi xuất thân là một học sinh, học gần hết phổ thông thì đi làm công nhân với nghề chính là thợ tiện. Tôi chỉ có một thói quen rất khó chịu từ hồi nhỏ là ham đọc sách. Tôi đam mê đọc sách cứ y như đám thành thiếu niên bây giờ mê gamme vậy. Tôi đọc sách cả trong lúc ăn cơm và đi cabine. Nhưng tất cả những sách tôi đọc đều chỉ xuất bản ở miền Bắc trước 1975. Tôi chẳng biết gì về những gía trị tri thức ở miền Nam trước 1975 cả. Sau 1975, tôi tiếp xúc với sách vở in trước 1975 ở miền Nam, phần lớn cũng chỉ là sách văn học nước ngoài qua các bản dịch mà tôi chưa được đọc. Tất nhiên, tôi cũng rất ít biết đến các nhà thơ, văn và các học giả - kể cả Nguyễn Hiến Lê, mà sách của ông có tính phổ biến hơn, chưa nói đến giáo sư Lương Kim Định. Một phần những loại sách của họ cũng hiếm hoi. Cho đến năm 1998, lúc ấy tôi bắt đầu viết sách thể hiện quan điểm của mình về cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Sau một thời gian tìm hiểu, minh chứng Việt sử, những bạn bè gần gũi mới nói với tôi về một học giả miền Nam trước 1975 cũng có quan điểm như tôi. Điều này khiến tôi tò mò và bắt đầu sưu tầm sách của ông. Phải nói rằng, mãi cho đến gần đây, sau 2008 - tôi mới được xem hầu hết những sách của ông. Và tôi nhận thấy rằng: Hệ thống luận điểm của giáo sư Kim Định mặc dù hướng tới sự xác định một cội nguồn văn hóa Việt phi Hán; nhưng giáo sư chỉ dừng lại ở cách đặt vấn đề có một nền văn hóa truyền thống Việt độc lập với những hiện tương phi Hán trong văn hóa Việt. Tuy nhiên, giáo sư chưa chứng minh được một cách sắc xảo về cội nguồn văn hiến Việt và chưa tách rời một cách rõ rệt bản chất của nền văn hiến Việt với những gía trị văn hóa phương Đông, vốn bị cả thế giới mặc định thuộc về văn hóa Hán từ hàng ngàn năm qua. Giáo sư Kim Định cũng chưa đưa ra được một chuẩn mực để thẩm định - tức cơ sở để người ta có thể chỉ ra cái sai trong hệ thống luận cứ của ông. Hay nói cách khác, đây chính là nguyên nhân để ông Kelley phát biểu: "....vì vậy đã không một thách thức, hoặc chỉnh sửa tư tưởng của Kim Định nào hết. Kết quả là tư tưởng Kim Định hoặc đã bị gạt bỏ hoặc bị nhạo báng, hoặc ý tư tưởng của ông đã bị hiểu lầm". Chỉ có tôn giáo, tín ngưỡng mới không có cơ sở để người ta có thể chỉ ra cái sai trong hệ thống luận điểm của nó. Tóm lại ông Kelley phủ nhận toàn bộ những giá trị hệ thống luận điểm của giáo sư Kim Định. Nhưng rất tiếc cho ông Kelley! Ông là một giáo sư sử học, nên thiếu hẳn kiến thức khoa học hiện đại, vì nó không thuộc hệ thống trí thức của ông. Bởi vậy sự sổ toẹt một cách dốt nát của ông, đã làm cho chính ông cần phải biết xấu hổ. Bởi vì, trong khoa học - kể cả tự nhiên và xã hội - thì một ý tưởng nhận thức chân lý sơ khai, hoặc một giả thuyết , hay một hệ thống lý thuyết khoa học sơ khai có thể chưa hoàn chỉnh, những không có nghĩa là nó sai. Galile đã không thể thuyết phục được trái Đất đang quay quanh mặt Trời vào thời đại của ông. Nhưng không có nghĩa là vì vậy nên thuyết của Galile sai. Cho nên, vấn đề Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến vẫn được những chứng nhân của giáo sư Kim Định tiếp tục, trong đó có tôi. Mặc dù, phương pháp chứng minh của tôi hoàn toàn khác hẳn giáo sư Lương Kim Định và không phải băt đầu từ những hệ thống luận điểm của giáo sư Kim Định. Bởi vậy, tôi là một chứng nhân cho quan điểm của ông. Hệ thống luận cứ của tôi hoàn toàn có cơ sở thẩm định nhân danh khoa học, đó là tiêu chí khoa học cho một giả thuyết khoa học được coi là đúng. Hay nói một cách khác: Hoàn toàn có chuẩn mực khoa học để những nhà khoa học có căn cứ vào đó chỉ ra cái sai trong hệ thống luận điểm của tôi, nếu họ xét thấy trong hệ thống luận của tôi, có một mắt xích sai - so với chuẩn mực thẩm định - mà tôi không thể biện minh được. Hệ thống luận điểm của giáo sư Kim Định, khiến người ta không thể chỉ ra cái sai của giáo sư. Vì nó thiếu chất luận cứ trong việc biện minh cho quan điểm của giáo sư. Nhưng hệ thống luận cứ của tôi thì người ta đã hết sức cố gắng để vạch ra cái sai, nhưng đều là những lập luận mà tôi có thể biện minh không lấy gì khó khăn lắm. Thí dụ: 1/ Tiến sĩ Hà Hưng Quốc viết hẳn hai tập sách, mà suốt cả hai tập dày gần 1000 trang ấy, toàn cho rằng tôi đã sai. Ông ta đưa ra một mô hình Hậu Thiên Văn Lang, khác hẳn "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" của tôi. Để biện minh cho luận điểm của tôi trước sự phản biện công phu của tiến sĩ Hà Hưng Quốc - cũng ở Hoa Kỳ - tôi tốn chưa đến nửa trang A4 và tóm gọn trong một câu là: Căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một lý thuyết, hoặc một giả thuyết khoa học được coi là đúng" - thì - tiến sĩ Hà Hưng Quốc phải ứng dụng mô hình Hậu Thiên Văn Lang của ông ta vào giải thích một cách hợp lý lý thuyết cho tất cả những vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Tất nhiên, tiến sĩ Hà Hưng Quốc chưa đủ trình độ để thực hiện việc này. Tôi cũng thành thật khuyên tiến sĩ Hà Hưng Quốc rằng: Ông không nên cố gắng đem cái sai của ông để giải thích hầu hết những vấn đề liên quan đến Lý học Đông phương. Ông sẽ bị tẩu hỏa nhập ma và tôi thật sự buồn nếu ông không nghe lời khuyên của tôi. 2/ Giáo sư vật lý lý thuyết hàng đầu của Việt Nam - theo lời giới thiệu của nhạc sĩ Dương Thụ - phát biểu hùng hồn tại cafe Trung Nguyên rằng: "Lý thuyết khoa học hiện đại không cần tính hợp lý". Ông ta muốn phản biện một trong những tiêu chí khoa học của tôi làm nền tảng thầm định hệ thống luận cứ của tôi chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Nhưng cũng thật tiếc cho khả năng tư duy của một giáo sư vật lý lý thuyết hàng đầu như ông Trọng vì đã phản biện sai. Ông không phân biệt được một chuẩn mực để thẩm định và đối tượng được thẩm định. Nó cũng tương tự như một người bán cân và rao rằng: "Muốn biết trong lượng của một vật thì cần phải cân". Nhưng người khác lại bảo: "Ở chợ người ta luôn bán thiếu trọng lượng". Hai vấn đề chẳng ăn nhập gì với nhau. Thật là một điều buồn với khả năng tư duy của một người được coi là giáo sư vật lý lý thuyết hàng đầu của Việt Nam. Những giá trị đích thực của tri thức của nền văn minh Đông phương mà tôi đã chứng minh: Đó chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang mơ ước. Nếu như không ai có thể phản biện được và tất cả thế giới này không quan tâm, thì tôi chẳng việc gì phải lấy làm xấu hổ, như giáo sư Kelley trơ tráo tuyên bố với giáo sư Lương Kim Định. Bởi vì, hệ thống luận cứ của tôi không chỉ chặt chẽ về mặt lý thuyết, mà tính trực quan qua thực tế ứng dụng cũng thể hiện trên mọi phương diện. Tôi chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến vì một cảm nhận thôi thúc chân lý trong chính tôi, nó không nhằm phục vụ cho bản thân tôi để được ca ngợi, hoặc có một cái lợi gì đó cho tôi. Do đó, nếu tất cả những nhà khoa học trên thế giới này không quan tâm đến hệ thống luận điểm của tôi thì tôi chẳng việc gì phải xấu hổ cả. Chính những kẻ dốt nát, háo danh ham lợi đến mức vô liêm sỉ, tự phủ nhận cội nguồn của mình, nhưng lại nhân danh khoa học một cách trơ tráo , và khi bị phản biện khoa học thì không thể biện minh được, mới cần phải xấu hổ. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 7, 2015 Chỉ cần một ý niệm khởi lên trong đầu là cả đất trời đều biết, huống hồ giấy má để lại nặng như một cục gạch vậy! Nên tham khảo bản gốc. Phép Giảng Tám Ngày - Hạt Giống Chia Rẽ Lương Giáo Alexandre De Rhodes http://sachhiem.net/TONGIAO/ADRhodes/8Ngay.php 30-Jun-2015 Tác giả Alexandre De Rhodes, đã mất hơn 100 năm trước, nên tác phẩm này thuộc lãnh vực công cộng, mọi người có quyền được biết. Nhưng chúng ta cần phải cám ơn những người đã có công chụp lại từng trang bản gốc một cách chuyên nghiệp để chúng ta có thể đọc được mà không cần phải bay đến nơi lưu giữ quyển sách "rất hiếm" này. Chúng tôi xin mạn phép đi tắt vào Ngày Thứ Bốn, nơi có bằng chứng rõ rệt xứng đáng với tựa bài ở trên: hạt giống chia rẽ lương giáo. Nơi đó tập trung nhiều ngôn ngữ ngạo mạn, trịch thượng, bất kính đối với các giáo chủ đạo khác, tóm lại là vô văn hóa. Có 9 lần nói đên "Thíc ca", 3 lần dùng chữ "rợ mọi" đối với đạo Bụt, 20 lần nói đến "đạo bụt" với tính cách miệt thị, dạy con chiên gọi những người thờ bụt là "giáo ngoài" (sau này các con chiên gọi người khác đạo là "ngoại giáo"). Share this post Link to post Share on other sites