Posted 29 Tháng 3, 2015 NHÌN LẠI CỔ SỬ ViỆT NAM PHẦN MỘT: TRUYỀN THUYẾT VÀ LỊCH SỬ Lịch sử thời Hùng Vương là một đề tài gây ra không biết bao nhiêu cuộc tranh luận giữa các sử gia, các nhà nghiên cứu thuộc các ngành liên quan. Dầu vậy, đến nay những vấn đề quan trọng như :nguồn gốc Rồng Tiên, văn minh thời Hùng Vương, nguồn gốc Bách Việt...vẫn chưa được làm sáng tỏ. Để có thể làm sáng tỏ những vấn đề trên, trước hết phải khai mở con đường dẫn về miền đất lịch sử của các Hùng Vương. Có nhiều phác thảo cho một con đường như vậy. Truyền thuyết là một trong số đó mà bài viết này lựa chọn. Nan đề của mọi nan đề trong nghiên cứu lịch sử thời Hùng Vương là thiếu thốn sử liệu. Các sử gia người Việt theo Hán học trước đây, khi viết cổ sử thường dựa vào sử sách của Trung Hoa. Thực tế cho thấy những ghi chép về Việt Nam do người Hán thực hiện, chỉ mới bắt đầu vào thời bắc thuộc, nhưng tính khách quan và trung thực còn phải được đánh giá lại. Trong bối cảnh đó, những nhà nghiên cứu đặt nhiều hy vọng vào giới khảo cổ qua công cuộc khai quật, tìm kiếm những cổ vật thời Hùng Vương trong các lớp đất đá. Những cổ vật nếu tìm được sẽ mang lại nhiều thông tin trung thực và phong phú hơn , nhờ đó nâng cao nhận thức về thời đại này . Thế nhưng kết quả không như mong đợi. Trải qua một thời gian dài tìm kiếm, ngoài những trống đồng các loại,thì gần như không có gì mang dấu ấn của Hùng Vương cả. Kết quả này có thể hiểu được. Vì không ai có thể tìm được “dấu chân” của Hùng Vương trên vùng đất mà Ngài chưa hề đặt chân đến . Như vậy, hành trang đi về quê hương Hùng Vương chỉ có cổ vật trống đồng và các truyền thuyết. Đến nay những hình khắc họa trên trống đồng vẫn chưa được giải mã đầy đủ. Nhưng nếu được, có lẽ nội dung của nó nhằm mô tả bối cảnh, đời sống xã hội vào giai đoạn đó. Hoặc khác nữa là nội dung của một công trình nghiên cứu (một số nhà nghiên cứu đã khẳng định) như lịch pháp, quẻ dịch... Tóm lại, nó không thể dung chứa thông tin của một thời kỳ lịch sử kéo dài hàng ngàn năm. Như vậy, nguồn thông tin chính yếu soi sáng lịch sử thời kỳ này, không có gì nhiều ngoài các truyền thuyết. Nguồn gốc truyền thuyết thời Hùng Vương Theo quan điểm truyền thống, nhiều người cho rằng truyền thuyết là sản phẩm của dòng văn chương bình dân, và được phổ biến bằng con đường truyền khẩu. Hạt nhân của nó là sự kiện hoặc nhân vật gây chú ý nào đó, được gắn vào những tính chất đặc biệt, siêu phàm do tưởng tượng và hư cấu nên. Vì vậy, những thông tin chứa đựng trong truyền thuyết thường mơ hồ và không khả tín. Để đánh gíá tính khách quan của nhận xét trên, cần phải xác minh nguồn gốc của các truyền thuyết. Trong kho tàng truyền thuyết của Việt Nam, những truyền thuyết mang niên đại Hùng Vương có một số tính chất khá đặc trưng, có thể là đường dẫn đến nơi phát sinh ra chúng. Kỷ nguyên Hùng Vương bắt đầu bằng sự chuyển tiếp từ xã hội bán khai sang xã hội có văn hiến. Vì vậy, nội dung các truyền thuyết nhằm phản ánh các bước phát triển xã hội, nên tính lịch sử của nó khá rõ nét. Mỗi truyền thuyết đều gắn với một đời Hùng Vương cụ thể : Chuyện Thánh Gióng xảy ra vào đời Hùng Vương thứ 6. Chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh. . . . . . . . . thứ 18 . v..v.. Đây là một cách đánh dấu mốc thời gian có hệ thống, với mục đích giúp đời sau thông qua chủ đề tư tưởng được lồng ghép trong đó, có thể hình dung ra bối cảnh lịch sử và bước tiến hóa của xã hội, cùng với những bài học về lịch sử đấu tranh của dân tộc. Có thể lấy một ví dụ chứng tỏ điều này: Qua nội dung truyền thuyết Thánh Gióng, có thể biết được lực lượng chiến đấu của Hùng Vương thứ 6 đều là dân binh. Như vậy, Hùng Vương đã phải hoàn thiện lý thuyết, và tổ chức vận động chiến tranh nhân dân, để giành thắng lợi trước lực lượng chính quy hùng mạnh của phương bắc. Tại thời điểm ấy dân số còn ít, xã hội còn nghèo nên không thể tổ chức quân đội chính quy. Trang bị cho dân binh vừa yếu, vừa thiếu. Vũ khí phần lớn là tự tạo từ những cây tre. Suy ra thời này chưa có trống đồng, vì kim loại còn rất quý hiếm. Sau Hùng Vương thứ 6, nền văn minh tiến hơn một bậc, xã hội giàu có hơn. Tương ứng với những điều kiện thuận lợi đó, trống đồng ra đời. Và một phần lực lượng chiến đấu được chuyên hóa và trang bị tốt hơn. Điều này được khắc họa trên trống đồng bằng hình chiến thuyền với các chiến binh được trang bị vũ khí ở trên đó. Cũng từ đó, có thể thấy rằng, các Hùng Vương đã thay đổi chiến lược phòng thủ cho phù hợp tình hình mới. Việc dùng thủy binh để đối chiến với kỵ binh của đối phương, có lẽ đã dựa vào nguyên lý âm dương ngũ hành đã có từ thời Hùng Vương thứ 6. Và đó cũng là một gợi ý về nguồn gốc Kinh Dịch... Như vậy, dưới hình thức những câu chuyện cổ tích, thần thoại, các chủ đề tư tưởng, văn hóa, lịch sử, khoa học.... được lồng ghép vào nội dung của truyền thuyết. Bên cạnh đó, cách xây dựng bố cục, kết hợp thủ pháp liên kết thông tin trong một, hoặc giữa các truyền thuyết với nhau, đã đặt ra giới hạn mà kỹ năng, cũng như nhận thức của những người nông dân không thể thẩm thấu tới. Điều này đưa đến kết luận truyền thuyết thời Hùng Vương không phải là sản phẩm dân gian như quan điểm truyền thống. Có nghĩa tác giả của các truyền thuyết không phải là giới bình dân mà của giới trí thức tài năng. Xác định nguồn gốc truyền thuyết có nghĩa là đi tìm người tạo ra nó. Trước kỷ nguyên Hùng Vương, tổ tiên người Việt cũng đã tồn tại và phát triển qua hàng ngàn năm, ngôn ngữ cũng đã thuần thục và đồng dạng với ngôn ngữ thời Hùng Vương. Nhưng thời gian trước Hùng Vương hoàn toàn không có truyền thuyết nào được lưu truyền. Thời gian sau Hùng Vương là giai đoạn Bách Việt, cũng vậy. Tổng kết này cho thấy: những truyền thuyết ra đời sớm nhất gắn liền với nhân tố Hùng Vương, mà Hùng Vương là đại biểu cho tài năng và trí tuệ của xã hội thời ấy. Từ nhận xét đó dẫn đến suy diễn Hùng Vương có thể là tác giả của các truyền thuyết. Và cũng là người đã thổi sinh khí cho truyền thuyết, giúp cho nó trường tồn cùng dân tộc. Điều mà trước và sau Hùng Vương không ai làm được. Trải qua nhiều ngàn năm, hình ảnh của Hùng Vương vẫn in đậm nét trong tâm thức của dân tộc. Chứng tỏ Hùng Vương không chỉ có tài năng xuất chúng, mà còn là vị vua đức độ hết lòng vì dân tộc, vì đất nước. Do đó,có thể chính ông đã thể hiện trách nhiệm với tương lai dân tộc, đất nước bằng cách truyền lại kiến thức và kinh nghiệm dựng nước, và giữ nước cho con cháu đời sau qua các truyền thuyết mà ta đã biết. Những truyền thuyết nầy được tạo ra theo một nguyên tắc nhất định, và dựa vào nguyên tắc đó có thể chia chúng làm hai nhóm: Nhóm các chuyện kể về những việc đời thường trong xã hội nhưng được chú ý vì nó có ý nghĩa giáo dục. Nhân vật được đề cập là người thực, ở những tầng lớp khác nhau , và có thể dễ dàng tìm thấy trong xã hội. Những việc làm của họ cũng không phải siêu phàm mà những người khác không thể làm được. Ví dụ như chuyện quả dưa hấu , chuyện trầu cau, bánh chưng bánh dày . v..v... Nhóm các chuyện cổ tích, chuyện thần tiên. Trong đó, sự hiện diện của các vị thần, tiên là những tồn tại siêu phàm không có trong trong đời thường. Họ có thể tạo ra những thần tích mà người thường không làm được. Các chuyện như Lạc long Quân-Âu Cơ, Thánh Gióng, Sơn Tinh –Thủy Tinh...là những chuyện nằm trong số này. Việc phân chia như vậy để thấy Hùng Vương đã tạo các truyền thuyết theo một phương pháp khoa học. Nhờ đó chúng được phổ biến rộng rãi và không bị mai một. Phương pháp nầy dựa vào khảo sát thực nghiệm hoạt động của não bộ. Có thể nói trong não bộ con người có một vùng dùng để lưu giữ các thông tin. Có những thông tin được lưu giữ rất lâu, hoặc trọn đời. Ngược lại, có những thông tin chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn rồi biền mất, do bị thay thế bỡi những thông tin mới hơn. Dựa vào hiện tượng này có thể chia vùng ký ức làm vùng tạm thời, và vùng kí ức bền vững. Những thông tin chứa trong vùng tạm thời là những sự việc thường nhật, hay không có gì đặc biệt. Trái lại những thông tin trong vùng bền vững là những sự kiện đặc biệt gây ấn tượng, hoặc tạo hiệu ứng tâm lý ít gặp trong đời. Những thông tin tạo ấn tượng hoặc hiệu ứng tâm lý đặc biệt sẽ được não bộ tự động đưa vào vùng kí ức bền vững, nên không bị mất đi trong một thời gian rất lâu. Nhưng những thông tin trong vùng tạm thời cũng sẽ không bị đào thải, nếu có cơ chế nhắc bỡi một vật hoặc việc liên quan. Những truyền thuyết thuộc nhóm một tồn tại được là nhờ cơ chế này. Ví dụ, hàng ngày do ăn trầu, nhìn thấy cây cau, dây trầu người ta sẽ liên tưởng đến sự tích trầu cau. Tương tự như vậy, khi ăn dưa hấu hoăc bánh chưng –bánh dày làm người ta liên tưởng đến An Tiêm và Lang Liêu. Nhóm thứ hai do không có cơ chế nhắc. Để không bị đào thải, Hùng Vương đã giải quyết bằng cách thần thoại hóa những câu chuyện này, nhằm kích thích vùng kí ức bền vững bỡi các hình ảnh nhân vật siêu phàm và sự việc hoang đường. Truyền thuyết thời Hùng Vương là những câu chuyện được thần thoại hóa có chủ đích và theo nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc của nó là chỉ làm biến dạng hình ảnh của sự vật chứ không tác động đến sự vật. Hình ảnh thật có thể có thể phục hồi theo ý muốn. Ví dụ lịch sử là hình ảnh được phản chiếu trên một gương phẳng. Khi tấm gương bị uốn cong, hình ảnh bị sẽ biến dạng. Nếu muốn phục hồi hình ảnh vốn có, chỉ cần nắn cho gương phẳng trở lại. Những hình ảnh bị làm cho biến dạng trở nên kì dị, lạ thường, nhằm gây ấn tượng chính là lịch sử qua lăng kính truyền thuyết. Hùng Vương nhận định rằng, nơi duy nhất lưu giữ lịch sử và những giá trị tinh thần của dân tộc mà không bị hủy hoại bỡi thời gian, đó chính là kí ức dân tộc. Dân tộc gồm đại đa số là những người dân lao động. Đây là kho lưu trữ và chuyển giao các thông tin trong truyền thuyết.Vì vậy truyền thuyết phải có ngôn ngữ phù hợp” khẩu vị” của người bình dân. Dân tộc cũng bao gồm một thiểu số thành phần ưu tú, là giới trí thức, hoặc quý tộc cầm quyền. Họ là những người sẽ khai thác, và ứng dụng những kiến thức cùng kinh nghiệm của tiền nhân, được “giấu” trong các truyền thuyết để phát triển đất nước. Để đáp ứng yêu cầu đó Hùng Vương đã tạo ra một ngôn ngữ riêng, tạm gọi là ngôn ngữ kết hợp. Trong đó, ngôn ngữ bình dân đại chúng được xử dụng như phương tiện vận chuyển, và những thông tin quan trọng là hàng hóa được gửi trên đó. Cũng có thể hình dung ngôn ngữ truyền thuyết Hùng Vương là sự kết hợp giữa dòng văn chương bình dân với dòng văn chương bác học. Như vậy cũng có thể xem ngôn ngữ của truyền thuyết là ngôn ngữ “lưỡng tính”: nó vừa có tính phổ biến(bình dân), vừa có tính chọn lọc(bác học). Nguồn gốc Rồng –Tiên Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên hay còn gọi là huyền sử Lạc long Quân và Âu Cơ được ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: Đế Minh là cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi; sau đi tuần về phía Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, bẩm tinh thông minh. Đế Nghi muốn truyền ngôi cho Lộc Tục, nhưng Lộc Tục cố từ chối, xin truyền cho anh. Đế Minh bèn lập Đế Nghi nối ngôi cai trị phương Bắc và cho Lộc Tục làm vua ở phương Nam, hiệu là Kinh Dương Vương, tên nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy con gái vua hồ Động Đình là Long Vương, sinh ra Sùng Lãm, cho nối ngôi trị nước, hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ sinh ra một bọc có trăm trứng nở ra trăm con trai; người nào cũng đẹp đẽ, trí dũng song toàn. Một hôm, Long Quân nói: “Ta là nòi rồng, đứng đầu thuỷ tộc nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hộp lợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, khó ở lâu với nhau được, nay từ phải chia ly. Ta đem năm mươi con về thủy phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống biển, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên nhau”. Trăm con vâng theo, sau đó từ biệt nhau mà đi. Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn ( nước Chiêm Thành) Trong mục đích đi tìm những thông tin lịch sử, nghĩa là thông tin có thể kiểm chứng được. Phần huyền thoại hoặc không thể kiểm chứng được sẽ không xét đến. Vì vậy, giới hạn tìm hiểu bắt đầu từ khi Lạc long Quân lấy Âu Cơ cho đến kết thúc. Đoạn trước có ngôn phong và mục đích không đồng nhất với truyền thuyết Hùng Vương. Phần nầy có thể mang yếu tố ngoại lai nên tạm thời chưa bàn đến, và có thể sẽ phân tich kỹ trong phần nói về ảnh hưởng của người Hán đối với các sử gia Việt. Những nhân tố huyền thoại trong câu chuyện này là một nam thần (Lạc long Quân:vua Rồng) kết hôn cùng một tiên nữ (Âu Cơ) , và sinh được trăm con (thần tích). Trước hết cần tìm hiểu nguồn gốc của hai danh xưng Lạc long Quân và Âu Cơ, sau đó sẽ tìm hiểu thần tích. Đây là hai danh xưng chứ không phải tính danh. Trong đó: Chữ Lạc chỉ người Lạc, xứ Lạc. Các nhà nghiên cứu đã xác nhận người Lạc là một chủng người cổ, có nền nông nghiệp lúa nước phát triển.Tổ chức xã hội theo chế độ phụ hệ. Địa bàn cư trú truyền thống là vùng đồng bằng tam giác châu giáp biển. Kết hợp với truyền thuyết, suy ra địa phương nơi người Lạc cư trú nằm ở mạn nam cửa sông Dương Tử (Trường Giang).Long quân có nghĩa là vua rồng. Vậy Lạc long Quân có nghĩa là VUA RỒNG xứ LẠC. Chữ vua trong danh xưng xác nhận người đàn ông này là thủ lĩnh người Lạc. Chữ Âu chỉ người Âu, xứ Âu. Theo các nhà nghiên cứu, người Âu cũng là một chủng người cổ. Họ sống bằng nghề săn bắt và làm rẫy. Theo chế độ mẫu hệ. Kết hợp với truyền thuyết, suy ra địa bàn cư trú của họ là vùng núi Ngũ Lĩnh, phía nam dòngTrường Giang. Chữ Cơ có nghĩa là người phụ nữ quý phái. Vậy Âu Cơ có nghĩa là người PHỤ NỮ QUÝ PHÁI xứ Âu. Chữ quý phái trong danh xưng xác nhận người phụ nữ này thuộc giai cấp quý tộc cầm quyền. Hoăc là thủ lĩnh của người Âu, hoặc là công chúa và sẽ kế vị thủ lĩnh. Trong các chuyện cổ tích, người ta tin rằng biển là xứ sở của Rồng, nên cai quản các vùng biển là những Long Vương. Và núi là nơi ở của Tiên vì vậy chữ tiên viết theo chữ Hán được ghép bỡi chữ sơn và chữ nhân. Theo nghĩa này thì Lạc là xứ sở của Rồng, và Âu là xứ sở của Tiên. Vì thế những cư dân ở hai đìa phương này luôn tự hào về nguồn gốc Rồng, Tiên của tổ tiên xa xưa. Và họ tin rằng thủ lĩnh của họ là hóa thân của Rồng , Tiên. Theo nghĩa trên thì Lạc long Quân và Âu Cơ đều có nguồn gốc nhân loại. Âu Cơ thì quá rõ. Riêng chữ Long Quân có thể là một danh hiệu mà người dân tôn vinh do tài năng đặc biệt, chứ không phải là định danh phân loại, để có thể nghĩ đây là một linh vật trong truyền thuyết.Theo danh hiệu này có thể nghĩ, đây là một thanh niên có sức khỏe hơn người. Đặc biệt có tài thủy chiến, và đã từng giết nhiều cá sấu để cứu dân. Từ đó, người dân hết lòng ngưỡng mộ và biết ơn nên phong tặng ông danh hiệu Vua Rồng, vì cá sấu còn gọi là giao long. Loài vật này có rất nhiều nơi đầm lầy cửa sông,và cũng nằm trong địa bàn sinh ngụ của người Lạc. Nhưng người Việt rất tự hào về dòng dõi Rồng –Tiên của mình. Vậy thử tìm nguồn gốc của Lạc long Quân và Âu Cơ trong không gian huyền thoại. - Khi chia tay Lạc long Quân nói Âu Cơ dắt 50 con lên núi-nghĩa là về Tiên giới. Còn mình dẫn 50 con xuống biển- nghĩa là về Thần giới. Điều này xác định hai người đã gặp nhau ở Nhân giới, lấy nhau và sinh được 100 người con đều là phàm nhân. Thế giới thần tiên là sản phẩm của tưởng tượng, và là mơ ước của loài người. Nhưng tại đó có những cực hạn mà con người không thể vượt qua để thích nghi và tồn tại. Câu chuyện Lưu Nguyễn lạc vào cõi tiên có ý nói như vậy. Tóm lại, hình ảnh di cư tập thể của 100 người con phàm nhân trong gia đình Lạc long Quân và Âu Cơ đã phủ định không gian huyền thoại của truyền thuyết.Vì nhân loại không thể sống trong thế giới thần tiên được. Như vậy, việc này mang ý nghĩa: năm mươi con theo mẹ lên núi là về quê mẹ-xứ sở của người Âu. Năm mươi con theo cha xuống biển là về quê cha-xứ sở của người Lạc. - Trong truyền thuyết, Lạc long Quân và Âu Cơ đã không bộc lộ năng lực gì đặc biệt siêu phàm. Ngược lại tính cách nhân loại hiện rõ khi hai người đã không vượt qua hoàn cảnh khó khăn nên phải chia tay.Tính cách của các vị thần là phải” nghịch thiên cải mệnh” ,chứ đâu phải cúi đầu chấp nhận số phận như những người tầm thường trong nhân loại. Vì vậy đây là một dấu ấn nhân loại của Lạc long Quân và Âu Cơ. Vậy hình ảnh Rồng- Tiên trong tâm thức của người Việt có nguồn gốc như thế nào? Có thể thấy nó bắt nguồn từ văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Thời Hùng Vương lòng hiếu kính của con đối với cha mẹ là điều tâm niệm và thực hành hàng ngày để tỏ lòng biết ơn với các đấng sinh thành, như câu ca dao: Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Nên khi cha mẹ mất đi, người con muốn níu kéo hình ảnh, tình cảm đối với ông bà cha mẹ, và thể hiện lòng hiếu thảo qua việc thờ cúng. Việc thờ cúng thường xuyên làm tình cảm con cháu luôn hướng về cha mẹ , ông bà. Thế nên hình ảnh của người đã mất luôn đọng trong tâm trí họ, kéo dài sự sống của người thân trong không gian tâm linh. Có lẽ, thời đó tuổi thọ còn thấp, thời gian để cha mẹ ở cùng con cái quá ngắn, nên khi mất đi đã để lại nỗi thương tiếc rất sâu đậm . Tất cả các yếu tố đó hội tụ trong khung cảnh còn hoang sơ của nông thôn thời ấy, có thể đã tạo môi trường cho không ít giấc mơ. Trong những giấc mơ đó, hình ảnh người thân rất hiển linh hiện về, tạo nên niềm tin người thân vẫn tồn tại ở thế giới khác, gần gủi, và có thể giao tiếp được qua con đường thờ cúng. Vì vậy, bàn thờ tổ tiên là phần không gian tâm linh không thể thiếu trong mỗi gia đình người Việt, dù lớn hay nhỏ. Từ đó, việc thờ tự được tổ chức chặc chẽ và tuân thủ những nguyên tắc thống nhất. Qua thời gian, việc thờ cúng cha mẹ trong gia đình, dẫn đến việc thờ cúng trong môi trường xã hội, nhằm tỏ lòng tri ân các bậc tiền nhân có công với xã hội đất nước, đã thành truyền thống. Đó là văn hóa tâm linh “tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên”. Quá trình này làm thăng hoa hình ảnh của người thân, các vị anh hùng dân tộc, người có công với xã hội. Lòng kính yêu và tri ân qua nhiều thế hệ biến thành sự sùng bái , tín ngưỡng, nên các vị vị tiền nhân của dòng tộc, các người có công với đát nước, ngày trở nên linh thiêng. Do đó, các vị tổ tiên lâu đời của dòng họ đều hóa thần, và các vĩ nhân của dân tộc cũng hiển thánh. Trong tín ngưỡng đó, ở phạm vi gia đình người Việt thờ các vị tiền nhân thuộc các thế hệ gần. Đây được coi là những bán thần. Tổ tiên thuộc thế hệ cao hơn, được thờ tại nhà thờ dòng tộc. Đây là những vị thần chính thức. Ngoài dòng tộc, các vị tiền hiền có công khai hoang lập ấp, giúp dân có nơi sinh cư lập nghiệp, được tôn làm thành hoàng , được dân địa phương lập đền thờ và cúng bái trang trọng. Ở tầm quốc gia có các vị quốc thần như Hưng đạo Vương. Phù Đổng Thiên Vương, Vua Bà....Như vậy trong hệ thống thần linh của người Việt, Lạc long Quân và Âu Cơ có vị trí cao nhất, vì là cha mẹ của dân tộc. Điểm đặc biệt ở trường hợp này là hình tượng của của Âu Cơ và Lạc long Quân đã được gợi ý, định hướng khi gắn danh xưng với vùng địa lý. Theo quan niệm người xưa núi là nơi ở của tiên(bồng lai tiên cảnh), và biển là quê hương của rồng. Vì thế, mặc nhiên Âu Cơ thành Tiên và Lạc long Quân thành Rồng trong tâm thức của người Việt. Hơn nữa hình ảnh nầy cũng được tạọ ra nhằm mang lại niềm tự hào dân tộc và củng cố lòng tin để đối kháng với Thiên Triều phương bắc. Tóm lại, tổ phụ và tổ mẫu của người Việt là những là những vị thần có nguồn gốc nhân loại, hay còn gọi là nhân thần Nghĩa là hóa thần sau khi mất đi, nhờ vào tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Từ nguồn gốc nhân loại của Lạc long Quân và Âu Cơ nên khẳng định không có thần tich xảy ra. Sự việc Âu Cơ sinh bọc trứng và nở thành 100 người con là biểu hiện của ngôn ngữ truyền thuyết Hùng Vương. Ở đây Hùng Vương đã dùng thủ pháp biểu trưng và hoán vị để làm biến dạng hình ảnh lịch sử ,và đã tạo được hiệu ứng mong muốn. Thủ pháp này được nhận thấy như sau: -Trong gia đình thực của Lạc long Quân –Âu Cơ, gồm hai vợ chồng và các con. Như những gia đình khác, Lạc long quân –Âu Cơ có thể có nhiều hơn một người con là Hùng Vương, nhưng không thể có 100 người con. Ở đây chỉ nhắc đến Hùng Vương vì là nhân vật trung tâm. Gia đình này là một tập hợp con của xã hội, mỗi phần tử là một cá thể độc lập. Theo một nghĩa bao quát hơn, cộng đồng Âu-Lạc cũng là một gia đình lớn. Trong đại gia đình này, Lạc long Quân là biểu trưng của chủng người Lạc, vì đó là thủ lĩnh của họ. Tương tự, Âu Cơ là thủ lĩnh người Âu, là biểu trưng của người Âu. Ở đây có sự hoán vị của Lạc long Quân và Âu Cơ: Từ một người thực sang một biểu tượng, và từ một gia đình nhỏ sang gia đình lớn. Trong gia đình (tập hợp) lớn này, mỗi người con (phần tử) là một tập thể. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình lớn là quan hệ lịch sử, chứ không phải quan hệ huyết thống như trong gia đình nhỏ. Theo nghĩa này, là sau một thời gian, kể từ Lạc long Quân –Âu Cơ đến Hùng Vương 18, dân số Âu –Lạc đã tăng khoảng 50 lần. Từ hai nhóm người (Âu và Lạc) ban đầu, đến nay có thể hình thành 100 nhóm người của cả hai tộc. Một nhóm tương đương một làng – đơn vị dân cư thời Hùng Vương. Đây là tiền thân của nhóm Bách Việt sau này; khởi điểm là một cộng đồng cư dân gồm 50 làng người Âu và 50 làng người Lạc. Mỗi làng(nhóm) có một người đứng đầu có vai trò trưởng làng(thủ lĩnh). Điều này được mô tả trong lời của Lạc long Quân khi bảo Âu Cơ dẫn 50 con lên núi, còn mình dẫn 50 con xuống biển. Đó chính là những thủ lĩnh Bách Việt . Còn Lạc long Quân, Âu Cơ và Hùng Vương chỉ là hình ảnh của lịch sử được tái hiện mà thôi. Khi vợ chồng chia tay, thứ tài sản quý nhất mà hai người chia nhau là các con. Tỉ lệ chia 50/50 thể hiện sự công bằng. Và công bằng luôn đi đôi với trung thực- nghĩa là không nhận cái gì không thuộc về mình. Điều này nhắc đến liên minh Âu –Lạc ban đầu, do nhóm người của Âu Cơ và nhóm người của Lạc long Quân hợp thành- nghĩa là tỉ lệ “góp vốn” 50-50. Vì thế nên khi chia cũng theo tỉ lệ ấy. Như vậy, những người con theo cha thuộc về cha, theo mẹ thuộc về mẹ. Suy ra, năm mươi con theo Âu Cơ là gái, vì đó là các thủ lĩnh người Âu. Tương tự, năm mươi con theo Lạc long Quân là trai, vì đó là thủ lĩnh người Lạc. Do đó, nói rằng Hùng Vương trong số con theo mẹ lên núi là không chính xác. Hùng Vương thật sự vẫn ở đồng bằng, nơi được sinh ra. Và truyền thuyết cũng cần hiệu chỉnh lại theo tinh thần: Âu Cơ sinh được một bọc trứng nở ra 100 người con gồm 50 trai và 50 gái. Khi chia tay 50 con gái theo mẹ lên núi và 50 con trai theo cha xuống biển. Bản ghi chép rằng Âu Cơ sinh ra 100 người con trai là sai lệch do hiện tượng “tam sao thất bổn”. Qua những nhận xét trên cho thấy đây là cuộc chia tay của gia đình Âu-Lạc với sự hiện diện 100 thủ lĩnh của hai tộc, và hình ảnh Lạc long Quân-Âu Cơ tượng trưng cho ý chí thống nhất của họ. Tại thời điểm đó, gia đình thật sự của Lạc long Quân-Âu Cơ và Hùng Vương đã là qúa khứ xa xưa. Trong quá khứ chắc chắn không có cuộc ly hôn. Ngược lại, hai người đã sống hạnh phúc trọn đời. Nhờ vậy Hùng Vương thứ nhất đã được nuôi dưỡng, đào tạo thành một vị vua kiệt xuất của đất nước. Cuộc chia tay của gia đình Âu-Lạc nhất thời không dẫn đến một cuộc di cư ồ ạt như nhiều người đã nghĩ. Cuộc chia tay trong tư tưởng đó mới là chủ đề mà Hùng Vương quan tâm. Cuộc chia tay đó là sự chuyển hưóng cho quá trình quay về bản ngã, về với cái tôi vị kỹ. Nó thủ tiêu tinh thần hợp tác giữa hai tộc, tình cảm xẻ chia khi hoạn nạn, thương yêu đùm bọc trong một gia đình mà Lạc long Quân và Âu Cơ đã khổ công gầy dựng. Đó là điểm kết thúc thời đại Hùng Vương huy hoàng. Bắt đầu giai đoạn suy thoái và diệt vong của Bách Việt. Như vậy, thời điểm của cuộc chia tay được xác định vào cuối thời Hùng Vương 18. Và đất nước do Lạc long Quân –Âu Cơ tạo dựng, cùng với mười tám đời Hùng Vương giữ gìn, bồi đắp thành hùng mạnh nhất trong thiên hạ bị sụp đỗ từ đây! Diễn tiến của cuộc chia tay cho ta nhiều thông tin quan trọng: Khi chia tay Lạc long Quân nói: “ ta thuộc dòng giống Rồng, nàng thuộc dòng giống Tiên xung khắc nhau nên không thể sống lâu dài với nhau được”. Đã biết không hợp nhưng vẫn đến với nhau, chứng tỏ hai người vì một mục đích cao cả hơn. Hai người đều là thủ lĩnh của hai tộc, nên mục đích cao cả đó không gì khác ngoài tương lai của tộc dân. Cuộc hôn nhân của Lạc long Quân và Âu Cơ là hình ảnh biểu trưng cho việc liên kết hai tộc Âu –Lạc. Hai tộc hoàn toàn khác nhau về nguồn gốc, ngôn ngữ, phong tục, địa bàn cư trú...Vậy việc liên kết với nhau hẳn phải dựa vào một điểm chung nào đấy- điểm chung đó chính là kẻ thù của họ. Địa bàn cư trú của người Lạc (tổ tiên của người Kinh ngày nay) ở vùng đồng bằng trũng ngập phía nam cửa sông Trường Giang (tên sông do người Việt đặt). Địa bàn cư trú của người Âu(tổ tiên người dân tộc thiểu số miền Bắc) là vùng núi Ngũ Lĩnh ở Hoa nam. Địa bàn của hai tộc cách Chiêm Thành ở phương nam hơn hai ngàn cây số đường chim bay. Nhưng cách địa bàn của người Hoa Hạ ở phương bắc chỉ có dòng Trường Giang. Như vậy, mối đe đọa phải đến từ phương bắc. Và sự hợp tác nầy rõ ràng nhằm đối phó với người Hán. Trước thời Lạc long Quân –Âu Cơ, sự phân định lãnh thổ và cục diện như trên có lẽ đã ổn định qua hàng ngàn năm. Do đó, việc hợp nhất hai tộc người Âu và Lạc là nhằm nhân đôi sức mạnh để tự vệ, chắc chắn có liên quan đến một biến cố quan trọng, xuất phát từ phương bắc. Theo sử Trung Hoa, biến cố kinh người làm đảo lộn cuộc sống và cấu trúc xã hội của người Hoa Hạ thời đó là việc khởi loạn của nhà Thương. Sau thời gian dài tích tụ điều kiện cho cuộc chiến tranh chinh phục chư hầu, và mở rộng lãnh thổ để thành lập một nhà nước phong kiến đầu tiên ở Trung Nguyên. Vào năm 1600 trước công nguyên(TCN), nhà Thương phát động một cuộc chiến tranh với qui mô chưa từng có. Làm cho cư dân trong vùng có chiến sự sợ hải trốn chạy. Những cư dân này lũ lượt vượt Hoàng Hà chạy về phương nam. Chiến tranh lan rộng tạo tác động dây chuyền, nên đám người chạy về phương nam ngày càng đông. Trải qua đoạn đường hàng ngàn cây số đầy gian nan, có lẽ đám người này phải mất hàng năm trời mới đến được bờ bắc của Trường Giang. Tất nhiên những xáo trộn này được hai tộc Âu và Lạc ở bờ nam trường Giang chú ý và tìm hiểu. Sau khi biết được nguyên nhân, thấy được nguy cơ tiềm ẩn của chiến tranh xâm lược, hai tộc đã quyết định liên kết lại để đối phó. Từ đó liên minh Âu –Lạc ra đời. Nó được đánh dấu bằng cuộc hôn nhân của Lạc long Quân với Âu Cơ. Có thể ước đoán thời gian từ lúc nhà Thương quật khởi đến lúc hình thành liên minh Âu –Lạc khoảng 5-6 năm, do thời gian trễ. Có nghĩa là cuộc hôn nhân của Lạc long Quân và Âu Cơ có lẽ xảy ra khoảng năm 1595 TCN. Khi chia tay Lạc long Quân bảo Âu Cơ lên núi còn mình xuống biển. Từ câu nói đó có thể xác định vị trí nơi ở của họ. Đó là vùng đệm nằm giữa địa bàn cư trú của hai tộc. Nơi mà hai tộc thương gặp nhau để mua bán, hay trao đổi các sản phẩm cần thiết. Đó chính là vùng đồng bằng trung lưu của Trường Giang, gần hồ Động Đình, trùng với vị trí mà truyền thuyết đã xác nhận. Nơi đây cũng đã xảy trận đánh của Hùng Vương thứ 6 chống giặc Ân xâm lược, và giành chiến thắng vẻ vang cho dân tộc. Cuộc chiến tranh này đã được dự đoán, và chiến trường cũng đã được xác định trước đó bỡi Lạc long Quân và Âu Cơ. Nơi đây cũng chính là quê hương của các Hùng Vương. Đó là nguyên nhân của sự vắng bóng các di sản văn hóa, văn minh Hùng Vương trên địa bàn miền bắc Việt Nam. Dẫn đến những tranh cải chưa có hồi kết thúc về những vấn đề: nguồn gốc trống đồng, chữ viết, Kinh Dịch, sách thuốc, lịch pháp, thi ca, v..v... Như vậy, liên minh Âu-Lạc do Lạc long Quân và Âu Cơ thành lập chính là tiền thân của nhà nước Hùng Vương sau này. Giai đọan đầu của liên minh là thời kỳ xây dựng một cộng đồng Âu-Lạc đông đúc, vững mạnh làm tiền đồn chống ngoại xâm. Về sau nó trở thành trung tâm kinh tế văn hóa chính trị của đất nước Hùng Vương. Kết luận: Truyền thuyết Rồng –Tiên là một trang sử ghi lại những biến cố quan trọng trong quá khứ của dân tộc, từ thời Lạc long quân đến Hùng Vương 18. Giai đoạn lịch sử nầy có thể tóm tắt như sau: Vào năm 1600 TCN, một dòng họ người Hoa Hạ ở vùng Hoa bắc, phát động chiến tranh nhằm thu phục chư hầu, mở rộng lãnh thổ và thành lập nhà nước phong kiến đầu tiên ở Trung Nguyên. Đó là triều đại nhà Thương (1600-1046 TCN). Biến cố này gây xáo trộn toàn vùng Hoa bắc và đe dọa đến vùng Hoa nam, là lãnh thổ của người Âu với người Lạc. Để chuẩn bị đối phó chiến tranh với người Hoa Hạ trong tương lai.Thủ lĩnh người Lạc là Lạc long Quân đã cầu hôn với thủ lĩnh người Âu là Âu Cơ, và xây dựng liên minh Âu –Lạc. Sau khi kết hôn, Lạc long Quân dẫn phần lớn dân Lạc, đang sinh sống tại miền biển, đến vùng đồng bằng trung lưu Trường Giang, gần hồ Động Đình để thành lập một khu định cư mới. Âu Cơ cũng dẫn phần lớn tộc dân của mình đang sinh sống trên núi Ngũ Lĩnh xuống vùng hồ Động Đình để phối hợp cùng Lạc long Quân. Nhà nước Âu Lạc sơ khai do hai người đồng trị vì, đã hình thành như thế đó. Vào khởi điểm, nhà nước Âu-Lạc được thành lập tại vùng hồ Động Đình, chỉ là một liên minh gồm hai làng lớn: một của người Âu, và một của người Lạc. Để thích nghi với môi trường mới, hai tộc dân phải thay đổi một phần thói quen sinh hoạt vốn có của mình. Trong đó, người Lạc di chuyển từ vùng thấp lên vùng cao nên mùa vụ có phần thay đổi, nên họ phải phát triển hệ thống thủy lợi để phục vụ cho việc trồng lúa nước truyền thống.. Còn người Âu tập làm quen lối sống định canh định cư, và học cách sản xuất nông nghiệp của người Lạc. Sau khi cộng đồng Âu-Lạc định hình. thì một nền văn hóa mới cũng được khai sinh ở vùng hồ Động Đình. Đó là văn hóa Âu-Lạc ở đồng bằng, bên cạnh văn hóa Âu ở miền núi và văn hóa Lạc ở miền biển. Nhờ kế thừa cùng lúc tinh hoa của hai nền văn hóa, nên dưới thời Hùng Vương, văn hóa Âu-Lạc tiến bộ vượt bậc, bỏ xa hai nền văn hóa kia. Đồng thời nó cũng trở thành trung tâm văn minh đứng đầu thời đại. Hùng Vương và thời đại Hùng Vương: Hiện nay, có nhiều người xử dụng danh xưng vua Hùng thay cho Hùng Vương, hàm nghĩa “vua họ Hùng”. Cách hiểu như vậy không chính xác, vì: Các nhà nghiên cứu tính danh của người Việt đều xác nhận rằng, tên họ của người Việt chỉ xuất hiện sau thời hai bà Trưng. Nghĩa là sau Hùng Vương hơn 1000 năm. Như vậy chữ Hùng trong Hùng Vương không phải là tên họ. Giả sử vào thời điểm đó xuất hiện dòng họ Hùng, dòng họ nầy lên làm vua truyền được mười tám đời thì kết thúc. Sau một đoạn thời gian dài như vậy, hẳn là con cháu họ Hùng rất đông . Dù không có người nối ngôi, nhưng đây là dòng họ lớn và uy thế hàng đầu trong nước, nên hậu duệ truyền thừa nhiều thế hệ, chứ không thể biến mất khi triều đại kết thúc như vậy. Nếu cho rằng thời đó chỉ có vua mới được dùng tên họ ( giống như một số triều vua ở Trung Hoa cổ). Vậy sau khi triều đại kết thúc, không còn sự cấm đoán, thì việc dùng tên họ đã trở thành phổ biến trong dân chúng, chứ không thể đợi tới sau thời hai bà Trưng. Nhưng việc đó đã không xảy ra. Tóm lại không có họ Hùng , chữ Hùng ở đây có nghĩa là “ kiệt xuất”,và Hùng Vương có nghĩa là vị “ vua kiệt xuất”. Đó chính là tôn hiệu mà dân chúng dùng để vinh danh vị vua của mình. Danh xưng Hùng Vương là sự phủ định tất cả nỗi hồ nghi về một nền văn minh rực rỡ mà tổ tiên người Việt đã đạt được. Nó cũng phủ định tất cả những luận thuyết sai lệch khi cho rằng Hùng Vương do bị áp lực của người Hán nên phải bỏ chạy về phương nam, đến địa bàn mới là miền bắc Việt Nam. Hoặc giả Hùng Vương đam mê tửu sắc để giặc cướp ngôi nên tự sát. Hoặc Hùng Vương phải liên minh với Thục Phán để chống Đồ Thư.v..v...Tất cả những suy diễn đó đều không đúng. Vì Hùng Vương là một tồn tại vô địch. Có thể thấy biểu hiện kiệt xuất của Hùng Vương qua chiến thắng giặc Ân. Trước hết cần giải tỏa mối nghi ngờ của một số sử gia về trận chiến này. Có người cho rằng trận chiến này không xảy ra, hoặc trận chiến có xảy ra, nhưng giặc Ân không phải là nhà Thương. Cũng có người yếm thế cho rằng đó là chiến thắng tạm thời trước người Hán. Lịch sử Trung Hoa ghi nhận nhà Thương dời đô về Ân Khư, và đổi tên thành nhà Ân vào năm 1384 TCN. Như vậy cuộc chiến tranh xâm lăng lãnh thổ Âu-Lạc, thời Hùng Vương 6, của giặc Ân có lẽ xảy ra khoảng vài năm sau đó. Vùng Ân Khư cách Trường Giang khoảng vài trăm km đường chim bay. Như vậy nằm trong tầm hoạt động của kỵ binh nhà Ân. Con ngựa được biết du nhập vào Hoa bắc vào khoảng năm 2000 TCN. Đến năm 1600 TCN, nhà Thương hẳn là đã sở hữu một số lớn ngựa, đủ để thành lập lực lượng kỵ binh hùng hậu nhằm tiến hành các cuộc viễn chinh thôn tính chư hầu, mở rộng và quản lý lãnh thổ. Còn ở vùng Hoa nam, con ngựa chỉ xuất hiện trong đội quân xâm lăng của nhà Tần sau này. Như vậy, con ngựa sắt không phải là sáng tạo của người Việt, mà là hình ảnh mô phỏng từ con ngựa của kỵ binh nhà Ân. Thêm nữa, hình ảnh con ngựa bay là cảm xúc rất thật về tốc độ của con ngựa. Người dân thời Hùng Vương suốt đời chỉ di chuyển chậm rải trên đôi chân của mình. Súc vật quanh họ cũng không nhanh hơn họ bao nhiêu. Chỉ có những con chim trên trời di chuyển nhanh nhất, vì nó bay. Do đó, lần đầu tiên nhìn thấy con ngựa chạy nước đại, thi họ có cảm giác như con vật đang bay. Vì nhanh hơn cả chim. Từ hình ảnh con ngựa và tốc độ của nó trong mắt người dân Âu Lạc, có thể khẳng định cuộc chiến chống quân xâm lược của Hùng Vương thứ 6 là sự thật, và quân xâm lược không ai khác nhà Ân Thương. Đến đây có thể thấy ngôn ngữ truyền thuyết và nghệ thuật liên kết thông tin của Hùng Vương rất tế vi : bắt đầu từ Lạc long quân-Âu Cơ nên biết được quê hương Hùng Vương, biết quan hệ với nhà Thương, suy ra lãnh thổ của Hùng Vương, nguồn gốc Bách Việt, nguồn gốc người Việt hiện đại...và còn nhiều ví dụ khác chứng minh cho điều này. Truyền thuyết Thánh Gióng kể rằng vào thời Hùng Vương thứ 6, giặc Ân xâm lăng bờ cõi. Nhà vua cho người rao tìm người tài ra đánh giặc cứu nước...Đây là ngôn ngữ truyền thuyết. Vì giặc cướp cũng như lửa cháy. Không ai chữa cháy bằng cách cầu mưa cả. Như vậy khi giặc đến, thì người đứng đầu đất nước phải lập tức điều động quân lính chống giặc, chứ không thể ngồi yên chờ hiền tài cứu nước, vì biết có hiền tài hay không. Vậy câu trên có nghĩa nhà vua ra hiệu lệnh tập hợp lực lượng chiến đấu chống giặc. Lực lượng chiến đấu đó ở trong nhân dân- đúng hơn họ là những dân quân. Thời bình họ là những nông dân, thợ thủ công, xây dựng, người buôn bán.v..v...nhưng lực lượng nầy đã được Hùng Vương tổ chức huấn luyện, để chiến đấu theo đội ngũ, chiến thuật phối hợp rất thuần thục. Chính nhờ vậy,khi có hiệu lệnh của Hùng Vương, thì dù họ đang trên đồng ruộng, trên công trường, nơi buôn bán... đều nhanh chóng tập hợp lại tại điểm quy định. Hình ảnh Gióng ăn cơm do cả làng mang đến, và lớn như thổi tượng trưng cho lực lượng dân quân nhanh chóng quy tụ lại theo đội ngũ tề chỉnh . Nó cũng cho thấy kỹ thuật truyền tin của Hùng Vương rất hiệu quả. Chứng tỏ rằng Hùng Vương đã sáng tạo ra phương pháp truyền tin bằng tín hiệu âm thanh. Và dụng cụ phát tín hiệu có thể là cái mõ tre, một thứ rất dễ làm với nguyên liệu sẵn có trong địa phương. Nó rất gọn nhẹ nên người dân dễ mang theo khi đi làm việc để tiện liên lạc với nhau. Thành công này đem lại bất ngờ cho quân địch, và mang lại ưu thế cho quân nhà, theo phép “dĩ dật đãi lao” trong binh pháp. Thực ra, Gióng không có nguồn gốc thần thoại như nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công tìm kiếm. Nếu tìm hiểu bối cảnh chiến tranh và ý nghĩa của chiến thắng đó, thì hình ảnh Thánh Gióng mang ý nghĩa gì cũng rất rõ ràng. So sánh tương quan lực lượng, cho thấy giặc Ân chiếm ưu thế tuyệt đối: Kỵ binh của giặc Ân có ưu thế hơn hẳn bộ binh của người Việt, vì tính cơ động, tốc độ và lợi thế trên cao. Vũ khí của giặc là đao thương giáo mác...vũ khí của ta là một ít gậy sắt( thực ra là gậy đồng, nên mới gãy, và thời này là sơ kỳ đồ đồng ), và chủ yếu là gậy tre. Quân Ân mặc áo giáp da thú dày. còn quân ta thì không. Như vậy, nếu đánh trúng địch một gậy có thể gây thương tích nhẹ, nhưng một đao của đối phương có thể cướp đi một mạng sống. Dân quân của ta chưa có kinh nghiệm thực chiến, nên dễ rối loạn hàng ngũ trước chiến thuật linh hoạt của đối phương. Xuất thân là những nông dân hiền lành, chưa từng thấy cảnh máu chảy đầu rơi, chết chóc thảm thiết,nên có thể làm nhiều người run tay lợm giọng. Trái lại đã quen giết người thì cảnh này lại gây hưng phấn, kích thích tính tính hung bạo hiếu sát của quân địch. Trong hoàn cảnh này, kết quả trận chiến là do tài năng Hùng Vương quyết định. Và Hùng Vương đã vận dụng mưu lược để đánh địch, lấy yếu đánh mạnh. Muốn vậy Hùng Vương phải nắm rõ điểm mạnh, điểm yếu của đối phương, lẫn điểm mạnh, điểm yếu của quân nhà. Nhằm hạn chế ưu thế của kỵ binh, và vũ khí sát thương của địch, đồng thời tạo ưu thế của bộ binh trong môi trường quen thuộc có nhiều chướng ngại vật. Hùng Vương đã điều quân dẫn dụ địch vào rừng tre (hình ảnh Gióng nhổ bụi tre cho thấy diễn tiến tiếp theo của trận đãnh xảy ra trong rừng tre ), để nhờ lực lượng tự nhiên khắc chế địch. Và khi đã vây được địch quân trong rừng tre, Hùng Vương dùng hỏa công để diệt địch (hình ảnh con ngựa phun lửa). Kết thúc trận đánh, có lẽ không một tên giặc nào chạy thoát để về báo tin cho vua nhà Thương biết. Vì thế uy danh Hùng Vương, và xứ sở Văn Lang bí hiểm đã thành nỗi ám ảnh kinh hoàng với các vua nhà Ân. Nên từ đó đến kết thúc triều đại nhà Thương, không một ai dám mang quân xâm phạm lãnh thổ Hùng Vương, suốt thời gian dài gần 400 năm sau đó. Trong tình thế nắm chắc phần thua, và nguy cơ đất nước bị diệt vong thấy rõ. Nhưng bằng tài năng trí tuệ của mình, Hùng Vương đã diệt giặc để cứu nước bằng một biển lửa rực cháy. Trong con mắt người dân, biển lửa thiêu đốt quân thù trong rừng tre mang màu sắc thần thánh. Biển lửa đó chắc chắn do vị thần chủ quản đã tạo nên. Vị thần đó không ai khác thần Tre ( thánh Gióng) . Về sau, để tri ân, người dân đã lập đền thờ vị thần này là Phù Đổng Thiên Vương. Trong trận chiến này, Hùng Vương là người chỉ huy tối cao và quyết định thắng lợi. nhưng Hùng Vương không lộ diện. Ông nhường công trạng vĩ đại đó cho vị thần của nhân dân(đó là sự kết tinh của tinh thần đoàn kết dân tộc). Điều đó chứng minh Hùng Vương là một vị vua rất cao thượng và rất vĩ đại. Mô tả trận đánh giặc Ân cũng gián tiếp khẳng định quê hương của Hùng Vương là vùng hồ Động Đình, nơi có nhiều rừng tre. Điều nầy cho thấy văn minh Âu- Lạc hay của người Việt gắn liền với cây tre ngay từ thời Hùng Vương. Đó là một dấu hiệu đặc trưng của văn minh Hùng Vương. Cho nên, dù nền văn minh đó đã bị chiếm đoạt, thủ tiêu, đổi chủ, thì những dấu hiệu trên cũng xác nhận nền văn minh đó đã từng tồn tại. Và cho đến ngày nay, lũy tre làng vẫn là hình ảnh gắn liền với tình yêu quê hương đất nước. Một hình ảnh khác cho thấy, các Hùng Vương ung dung tọa trấn trong tiền đồn Âu –Lạc bất bại trên quê hương của mình bên dòng Trường Giang. Đó là hình chiến thuyền trên trống đồng. Bỡi vì trong lịch sử dân tộc, chưa bao giờ có một nước thù địch nào có ranh giới chung là sông Hồng. Thế nên chiến thuyền đó làm nhiệm vụ tuần tra chặn địch trên dòng Trường Giang, là ramh giới của người Việt với người Hán ở phương bắc. Và đây là lý do vì sao trống đồng của người Việt lại được tìm thấy ở Trung Quốc nhiều như vậy. Trước khi tìm hiểu niên đại Hùng Vương, quốc hiệu của nhà nước liên minh là một vấn đề cần làm rỏ. Truyền thuyết có chép rằng khi Hùng Vương lên ngôi đặt quốc hiệu là Văn Lang. Xã hội thời Hùng Vương có đủ điều kiện căn bản của một quốc gia như chủ quyền lãnh thổ được xác lập( bắc giáp động Đinh hồ, đông giáp.v.v....), có dân cư ổn định, được lãnh đạo thống nhất bỡi Hùng Vương.v..v... Tuy nhiên Hùng Vương có thể đã không đặt quốc hiệu. Hoặc nếu có thì cũng không chọn tên Văn Lang.Vì: Chữ Văn Lang chỉ có nghĩa là người đàn ông xâm (hoặc vẽ) mình. Ý nghĩa này được thể hiện qua tượng người đàn ông Việt(nước Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc) tóc ngắn, và có những hình xâm trên người(ảnh trên trang Wiki). Nước Việt của Câu Tiển thành lập ngay trên bờ nam nơi cửa sông Trường Giang. Đây là cái nôi của người Lạc. Vì vậy cư dân nước Việt hầu hết là người Lạc, và tục xâm mình là nét văn hóa đặc thù của họ. Những văn lang là một bộ phận của cư dân người Lạc làm nghề đánh cá trên sông hoặc biển. Những người này có tục xâm mình và ở trần mõi khi xuống nước. Có thể người Hán xử dụng nó như một chỉ dấu nhận diện người Lạc, và tên này dùng để gọi người Việt thời Hùng Vương. Liên minh Âu-Lạc được hợp thành từ hai tộc có vai trò và vị trí quyền lực ngang nhau. Do đó một bộ phận dân Lạc không có tư cách đại diện cho liên minh để trở thành quốc hiệu được. Quốc hiệu hay tên nước dùng để gọi, hoặc để xưng hô với nước khác. Thời Hùng Vương hoàn toàn không có bang giao với nước ngoài. Vì vậy có thể không có quốc hiệu. Như vậy chắc chắn không có quốc hiệu Văn Lang, và đó cũng là lý do mà từ này không thấy ghi trong sách cổ của Trung Hoa. Trong khi đó từ Bách Việt xuất hiện trong những sự kiện có niên điểm thuộc thế kỷ 9-10TCN. Thời Hùng Vương là một giai đoạn lịch sử chứa nhiều nghi vấn. Trong đó, lãnh thổ là một vấn đề gây tranh cải. Vào thời điểm không có xe, ngựa, thì việc quản lý một lãnh thổ rộng hàng triệu km². Từ hồ Động Đình ở phía bắc, đến Chiêm Thành ở phía nam, từ vùng biển ở phía đông, đến vùng núi non ở phía tây, là một điều khó tin. Nhưng ở đây cần phân biệt khái niệm lãnh thổ chiếm hữu và lãnh thổ chiếm dụng. Lãnh thổ của Hùng Vương là lãnh thổ chiếm hữu. Và đây là một vùng lục địa khá cô lập. Vì ngoài biên giới phía bắc xung yếu nên Hùng Vương phải đích thân trấn giữ. Các hướng khác đều có núi cao , biển sâu bao bọc, ngăn chặn rất hiệu quả mọi xâm nhập từ bên ngoài. Do đó, Hùng Vương có thể tổ chức các phiên đội tuần tra, đồn trú để giám sát, phát hiện mọi xâm nhập nếu có để báo với Hùng Vương xử lý. Kết quả cho thấy suốt thời đại Hùng Vương đó chỉ có một lần giặc Ân đã xâm nhập từ phương bắc, và đã bị tiêu diệt. Có thể nhiều toán tuần tra, đồn trú đã hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ, với thời gian kéo dài nhiều năm. Dấu vết của họ có thể còn lưu lại rải rác đó đây trên lãnh thổ miền bắc Việt Nam mà các nhà khảo cổ đã tìm thấy. Nó chứng tỏ rằng thời Hùng Vương, ngoài dân Âu Lạc thì không có bất cứ tộc người nào sống quần cư trên lãnh thổ do Hùng Vương chiếm hữu. Bằng phương pháp tương tự các chúa Nguyễn cũng đã xác lập chủ quyền quốc gia trên đảo Hoàng Sa vào thế kỷ 18, mà không cần đưa cư dân đến sinh sống. Vậy lãnh thổ của Hùng Vương bao gồm toàn bộ vùng Hoa nam cùng với miền bắc Việt Nam là sự thật lịch sử. Nhà Thương khởi nghiệp vào năm 1600TCN, sau đó dời đô về Ân Khư năm 1384TCN. Giả sử, sau khi ổn định kinh đô mới, nhà Ân tiến hành chiến tranh xâm lược đất nước Hùng Vương thứ 6 khoảng vài năm sau đó. Giả sử thời điểm đó là vào năm 1382 TCN. Ở trên, đã phỏng đoán liên minh Âu –Lạc ra đời năm 1595TCN.Tính ra từ Lạc long Quân đến Hùng Vương thứ 6 là 7 đời, thời gian trị vì tổng cộng 213 năm. Trung bình mỗi đời vua trị vì khoảng 30 năm. Suy ra liên minh Âu Lạc, từ Lạc long Quân đến Hùng Vương 18 kéo dài 570 năm. Bắt đầu khoảng từ 1595TCN và kết thúc vào khoảng năm 1025 trước CN. So sánh có thể thấy niên đại của nhà nước Âu-Lạc (khoảng 1595-1025T CN) với nhà Thương (1600-1046 trước CN ) ở cùng giai đoạn lịch sử. Liên minh Âu-Lạc có tổng cộng 19 đời vua, mỗi đời trị vì trung bình 30 năm. Nhà Thương có 30 đời vua, mỗi đời trung bình gần19 năm. Sự chênh lệch này có thể hiểu được. Thời gian trị vì của Hùng Vương lâu hơn vì nhờ đất nước thanh bình , không có chiến tranh (ngoại trừ một lần với giặc Ân vào đời Hùng Vương thứ 6). Hơn nữa, vua là người đứng đầu liên minh, nên do hai tộc chọn lựa theo những tiêu chí nhất định. Cũng không có xảy ra tranh giành ngôi vị, nên không có yếu tố bất ngờ. Những nhận định trên khá tương hợp với sử sách Trung Hoa về thời gian. Tuy từ “Văn Lang”không thấy ghi trong sách vở , nhưng từ “Bách Việt “ đã được ghi nhận từ thế kỉ 10 trước CN. Nghĩa là sau khi kết thúc thời Hùng Vương 18 với sự tan rã liên minh Âu-Lạc. Để đảm bảo cho cơ chế cân bằng quyền lực của nhà nước Âu-Lạc không bị phá vỡ, mỗi vị thủ lĩnh có quyền quản lý một vùng đất có diện tích và dân cư nhất định, gọi là làng. Đồng thời, số lượng thủ lĩnh của hai tộc phải luôn bằng nhau. Nghĩa là khi một làng người Âu được lập thì cũng có một làng người Lạc ra đời.Theo cơ chế này, đến cuối thời Hùng Vương thứ mười tám, liên minh Âu-Lạc có khoảng 100 ngôi làng. Gồm 50 làng người Âu và 50 làng người Lạc. Tương ứng có 50 thủ lĩnh nữ và 50 thủ lĩnh nam như truyền thuyết nói: năm mươi con gái và năm mươi con trai. Khi chia tay, Lạc long Quân nói Âu Cơ dẫn 50 con gái lên núi, còn mình dẫn 50 con trai xuống biển. Cách chia 50/50 là công bằng và cho thấy lực lượng hai bên ngang nhau. Tỉ lệ nầy không chỉ cân bằng về lượng mà còn cân bằng về giới tính. Điều này cho thấy xã hội thời Hùng Vương luôn ở trạng thái cân bằng quyền lực giữa hai tộc. Hay nói cách khác phân số quyền lực của nam nữ bằng nhau. Đó là nguồn gốc của nền văn hóa mang tính nhân văn và bình đẳng giới. Vai trò và vị trí của người phụ nữ trong xã hội Hùng Vương được tôn trọng ngang với nam nhân. Đây điểm tiến bộ vượt thời đại và đối lập với văn hóa Nho giáo. Tỉ lệ trên cũng cho thấy nhà nước Âu Lạc là một thực thể cân bằng âm dương. Nó là một hình ảnh sinh động của một lưỡng nghi nhân văn. Đó là nguồn gốc của văn hóa âm dương, của kinh dịch. Như vậy dù không nắm giữ di cảo kinh dịch, nhưng có rất nhiều bằng chứng gián tiếp cho thấy kinh dịch là một sản phẩm của nền văn minh Âu-Lạc. Việc thành lập liên minh đã làm thay đổi sâu sắc đời sống văn hóa xã hội của người dân theo chiều hướng tích cực, do sự giao thoa giữa hai nền văn hóa Âu và Lạc. Xã hội phát triển rất nhanh, đời sống tinh thần lẫn vật chất của người dân được nâng lên rất cao, nhờ phối hợp văn hóa và kỹ năng truyền thống của hai tộc. Người Lạc rất giỏi về cơ khí chế tạo và xây dựng như chế tạo tàu thuyền, xây dựng nhà cửa, công trình thủy lợi..v..v....Người Âu giỏi về nghành thủ công mỹ nghệ và nghệ thuật như dệt vải, may thêu, điêu khắc, ca múa...v..v...Trống đồng có thể do các nghệ nhân người Âu thực hiện. Nhìn chung văn hóa và văn minh Hùng Vương có thể nói là đỉnh cao của thời đại. Có được thành quả này là nhờ quá trình xây dựng và phát triển liên tục trong thời gian gần 600 năm không bị chiến tranh tàn phá hay làm gián đoạn. Quá trình đó cũng được thực hiện bỡi một ý chí của toàn dân và sự dẫn dắt của những vị vua tài ba xuất chúng. Đây cũng là một yếu tố quan trọng đem lại những thành tựu vượt bậc về mọi mặt của nhân dân Âu Lạc. Hùng Vương là người đứng đầu liên minh chỉ xử lý những vấn đề chung của nhà nước liên minh, đặc biệt là vấn đề an ninh. Những việc riêng của mỗi tộc có tính cách đặc thù nên phải do chính các thủ lĩnh và thuộc cấp tự lo liệu. Từ đó cho thấy quyền hành thực sự nằm trong tay các thủ lĩnh. Còn vai trò của Hùng Vương giống như một trọng tài hay thẩm phán hơn là một vị vua đầy quyền lực như của người Hán. Do đó, khi các thủ lĩnh muốn giải thể liên minh, Hùng Vương thứ mười tám không đủ quyền hạn để ngăn chặn. Vì thế liên minh Âu-Lạc bị chia nhỏ thành Bách Việt Nguyên nhân tan rã của nhà nước Âu Lạc Có thể có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tan vỡ liên minh Âu-Lạc, với hình ảnh tượng trưng là cuộc ly hôn của Lạc long Quân và Âu Cơ. Có thể kể vài nguyên nhân quan trọng: Sự hợp nhất hai tộc giống một phản ứng tổng hợp có chất xúc tác. Khi không còn chất xúc tác, phản ứng sẽ đảo chiều thành phân giải. Chất xúc tác ở đây là nhà Thương và mối đe dọa đi kèm. Nhà Thương bị diệt vong có nghĩa là không còn chất xúc tác, nên liên minh cũng tan rã. Về nguyên tắc là như thế, nhưng ở đây không phải là một phản ứng thuần hóa học. Mà yếu tố tinh thần hay tính cách của con người mới là yếu tố quyết định. Khi Lạc long Quân cầu hôn Âu Cơ, có thể mang ý nghĩa người Lạc chủ động đề nghị liên minh với người Âu, và đạt được sự đồng thuận nên liên minh thành hình. Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Vì khi đó lực lượng người Lạc còn quá mỏng, mà đường biên giới quá dài. Nếu chiến tranh xảy ra quá sớm, thì người Lạc không thể tự bảo vệ được. Tất cả tài sản, ruộng vườn nhà cửa bị phá hủy và sinh mạng tộc dân bị đe dọa. Vì họ là dân định cư làm lúa nước nên địa bàn cư trú thích hợp có phần hạn chế. Trong khi đó thiệt hại của người Âu không đáng kể, vì họ là dân du canh du cư, sống trên núi cao, có rừng núi che chở nên quân thù khó làm hại họ được. Khi Lạc long Quân nói lời chia tay, cũng có thể hiểu là người Lạc chủ động đề xuất giải thể liên minh. Điều này chứng tỏ nhà Thương đã bị diệt vong, và nhất là lực lượng của người Lạc đã rất hùng mạnh, nên không hề sợ bất cứ thế lực nào đến từ phương bắc. Vì vậy họ muốn tự quyết các vấn đề riêng của người Lạc. Nguyên nhân này có nguồn gốc từ bên ngoài. Nguyên nhân nội tại của sự tan rã liên minh là do quá trình phát triển không động bộ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Khi cở chế tổ chức và điều hành cũ không còn thích hợp với trình độ và sự phát triển của xã hội mới. Sự xung đột giữa các giá trị cũ và mới, giữa vật chất và tinh thần đã phá vỡ cấu trúc vốn có của xã hội. Mối quan hệ dựa trên nền tảng tình cảm của xã hội sơ khai thời Hùng Vương thứ nhất không còn phù hợp với một xã hội đã phát triển cao thời Hùng Vương thứ 18, là kết quả sau nhiều năm tập trung xây dựng và tích lũy của toàn dân, mà không bị thiên tai hoặc chiến tranh tàn phá. Hùng Vương đưa hình ảnh trăm trứng vào truyền thuyết, không nhằm mục đích nhắc nhở nguồn gốc rồng(đẻ trứng) của Lạc long Quân như nhiều người nghĩ. Bỡi vì Lạc long Quân không phải rồng. Hùng Vương dùng hình ảnh một bọc trứng, và quá trình phát triển của quả trứng để mô tả xã hội Âu-Lạc. Có thể quan sát một tổ chim để thấy hình ảnh đó: phôi bào trong mỗi quả trứng được bảo vệ an toàn nhờ vỏ trứng. khi phôi phát triển thành chim con hoàn chỉnh. Khi ấy vỏ trứng trở thành vật ngăn cản sự phát triển và tồn tại của nó. Vì vậy nó phải phá vỏ trứng để chui ra. Khi những con chim đã cứng cáp thì nó cũng phải rời tổ để sống một cách độc lập. Một trăm người con được sinh ra, được nuôi dưỡng bỡi gia đình Âu –Lạc. Khi họ trưởng thành, gia đình cũ không còn đủ không gian cho họ phát triển nữa, nên họ phải ly khai để tạo lập một cơ ngơi riêng cho mình. Đó là quy luật. Hùng Vương không can thiệp vào những việc có tính quy luật. Hình ảnh này có thể thấy qua truyền thống cho con ra ở riêng, khi đã trưởng thành và lập gia đình của người Việt. Hùng Vương dùng hình ảnh một bọc trứng chỉ để nhắc nhở con cháu dù ở nơi đâu, lúc nào, dù Âu hay Lạc, đều là anh em cùng một bào thai (đồng bào). Vì vậy họ phải thương yêu, giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau, để không có cảnh “gà nhà bôi mặt đá nhau”. Điều này được khắc họa trong câu nói của Lạc long Quân khi chia tay: Lên núi, xuống biển, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên nhau. Tinh thần nầy cũng bàng bạc trong câu ca dao: Bầu ơi thương lấy bí cùng./ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Điều dạy dỗ của Hùng Vương đã nhiều phen cứu dân tộc thoát khỏi thảm họa diệt vong hoặc nô lệ ngoại bang. Nó được cụ thể hóa bằng tinh thần đoàn kết dân tộc để chống lại kẻ thù xâm lược. Đó chính là món thần khí vô thượng của dân tộc, mà mỗi lần xuất hiện dưới một hình thái và tên gọi khác nhau. Thời Hùng Vương 6 là Thánh Gióng, với An dương Vương là Nỏ thần, thời Trần là hội nghị Diên Hồng, thời Lê Lợi là kiếm Thuận Thiên... Lịch sử đã chứng minh đây là sự thật: Thục Phán thắng Đồ Thư là nhờ có thành Cổ Loa và Nỏ thần, nhưng chừng đó chưa đủ. Cần phải có sự đồng lòng hy sinh để chiến đấu chống giặc của nhân dân Âu và Lạc- tức là dân Bách Việt. Đó là lý do khi lên ngôi ông lấy quốc hiệu Âu Lạc. Khi ông bị Triệu Đà tiêu diệt, thì nỏ liên châu vẫn còn với hàng vạn mũi tên đồng, Cổ Loa thành vẫn sừng sửng. Chỉ có lòng dân không còn ủng hộ nữa. Nghĩa là ông không còn giữ được món thần khí của dân tộc được gọi là Nỏ thần để giữ nước và bảo mệnh. Sự thất bại của bà Trưng cũng là một minh chứng: Bà Trưng là một thủ lĩnh cuối cùng của người Âu. Bà đã khởi nghĩa trong một hoàn cảnh không thuận lợi. Không hội đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi nhân hòa như mong muốn. Tuy bà được sự ủng hộ của đông đảo người Âu, nhưng lực lượng người Âu rất mỏng và phân tán. Lực lượng người Lạc đông và tập trung nhưng không ủng hộ bà. Vì vậy quân của bà vừa ít và toàn nữ binh, nên phải chịu thảm bại trước Mã Viện. Cả dân tộc phải tiếp tục mang xích xiềng nô lệ! Bà thất bại chỉ vì không có được thần khí như Thục Phán. Và đó cũng là một bài học đắt giá cho dân tộc. Văn hóa Âu-Lạc Đây là một chủ đề lớn và vô cùng quan trọng. nó rất phức tạp và cũng rất khó tiếp cận. Có thể xem nguồn gốc văn hóa Âu –Lạc là văn hóa lúa nước, kết hợp văn hóa tre trúc trong tinh thần triết lý Âm Dương. Triết lý Âm Dương là nền tảng của văn hóa Âu Lạc. Nó phát sinh từ cấu trúc của liên minh Âu Lạc, và phát triển nhờ cơ chế cân bằng quyền lực của nhà nước liên minh đó. Số thủ lĩnh Âu luôn luôn bằng số thủ lĩnh Lạc. Đồng thời vai trò và vị trí của một thủ lĩnh Âu(nữ) cũng giống như một thủ lĩnh Lạc(nam). Đây là nguồn gốc của nền văn hóa nhân bản trên tinh thần bình đẳng giới. Trên nền văn hóa đó, tính nhân văn trong hôn nhân và tình yêu đã được đề cao, cũng như tư tưởng tự do luyến ái cũng được thừa nhận. Nét văn hóa này được minh họa qua truyền thuyết Tiên Dung và Chữ đồng Tử. Cuộc hôn nhân này do chính hai người chọn lựa, không chịu một sự ràng buộc hay áp đặt nào. Họ vượt qua những khác biệt về nguồn gốc, giai cấp, giàu nghèo sang hèn...để đến với nhau bằng tình yêu. Có thể những câu thơ, lời ca mà Khổng Tử đã loại bỏ khi san định kinh thi có nguồn gốc từ văn hóa Âm Dương nên không phù hợp với luân lý Nho Giáo(?). Dù với lòng tự hào dân tộc của người Việt, trước nay vẫn có rất nhiều người không tin rằng tổ tiên Hùng Vương của họ đứng đầu một nền văn hóa nhân bản tiến bộ, và những thành tựu của một nền văn minh hàng đầu thời đại. Bỡi có một “đứt gãy văn hóa” thời Bách Việt đã vĩnh viễn chia cắt họ với lục địa văn hóa của tổ tiên Hùng Vương. Dòng chảy lịch sử cũng đã xô đẩy tổ tiên người Việt hiện đại rời xa cái nôi văn hóa của mình để đến miền đất xa xôi phương nam vào khoảng tk6-tk7TCN (theo một số nhà nghiên cứu). Nhưng những dấu hiệu lịch sử, và trình độ phát triển xã hội lẫn mật độ dân cư cho thấy thời điểm đó có thể muộn hơn rất nhiều. Nhưng cho dù sợi dây liên lạc đã bị cắt đứt, hầu hết dấu vết bị xóa bỏ, những hình trạng đã được ngụy trang. Vẫn còn những dấu hiệu đặc trưng của nền văn hóa đó không thể xóa bỏ, là lời khẳng định nền văn minh đó đã tồn tại trong lịch sử. Trước thời Hùng Vương hàng ngàn năm, người Lạc đã canh tác lúa nước trên vùng đất trũng ngập của tam giác châu Trường Giang. Cùng lúc đó những ngư dân người Lạc cũng đánh bắt trên dòng sông ấy và vùng biển phía nam. Trãi qua hàng ngàn năm quan sát theo dõi những con nước triều lớn, ròng để gieo trồng, chắc chắn người Lạc đã phát hiện ra mối liên hệ giữa hoạt động của thủy triều và chu kỳ hoạt động của mặt trăng. Dựa vào tính chu kỳ đó người tính được ngày, tháng, năm âm lịch. Từ đó người ta xác định thời biểu cho mùa vụ. Ngoài ra việc canh tác cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của mưa nắng. cho nên hoạt động của mặt trời và những thiên tượng cũng không bị bỏ qua. Thời tiết cũng là một nhân tố ảnh hưởng quyết định đến hoạt động đánh bắt trên biển của người Lạc. Hình thuyền trên trống đồng tạo mũi rất cao có khả năng cắt sóng biển, và tục thờ cá ông cho thấy họ đã đánh bắt xa bờ rất sớm. Đi biển cần nắm rõ thời tiết và mùa vụ để đảm bảo an toàn cho bản thân cũng như hiệu quả công việc. Đồng thời cũng phải biết quan sát tinh tú để tìm phương hướng, xác định tọa độ địa lý đất liền để trở về. Tóm lại sự kết hợp và chia xẻ kinh nghiệm giữa những nông dân và ngư dân làm họ trở thành những người rất giỏi về thiên văn và lịch pháp. Có thể tin rằng người Lạc đã làm ra lịch từ rất lâu dựa vào chu kỳ mặt trăng. Đến thời Hùng Vương với tài năng siêu việt đồng thời tiếp thu hai luồng kiến thức của Âu Lạc, có thể Hùng Vương đã hoàn thiện Âm lịch, cùng lúc nghiên cứu về thiên văn địa lý nhằm xác định và quản lý lãnh thổ của mình, cũng như để phục vụ sản xuất. Trước thời Hùng Vương, người Lạc đã biết xử dụng cây tre trong đời sống. Nhưng để trở thành biểu tượng văn hóa của người Việt có lẽ bắt đầu vào thời Hùng Vương. Cây tre có thể dùng làm thực phẩm nhưng đó không phải là công dụng chính của cây tre. Cây tre là cây công nghiệp. Nó là nguyên liệu chế biến thủ công, và ngành xây dựng. Thưở xưa người Việt gắn bó với cây tre suốt cả cuộc đời. Thuở sơ sinh nằm trong nôi tre, lớn lên nằm trên chõng tre, ở nhà tre, ăn đũa tre....chết chôn trong quách tre. Cây tre là một phần của cuộc sống, một phần không thể thiếu. Sống và chết cùng cây tre nên người Việt không bao giờ rời xa nó. Cây tre che chở cho con người trong thiên tai bão lũ, cùng họ chống lại quân thù. Vì thế đi đâu người Việt cũng mang nó theo. Do đó làng quê nào cũng có lũy tre xanh, mặc dù khả năng phát tán của cây tre không cao. Và cũng nhờ gắn bó cả đời với cây tre, hiểu rõ tập tính cây tre nên mới chọn cây tre làm biểu tượng của người quân tử. Các Hùng Vương là biểu tượng cho sự tận tâm cống hiến, cùng trách nhiệm với dân tộc và đất nước, chứ không vì quyền lực lợi danh. Dù chiến thắng giặc Ân đã cứu đất nước thoát khỏi họa xâm lăng, nhưng Hùng Vương 6 đã tỏ ra vô cùng khiêm tốn, không nhận công lao về mình. Lòng rỗng không như cây tre. Danh lợi không làm chao đảo, sắc dục không làm cho mê lụy, quyền uy không làm cho khuất phục. Hùng Vương là một điển hình cho mẫu người quân tử. Suốt cuộc đời của những Hùng Vương ở giữa ranh giới quyền lực của hai tộc người Âu và Lạc. Không ngã theo bên này, cũng không ngã theo bên kia. Suốt đời thực hành đạo trung dung. Do đó đạo Trung dung là đạo của Hùng Vương. Trước thời Hùng Vương có thể người Âu và người Lạc không có chữ viết, nhưng chắc chắn phải có một số ký hiệu cơ bản để đánh dấu những sự kiện quan trọng như việc sinh tử, mùa vụ v,,v...việc đánh dấu rất dễ thực hiện bằng các nét vạch đơn giản trên thân những cột tre trong nhà. Do lớp vỏ tre mỏng và mềm, nên có thể thực hiện các nét vạch bằng những vật tương đối cứng như mãnh đá, vỏ sò, vỏ ốc...là những thứ rất sẵn. Không cần phải dùng vật cứng khó tìm bằng kim loại như khi khắc trên xương động vật. Còn nguyên liệu tre thì vô cùng phong phú. Xét theo điều kiện cơ bản thì ý tưởng và chữ viết sơ khai xuất hiện rất sớm ở miền Hoa nam, tức là vùng đất Âu Lạc. Hùng Vương là con của Lạc long Quân và Âu Cơ, nên đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa của hai chủng tộc Âu và Lạc từ hai vị thủ lĩnh này. Với tài năng xuất chúng của mình, nên khi kế thừa ý tưởng và những bước đi cơ bản ban đầu, Hùng Vương đã từng bước hoàn thiện hệ thống chữ viết của mình. Một loại chữ viết chung cho hai tộc là một nhu cầu bức thiết cho việc điều hành và phát triển của cộng đồng Âu-Lạc. Điều này thôi thúc các Hùng Vương phải sáng tạo ra chữ viết. Trách nhiệm này được chuyển giao từ thế hệ trước cho thế hệ sau, nếu thế hệ trước chưa hoàn thành. Một vấn đề không quá khó khăn đối với những nhân tài kiệt xuất như Hùng Vương, với nổ lực liên tục kéo dài suốt hơn 500 năm với 18 đời Hùng Vương, thì thành công tạo ra chữ viết là điều chắc chắn. Qua các truyền thuyết cũng như suy luận, hình ảnh của các Hùng Vương hoàn toàn đối lập với các ông vua người Hán, những người xây dựng vương nghiệp bằng thanh gươm trên lưng ngựa, nơi chiến trường máu đổ đầu rơi! Các vị Hùng Vương mặc dù ở ngôi vị cao cả, nhưng không đam mê quyền lực, danh vọng. Từ truyền thuyết Thánh Gióng cho thấy Hùng Vương không tôn thờ bạo lực như các ông vua người Hán. Do đó Hùng Vương không trực tiếp đánh giặc, mà chỉ dạy cho nhân dân cách đánh giặc và chiến thắng giặc ngoại xâm. Như vậy, điều Hùng Vương theo đuổi chính là các giá trị tư tưởng văn hóa, khoa học. Các giá trị này đúc kết thành sức mạnh tinh thần- đó mới là sức mạnh tối thượng. Điều này thường thấy thiếu ở các ông vua phương Bắc. Nó thể hiện qua chuyện Lưu Bị phải cầu Khổng Minh, Tôn Quyền cần Chu Du...đến như Tào Tháo, Tần thủy Hoàng... và nhiều người khác, từ khi khởi nghiệp đến cai quản đất nước, đều không một ngày thiếu bóng các mưu sĩ hay quân sư để giải quyết các vấn đề quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa...của đất nước. Tất cả những vấn đề này ở nhà nước Âu Lạc đều do một mình Hùng Vương giải quyết một cách hoàn hảo. Vì đó là vị “vua kiệt xuất”. Như vậy có thể hình dung cách điều hành đất nước của Hùng Vương giống với một ông thầy hơn là một vi vua. Theo đó Hùng Vương thường xuyên tập trung các thủ lĩnh lại để dạy cho họ cách thức điều hành công việc, tổ chức sản xuất...tại các làng xã mà họ trực tiếp quản lý. Công việc còn lại của Hùng Vương là nghiên cứu văn hóa, xã hội, khoa học, triết học...Do đó theo lý thuyết xác xuất thì các Hùng Vương đã sáng tạo ra chữ viết riêng, và là chủ nhân của các tác phẩm như Kinh Dịch, lịch pháp, sách thuốc.... Trước thời Hùng Vương người Lạc đã ở nhà sàn, vì họ ở trên vùng đất thấp ngập. Cây tre là vật liệu chính để làm nhà, vì dễ khai thác, chế biến , và rất phong phú dễ tìm. Như vậy thói quen đánh dấu vạch trên cột tre cũng đã có từ rất lâu. Thói quen nầy đã định hình lối viết theo cột từ trên xuống dưới. Khi Hùng Vương đã hoàn thiện chữ viết thì cũng giữ nguyên tắc nầy, nghĩa là viết theo cột dọc từ trên xuống dưới. Sự cải tiến của Hùng Vương giúp cho chữ viết phát triển vượt bậc là chế tạo các thanh tre thay cho cột tre, và dùng mực để viết thay vì vạch bằng vật cứng. Cây bút ban đầu có lẽ được chế tạo khá đơn giản chỉ bằng một que tre đập dập. Còn mực viết thì cũng rất sẵn, vì người Lạc vẫn dùng để xâm mình. Từ các nhận định trên có thể đi đến kết luận là Hùng Vương đã hoàn thiện chữ viết riêng, và chữ viết trên thanh tre hay còn gọi là trúc văn là chữ của Hùng Vương. Rất nhiều người kể cả người Việt đều không đồng tình với kết luận trên, vì là con cháu Hùng Vương, nhưng người Việt cũng chưa hề thấy được chữ viết của Hùng Vương. Hiện tượng này có thể giải thích bỡi sự xuất hiện của một “đứt gãy văn hóa” thời Bách Việt như đã đề cập. Ngoài ra sự phân tầng văn hóa xã hội cũng góp phần quan trọng vào hiện tượng nầy. Một ví dụ cho thấy chữ Hán đã được du nhập vào Việt Nam từ đầu công nguyên, và sau gần 2000 năm tồn tại vẫn không có bao nhiêu người học và xử dụng được chữ Hán. Và tuyệt đại đa số những người biết chữ Hán là giới trí thức , quan lại rất ít ỏi. Như vậy, một nhóm cháu con sinh sau đẻ muộn, thuộc tầng lớp nông dân nghèo khổ, đã rời khỏi ngôi nhà tổ của mình với khoảng cách hàng nghìn dặm không gian, và hàng ngàn năm thời gian, nên chẳng nhận được một chút gì di sản của tổ tiên thì cũng không có gì lạ. Thời đại Hùng Vương đã chứng kiến sự nổ lực không mệt mõi của các Hùng Vương nhằm thống nhất hai tộc người Âu Lạc. Nhân tố quan trọng hàng đầu để thống nhất hai tộc- đó là ngôn ngữ, bao gồm nói và viết. Mặc dù Hùng Vương đã tìm được ngôn ngữ chung. Nhưng do hai tộc người có những đặc điểm xung khắc nhau về mọi mặt, từ nguồn gốc lịch sử, ngôn ngữ , phong tục, tín ngưỡng, môi trường sống...Sự xung khắc không thể hóa giải giống như lời Lạc long Quân nói với Âu Cơ lúc chia tay; đó là vì không ai nhường ai, ai cũng có niềm tự tôn dân tộc. Việc thống nhất hai tộc vì thế rất phức tạp, và vô cùng khó khăn, đến nỗi công sức của 18 đời Hùng Vương cũng thành dã tràng! Gia đình Âu –Lạc tan vỡ thành 100 mảnh Bách Việt. Mặc dù kết quả cuối cùng không như mong đợi, nhưng những nổ lực của Hùng Vương trong các bước chiến lược để thống nhất hai tộc, cũng đã trở thành tài sản vô giá dành cho thế hệ mai sau. Đó là tiếng nói và chữ viết. Trong các truyền thuyết thời Hùng Vương ta bắt gặp những từ như: Lạc long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương. v..v...những từ gọi là Hán tự. Thế nhưng thời Hùng Vương hoàn toàn không có bang giao với người Hán. Sau trận chiến với quân nhà Ân, Hùng Vương đã thể hiện quyết tâm không cho người Hán đặt chân lên lãnh thổ của mình nữa, bằng một đội chiến thuyền và những thủy binh được trang bị đầy đủ để chặn đánh địch quân ngay trên dòng Trường Giang. Như vậy không có con đường du nhập ngôn ngữ Hoa bắc vào Hoa nam thời đó. Suy ra những danh xưng trên chính là ngôn ngữ của Hùng Vương. Nó thể hiện bước đầu tiên trong nổ lực thống nhất Âu –Lạc là thống nhất ngôn ngữ. Theo Hùng Vương, ngôn ngữ của nước Âu –Lạc thống nhất là một ngôn ngữ trung tính. Không phải Âu cũng không phải Lạc. Và trong khởi đầu, danh xưng tổ tiên của hai tộc phải được gọi bằng một tên chung, bằng ngôn ngữ thống nhất của Hùng Vương. Ngôn ngữ chung này chắc chắn đã được xử dụng phổ biến ở trung tâm văn hóa Âu-Lạc và những vùng kế cận, hay dọc theo Trường Giang. Tiếp theo trong nổ lực thống nhất Âu –Lạc của Hùng Vương là tạo ra chữ viết. Chữ viết là một nhân tố hết sức quan trọng trong, và để một nền văn hóa phát triển. Hơn nữa, chữ viết là một công cụ hành chính không thể thiếu trong hoạt động của một nhà nước, dù là nhà nước còn sơ khai. Vì người Việt không có các di cảo của Hùng Vương trong tay, nên việc chứng minh sự tồn tại chữ viết của Hùng Vương vô cùng khó khăn. Tuy vậy cũng có thể tìm thấy dấu hiệu của chữ viết vào thời Hùng Vương thứ 6 qua truyền thuyết bánh chưng bánh dày. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hình dáng bánh chưng vuông tượng trưng cho đất, bánh dày tròn tượng trưng cho trời. Đó là hai biểu tượng âm-dương trong kinh dịch. Nhưng đây cũng có thể là biểu thị cho chữ viết tượng hình, nói lên nguồn gốc nguyên liệu làm ra loại bánh này. Trong đó, bánh chưng hình vuông có các sợi lạc cột ngang dọc tạo thành các ô vuông nổi bật trên mặt bánh như những thửa ruộng ngoài đồng, đây là chữ điền (ruộng). Bánh dày hình tròn và một miếng nhân trên mặt, biểu thị cho mặt trời trong chữ viết tượng hình. Khi viết trong khuôn khổ của thanh tre, hình tròn biến thành hình vuông cho cân đối. đây là chữ nhật (mặt trời). Chữ viết không phải không phải là một sản phẩm văn hóa thích hợp và được ưa chuộng của người nông dân, nên không phổ biến trong một xã hội nông nghiệp. Và có thể Hùng Vương vận dụng những phong tục dân gian để giản dị hóa chữ viết giúp người nông dân dễ tiếp thu hơn. Các nhà khoa học muốn tìm kiếm sự sống trên các hành tinh, trước hết họ phải xác định được các điều kiện lý hóa...của môi trường mà sự sống có thể tồn tại. Xét các điều kiện để chữ viết hình thành và phát triển, thì nền văn minh Hùng Vương chính là một cái nôi tốt nhất. Nhà Thương sáng tạo chữ giáp cốt để phục vụ cho việc quản lý quốc gia, ghi chép chính sự...Hùng Vương cũng cần chữ viết để quản lý đất nước. Đặc biệt mô hình tổ chức nhà nước Âu Lạc rất dễ xảy ra những mâu thuẫn, tranh cải, vì hai tộc người có tính cách đối lập, lần đầu sống kề cận nhau trong cùng một không gian chung. Trong những trường hợp như thế, để làm tốt vai trò của một người trọng tài phân giải công minh, Hùng Vương cần có trong tay những văn bản ghi chép các điều hai bên đã thỏa thuận hay cam kết để làm bằng. Có nghĩa là chữ viết là một công cụ không thể thiếu. Chữ viết là thành quả sáng tạo của những con người tài ba, đó là các vị quan trong triều nhà Thương. Còn ở đất nước Âu Lạc, những con người tài ba đó chính là các vị Hùng Vương. Hai điều trên cho thấy nhu cầu và khả năng xuất hiện chữ viết như nhau giữa hai miền nam và bắc. Song xét qui trình viết chữ và môi trường phát triển cũng như phổ biến thì miền bắc không thuận lợi bằng. Lịch sử chữ Hán cho thấy trải qua một thời gian dài, cách viết chữ vẫn là dùng vật nhọn bằng kim khí để khắc chữ lên các mảnh xương thú hoặc mai rùa(giáp cốt văn), kế đến là khắc trên kim loại(kim văn), trên đá(thạch cổ văn)...Qui trình này khó thực hiện nên rất hạn chế số người xử dụng chữ viết. Điều này làm cho chữ viết không thể phổ biến nên khó phát triển và hoàn thiện nó. Với Hùng Vương thì qui trình rất đơn giản. Từ rất lâu, hàng ngày người Lạc vẫn xử dụng cây tre làm nguyên liệu chế tạo các vật dụng sinh hoạt, hoặc vật liệu để làm nhà cửa...nguyên liệu ban đầu thường là những thanh tre mỏng và dài được chẻ từ thân tre phơi khô. Khi dùng để viết, chỉ cần chuốt cạnh và làm sạch. Sau đó cắt thành đoạn ngắn vừa tầm và dễ sắp xếp lưu trữ. Sơn dùng để viết luôn có sẵn, đó là thứ mực không tan trong nước để người Lạc vẽ lên người, lên thuyền mà không bị hòa tan khi xuống nước. Nếu thừa nhận thiên nhiên là một người thầy vĩ đại, thì có thể tin rằng giấy là sản phẩm cuả nền văn minh Âu-Lạc. Bỡi vì họ nhận được rất nhiều gợi ý từ thế giới chung quanh, như các mo tre, lớp màng mỏng trong ruột tre, các lớp vỏ lụa của một số loại cây như cây tràm.v..v... Tóm lại ở phương nam “giấy mực” rất phong phú và rẽ tiền. Việc thực hành cũng khá dễ dàng, nhất là có nhiều người Lạc vẫn thường vẽ hoa văn lên người. Từ đó cho thấy chữ viết được phổ biến trong giới quý tộc, trí thức Âu Lạc rất sớm. Suy ra chữ viết của người Việt có thể đã rất phát triển và hoàn thiện trong thời đại Hùng Vương. Sơn là sản phẩm độc quyền của người Lạc đã có từ rất lâu. Nhưng ở Hoa bắc, ít nhất là đến cuối thời nhà Thương người Hán chưa chế tạo được(vì nếu có thì người ta đã dùng để viết chữ lên mảnh xương sẽ đơn giản và dễ dàng hơn khắc). Như vậy, có thể kết luận chữ viết trên thẻ tre là của nền văn hóa Âu Lạc. Nguồn góc kinh dịch Đi tìm nguồn gốc kinh dịch cũng như đi tìm nguồn gốc chữ viết là xác định điều kiện ,môi trường để nó phát sinh và phát triển, vì những bằng chứng cụ thể, trực tiếp và khách quan của nó đã bị thủ tiêu hoặc không có điều kiện để nhận diện. Kinh dịch hay triết lý Âm Dương là nghiên cứu sự tương tác giữa khí âm và khí dương để tìm ra qui luật vận hành của nó. Từ đó dự đoán kết quả trong từng trường hợp cụ thể và áp dụng vào cuộc sống sao cho có lợi nhất. Khí âm và khí dương chẳng qua là khái niệm về hai lực lượng siêu nhiên đối lập, được xem là nguồn gốc của thế giới tự nhiên, trong đó có con người. Nói cách khác con người là sản phẩm từ sự kết hợp của khí âm và khí dương. Vì vậy, đối tượng phục vụ của kinh dịch là con người. Nhìn chung, Kinh Dịch là nổ lực của Hùng Vương để khám phá các quy tắc vận hành, tương tác của một lưỡng nghi Âu Lạc trong thế giới nội tâm, sau đó mở rộng qui mô ra nhà nước Âu Lạc, là phạm vi xã hội. Bước đột phá sau cùng quan trọng nhất và có tính sáng tạo cao nhất là đem kết quả nghiên cứu từ hai trường tương tác đặc thù, và có giới hạn của cá nhân và xã hội sang một trường tương tác phổ quát, và không giới hạn-đó là thế giới tự nhiên, vũ trụ với lưỡng nghi trời đất, âm dương. Như vậy chính Hùng Vương là tác giả Kinh Dịch. Xuất thân của Hùng Vương rất đặc biệt. Truyền thuyết nói rằng cha ông là rồng, mẹ ông là tiên. Đó là cách nói gây ấn tượng về tính cách đối lập giữa hai tộc người Âu và Lạc, người ở trên mây, người ở dưới nước. Để chuẩn bị cho bước trưởng thành lên làm vua của liên minh Âu –Lạc, ngay từ nhỏ ông phải học cùng lúc tiếng Âu và tiếng Lạc. ông cũng học để biết văn hóa, truyền thống, phong tục tín ngưỡng.... của hai tộc người. Tuổi thơ của ông có lẽ cũng thường xuyên thăm viếng bên nội(người Lạc) và bên ngoại(người Âu). Mỗi lần như thế ông phải thay đổi cung cách ăn nói, lề lối sinh hoạt...Và ông chỉ cảm thấy thoải mái khi đã hòa nhập với môi trường đó. Từ từ ông nhận ra rằng để đạt được sự thoải mái đó, ông phải điều chỉnh hai yếu Âu, Lạc bên trong sao cho phù hợp với hoàn cảnh. Những kinh nghiệm được tích lũy củng cố cho nhận thức về sự tương tác của hai yếu tố đối lập trong thế giới nội tại:Âu-Lạc, cha-mẹ, nam-nữ.v..v...Đó là những khái niệm ban đầu về dịch lý. Khi trưởng thành, Hùng Vương có nhận thức sâu sắc hơn sự tương tác của một lưỡng cực trong thế giới nội tại của mình. Quá trình nầy làm phát sinh các nhân tố mới tiến bộ, và loại bỏ những nhân tố cũ không còn phù hợp với thực tế khách quan nữa. Đó là quá trình biến dịch, biện chứng. Tư tưởng của Hùng Vương xoay quanh những giá trị văn hóa tư tưởng Âu-Lạc. Khi thì Âu chiếm ưu thế, khi thì Lạc chiếm ưu thế, và Hùng Vương luôn luôn phải điều chỉnh các giá trị đó theo một tỉ lệ phù hợp để hóa giải những xung đột này, nhằm tạo ra một sự cân bằng, ổn định cho thế giới nội tại. Lưỡng nghi chính là hình mô phỏng thế giới nội tại của Hùng Vương sau khi ông khái quát hóa các khái niệm Âu-Lạc, cha-mẹ, nam-nữ, thành Âm-Dương. Hùng Vương đã thực hiện một quy trình hợp logic khi đưa những nhận thức của mình về các quy tắc vận hành của thế giới lưỡng cực nội tại ứng dụng vào thế giới bên ngoài có cấu trúc tương đồng, đó là xã hội Âu –Lạc. Và các Hùng Vương đã thành công khi giữ cho đất nước Âu-Lạc ổn định và phát triển mạnh mẽ trong suốt thời gian hơn 500 năm. Khi các Hùng Vương đang tại vị, mỗi lần họp triều chính, ông là người ngồi giữa, ở hai bên là những thủ lĩnh Âu và Lạc số lượng bằng nhau(nửa nữ và nửa nam).Cấu trúc này có nguồn gốc từ cha Lạc long Quân và mẹ Âu Cơ, vì vậy nó luôn tồn tại hai nhân tố nam và nữ cân bằng. Đây là một lưỡng nghi cụ thể và sinh động. Như vậy, ở đây có thể thấy các bước tiến hóa của tư tưởng Hùng Vương đưa ông từ thế giới nội tâm với lưỡng cực cha mẹ, sang thế giới bên ngoài là xã hội với lưỡng cực Âu-Lạc, nam- nữ. Cuối cùng mở rộng ra thế giới tự nhiên vũ trụ với lưỡng cực trời –đất , âm-dương. Ông đi từ mục tiêu ban đầu là đạt được trạng thái tinh thần cân bằng thảnh thản. Mục tiêu kế tiếp là ổn định và phát triển xã hội. Sau cùng thích nghi và làm chủ thiên nhiên. Tóm lại kinh dịch là một công trình tập hợp và hệ thống các kết quả nghiên cứu sự vận hành của tinh thần và vật chất để ứng dụng trong các lãnh vực của đời sống nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho con người. Một trong những ứng dụng phổ biến là giúp dự đoán một tình huống hoặc biến cố nào đó trong tương lai, và thái độ ứng xử tương thích nhằm đạt kết quả tốt nhất. Với ứng dụng nầy nhiều người xem kinh dịch là sách bói toán. Thực ra kinh dịch là một hệ thống tư tưởng triết học và khoa học phổ quát và vô cùng vi diệu. Những ứng dụng của nó cũng rất cụ thể và hữu ích trong đời sống như y học, phong thủy.v..v... Nguồn gốc trống đồng Trống đồng là một sản phẩm tiêu biểu của nền văn minh Âu-Lạc. Có nghĩa là nếu không có quốc gia Âu-Lạc thì sẽ không có trống đồng. Nói cách khác, trống đồng chính là biểu tượng của nhà nước Âu Lạc. Điều khẳng định này dựa trên các hình khắc họa chủ yếu trên mặt trống . Hình chủ đạo trên mặt trống là hình chim và thú - biểu tượng của người Lạc và người Âu. Trong đó: Hươu là loài thú sống trên núi cao, cùng địa bàn cư ngụ của người Âu. Hươu mang dáng vẻ thon thả đẹp đẽ, mạnh mẽ, nhanh nhẹn và khôn ngoan...từ những tính chất đó, cùng với môi trường sống chung là miền núi , nên hươu được xem như là biểu tượng của người Âu. Loài chim thuộc họ cò, sống trong vùng đầm lầy, bãi cạn. Loài chim này cũng thường kiếm ăn trong ruộng nước, nên rất thân thuộc với người Lạc. Đây là loài rất siêng năng cần mẫn giống đức tính người Lạc. Từ tính chất này và môi trường sống chung là vùng trũng ngập, nên loài chim này được xem như là biểu tượng của người Lạc. Biểu tượng hoàn toàn khác với vật tổ(totem). Do đó có ý kiến cho rằng hình chim trên trống đồng là vật tổ của người Việt cổ là không chính xác. Ví dụ chuột túi là biểu tượng của nước Úc , nhưng không phải là vật tổ của họ. Hình khắc trên trống đồng rất đa dạng và phong phú. Nó gồm các đối tượng là người, chim, thú, đồ vật...Cách bố trí các đối tượng này tuân theo những quy tắc nhất định nhằm truyền tải một thông điệp hay một vấn đề quan trọng nào đó. Rất tiếc đến nay bí mật này vẫn chưa được khám phá một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, trống đồng là một biểu tượng quyền lực, giống như ấn tín mà Hùng Vương trao cho các thủ lĩnh để xác lập vị trí và trách nhiệm, cũng như quyền hạn của họ trong nhà nước Âu Lạc, thì không có gì phải bàn cải. Như vậy, nó được đặt ở vị trí trang trọng tại nơi ở của vị thủ lĩnh để dân chúng có thể trông thấy và tuân phục. Với chức năng này, nó phải mang dấu ấn riêng của nhà nước Âu-Lạc, thế nên biểu tượng của Âu Lạc phải là yếu tố chủ đạo. Thông qua yếu tố này, có thể nhận ra nguồn gốc lịch sử của nhà nước Âu Lạc. Chính nguồn gốc nhà nước đã hình thành một nền văn hóa riêng, đặc trưng của nó-đó là văn hóa Âm - Dương . Tóm lại, dù các hình khắc trên trống đồng mang một thông điệp náo đó, thì cũng là phụ. Chủ đề cần làm nổi bật chính nguồn gốc Âu Lạc và văn hóa Âm Dương. Nguồn gốc được thể hiện bằng những yếu tố đăc trưng cho môi trường hay địa bàn cư ngụ của người Âu, Lạc như sinh vật, kiến trúc, sinh hoạt... Còn văn hóa Âm Dương được thể hiện bỡi giới tính như nam nữ, đực cái, trống mái v..v...Từ đó có thể nhận thấy mặt trống đồng mang dáng dấp của một quẻ dịch với lưỡng nghi Âu-Lạc. Và đây chính là dấu ấn đặc thù của văn minh Âu-Lạc thời Hùng Vương, có một không hai trong lịch sử nhân loại. Có thể dùng dấu ấn này để bảo vệ quyền sở hữu trống đồng của Việt Nam, như một bằng chứng hoàn toàn thuyết phục. Âu và Lạc là hai mặt đối lập trong nhà nước Âu-Lạc. Chúng tương tác với nhau theo qui luật biện chứng để phát triển. Đó là nguồn gốc hình thành nền văn hóa và văn minh của người Việt cổ. Nền văn hóa nầy còn gọi là văn hóa âm dương vì nó bắt nguồn từ một lưỡng cực âm dương Âu-Lạc. Yếu tố quyết định sự tồn tại của nhà nước là hình thái cân bằng âm dương. Điều này được thể hiện trong cấu trúc nhà nước Âu-Lạc theo truyền thuyết, đi từ khởi điểm là Lạc long Quân-Âu Cơ, tiến lên năm mươi trai-năm mươi gái. Nó luôn luôn có sự đối xứng của một lưỡng nghi. Vì lý do này nên nói văn hóa Âu Lạc thời Hùng Vương là văn hóa Âm-Dương , và là cái nôi của Kinh Dịch. Trống đồng của người Việt là vật chứng của nền văn hóa đó, nên cũng là vật chứng của Kinh Dịch. Trống đồng là sản phẩm của nền văn minh Âu Lạc thời Hùng Vương- tổ tiên của người Việt hiện nay. Nhưng cái nôi của nhà nước Âu Lạc là vùng hồ Động Đình, đồng bằng sông Dương Tử. Do đó trống đồng được sản xuất tại đây. Miền Bắc Viêt Nam là lãnh thổ thuộc nước Âu Lạc, và trống đồng được mang về đây để cất dấu, trong thời gian chiến tranh với nhà Tần (năm 218-210TCN). Có thể nêu lên vài bằng chứng để khẳng định điều này: * Phần trên đã xác định nước Âu Lạc của Hùng Vương cùng thời với nhà Thương. Vì vậy, trống đồng có niên đại từ thế kỷ 11TCN về trước. Nghĩa là trống đồng có trước khi hình thành cộng đồng dân cư ở vùng đồng bằng bắc bộ. Do đó, từ những khuôn đúc tìm được, suy ra những trống đồng được sản xuất tại vùng bắc bộ có lẽ là những sản phẩm mô phỏng. Đó là một loại hàng hóa cao cấp có thể mang ra mua bán trao đổi, không có giá trị tinh thần thiêng liêng như nguyên bản thời Hùng Vương. * Không kể số trống đồng hàng ngàn chiếc được tìm thấy ở Trung Quốc, chỉ riêng ở Việt Nam con số này là 960(theo Wiki). Giả sử số trống mà Mã Viện đã cướp đi cũng tương đương .Như vậy, trên lãnh thổ miền Bắc ước chừng có khoảng vài ngàn chiếc trống. Với trọng lượng trung bình của mỗi chiếc vào khoảng 30kg. Suy ra khối lượng đồng cần dùng rất lớn. Do đó, cần khai thác nhiều mỏ quặng, xây dựng nhiều lò luyện kim, lò đúc đồng...những di tích để lại sẽ rất dễ phát hiện. Hơn nữa trống đồng là sản phẩm của nền văn hóa phát triển cao và xã hội tương đối giàu có, đời sống thanh bình. Nếu so với thống kê dân số vào cuối thế kỷ 1TCN của nhà Hán, thì sản lượng cũng như chất lượng của trống đồng không tương xứng với xã hội cách đó vài trăm năm. Vì sau 210TCN, vùng bắc Việt là nhà nước Âu Lạc của An dương Vương, và vài năm sau đã bị sáp nhập vào nước Nam Việt của Triệu Đà, đất nước bị rơi vào tình trạng ngoại thuộc. Trong hoàn cảnh đó không có điều kiện để sản xuất trống đồng. * Một điều rất mâu thuẩn khác là số lượng dụng cụ sản xuất và vũ khí làm bằng đồng rất ít so với số lượng trống. Theo thông tin giới khảo cổ chỉ tìm được vài trăm lưỡi cày và một số ít lưỡi rìu đồng.v..v... Công cụ sản xuất và vũ khí chiến đấu là những thứ vô cùng cần thiết cho sự sinh tồn của dân tộc. Vì sao chúng không được ưu tiên chế tạo, mà lại dành hầu hết lượng đồng quí giá đó để làm trống, một thứ không có nhu cầu thiết thực bằng. Văn hóa Âm Dương hướng đến cấu trúc hoặc sự sắp xếp các thành tố trong một tổng thể theo từng cặp. Những hình khắc trên trống đồng phần lớn theo xu hướng này qua các cặp âm dương: nam nữ( hình người), đực cái(hình hươu), và trống mái(hình chim). Văn hóa nầy cũng thấy phản ánh qua ngôn ngữ của người Việt khi các từ đẵng lập được dùng với tần suất khá cao: trời đất, núi sông, ngày đêm, nắng mưa, sớm tối, ông bà, cha mẹ, vợ chồng, nam nữ, trống mái, thắng thua, được mất...từ đó có thể xem số 2 như là cơ số số văn hóa Âu Lạc. Vì vậy các con số chẵn hay bội số của 2 thường được chọn cho những việc quan trọng trong đời sống. vì nó mang ý nghĩa sự tốt đẹp, trọn vẹn, may mắn... khuynh hướng nầy được thể hiện bằng các số như 4, 6, 8, 10, 14....trên trống đồng. Trong mua bán hàng ngày, với những sản phẩm đếm được, người ta thường xử dụng đơn vị chục . Tùy địa phương, một chục có thể khác nhau: là 10 hoặc 12, 14, 16...nhưng luôn là số chẵn. Ta nói Kinh Dịch thuộc nền văn hóa Âm Dương, chữ viết thuộc nền văn hóa tre trúc. Như vậy thời Hùng Vương đã có có Kinh Dịch và chữ viết. Thế nhưng trên trống đồng lại không có văn tự, đó là một nghịch lý. Vấn đề này có thể lý giải như sau: Trên trống đồng không có biểu tượng chung cho hai chủng người Âu và Lạc, để thấy rằng nhà nước Âu Lạc là một liên minh chứ không phải là nhà nước hợp nhất của hai tộc. Các khác biệt về văn hóa vẫn còn duy trì, trong đó có ngôn ngữ. Văn tự là ký hiệu của văn ngôn. Vì vậy khi chưa có tiếng nói chung thì cũng không có chữ viết chung để khắc lên biểu tượng chung là trống đồng. Chữ viết của Hùng Vương dùng cho một ngôn ngữ riêng mà Hùng Vương muốn thay cho ngôn ngữ của người Âu và người Lạc. Tiến trình thống nhất ngôn ngữ chưa hoàn thành thì liên minh tan rã. Tuy nhiên chữ viết của Hùng Vương chắc chắn đã được dùng phổ biến tại quê hương, và nhất là trong các lớp hậu duệ của Hùng Vương. Và nhờ vậy mà các công trình nghiên cứu, sáng tác của Hùng Vương và giới học giả mới được truyền lưu. Trong số đó có Kinh Dịch, sách thuốc, lịch pháp.... Trống đồng là biểu tượng quyền lực, nó được trao cho các thủ lĩnh và được Hùng Vương chứng nhận. Do đó trống đồng nguyên bản chỉ được làm ra trong giai đoạn hưng thịnh của nhà nước Âu Lạc. Trống đồng là biểu tượng của cá nhân nên không có truyền thừa, mặc dù ngôi vị thủ lĩnh có thể truyền thừa. Đó là lý do số thủ lĩnh của nhà nước Âu Lạc không nhiều tại một thời điểm(nhiều nhất là 100), nhưng số trống cỏ rất nhiều(lên đến hàng ngàn chiếc) là do số thủ lĩnh được kế vị qua nhiều thế hệ rất lớn. Đẳng cấp của các thủ lĩnh cũng khác nhau, vì một ngôi làng được thành lập lâu hơn(hàng trăm năm) thì dân số đông hơn, giàu có hơn.v..v.. những làng mới lập, nên người đứng đầu cũng được trọng vọng hơn, uy quyền hơn. Có thể vòng tròn nằm ở giữa mặt trống tượng trưng cho vị trí thủ lĩnh, và các tia chung quanh biểu thị đẳng cấp của người đó. Do đó nó là biểu tượng của quyền lực và sự tôn nghiêm, nên không thể dùng chày để đánh lên trong các dịp lễ lạc, hội hè vui chơi như một nhạc khí được. Trống đồng là tên gọi dựa theo hình dáng và chất liệu của nó. Trống đồng không phải là một nhạc khí. Cấu tạo của nó không phù hợp với công năng đó. Trọng lượng của trống hợp với lực đánh lên mặt, đặt lên vành đế mỏng sẽ làm trống lún vào nền đất (vì thời đó chưa có nền gạch), khiến âm thanh không thoát ra được. Ngược lại năng lượng âm sẽ bị hấp thu vào trong lòng đất, nên âm thanh phát ra càng nhỏ. Hơn nữa, với lực đánh lên mặt trống khá mạnh và thời gian lâu dài sẽ xuất hiện các hư hỏng đặc trưng trên mặt trống, có thể dễ dàng nhận thấy mới phải. Biện luận trên chỉ áp dụng cho các trống đồng nguyên mẫu thời Hùng Vương mà thôi. Thời Bách Việt có thể có nhiều người giàu có hoặc giới quý tộc cầm quyền, thuê người đúc trống để xử dụng vào mục đích riêng như trang trí, làm của...Loại trống mô phỏng này có hình thức giống hoặc khác với nguyên mẫu, tùy theo ý thích của chủ nhân. Và cách xử dụng cũng không bị ước thúc hay hạn chế nào cả. có thể dùng như một món nhạc khí, để trang trí , làm của, đồ tùy táng.v .v... Trống đồng gắn liền với thời Hùng Vương nhưng không có biểu tượng gì thuộc về Văn Lang. Vì vậy kết luận, không có quốc hiệu Văn Lang, mà chỉ có người Văn Lang trong truyền thuyết. Các biểu tượng Âu, Lạc trên mặt trống cũng có thể biểu thị cho sự thống nhất quyền hành trong thời chiến: Nếu chiến tranh xảy ra, trường hợp một thủ lĩnh bị bắt hay bị giết. Thì một thủ lĩnh bất kỳ, sở hữu trống đồng, sẽ có quyền điều động binh lính và dân chúng của làng đó tiếp tục chiến đấu. Không để đội ngũ tan rã. Trong cuộc khởi nghĩa chống nhà Hán, bà Trưng đã dùng tiếng trống đồng như lời hiệu triệu toàn dân Âu Lạc đoàn kết đánh giặc ngoại xâm. Điều này chứng tỏ bà là một thủ lĩnh người Âu chính thống được truyền thừa, nên biết được bí mật của trống đồng và minh ước của hai tộc Âu, Lạc thời Hùng Vương. Điều đáng tiếc là lúc đó vùng bắc bộ, vì lý do lịch sử nên không có thủ lĩnh người Lạc chính thống được truyền thừa, do vậy không ai có trống đồng và biết được cam kết của tổ tiên. Do đó, chỉ có người Âu hưởng ứng lợi kêu gọi của bà, vì họ thừa nhận bà là thủ lĩnh của họ. Trong khi đó, người Lạc không hưởng ứng, vì không thừa nhận bà là thủ lĩnh được ủy quyền dù có trống đồng bảo chứng. Mã Viện biết được bí mật này nên đã tìm cách tiêu hủy tất cả các trống đồng cướp được, nhằm xóa hình ảnh Hùng Vương ra khỏi tâm thức của người Việt. Như đã thừa nhận, trống đồng là biểu tượng quyền lực và sự tôn nghiêm của vị thủ lĩnh đương quyền. Khi người thủ lĩnh qua đời, trống trở thành biểu tượng thiêng liêng đối với con cháu. Nó giống như di ảnh hay bài vị của tổ tiên mà con cháu tôn thờ. Ý nghĩa thiêng liêng đó được nhận thấy qua hành trình của những chiếc trống. Hành trình của những chiếc trống đồng Nhà nước Âu Lạc được thành lập trong lưu vực Trường Giang, gần hồ Động Đình. Phát triển đến thời Hùng Vương thứ 18 được 100 làng. Những ngôi làng nầy nằm dọc theo bờ nam của dòng sông để thuận tiện việc giao thông liên lạc, và nối với trung tâm văn hóa, dân cư Lạc ở cửa sông. Địa bàn cư ngụ vào thời điểm này còn nhỏ hẹp, chưa phát triển nhiều về phương nam. Nó nằm lọt trong vùng lãnh thổ phương nam mà nước Sở đã thâu tóm được trong thời Xuân Thu Chiến Quốc. Các cư dân sống trên địa bàn này chính là cư dân Âu Lạc thời Hùng Vương, trong số đó có các thủ lĩnh, và hậu duệ của các thủ lĩnh thời Hùng Vương. Họ là chủ nhân của những chiếc trống đồng, và tất cả trống đồng chính thống tập trung tại đây. Thế nhưng suốt thòi gian tồn tại của nước Sở, ước chừng 800 năm(khởi đầu khoảng năm 1030TCN), trống đồng không bị mang về Hoa bắc. Điều này chứng tỏ vua Sở nhận thức được trống đồng là di vật mang ý nghĩa tinh thần thiêng liêng đối với người Việt, nên được họ bảo vệ và giữ gìn cẩn thận. Hơn nữa nước Sở đang cần sự ủng hộ của người Việt để tranh vương nghiệp, do đó họ không dám xúc phạm đến tình cảm của người Việt. Thái độ này hoàn toàn đối nghịch với Mã Viện, kẻ đã dùng bạo lực cướp đoạt trống đồng của người Việt, để phá hủy nhằm thủ tiêu truyền thống bất khuất của dân tộc. Khi quân Tần xâm lăng lãnh thổ Bách Việt, cư dân Bách Việt không muốn biểu tượng của tổ tiên bị xúc phạm, nên đã tìm cách mang những chiếc trống này chạy về phương nam. Đích đến của họ là lãnh thổ bắc Việt. Trong cuộc đào tẩu nầy, những người khỏe hơn, nhanh hơn đã vượt qua hàng ngàn cây số gian khổ, và mang được những bảo vật thiêng liêng này về đến vùng bắc Việt, rồi chôn dấu tại đây. Đó là những chiếc trống được tìm thấy ở Việt Nam, và đó cũng là những chiếc trống may mắn thoát khỏi bàn tay cướp bóc của Mã Viện. Những người chậm hơn, không thoát khỏi sự truy đuổi của kẻ thù, đã phải chôn dấu báu vật này ở tại nơi họ đến được như vùng Vân Nam, Quảng Tây...Đó là những chiếc trống đã tìm thấy tại Trung Quốc. Người ta có thể đánh đổi cả mạng sống để bảo vệ trống đồng, chứng tỏ nó thiêng liêng và quan trọng hơn là một món nhạc khí. Trống đồng là đồ thờ tự, nhưng không phải thờ thần Mặt Trời hay vật tổ, mà thờ tổ tiên- một truyền thống có từ thời Hùng Vương. Nguồn gốc Bách Việt Bách Việt xuất phát từ 100 trứng trong truyền thuyết. Một trứng tượng trưng cho một làng của người Âu hoặc Lạc. Sau khi nhà nước Âu Lạc tan rã, 100 làng này giống như những tiểu quốc hoàn toàn độc lập với nhau. Theo thời gian, các làng nầy phát triển lớn mạnh hơn, dân số gia tăng rất nhiều nên ruộng đất trong làng không đủ chia cho các gia đình. Vì vậy những nông dân nghèo phải bỏ làng đi đến vùng đất mới để khẩn hoang lập làng mới. Sau một thời gian, các làng mới lập cũng trở nên giàu có đông đúc, lại tạo ra tầng lớp nông dân nghèo khổ phải ly khai để đi khai hoang lập ấp. Chu trình này cứ tiếp diễn như vậy, và có lẽ đến thế kỷ 6-7TCN thì cư dân Âu, Lạc đã có mặt trên khắp miền Hoa nam và đảo Hải Nam. Sau đó bắt đầu tràn xuống đồng bằng bắc bộ. Những nhóm người đi khai phá như vậy đã trải qua nhiều gian lao vất vã. Không chỉ đổ mồ hôi nước mắt, có khi phải hy sinh cả tính mạng. Những người còn tồn tại nhờ vượt qua được những gian nan thử thách đó nên họ được gọi là người Việt(vượt). Lãnh thổ của Hùng Vương, phía bắc giáp lãnh thổ của người Hán, phía tây có núi cao, phía đông là biển, do đó hướng phát triển duy nhất là hướng nam. Vì vậy những người di khai phá được gọi là Nam Việt. Các nhóm Nam Việt có nguồn gốc từ 100 làng Âu Lạc nên gọi là Bách, nên tên đầy đủ là Bách Nam Việt. Thế nhưng hướng nam là hướng phát triển duy nhất nên không cần nêu ra ai cũng hiểu. Vì vậy tên chính thức để gọi các nhóm người này là Bách Việt, hay dân Bách Việt. Như vậy dân Bách Việt thực chất là dân Âu Lạc. Khi quân Đồ Thư xâm lăng và tàn sát dân Bách Việt khắp vùng Hoa nam, thì một số rất đông các thủ lĩnh và binh lính chạy về phương nam. Phần đông trong số họ là những người mang theo trống đồng của tổ tiên về miền bắc Việt để cất dấu.Và hầu hết những người này đã gia nhập vào hàng ngũ của Thục Phán để chiến đấu chống lại quân Tần. Đây là lực lượng hùng hậu và tinh nhuệ nhất của Thục Phán. Lý do là vào thời này cư dân ở đồng bằng sông Hồng còn thưa thớt, lực lượng trưng binh không đủ để chống lại quân Đồ Thư. Nhờ có sự tham gia của lực lượng này nên đã giết được Đồ Thư và đánh tan quân Tần trong trận chiến thành Cổ Loa. Để ghi nhận công lao của họ, khi Thục Phán lên ngôi đã lấy quốc hiệu là Âu-Lạc. Việc này gián tiếp xác nhận Bách Việt chính là Âu Lạc. hay nói cách khác, trên toàn lãnh thổ của Hùng Vương từ Hoa nam đến bắc Việt đều là tộc nhân Âu Lạc, con cháu của Hùng Vương. Bắt đầu là Triệu Đà, tiếp đến là nhà Hán dựa vào nhưng dị biệt văn hóa do yếu tố địa lý, địa chất, môi trường...đã chia dân Bách Việt thành các sắc dân như Tây Âu, Lạc Việt, Dạ Lang...nhằm phân hóa, chia rẽ dân tộc để ngăn ngừa việc liên kết giữa các vùng để khởi nghĩa chống lại họ. Sự tan rã của nhà nước Âu Lạc giống như một đứt gãy chia cắt cộng đồng Âu Lạc thành nhóm dân nhỏ như những mảnh lục địa trôi nổi trên vùng lãnh thổ của Hùng Vương. Họ bị cắt rời khỏi dòng chảy văn hóa, lịch sử chung, và bị ngăn cách với các nhóm cư dân đồng tộc khác. Một số khá lớn những mảnh vỡ này bị hút vào nước Sở, một số ít hơn trở thành nước Ngô, nước Việt. Cuối cùng tất cả đều hòa tan vào nước Tần của Tần thủy Hoàng. Phần lớn nhất còn lại, cũng bị sáp nhập vào nước Tần thời Tần mạt. Sau cùng cũng hòa tan vào lãnh thổ nhà Hán của Lưu Bang. Mảnh nhỏ bé nằm ở cực nam của lãnh thổ Hùng Vương là miền bắc Việt kiên cường chống lại ách đô hộ của người Hán, và đã giành được độc lập sau hàng ngàn năm lệ thuộc. Văn hóa Âu-Lạc về đâu? Quá trình phát triển nhà nước Âu-Lạc hình thành xã hội có cấu trúc lớp. Theo đó, hạt nhân ban đầu là hai làng Âu và Lạc đến định cư tại vùng hồ Động Đình. Trung tâm của hạt nhân này là nơi ở của Lạc long Quân và Âu Cơ, sau đó là của các Hùng Vương . Hạt nhân này phát triển mạnh mẽ trở thành trung tâm văn hóa xã hội Âu- Lạc dưới thời các Hùng Vương. Từ trung tâm này, những làng mới lập phát triển ra chung quanh về các hướng, ngoại trừ hướng bắc bị giới hạn bởi dòng Trường Giang, và là đất của người Hán. Hướng đông dọc theo bờ sông phát triển nhanh nhất vì có đường thủy thuận tiện, nó nối với trung tâm văn hóa Lạc, trở thành trục Âu Lạc-Lạc phát triển cao và khá đồng đều về mọi lãnh vực đời sống. Một trục khác nối liền Âu-Lạc với trung tâm văn hóa Âu ở vùng núi Ngũ Lĩnh, nhưng không quan trọng bằng vì giao thông không thuận lợi. Cuối thời Hùng Vương, trung tâm Âu-Lạc phát triển rực rỡ, và trung tâm Lạc cũng phát triển không kém. Những thành tựu văn hóa như chữ viết, Kinh Dịch chắc chắn đã phổ biến tại trung tâm Âu-Lạc, nơi Hùng Vương sinh sống. Từ trung tâm này, sau một khoảng thời gian trung bình nào đấy, một số làng mới được thành lập về phía nam, hình thành một lớp cư dân mới, có trình độ văn hóa và đời sống kinh tế thấp hơn vùng trung tâm một bậc. Rồi cứ sau một khoảng thời gian, một lớp cư dân mới khác, được hình thành về phía nam kế tiếp lớp cũ. Quá trình này gọi là nam việt. Vì lý do giao thông vô cùng khó khăn, nên việc giao lưu giữa các lớp với trung tâm chỉ xảy ra với các lớp ở gần, và theo chiều hướng suy giảm rất nhanh. Sự giao lưu với trung tâm gần như không xảy ra đối với các lớp ở ranh giới Hoa nam với và miền bắc Việt. Nếu tưởng tượng từ trung tâm Âu-Lạc đi về phương nam, có nhiều thế hệ dân Âu Lạc quy tụ lại thành các làng. Các làng có cùng trình độ phát triển hình thành các lớp. Lớp có trước ở gần trung tâm hơn và thành lớp cách ly lớp sau với trung tâm. Lớp sau trở thành lớp cách ly của lớp sau hơn với lớp trước đó... Vì vậy, trình độ chung của lớp sau bao giờ cũng kém lớp trước một bậc và kém thua trung tâm nhiều hơn. Hiện tượng này ngày nay cũng thấy phổ biến: một trung tâm đô thị phát triển thì sẽ đẩy tầng lớp dân nghèo ra vùng ngoại ô. Đến khi ngoại ô phát triển lại đẩy tầng lớp nghèo khó đi ra vùng xa hơn. Tuy nhiên, ngày nay nhờ có sự quản lý của nhà nước thống nhất, cùng với giao thông, liên lạc phát triển vượt bậc, nên sự chênh lệch giữa các vùng miền không lớn lắm. Không như thời Bách Việt. Tóm lại, khoảng cách từ trung tâm Âu-Lạc tăng lên theo hướng nam, thì văn hóa gốc(Âu-Lạc) giảm xuống và văn hóa có yếu tố địa phương tăng lên. Hiện tượng này làm cho vùng Hoa nam thời Bách Việt thành vùng đa văn hóa đa ngôn ngữ, gây nên hiểu nhầm là vùng đa sắc tộc. Lợi dụng việc này, Triệu Đà và tiếp tục là nhà Hán đã phân chia Hoa nam thành nhiều vùng sắc tộc khác nhau để phục vụ cho mưu đồ thống trị của người Hán. Tổ tiên người Việt Nam thuộc lớp sau cùng, vì vậy các yếu văn hóa gốc bị rơi rớt đi rất nhiều. Trong đó có tiếng nói và chữ viết. Do có quá nhiều lớp cách ly, nên văn hóa gốc cũng như nhiều thành tựu khác của văn minh Hùng Vương không được chia sẻ, và bị cắt đứt hoàn toàn sau cuộc xâm lăng của Tần thủy Hoàng. Biến cố này đã giữ người Việt thuở ấy ở vào thời kỳ bán khai lâu dài. Do tình trạng nầy mà người Hán đã dễ dàng nô dịch người Việt bằng văn hóa Hán trong suốt hàng ngàn năm. Trong khi đó văn minh Âu-Lạc đã góp phần quan trọng giúp cho các nước Sở, Ngô, Việt, đặc biệt là hai nước Sở và Việt trở thành các chư hầu mạnh vào hàng bậc nhất thời Xuân Thu Chiến Quốc. Người Hán cho rằng văn hóa nước Sở là man rợ, còn người nước Ngô, Việt là man di. Nhưng cách đánh giá nầy phải được xem xét một cách khách quan dựa vào các bằng chứng lịch sử. Vì không được tiếp cận các tư liệu lịch sử và các di chỉ khảo cổ của thời Hùng Vương, nên không thể mô tả các yếu tố văn hóa Âu –Lạc một cách rõ ràng và cụ thể. Tuy nhiên dựa vào một số biểu hiện trong văn hóa Sở, Việt, và một vài chi tiết hay sự kiện lịch sử được ghi lại trong sử sách Trung Hoa có thể hình dung ra quỹ đạo của văn hóa Âu-Lạc thời Bách Việt. Trước hết xem xét một số yếu tố liên quan đến văn hóa Sở. Nước Sở được cho là manh nha từ thời nhà Chu, tức cùng giai đoạn bách Việt,và sau thời Hùng Vương. Theo lý mà nói , lúc này vùng lưu vực nam sông Trường Giang thuộc lãnh thổ Âu_Lạc trước đây rất phát triển và giàu có. Sự giàu có này do tích lũy của người Âu và Lạc liên tục qua hàng ngàn năm, cọng với sự tích lũy của nước Âu-Lạc liên tục qua suốt thời đại Hùng Vương mà không bị gián đoạn hoặc bị phá hủy do chiến tranh. Đây là điểm khác biệt giữa hai miền Hoa nam và Hoa bắc. Hoa nam thanh bình và ổn định để tập trung xây dựng, trong khi đó Hoa bắc mất ổn định do thường xuyên xảy ra xung đột giữa các dòng họ, và chiến tranh với các tộc người phương bắc rất mạnh như người Nhung. Tổ tiên của các vua Sở đã nhận thấy điều này, và họ muốn biến khu vực nam Trường Giang trở thành hậu phương vững chắc cho họ. Có điều họ cũng biết rõ là không thể dùng vũ lực để thôn tính. Bỡi vì vùng nam Trường Giang là cố đô của nước Âu-Lạc, nơi tập trung những tinh hoa và sức mạnh của một dân tộc bất khuất. Thế nên họ đã chinh phục bằng cách thuyết phục hoặc mua chuộc các thủ lĩnh để nhận được sự ủng hộ của dân chúng miền nam. Kết quả là họ đã thành công khi trở thành chủ nhân của một vùng đất bao la nam Trường Giang, bao gồm toàn bộ lãnh thổ Âu-Lạc xưa kia. Như vậy, văn hóa Hùng Vương đã đổi chủ trở thành văn Sở thời Xuân Thu-Chiến Quốc. Khi nước Sở phát triển lên phương bắc, văn hóa Âu-Lạc đã trở thành yếu tố chủ đạo trong văn hóa Sở, điều này làm cho người Hán lo sợ, nó thể hiện trong câu nói của Chu Công: " Nhung Địch thị ưng, Kinh Thư thị trừng " tức quân Nhung Địch phải dẹp yên, quân Kinh Thư - tức quân nước Sở - phải trừng phạt ". người ta giải thích rằng nước Sở bị trừng phạt vì có mưu đồ xưng vương. Đây cũng chỉ là một ý kiến, đúng sai còn cần xét lại. Bỡi vì trong giai đoạn nầy các chư hầu đều có mộng làm bá chủ để xưng vương, chẳng hạn nước Tấn, đâu riêng nước Sở. Việc xưng vương chỉ làm thay đổi dòng họ thống trị, nhưng đất nước và dân tộc không thay đổi. Nhưng nếu văn hóa mất đi thì tất cả đều mất. Cả vùng Hoa nam và toàn bộ dân Bách Việt ở đấy, đã biến mất theo cách đó, khi văn hóa Hán thay thế văn hóa Âu-Lạc! Người Hán đánh gía văn hóa Sở là man rợ, chỉ vì văn hóa Sở không theo chuẩn mực văn hóa Khổng Nho, vì thực chất nó là văn hóa của Âu-Lạc. Văn hóa Âu –Lạc hay văn hóa Hùng Vương là văn hóa nhân bản, là văn hóa dự phóng. Nó là văn hóa phi Khổng Nho, và hoàn toàn đối lập với văn hóa Hán. Và vì nó mang những giá trị của văn minh tiến bộ, nên khắc chế và loại trừ văn hóa Khổng Nho nếu nó được phát triển một cách tự do. Đó là điều người Hán muốn ngăn ngừa, và hủy diệt. Trước mắt là diệt trừ nước Sở. Bản chất của văn hóa Âu-Lạc là văn hóa âm dương, nền tảng của văn hóa nhân văn, bình đẳng giới. Trong xã hội Hùng Vương, người phụ nữ được tôn trọng và vị trí xã hội của họ không thua sút đàn ông. Trong lúc đó, người phụ nữ trong xã hội Nho giáo bị xem thường đến mức: nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Luân lý Nho giáo buộc người đàn ông phải tuân thủ tam cương, ngũ thường, và phụ nữ phải tuân thủ tam tòng, tứ đức. Chỉ vế đầu của những điều răn dạy kia cũng trở thành xiềng xích trói buộc con người vào những định chế phi nhân-đó là xã hội phong kiến. Nó biến người phụ nữ thành nô lệ cho người ông, là công cụ cho xã hội. Nó tước đoạt mọi quyền cơ bản của người phụ nữ, không cho họ được quyền quyết định cuộc đời của chính mình. Chính văn hóa Âu-Lạc đã tạo ra những nữ kiệt như bà Trưng, bà Triệu. Và còn rất nhiều những nữ kiệt đã nổi lên chống lại quân xâm lược trên khắp vùng Hoa nam từ thời Triệu Đà đến thời nhà Hán, nhưng không được sử sách ghi lại vì bị che dấu. Trong một xã hội mà người đàn ông giữ địa vị độc tôn, thì nền văn nầy trở nên vô cùng nguy hiểm. Điều này có thể là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến người Hán quyết tâm tiêu diệt, hoặc Hán hóa dân Việt suốt mấy ngàn năm qua. Địa bàn phương nam của nước Sở bao gồm trung tâm văn hóa Âu Lạc và trục văn hóa Lạc –Âu Lạc, nên những di sản văn hóa tinh thần của Hùng Vương đều bị Sở thâu tóm tất cả. Những sản phẩm mang đặc trưng văn hóa Sở thời Xuân Thu-Chiến Quốc được ghi nhận là các đồ sơn mài, sắt, tơ lụa có nguồn gốc phương nam. Những sản phẩm này chứng tỏ ngành thủ công mỹ nghệ ở đây rất phát triển. Có thể khẳng định như vậy vì sản phẩm trống đồng cũng đã cho thấy trình độ kỹ thuật và mỹ thuật rất cao, rất tinh xảo của người Âu-Lạc. Qua thực tế đó để thấy việc cho rằng văn hóa Sở là man rợ chỉ mang tính đố kỵ và bất công. Nước Ngô và nước Việt cũng có văn hóa tương đồng với Sở, là văn hóa phương nam, nên cũng bị coi là man rợ. Cả hai đều có vùng lãnh thổ phương nam. Trong đó, phần lớn lãnh thổ nước Việt của Câu Tiển nằm trong vùng cửa sông Trường Giang về phía nam, phủ lên địa bàn nguyên thủy của người Lạc, nên cư dân nước Việt hầu hết là người Lạc. Tượng người đàn ông Việt(trên trang wiki)chính là một người Văn Lang điển hình. Thanh kiếm có một không hai của Câu Tiển, chứng tỏ kỹ thuật luyện kim và chế tạo binh khí của người Lạc vượt thời gian, và hoàn toàn không có đối thủ. Về học thuật, có lẽ văn hóa Lạc hơi kém so với Âu-Lạc, nhưng về kỹ thuật cơ khí chế tạo và luyện kim thì không ai bằng. Hình vẽ chiến thuyền của người Việt(trên wiki), so với hình chiến thuyền trên trống đồng, cho thấy kỹ thuật đóng thuyền của người Lạc được kế thừa và đã phát triển vượt bậc. Chính vì thế nước Đông Ngô thời Tam Quốc thừa hưởng được kỹ thuật đóng chiến thuyền của người Việt, nhờ vậy đã lập được lực lượng thủy binh hùng mạnh nhất thời đó. Người Lạc trong thời Câu Tiển có lẽ là những chiến binh xuất sắc nhất, vì đã diệt nước Ngô khiến Chu Vương phải công nhận là bá chủ phương nam dù chỉ là một nước nhỏ. Ngoài ra, người Lạc không chỉ là những kỹ sư đóng thuyền tài ba, họ còn là những thủy thủ cực kỳ xuất sắc. Điều này được chứng thực bỡi tín ngưỡng thờ Ông Nam Hải của ngư dân Việt Nam ngày nay. Tín ngưỡng này cho biết, tổ tiên của người Việt trước khi di cư sang Việt Nam là những ngư dân đã sinh sống tại vùng nam Trung Hoa. Vùng biển đánh cá truyền thống của họ nằm ở phía nam lục địa. Vì vậy họ gọi vùng biển này là Nam Hải, hòn đảo trong biển đó gọi là đảo Hải Nam. Từ đất liền hoặc từ đảo, họ dong buồm đi sâu xuống vùng biển phía nam, nơi có nhưng ngư trường tốt. Tại đây họ gặp gỡ và kết thân với những con cá ông, mà họ xem đó là những vị thần của biển cả. Những vị thần này đã nhiều lần cứu giúp họ thóat chết trong những tai nạn đắm thuyền hoặc giông bão. Vì vậy hết thế hệ này đến thế hệ khác đều tri ân và tôn thờ vị thần bảo mệnh cho họ ở biển nam. Từ đó hình thành tín ngưỡng thở Ông Nam Hải, và trở thành truyền thống đến ngày nay của những ngư dân Việt. Những ngư dân người Lạc thuở xưa nhìn tinh tú để xác định phương hướng và vị trí, nên họ cũng là những nhà thiên văn đại tài. Khi họ di cư xuống phương nam. Lúc này biển nằm về hướng đông. Khi họ dong buồm đi sâu vào vùng biển đông này để tìm ngư trường. Nhờ giỏi thiên văn nên khám phá ra, họ vẫn đánh cá trên ngư trường truyền thống của cha ông ngày trước, cùng với vị thần biển ngày xưa. Vì vậy tên của vị thần này vẫn là Ông Nam Hải, mặc dù biển đã ở hướng đông. Hải trình của những ngư dân Lạc Việt gợi ý rằng có thể họ là những người đầu tiên khám phá ra quần đảo Hoàng Sa trước Công Nguyên. Có thể nhìn hình vẽ chiến thuyền của nước Việt thời Xuân Thu để cảm nhận khả năng hải hành của nó. Đáng tiếc trước đây chưa có cuộc khai quật khảo cổ chi tiết nào tại đây để chứng minh điều này. Kết luận: Văn hóa và văn minh Âu Lạc đã bị Hán hóa cùng với dân Bách Việt suốt chiều dài lịch sử khoảng 1000 năm, khởi từ nhà Chu cho đến đầu Công Nguyên. Nguồn gốc người Việt hiện nay Hành trình nam việt cuối cùng đã đưa dân Bách Việt đến vùng lãnh thổ Bắc Việt, vào khoảng thế kỷ 6-7TCN, nhưng cũng có thể muộn hơn. Những cư dân đầu tiên đến vùng đất này xuất phát từ vùng Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay. Miền Bắc Việt bị ngăn cách với vùng Hoa nam bỡi những dãy núi cao, chỉ có vùng đồng bằng ven biển tạo nên một hành lang đông bắc là con đường giao thông thuận lợi nhất giữa hai nơi. Đó là lý do chỉ có cư dân ở Quảng Đông và Quảng Tây, đặc biệt là Quảng Tây, dễ dàng di cư sang miền Bắc Việt. Trong số này dĩ nhiên là có mặt các ngư dân thờ Ông Nam Hải. Theo lịch sử phát triển của Bách Việt, tổ tiên người Việt hiện đại là lớp cuối cùng. Đây là một trong số lớp ở tầng văn hóa thấp nhất của nền văn hóa Âu Lạc, do miền bắc Việt có địa hình phân cách với Hoa nam bỡi những dãy núi ở ranh giới phia bắc. Trong ký ức của dân tộc không có thông tin cụ thể về hành trình nam việt nầy. Thời Bách Việt chưa có địa giới hành chính, không có địa danh vùng miền. Cả lãnh thổ của Hùng Vương là một lãnh thổ thống nhất chưa có phân biệt Hoa nam và Bắc Việt, cũng chưa có địa danh Quảng Đông Quảng Tây. Như vậy không thể xác định điểm đi và đến của hành trình bằng địa danh được, vì không có địa danh. Tuy nhiên hành trình nam việt có thể xác định dễ dàng dựa vào hành trình của trống đồng, hành trình của các ngư dân thờ Ông Nam Hải. Ngoài ra, quốc hiệu thời Triệu Đà cũng xác nhận hành trình nam tiến này của Bách Việt. Còn quốc hiệu thời An dương Vương xác định nguồn gốc Âu Lạc của Bách Việt và của người Việt Nam. Bên cạnh đó, các dấu ấn văn hóa, nhân chủng và lịch sử cũng là những bằng chứng khách quan để xác minh nguồn gốc của dân tộc. Một bằng chứng lịch sử xác thực đã minh chứng nguồn gốc Bách Việt của dân tộc là việc nổi dậy của dân chúng vùng Lĩnh Nam để ủng hộ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40. Như vậy, sau hơn 250 năm(-218 đến 40) người Trung Hoa từ Triệu Đà đến nhà Hán vẫn chưa thể đồng hóa triệt để dân Bách Việt. Thế nên họ vẫn giữ được bản sắc người Việt, và trái tim họ vẫn hướng về cội nguồn, dân tộc, về mẹ Âu Cơ và trăm trứng. Tổng hợp các bằng chứng trên ta có thể xác định chặng cuối của hành trình nam việt xuất phát từ vùng Quảng Đông Quảng Tây và đích đến là vùng bắc bộ và bắc Trung bộ Viêt Nam. Thời điểm mà những cư dân đầu tiên đến đồng bằng sông Hồng được cho là TK6-TK7TCN, nhưng cũng có thể muộn hơn. Những cư dân mới đến lập nghiệp thuộc thành phần nghèo khổ, không cạnh tranh nổi nơi quê hương. Vì lẽ đó, họ không có của cải mang theo. Cuộc sống ban đầu rất khó khăn, và tốc độ phát triển xã hội vô cùng chậm chạp. Tình trạng bán khai lạc hậu kéo dài đến thời Bắc thuộc thì văn hóa Hán bắt đầu xâm nhập vào xã hội Việt. Các giá trị văn hóa Hán được tôn vinh thành chuẩn mực, đó là văn hóa Khổng Nho. Ngoài việc thực hành những giáo điều về luân lý đạo đức Nho giáo, thì những vấn đề về học thuật, tư tưởng, triết lý không được phổ biến do khác biệt ngôn ngữ, trình độ và cũng không phải chủ trương của người Hán. Điều này có thể nhận thấy qua hàng ngàn năm sống chung với văn hóa Hán, ngoài Nguyễn Du thì không có mấy nhà Hán học thành danh như vậy. Việc phổ biến văn hóa Hán trong xã hội Việt, kể cả vùng đất Bách Việt vừa có tính khuyến dụ, vừa có tính áp đặt. Vì thế nó không hoàn toàn thay thế tất cả các giá trị văn hóa bản địa, đặc biệt là ngôn ngữ và phong tục tập quán. Các giá trị văn hóa dân tộc được bảo tồn căn bản dựa trên tinh thần đề kháng với các yếu tố ngoại lai của người Việt, nhất là với những yếu tố đối kháng với văn hóa truyền thống của dân tộc. Do điều kiện địa lý mà việc giao lưu giữa miền Bắc với vùng Quảng Đông và Quảng Tây , thuận lợi hơn những vùng khác ở Hoa nam. Vì vậy, về văn hóa bản địa và nhân dạng của cư dân ở các địa phương này khá tương đồng. Nét tương đồng này vẫn bảo tồn được qua suốt hai ngàn năm bị xâm thực bỡi văn hóa Hán tộc, trong đó có ngôn ngữ và phong tục. Đây chính là cơ sở để vua Quang Trung khẳng định vùng đất Quảng Đông và Quảng Tây là đất của người Việt. Quang Trung là một vị vua có bản lĩnh anh hùng, đối đầu với hoàng đế Càn Long đầy quyền uy của Trung Hoa để yêu sách lãnh thổ. Trong bối cảnh rối ren trong nước, khả năng Càn Long nhượng bộ rất cao. Vì như thế ông sẽ có thêm một người bạn, thay vì tạo thêm một kẻ thù hùng mạnh và đặc biệt nguy hiểm. Rất không may cho cả dân tộc, vì vua Quang Trung mất đi khi sự nghiệp chưa thành, nên phần lãnh thổ kia của cha ông để lại không còn cơ hội để đòi lại! Tóm lại, người Việt hiện nay có nguồn gốc xa xưa là cư dân Âu Lạc ở vùng hồ Động Đình, vào thời Hùng Vương. Sau thời Hùng Vương, dân Âu Lạc di cư về phương nam để mở rộng địa bàn cư trú và sản xuất. Cuộc di cư này gọi nam việt, và xuất phát một trăm làng Âu Lạc nên gọi là Bách Việt. Nhóm đi xa nhất về phương nam đến định cư ở Vùng Quảng Đông Quảng Tây bây giờ. Sau một thời gian dài phát triển, một nhóm cư dân của Quảng Đông Quảng Tây đã di cư đến miền Bắc Việt để lập nghiệp vào khoảng Tk6-Tk7TCN. Đầu tiên họ định cư tại đồng bằng Bắc bộ, sau đó phát triển dần về hướng nam và lập nên nước Việt Nam ngày nay. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites