Hoài Cổ

Triệu Đà Bên Dòng Lịch Sử

19 bài viết trong chủ đề này

                                                    Triệu Đà- Triệu Vũ Đế

   

     Trong bài Thục Phán là ai? , đã có đôi nét phác họa về Triệu Đà. Qua có thể thấy được những điểm nổi bật của nhân vật gây nhiều tranh cải nầy. Bài viết này bổ sung thêm những luận cứ làm cơ sở đánh giá và xác định vị trí của Triệu Đà bên dòng lịch sử của dân tộc.

     Đến nay vẫn tồn tại hai quan điểm đối lập về Triệu Đà: (1) Triệu Đà là người Hán, xâm lăng và tiêu diệt An Dương Vương-vua nước Âu Lạc của người Việt, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc của dân tộc. (2) Quan điểm đối nghịch lại cho rằng Triệu Đà là một người Hán ly khai, đã Việt hóa, có công giúp dân Việt chống lại chiến tranh xâm lược của người Hán. Vì vậy, triều đại Triệu Đà hay Triệu Vũ Vương được xem là chính thống, và nước Nam Việt là quốc gia độc lập của người Việt. Sau khi nhà Hán diệt nhàTriệu, kết thúc thời kỳ độc lập của nước Việt, khởi đầu giai đoạn Bắc thuộc.

     Hai quan điểm trên đều đưa ra những luận cứ của mình, và phần lớn dựa trên các tài liệu của người Hán.Vấn đề ở đây là không thể kiểm chứng được độ chính xác và tính khách quan của những tài liệu này. Vì vậy hầu hết những luận cứ đưa ra đều mang tính chất giả định và không thuyết phục. Sử liệu trong giai đoạn nầy rất hiếm hoi, rời rạc và chứa nhiều mâu thuẩn. Ngay cả sử gia Tư mã Thiên khi ghi nhận thời điểm Triệu Đà diệt Âu Lạc xảy ra sau khi Lã Hậu mất (năm 180TCN) là không chính xác, không phù hợp với logic lịch sử. Vì nhà Tần bị diệt vào năm 206TCN, như vậy trong gần 30 năm, làm sao một người mới ly khai, lực lượng còn yếu, phải liên tục đương đầu với các cuộc nổi dậy của dân Bách Việt...lại có thể tồn tại được giữa gọng kiềm của hai thế lực mạnh hơn gấp bội?. Nếu trong thời gian đó mà Triệu Đà cứ đánh nhau giằng dai với Thục Phán thì đã tạo không biết bao nhiêu cơ hội cho Lưu Bang tiêu diệt nước Nam Việt, đồng thời diệt luôn Âu Lạc. Cần gì phải sai Lục Giả sang chiêu phục.

      Trong cuộc tranh luận này, cả hai phe đều có người không tránh khỏi bẫy lý luận nhị giá sơ đẳng, và tâm lý dựa bóng những cây cổ thụ trong chuyên môn, hoặc những người nổi tiếng hơn là đưa ra kiến giải của bản thân. Vì lý do này nên những luận điểm không mới, phương pháp luận đơn giản, và kết luận hoàn toàn có thể đoán trước. Trên nền tảng của lý luận nhị giá, Triệu Đà nếu không phải kẻ thù thì là bạn. Hoặc bạn của kẻ thù là kẻ thù, ngược lại kẻ thù của kẻ thù là bạn.

      Những người phản đối căn cứ nguồn gốc của Triệu Đà là người Hán, dù đã ly khai nhưng vẫn là người Hán. Vì vậy ông là bạn của kẻ thù, nên ông chính là kẻ thù của người Việt, hơn nữa ông là người cướp đất Âu Lạc.

      Ngược lại, những người ủng hộ, không xét nguồn gốc của Triệu Đà, mà chỉ xem hành động chống lại nhà Hán-kẻ thù của người Việt, chứng tỏ ông là kẻ thù của kẻ thù. Vậy ông là bạn, hơn nữa cũng không có bằng chứng gì cho thấy ông đàn áp dân Âu Lạc.

      Để đánh giá Triệu Đà chính xác hơn không thể chỉ dựa vào những thông tin có tính mơ hồ, chủ quan, hay những lập luận đơn giản, mà phải đặt nhân vật này vào đúng vị trí trong bối cảnh lịch sử, và xu hướng vận động của dòng chảy lịch sử ở thời kỳ đó để xem xét đánh giá.

      Triệu Đà là người nước Triệu nên không có quan hệ quyền lực với triều đại nhà Tần. Ông tham gia trong đội quân nam chinh năm 218TCN, lúc đó ở tuổi 20, và chưa có công trạng gì. Như vậy có thể khẳng định ông khởi đầu binh nghiệp ở vị trí của người lính cấp thấp. Thế nhưng chỉ chưa đầy 8 năm sau, ông được đề thăng lên làm huyện lệnh Long Xuyên, dưới quyền Nhâm Ngao. Điều này cho thấy Triệu Đà là một người có chí tiến thủ, nhiều mưu mô, rất khôn khéo và biết lấy lòng cấp trên. ( Tần thủy Hoàng sai Nhâm Ngao và Triệu Đà đến cai quản vùng Lĩnh Nam, trong đó có huyện Long Xuyên. Việc này xảy ra trước khi Tần thủy Hoàng chết năm 210TCN)

      Đồ Thư bị chết trong trận công thành Cổ Loa vào khoảng đầu năm 210TCN, còn Tần thủy Hoàng chết cuối năm. Nếu Tần thủy Hoàng chết sớm hơn khoảng một năm, thì Đồ Thư đã không chết vì nổ lực hạ thành Cổ Loa, và cũng không có dăm ba tháng để Nhâm Ngao với Triệu Đà kéo quân sang Âu Lạc khiêu chiến lấy lệ cùng Thục Phán. Diễn tiến lịch sử cho thấy đầu năm 210TCN(sau khi Đồ Thư chết) thì binh lực và quyền hành ở Hoa nam đều tập trung trong tay Nhâm Ngao, còn Triệu Đà chỉ là một thuộc cấp. Năm 208TCN, Nhâm Ngao bệnh chết, trước khi chết có khuyên Triệu Đà ly khai và dựng nghiệp ở vùng Nam Hải. Thông tin về nguyên nhân cái chết và lời khuyên của Nhâm Ngao đều không thể kiểm chứng, và nó xuất phát từ Triệu Đà. Nhưng từ thông tin này có thể thấy được hai vấn đề: (1) Sau khi Tần thủy Hoàng chết, nước Tần rối ren vì nội loạn mà bản thân Tần nhị thế không làm chủ được. Trong tình huống đó, chắc chắn triều đình có hạ lệnh cho Nhâm Ngao đem quân về dẹp loạn. Nhâm Ngao đã không vâng mệnh, chứng tỏ ý đồ ly khai đã có khá lâu trước khi Nhâm Ngao chết. Kế hoạch này có thể do Triệu Đà dựng nên và xúi bẩy Nhâm Ngao. Nếu điều nghi ngờ này là sự thật, thì những lời Nhâm Ngao nói với Triệu Đà là sản phẩm do Triệu Đà chế tác. Vì lời nói đó tương đương lời cam kết chuyển giao quyền lực cho Triệu Đà. Thể hiện quyết định chọn người kế tục của Nhâm Ngao để cho Triệu Đà tính chính danh loại bỏ các đối thủ. (2) Chính sách hòa tập Bách Việt do Triệu Đà đề xuất đã thuyết phục được Tần thủy Hoàng nên ông cho phép thực hiện, đồng thời đánh giá cao lòng trung thành của Triệu Đà, nhờ đó giúp ông thăng tiến rất nhanh. Trên thực tế Triệu Đà không hề trung thành với nhà Tần. Bỡi sau khi Tần thủy Hoàng chết, ông không hề quan tâm gì đến đế nghiệp của nhà Tần. Như vậy chính sách hòa tập Bách Việt thực ra là kế hoạch xây dựng lực lượng hậu bị của Triệu Đà. Cho thấy mưu đồ làm phản hoặc ly khai đã manh  nha ngay từ lúc ông tham gia nam chinh. Một con người còn trẻ nhưng rất bản lĩnh, mưu mô thâm hiểm đến Tần thủy Hoàng còn bị mắc bẩy. Do đó những người Việt thật thà chất phác thời ấy bị lừa phỉnh, nên tôn thờ Triệu Đà như một ân nhân, che chở họ trước mối đe dọa của nhà Hán là điều dễ hiểu.

     Lợi dụng nhận thức của dân chúng còn rất thấp, ý thức về quốc gia dân tộc còn mơ hồ, lòng trung thành khá mong manh, Triệu Đà đã dễ dàng che dấu những tội ác tày đình, mà ông cùng đoàn quân nam chinh đã gây ra, khi tàn sát không biết bao nhiêu người dân Bách Việt vô tội.  Riêng bản thân Triệu Đà đã tìm mọi cách diệt An Dương Vương là một vi vua chính thống, một anh hùng dân tộc của một nước độc lập, để cưỡng chiếm đất đai và nô dịch dân chúng. Nhưng cuối cùng trong con mắt người dân thuở đó, ông vẫn mang hình ảnh của một ân nhân che chở bảo vệ họ khỏi họa xâm lăng của người Hán. Chứng tỏ ông là một chính trị gia đại tài, một ngụy quân tử điển hình!

     Trong suốt 100 năm(207-111TCN), Triệu Đà và những người kế tục đã dùng chính sách cai trị mềm dẽo, xử dụng người Việt trị người Việt. Nhà Triệu đã thành công trong việc thu phục dân Âu Lạc, nên trong suốt thời gian đó không có cuộc nổi loạn nào của dân Âu Lạc. Hình ảnh này hoàn toàn trái ngược với dân Bách Việt ở Hoa nam. Chính sách này tiếp tục được nhà Hán áp dụng sau khi nhà Triệu bị diệt, và nó bị phá sản vào năm 40 bỡi cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng. Như vậy chính sách tùy thời mang tính mị dân của Triệu Đà đã gây ngộ nhận cho người dân Âu Lạc, tức là người Việt ở miền bắc Việt Nam. Thái độ quan tâm chăm lo người Việt của Triệu Đà nhằm mục đích tạo một lực lượng trung thành hậu thuẩn ông chống lại nhà Hán. Đồng thời khiến ông yên tâm và rảnh tay tiêu diệt các cuộc nổi loạn của người Bách Việt ở Hoa nam. Vì mục tiêu còn đeo đuổi của Triệu Đà, mà dân Âu Lạc nhận được sự bao dung ngẫu nhiên, chứ không xuất phát từ lòng tốt của ông ta.

     Sự thành công của Triệu Đà bao gồm nguyên nhân cộng hưởng từ những yếu kém về mọi mặt của người Việt. Trong đó tri thức lịch sử dân tộc hoàn toàn khiếm khuyết. Dân chúng truyền tụng với nhau nguồn gốc Rồng Tiên, nhưng nhận thức của họ về trăm trứng không vượt qua những lũy tre làng. Nếu có xa hơn nữa cũng chỉ giới hạn trong những làng bên cạnh. Những nơi mà họ có thể đến được bằng đôi chân trần của mình. Với tầm nhận thức hạn hẹp đó, họ hoàn toàn không có ý niệm gì về nguồn gốc Bách Việt, về những người anh em đồng tộc ở vùng Hoa nam xa xôi - nơi mà cả đời họ cũng không thể đến được! Hơn nữa ngoài những thông tin mơ hồ trong truyền thuyết, họ không có vật chứng hay vật làm tin cho mối quan hệ đó. Tín vật của Hùng Vương để lại cho con cháu nhận diện nhau đó chính là trống đồng. như vậy họ không có trống đồng(nguyên nhân đã được giải thích trong bài trước) nên không nhận ra nguồn gốc Bách Việt của mình. Do đo họ thờ ơ trước thảm trạng(nếu biết được) của dân Bách Việt dưới bàn tay tàn bạo của Triệu Đà. Bản thân Thục Phán cũng không ngoại lệ, ông không phải thủ lĩnh chính thống được truyền  thừa, cũng không có tín vật trống đồng. Do đó ông không nhận thức được nguồn gốc Bách Việt của mình.  Vì vậy ông đã thản nhiên bỏ qua cơ hội hợp tác với những người anh em Bách Việt để đánh đuổi Triệu Đà, khi Triệu Đà còn chưa đứng vững trên đất Hoa nam, để cứu dân tộc. Thái độ hòa hoãn của Thục Phán với Triệu Đà vô tình nuôi dưỡng kẻ thù của dân tộc lớn mạnh thêm, và nó trở thành nhát gươm đâm vào lưng Bách Việt.

     Tình hình ở Hoa nam của dân Bách Việt cũng không khá hơn mặc dầu nhận thức cao hơn. Họ có tín vật trống đồng, biết rõ nguồn cội, sống ổn định lâu dài qua nhiều thế hệ trên mảnh đất của tổ tiên. Nhưng tính đố kỵ, ích kỷ cá nhân đã phân hóa họ nên ý thức cộng đồng và tinh thần đoàn kết dân tộc của họ cũng không vượt qua ranh giới làng xã. Thực trạng này thể hiện qua hình ảnh hàng ngàn làng bản ở rải rác khắp vùng Hoa nam (ngoại trừ vùng lãnh thổ thuộc Hán ở phương nam) như những ốc đảo. Những làng bản nầy không liên kết được với nhau. Tuy ở cạnh nhau nhưng chỉ như những chiếc đũa rời rạc, nên đội quân xâm lăng của Đồ Thư dễ dàng bẻ gãy từng chiếc một. Đó là lý do chính tạo thuận lợi cho Đồ Thư tiêu diệt Bách Việt và làm chủ vùng Hoa nam trong thời gian kỷ lục. Thời gian chưa đầy 8 năm để chinh phục một lãnh thổ rộng lớn vùng Hoa nam có địa hình đa dạng, phức tạp, môi trường khí hậu thay đổi với biên độ lớn, và dân cư đông đảo là một  kỷ lục. Nhưng kỷ lục này không chứng minh được quân Tần quá mạnh, mà cho thấy sức đề kháng của Bách Việt quá yếu do thiếu đoàn kết và tinh thần dân tộc chưa cao.

    

     Sau khi diệt được An Dương Vương năm 208TCN, Triệu Đà tuyên bố sáp nhập lãnh thổ Âu  Lạc vào nước Nam Việt của ông. Đây là một việc làm bình thường và hợp lý, nó thể hiện tham vọng bành trướng của kẻ xâm lăng. Nhưng những người ủng hộ Triệu Đà cho rằng việc này thể hiện ý muốn bảo vệ người Âu Lạc trước sự đe dọa của người Hán. Đây là một sự ngộ nhận do thủ thuật gây nhiễu của Triệu Đà tạo ra. Việc sáp nhập ẩn chứa một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Triệu Đà, mà cần phải đật mình vào bối cảnh lịch sử lúc đó mới hiểu đúng được.

      Nhắc lại, nội dung của bài viết về Thục Phán đã khẳng định quân chủ lực và tinh nhuệ của ông gồm phần lớn là người Bách Việt chạy về từ Hoa nam. Hầu hết nhừng người này là thủ lĩnh đương thời, và hậu duệ của các thủ lĩnh chính thống thời Hùng Vương. Trống đồng tìm thấy ở Việt Nam, tuyệt đại đa số được những người này mang về chôn dấu tại đây. Những người này, giúp Thục Phán chiến thắng Đồ Thư, lập nước Âu Lạc và lên  ngôi. Nhưng sau đó,vì bất mãn, họ đã rời bỏ Thục Phán và quay về lại Hoa nam để tổ chức kháng chiến mà không có trợ giúp từ Âu Lạc. Trống đồng của họ thì vẫn để lại.

     Có thể khẳng định nhóm người này là nhân tố quyết định trong chiến thắng của Thục Phán qua các biểu hiện:

    (1) Trận đánh thành Cổ Loa là trận đánh cuối cùng để kết thúc cuộc nam chinh của quân Tần sau 8 năm liên tục. Vì lý do này nên Đồ Thư phải dốc toàn lực để giành chiến thắng trước khi bị Tần thủy Hoàng khiển trách. Lực lượng ban đầu của Đồ Thư gồm 50 vạn quân. Có thể sau 8 năm, một phần binh sĩ bị chết trận, bị bệnh hoặc bị thương tật...một số khác đồn trú tại các vùng chiếm đóng. Từ đó có thể ước đoán tổng lực lượng của Đồ Thư dùng để công thành không dưới 30 vạn quân. Một quân số đối kháng tương ứng như vậy, chắc chắn không thể tìm đủ trong địa bàn đồng bằng sông Hồng của Thục Phán vào thời điểm đó, nếu không có nguồn bổ sung từ Hoa nam.

    (2) Chiến thắng quân Tần và giết chết Đồ Thư là một chiến công vang dội, thêm vào đó là nhiều lần đánh bại Nhâm Ngao và Triệu Đà, chứng tỏ sức mạnh quân sự của Thục Phán vượt xa Triệu Đà. Thế nhưng chưa đầy hai năm sau, cũng là một Triệu Đà đó, nhưng lại dễ dàng tiêu diệt Thục Phán. Điều này chỉ có thể giải thích sức mạnh vô địch trong quá khứ của Thục Phán không có nguồn gốc nội tại, mà đến từ bên ngoài. Vì thế khi lực lượng đó rút đi thì sức mạnh kia cũng tan rã.

     Bản năng sinh tồn mách bảo cho loài vật nơi an toàn để trốn tránh kẻ thù. Với con người thì tự bảo vệ mạng sống không còn là bản năng nữa. Đó là một hành động có ý thức và trách nhiệm. Trong nhiều trường hợp nó mang mục đích thiêng liêng cao cả là bảo tồn nòi giống. Vì vậy, trong thời gian xảy ra cuộc chiến xâm lược của quân Tần, một số không ít người dân Bách Việt đã bỏ xứ đi tìm đường lánh nạn. Họ chạy trốn về phương nam, và nơi đến không đâu khác hơn là miền bắc Việt Nam. Vì lúc đó lãnh thổ này vẫn còn của người Việt. Hiện tượng này duy trì cho đến lúc nước Âu Lạc bị diệt vong. Động thái nầy không qua mắt được Triệu Đà và làm cho ông ta lo lắng. Dòng người di cư về phương nam của người Bách Việt sẽ làm cho tiềm lực của ông suy yếu, ngược lại sẽ làm choThục Phán mạnh thêm. Triệu Đà không có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu vì đường biên giới quá dài. Theo đó có thể đoán được việc câu hòa với Thục Phán mang nhiều mục đích: đề phòng Thục Phán tấn công bất ngờ, dùng liên minh với Thục Phán để làm đối trọng trong thương lượng với nhà Hán, ngoài ra còn có thể nhờ Thục Phán ngăn chặn làn sóng di cư này. Nếu suy đoán này đúng thì mục đích sáp nhập đât Âu Lạc vào Nam Việt mang một ý nghĩa khác với cách nghĩ thông thường. Có nghĩa là việc sáp nhập cũng là lời tuyên cáo của Triệu Đà cho dân Bách Việt biết là họ không còn nơi nào tốt hơn để về. Còn đối với các thủ lĩnh kháng chiến, họ không còn hy vọng một sự trợ giúp nào từ bên ngoài, và cũng chẳng còn chỗ an toàn để nương náu. Con đường duy nhất dành cho họ là phải quy thuận Triệu Đà!

     Trong tất cả những kẻ xâm lược, có lẽ Triệu Đà là người thâm hiểm và tàn độc nhất với chính sách đồng hóa dân Bách Việt. Trong cuộc chiến xâm lược Bách Việt của Tần thủy Hoàng mà hậu quả của nó là dân Bách việt bị diệt vong, biến mất giống như chưa hề tồn tại, công lao lớn nhất là của Triệu Đà.Triệu Đà đã làm được việc này với một kế hoạch chu đáo đáng kinh ngạc. Thử tưởng tượng, trên cánh đồng lúa xanh tươi của Hoa nam vừa bị cổ máy hủy diệt Đồ Thư cày nát, xới tung. Triệu Đà không để cho những cây bật gốc kịp hồi sinh, ngoài những cây đã chết. Ông ta đã dọn sạch cánh đồng và gieo trên đó một loại giống mới. Nếu có cây lúa nào may mắn hồi sinh, cũng sẽ bị giống mới này chèn ép tiêu diệt. Triệu Đà tính toán sau một vài chu kỳ phát triển, trên cánh đồng đó ông sẽ thu hoạch được những vụ mùa ưng ý, với những cây giống ông đã ươm trồng. Còn cây bản địa sẽ hoàn toàn biến mất!

     Trên thực tế kế hoạch được tiến hành không đơn giản và trơn tru như lý thuyết. Bằng chứng là vài trăm năm sau khi ông chết, giống cây bản địa vẫn hồi sinh và tồn tại. Thể hiện qua việc dân Bách Việt ở Hoa nam đã nổi lên hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng năm 40. Tuy vậy nó cũng chỉ là đợt bùng lên của ngọn đèn dầu sắp tắt! Kết quả chung cuộc thì kế hoạch của Triệu Đà đã thành công. Chứng tỏ ông là một nhà chiến lược, một chính trị gia đại tài của thời đó.

     Không phải cuộc xâm lăng quân sự, mà do chính sách hòa tập Bách Việt của Triệu Đà đã làm thay đổi sâu sắc cơ cấu dân số, chủng tộc, lãnh thổ, văn hóa, xã hội, lịch sử... cuả khu vực. Nó định hình cho số mệnh dân tộc trở thành nô lệ nhà Hán.Và mặc dù người Hán không thừa nhận, nhưng công sức của Triệu Đà bỏ ra để có được vụ mùa bội thu thì nhà Hán hưởng trọn.

     Công bằng mà nói Triệu Đà sẽ không thành công nêu không có công sức của Đồ Thư. Năm mươi vạn dân di cư người Hán trong một lãnh thổ rộng lớn của Hoa nam có dân số đông gấp bội, sẽ bị hòa tan vào cộng đồng Bách Việt nếu không có biện pháp bảo vệ. Suy ra cổ máy giết người của Đồ Thư phải hoạt động hết công suất để tận diệt lực lượng kháng chiến của dân Bách Việt, mà những người đó chủ yếu là những người đàn ông, thanh niên trai trẻ người Lạc. Công việc này trong kế hoạch của Triệu Đà cũng giống như dọn cỏ. Và rồi những mảnh đất màu mỡ sẵn sàng cho việc gieo giống cũng được bàn giao. Từ gieo giống ở đây được hiểu theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Biểu hiện thực tế của chính sách này là chế độ đa thê và hôn nhân ngoại tộc dành cho người Hán dưới thời Triệu Đà được khuyến khích và phát triển. Triệu Đà cũng làm gương cho dân Hán noi theo bằng cách lấy vợ Việt. Mưu đồ nhằm tạo ra một lớp người Hán(lai Việt) trung thành với mình của Triệu Đà bộc lộ rõ qua việc hòa huyết theo một chiều với gene Hán làm chủ. Di chứng về sau của chính sách này là người Hoa cưới vợ Việt, nhưng không gả con cho người Việt. Thành công của chính sách này làm cho thành phần dân số người Hán ở Hoa nam tăng đột biến theo lũy tiến. Trong lúc đó, dân số Bách Việt, đặc biệt là người Lạc, suy biến và tiếp cận diệt vong.

     Tóm lại, qua Triệu Đà có thể nhìn thấy điển hình một mẫu người đôc ác, mưu mô quỷ quyệt, thủ đoạn khó lường, và tài ngụy trang siêu đẳng. Tổng hợp các tính chất này, ông đã gây ra ngộ nhận cho người khác, đặc biệt là đối với nạn nhân của ông-người Việt. Sự ngộ nhận của một số người Việt bắt nguồn từ những suy nghĩ giản đơn, không phù hợp với một đối tượng vô cùng phức tạp như Triệu Đà. Có thể lấy ví dụ cho lối suy nghĩ giản đơn này: từ việc đặt quốc hiệu đến lấy vợ Việt, hay như việc bày tỏ lập trường đối với Lưu Bang thì một số người đã vội kết luận Triệu Đà là một người Hán đã Việt hóa mang tâm hồn Việt!

     Chuyện lấy vợ Việt của Triệu Đà đã nói qua. Tại thời điểm đó, lấy vợ Việt(Bách Việt) không phải chỉ mình ông. Ngoài ông còn có hàng chục vạn binh lính và di dân người Hán lấy vợ Việt theo chính sách đồng hóa Bách Việt của chính ông. Ngày nay rất nhiều công dân trên khắp thế giới lấy vợ người Việt cũng đâu có trở thành người Việt hay có tâm hồn Việt.

      Còn việc đặt quốc hiệu Nam Việt lại mang ý nghĩa khác. Nguồn gốc và ý nghĩa của từ này đã được đề cập trong những bài trước thuộc loạt bài nói vể cổ sử Việt. Triệu Đà dùng chữ Nam Việt theo nghĩa đó để làm quốc hiệu nhằm đồng hóa nguồn gốc di dân của người Hán với dân Bách Việt bản địa. Triệu Đà khuyến dụ 50 vạn nông dân nghèo khó ở Hoa bắc xuống phương nam lập nghiệp. Thực chất của cuộc di dân này là theo chân đoàn quân xâm lược để chiếm đoạt tài sản, ruộng vườn nhà cửa...của những người Bách Việt bị Đồ Thư giết hại. Những di dân này trở thành chủ nhân mới trên đất Bách Việt. Họ cũng có quyền bắt vợ con của những nạn nhân trong chiến tranh xâm lược làm thê thiếp hoặc nô lệ. Vì những ân sũng này nên những người di cư và con cháu họ có nghĩa vụ trung thành với Triệu Đà. Đó là mục đích của chính sách đồng hóa Bách Việt. Để xóa dấu nguồn gốc tài sản bất chính, và tạo chính danh cho di dân, Triệu Đà đánh cắp ý nghĩa cùa danh xưng Nam Việt gán cho người Hán di cư. Và vì thế quốc hiệu Nam Việt được hiểu là đất nước của những người nam việt tức là những người đi khai phá vùng đất phương nam không phân biệt Âu Lạc hay Hoa Hạ. Việc gian lận ngữ nghĩa của Triệu Đà nhằm xóa bỏ nguồn gốc Bách Việt và lãnh thổ của Hùng Vương. Vì từ nam việt chỉ hành trình phát triển về phương nam của dân Bách Việt, là con cháu Hùng Vương đi khai hoang để phát triển sản xuất và xây dựng đất nước trên chính lãnh thổ của tổ tiên để lại. Như vậy chữ nam việt không được dùng cho người Hán là những người đi xuống phương nam chiếm cứ đất đai của tổ tiên Bách Việt.

     Lập trường chống lại nhà Hán của Triệu Đà là điều tự nhiên và dễ hiểu. Và việc Lưu Bang muốn thu hồi đất Nam Việt cũng chẳng có gì khó hiểu. Nhưng hai việc trên đều chẳng quan hệ gì đến người Việt. Lưu Bang cho rằng lãnh thổ Nam Việt có nguồn gốc từ nhà Tần do Triệu Đà chiếm dụng, nên khi ông diệt được nhà Tần ông muốn thu hồi trở lại, có nghĩa là muốn Triệu Đà quy phục. Còn Triệu Đà không quy thuận Lưu Bang vì ông muốn giữ cho mình cái cơ nghiệp mà ông tốn bao nhiêu tâm huyết và thời gian mới giành được. Khi ông muốn giữ đất Nam Việt, thì đất Âu Lạc càng muốn giữ vì đó là hoàn toàn do công sức của ông, chưa kể đó là hậu phương chiến lược, chứ không phải ông thương yêu gì người Việt.

     Trong cuộc tranh giành này, người Việt chỉ là một món hàng mà cả hai đều muốn. Món hàng mà cả hai bên giành giật đúng là có nguồn gốc từ ý tưởng kinh doanh của Tần thủy Hoàng. Tần thủy Hoàng đầu tư cho thuộc hạ đi buôn, trong số đó có Triệu Đà. Triệu Đà là người giỏi giang nhất trong số đó, đã thành công mang lại lợi nhuận vô cùng to lớn, nếu mang về giao nộp cho Tần thủy Hoàng chắc chắn sẽ được trọng thưởng. Thế nhưng việc chưa xong thì Tần thủy Hoàng chết. Lẽ ra Triệu Đà phải giao nộp lại cho gia đình của Tần thủy Hoàng, nhưng do tính phản trắc, lòng tham, và cũng để bảo vệ mạng sống của mình, ông đã chiếm hữu luôn tài sản đó. Trong những lý do trên không có cái nào dành cho người Việt-những viên gạch xây nên đế chế của ông ta!

     Vì lòng tham, Lưu Bang muốn chiếm đoạt lại tài sản do Tần thủy Hoàng cướp được nhưng Triệu Đà chiếm giữ. Nhưng ông có nghĩ tới điều nếu Tần thủy Hoàng còn sống, thì làm sao Triệu Đà có bản lĩnh chiếm đoạt tài sản đó. Ngay cả bản thân ông cũng không dám mơ đến ngai vàng của Tần thủy Hoàng nếu ông ta còn sống. Rõ ràng “lý của kẻ mạnh”

      Trong lịch sử có những việc mà có thể đem hình ảnh cây cung và mũi tên để so sánh. Khi mũi tên được bắn ra rồi thì liên hệ của nó với cây cung xem như chấm dứt. Nhưng hậu quả nó gây ra thì trách nhiệm thuộc về chủ nhân cây cung. Triệu Đà là mũi tên được bắn ra từ cây cung Tần thủy Hoàng.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

 

  Hai quan điểm trên đều đưa ra những luận cứ của mình, và phần lớn dựa trên các tài liệu của người Hán.Vấn đề ở đây là không thể kiểm chứng được độ chính xác và tính khách quan của những tài liệu này. Vì vậy hầu hết những luận cứ đưa ra đều mang tính chất giả định và không thuyết phục. Sử liệu trong giai đoạn nầy rất hiếm hoi, rời rạc và chứa nhiều mâu thuẩn. Ngay cả sử gia Tư mã Thiên khi ghi nhận thời điểm Triệu Đà diệt Âu Lạc xảy ra sau khi Lã Hậu mất (năm 180TCN) là không chính xác, không phù hợp với logic lịch sử. Vì nhà Tần bị diệt vào năm 206TCN, như vậy trong gần 30 năm, làm sao một người mới ly khai, lực lượng còn yếu, phải liên tục đương đầu với các cuộc nổi dậy của dân Bách Việt...lại có thể tồn tại được giữa gọng kiềm của hai thế lực mạnh hơn gấp bội?. Nếu trong thời gian đó mà Triệu Đà cứ đánh nhau giằng dai với Thục Phán thì đã tạo không biết bao nhiêu cơ hội cho Lưu Bang tiêu diệt nước Nam Việt, đồng thời diệt luôn Âu Lạc. Cần gì phải sai Lục Giả sang chiêu phục.

      Trong cuộc tranh luận này, cả hai phe đều có người không tránh khỏi bẫy lý luận nhị giá sơ đẳng, và tâm lý dựa bóng những cây cổ thụ trong chuyên môn, hoặc những người nổi tiếng hơn là đưa ra kiến giải của bản thân. Vì lý do này nên những luận điểm không mới, phương pháp luận đơn giản, và kết luận hoàn toàn có thể đoán trước. Trên nền tảng của lý luận nhị giá, Triệu Đà nếu không phải kẻ thù thì là bạn. Hoặc bạn của kẻ thù là kẻ thù, ngược lại kẻ thù của kẻ thù là bạn.

      Những người phản đối căn cứ nguồn gốc của Triệu Đà là người Hán, dù đã ly khai nhưng vẫn là người Hán. Vì vậy ông là bạn của kẻ thù, nên ông chính là kẻ thù của người Việt, hơn nữa ông là người cướp đất Âu Lạc.

      Ngược lại, những người ủng hộ, không xét nguồn gốc của Triệu Đà, mà chỉ xem hành động chống lại nhà Hán-kẻ thù của người Việt, chứng tỏ ông là kẻ thù của kẻ thù. Vậy ông là bạn, hơn nữa cũng không có bằng chứng gì cho thấy ông đàn áp dân Âu Lạc.

      Để đánh giá Triệu Đà chính xác hơn không thể chỉ dựa vào những thông tin có tính mơ hồ, chủ quan, hay những lập luận đơn giản, mà phải đặt nhân vật này vào đúng vị trí trong bối cảnh lịch sử, và xu hướng vận động của dòng chảy lịch sử ở thời kỳ đó để xem xét đánh giá.

 

Còn một "trường phái" khác rất công phu và độc đáo, không chỉ về nhân vật Triệu Đà mà còn về toàn bộ cổ sử Việt của tác giả Nguyễn Quang Nhật, xin giới thiệu anh tham khảo ở trên diễn đàn này: http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/danh-muc/28-c%C3%A1c-b%C3%A0i-nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u-c%E1%BB%A7a-nhatnguyen52/  hoặc  http://nhat.1forum.biz.

Thân ái!

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Còn một "trường phái" khác rất công phu và độc đáo, không chỉ về nhân vật Triệu Đà mà còn về toàn bộ cổ sử Việt của tác giả Nguyễn Quang Nhật, xin giới thiệu anh tham khảo ở trên diễn đàn này: http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/danh-muc/28-c%C3%A1c-b%C3%A0i-nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u-c%E1%BB%A7a-nhatnguyen52/  hoặc  http://nhat.1forum.biz.

Thân ái!

 

Anh Vo Truoc cho xin đường link vào bài của anh Quang Nhật được không ạ! Tôi có xem trước đây, nhưng chỉ lướt qua, nên không nhớ.

Cảm ơn anh Vo Truoc nhiều.

 

Share this post


Link to post
Share on other sites

Còn một "trường phái" khác rất công phu và độc đáo, không chỉ về nhân vật Triệu Đà mà còn về toàn bộ cổ sử Việt của tác giả Nguyễn Quang Nhật, xin giới thiệu anh tham khảo ở trên diễn đàn này: http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/danh-muc/28-c%C3%A1c-b%C3%A0i-nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u-c%E1%BB%A7a-nhatnguyen52/  hoặc  http://nhat.1forum.biz.

Thân ái!

 

      Cảm ơn anh Vo Truoc đã cho thông tin. Thân ái

Share this post


Link to post
Share on other sites

 

Anh Vo Truoc cho xin đường link vào bài của anh Quang Nhật được không ạ! Tôi có xem trước đây, nhưng chỉ lướt qua, nên không nhớ.

Cảm ơn anh Vo Truoc nhiều.

Đường link này anh Thiên Sứ ạ : http://nhat.1forum.biz/

Có điều, đây là tác phẩm rất đồ sộ, có rất nhiều quan điểm, kết luận, giả thuyết  gây “sốc” trái hẳn với nhận thức lâu nay, nhưng lại nằm trong một hệ thống tương đối nhất quán, đồng thời phương pháp luận cũng không như những  gì ta hay gặp, tư liệu thật công phu, uyên bác , đa dạng  và bất ngờ. Do đó, để tránh những phản ứng “tự nhiên” do quá trái với  quan niệm cũ, ta cần đọc một cách lần lượt, kiên trì bắt đầu từ những bài cũ nhất tới mới hơn chứ không nên đọc ở giữa chừng, sẽ rất khó tiếp nhận.

Theo em, cần đọc bắt đầu từ mục: “Tác phẩm” – “Sử thuyết Hùng-Việt”  gồm 37 bài. Sau đó mới đọc tới mục “Biên khảo” “Tham khảo”. Cũng đọc từ bài cũ nhất.

Thân ái!

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đường link này anh Thiên Sứ ạ : http://nhat.1forum.biz/

Có điều, đây là tác phẩm rất đồ sộ, có rất nhiều quan điểm, kết luận, giả thuyết  gây “sốc” trái hẳn với nhận thức lâu nay, nhưng lại nằm trong một hệ thống tương đối nhất quán, đồng thời phương pháp luận cũng không như những  gì ta hay gặp, tư liệu thật công phu, uyên bác , đa dạng  và bất ngờ. Do đó, để tránh những phản ứng “tự nhiên” do quá trái với  quan niệm cũ, ta cần đọc một cách lần lượt, kiên trì bắt đầu từ những bài cũ nhất tới mới hơn chứ không nên đọc ở giữa chừng, sẽ rất khó tiếp nhận.

Theo em, cần đọc bắt đầu từ mục: “Tác phẩm” – “Sử thuyết Hùng-Việt”  gồm 37 bài. Sau đó mới đọc tới mục “Biên khảo” “Tham khảo”. Cũng đọc từ bài cũ nhất.

Thân ái!

Cảm ơn anh Vo Truoc, nhưng như vậy là tôi không có thời gian rồi. Tôi chỉ muốn xem trực tiếp chủ đề liên quan đến Triệu Đà của tác giả thôi.

Quan điểm của tôi: Xác định nước Nam Việt của nhà Triệu mà vị vua khai quốc là Triệu Đà là một nhà nước của Việt tộc ở nam Dương Tử.

 

Share this post


Link to post
Share on other sites

 

Cảm ơn anh Vo Truoc, nhưng như vậy là tôi không có thời gian rồi. Tôi chỉ muốn xem trực tiếp chủ đề liên quan đến Triệu Đà của tác giả thôi.

Quan điểm của tôi: Xác định nước Nam Việt của nhà Triệu mà vị vua khai quốc là Triệu Đà là một nhà nước của Việt tộc ở nam Dương Tử.

Em cũng đoán thế, nhưng trong đó có những 3 ông Triệu Đà lận! Có nghĩa là, có tới 3 nhân vật  bị chép lúc thì chung, lúc thì lẫn lộn thành 1 ông Triệu Đà: Triệu Đà = Lý Bôn = Lưu Bang = Triệu Quang Phục khởi nghĩa ở Thái Bình (Việt nam). Logic và Luận cứ thì rất nhiều và đa dạng.

So với quan điểm của anh: "nước Nam Việt của nhà Triệu mà vị vua khai quốc là Triệu Đà là một nhà nước của Việt tộc ở nam Dương Tử." cũng không sai, nhưng đi xa hơn rất nhiều!

Nếu anh đọc không theo thứ tự trên, anh khó mà hiểu nổi hoặc rất dễ hiểu sai logic của tác giả. Còn nếu không có đủ thời gian thì tốt nhất là anh đừng đọc!

Thân ái!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Em cũng đoán thế, nhưng trong đó có những 3 ông Triệu Đà lận! Có nghĩa là, có tới 3 nhân vật  bị chép lúc thì chung, lúc thì lẫn lộn thành 1 ông Triệu Đà:

Triệu Đà = Lý Bôn = Lưu Bang = Triệu Quang Phục khởi nghĩa ở Thái Bình (Việt nam).

 

Logic1 và Luận cứ thì rất nhiều và đa dạng.

Nếu anh đọc không theo thứ tự trên, anh khó mà hiểu nổi hoặc rất dễ hiểu sai logic của tác giả. Còn nếu không có đủ thời gian thì tốt nhất là anh đừng đọc!

Thân ái!

 

Cái này theo quan điểm của giáo sư vật lý lý thuyết hàng đầu của Việt Nam "Lý thuyết khoa học hiện đại không cần tính hợp lý". Còn tôi thì rất rõ ràng và căn cứ theo tiêu chí khoa học cho một giả thuyết khoa học được coi là đúng. Tính dân chủ của diễn đàn cho phép bất cứ ai có quan điểm tìm về cội nguồn Việt tộc mà không phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt thì đều được thông tin trên diễn đàn, nếu không phạm nội quy. Rất nhiều quan điểm và phương pháp phân tích không như tôi, vẫn tự do học thuật trên diễn đàn. Nhưng anh Vo truoc cũng thấy: Tôi hoàn toàn không phản biện cho đến khi sai lầm quá đà.

Tôi không phải chủ quan và kiêu ngạo gì, khi phát biểu rằng: Tôi chỉ xem lướt qua là biết ngay tác giả phạm sai lầm ở chỗ nào. Cả hai tập sách của tiến sĩ Hà Hưng Quốc, minh chứng cho Hậu Thiên Văn Lang, tôi chỉ phán một câu là sang phim.

Tôi chỉ đọc khi vấn đề trở thành sự chú ý của dư luận và mang tính phản biện quan điểm của tôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cái này tùy anh thôi, nhưng theo em, tác giả cũng không bao giờ phủ nhận các tiêu chí khoa học như anh vừa nói, mà lại luôn lấy đó làm cơ sở càng không phủ nhận truyền thống văn hóa và sử Việt, thậm chí còn rất tôn vinh. Lập luận của tác giả lại căn cứ rất nhiều về tính hợp lý, rất nhiều tư liệu liên quan và đa dạng.

Tác phẩm này cũng không phản biện quan điểm của anh. Do đó, em đã nói, nếu không có thời gian thì anh không nên đọc. Em đã lường trước vấn đề.

Có lúc em nghĩ rằng, rồi nghìn năm nữa qua đi, hai cái tên mà hậu thế còn nhớ về thời đại này có lẽ chỉ là Hồ Chí Minh và Nguyễn Quang Nhật!

Kính anh!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cái này tùy anh thôi, nhưng theo em, tác giả cũng không bao giờ phủ nhận các tiêu chí khoa học như anh vừa nói, mà lại luôn lấy đó làm cơ sở càng không phủ nhận truyền thống văn hóa và sử Việt, thậm chí còn rất tôn vinh. Lập luận của tác giả lại căn cứ rất nhiều về tính hợp lý, rất nhiều tư liệu liên quan và đa dạng.

Tác phẩm này cũng không phản biện quan điểm của anh. Do đó, em đã nói, nếu không có thời gian thì anh không nên đọc. Em đã lường trước vấn đề.

Có lúc em nghĩ rằng, rồi nghìn năm nữa qua đi, hai cái tên mà hậu thế còn nhớ về thời đại này có lẽ chỉ là Hồ Chí Minh và Nguyễn Quang Nhật!

Kính anh!

Vo truoc hiểu lầm tôi rồi. Tôi chưa phản đối gì với ông Quang Nhật. Đã biết ông ta nói gì đâu mà phản đối. Tôi có thói quen phải biết người ta muốn nói gì đã mới phản biện.  Tôi chỉ nói chung thôi. Vì quanh tôi rất nhiều trí thức dởm, nên phát chán mà nói chung.

Nếu quả là ông ta có một sự phát hiện lớn như vậy thì chúc mừng ông ta. Và bản thân tôi cũng nhẹ gánh trong việc minh chứng cội nguồn Việt sử.

Share this post


Link to post
Share on other sites

 

Vo truoc hiểu lầm tôi rồi. Tôi chưa phản đối gì với ông Quang Nhật. Đã biết ông ta nói gì đâu mà phản đối. Tôi có thói quen phải biết người ta muốn nói gì đã mới phản biện.  Tôi chỉ nói chung thôi. Vì quanh tôi rất nhiều trí thức dởm, nên phát chán mà nói chung.

Nếu quả là ông ta có một sự phát hiện lớn như vậy thì chúc mừng ông ta. Và bản thân tôi cũng nhẹ gánh trong việc minh chứng cội nguồn Việt sử.

Anh Thiên Sứ thân mến!

Ban  đầu, khi đọc “Sử thuyết Họ Hùng” của anh Nguyễn Quang Nhật theo kiểu lướt qua, em thấy thật vô cùng khó chấp nhận, cực kỳ vô lý, có cảm giác tác giả như một kẻ điên rồ… nhưng phải thừa nhận rằng tác phẩm rất công phu, nghiêm túc, lời văn hoàn toàn không phải hạng “chém gió” thường thấy mà lúc nào cũng đau đáu vì văn hóa Việt. Em nghĩ, không lẽ người ta bỏ tình cảm, công sức lao động nghiêm túc, khổng lồ như thế để cho ra cái vớ vẩn hay sao? Thử đọc kỹ xem sao.

Em bắt đầu đọc lại từ đầu, lần lượt và em đã vô cùng kinh ngạc tới mức choáng váng, đảo lộn gần như hoàn toàn những hiểu biết về sử Việt trước kia của mình, thay thế bởi bức tranh tuy chưa phải tất cả đều đã sáng tỏ rõ ràng nhưng có thể thấy vô cùng kỳ vĩ, hoành tráng về Việt tộc.

Quan điểm Cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở bờ nam sông Dương Tử và là cội nguồn đích thực của văn minh Đông phương huyền vĩ  của anh rõ ràng đã được mô tả một cách kỹ lưỡng qua từng thời kỳ, triều đại, nhân vật lịch sử tuy có lẽ không hoàn toàn giống như anh quan niệm về từng vấn đề cụ thể. Có lẽ em chưa đủ kiến thức lịch sử để có thể tự tin khẳng định là đúng hay sai, nhưng tự trong sâu thẳm tiềm thức, em thấy một cái gì đó rất lớn và đúng đắn. Hình như hồn thiêng sông núi đang mượn tay anh Nguyễn Quang Nhật chặt đứt đuôi con nòng nọc hay sao? Vì thế, em mới viết:” Có lúc em nghĩ rằng, rồi nghìn năm nữa qua đi, hai cái tên mà hậu thế còn nhớ về thời đại này có lẽ chỉ là Hồ Chí Minh và Nguyễn Quang Nhật!”.

Nếu anh thu xếp được thời gian thì nên đọc.

Kính anh!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Vo Truoc thân mến.

Về mặt lý thuyết, có rất nhiều hướng có thể tiếp cận chân lý. Thì ra bài mà tôi xem theo đường linh trên - do tôi đưa đừng link - tôi xem rồi. Tôi đang tiếp tục xem các bài về sử thuyết họ Hùng - 1 / 2/ 3. Tôi sẽ xem trong tối này và có thể kéo dài vài ngày nếu tôi bận.

Nếu quả như anh nói là: anh Quang Nhật viết rất xuất sắc và đủ luận cứ để minh chứng Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến thì thực nhẹ gánh cho tôi. Có thể tôi sẽ không cần quan tâm nhiều đến phần minh chứng Việt sử nữa. Việc chứng minh và tìm về cội nguồn là trách nhiệm chung của mọi con người mang dòng máu Việt, nếu có khả năng.Hay mỗi người khai thác những mảng khác nhau để tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh về cội nguồn Việt sử.

 Bởi vì tôi rất hiểu cái khó khăn của việc minh chứng cội nguồn Việt sử. Cho nên tôi biết tôi sẽ phải làm như thế nào để minh chứng. Nếu việc mình chứng dễ dàng thì chẳng cần đến sự cố gắng của tôi.

 

Anh Vo Trước nên lưu ý rằng: Việc xóa sổ cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến - của đám "hầu hết" và "cộng đồng" -  không chỉ đơn giản là xóa sổ về thời gian. Nó còn có âm mưu xóa sổ về không gian lịch sử và nội dung lịch sử. Họ cố gắng minh chứng cội nguồn Việt tộc chỉ xuất phát từ đồng bằng sông Hồng. Chưa nói đến việc sự kiện xóa sổ cội nguồn Việt sử, mà tôi đang đặt một giả thuyết rất có "cơ sở khoa học" là một âm mưu chính trị quốc tế. Cho nên không thiếu gì kẻ viết thuê, giả vờ cùng quan điểm bề ngoài, nhưng nội dung bên trong là phá hoại công việc tìm về cội nguồn Việt sử.

 

Lợi thế của tôi so với tất cả các nhà nghiên cứu cùng định hướng với việc tìm về cội nguồn Việt sử, chính là sự xác định với những minh chứng: Cội nguồn văn minh Đông phương huyền vĩ thuộc về Việt tộc và bản chất khoa học thực sự của Lý học Đông phương, mà nền tảng là thuyết Âm Dương ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất. Đồng thời là việc phục hồi toàn bộ những nội dung và giá trị đích thực của văn minh Đông phương huyền vĩ.

 

Sau khi xem xong các bài viết của anh Quang Nhật, nếu quả là hay thật thì tôi sẽ có ý kiến nhận xét. Nếu quá 10/ 3 Ất Mùi Việt lịch , mà tôi không có ý kiến khen ngợi thì anh hiểu rằng tôi có những điều chưa tán thành hoàn toàn. Tất nhiên là lúc ấy, tôi vẫn một mình tiếp tục công việc với định hướng và phương pháp của tôi.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Thiên Sứ thân mến!

Em hoàn toàn đồng ý với ý kiến của anh. Để tiện cho anh đọc, em gửi cho anh những bài của anh Quang Nhật em đã ghi và hệ thống lại dạng word. Email của anh vẫn như cũ phải không ạ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Thiên Sứ thân mến!

Em hoàn toàn đồng ý với ý kiến của anh. Để tiện cho anh đọc, em gửi cho anh những bài của anh Quang Nhật em đã ghi và hệ thống lại dạng word. Email của anh vẫn như cũ phải không ạ.

 

Cảm ơn anh Vo Truoc.

Nếu vậy thì tiện cho tôi quá. Hôm qua tôi thức từ Og xem đến 4g sáng mới ngủ, để đọc bài viết của anh  Quang Nhật.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hình như lho6ng gửi được. Anh cho em EMail mới theo địa chỉ của em: Tranquangcmc@gmail.com

Anh Vo Truoc thân mến.

Không biết làm sao tôi không chủ động gửi email được. Chỉ "dep lây" thì được. Hì! Anh cố gắng gửi cho tôi trước đi, Địa chỉ email tôi đã nói rồi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

 

Anh Vo Truoc thân mến.

Không biết làm sao tôi không chủ động gửi email được. Chỉ "dep lây" thì được. Hì! Anh cố gắng gửi cho tôi trước đi, Địa chỉ email tôi đã nói rồi.

Em đã gửi, gồm 7 file. Anh nhận được chưa?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi đã nhận được rồi. Cảm ơn anh Vo Truoc nhiều.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites