Posted 11 Tháng 10, 2014 Cuốn sách BƯỚC RA TỪ HUYỀN THOẠI mới được in. Dưới đây là bài dẫn của cuốn sách này. Chi tiết hơn xin xem ở http://asakicorp.com/bachviet18/?p=845. BÁCH VIỆT TRÙNG CỬU DẪN LUẬN Lịch sử của quốc gia, của dân tộc không thuộc về riêng ai. Các sử gia chép sử, các nhà văn hóa mô tả sử…, còn nhân dân mới là những người làm nên lịch sử. Trong khi các sử gia thận trọng biên chép các sự kiện lịch sử theo quan niệm chính thống mỗi thời đại thì còn một dòng sử khác tồn tại song song, với sức lan tỏa rộng hơn, sinh động hơn. Đó là dòng sử trong dân gian, được lưu truyền qua các câu chuyện kể, các di tích, các di vật, các sự tích của các danh nhân địa phương… Truyền thuyết họ Hồng Bàng của người Việt kể rằng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm người con trai, là tổ của Bách Việt. Cha Lạc Long dẫn 50 người con xuống khai phá vùng biển Đông. Mẹ Âu Cơ dẫn 50 người con lên rừng, về đất Phong Châu, lập con cả làm vua, gọi là Hùng Vương. Người Việt ngày nay là con cháu của trăm người con trai đó, tức là một phần của cả dòng họ, đồng bào Bách Việt xưa, cùng chung một nguồn cội họ Hùng. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam), chia nước làm 15 bộ…”. Cương vực 15 bộ mênh mông của nước Văn Lang thời Hùng Vương, với Tây giáp Tứ Xuyên (Ba Thục), Bắc tới Hồ Nam (hồ Động Đình?), làm các sử gia nghi ngờ rằng đó là lãnh thổ của cả dòng Bách Việt chứ không chỉ của “nước Việt” ngày nay. Lãnh thổ Bách Việt đã trải khắp vùng Hoa Nam, rộng lớn không thể ngờ. Phạm vi nước Văn Lang thời Hùng Vương theo truyền thuyết Truyền thuyết từ thời cha sinh mẹ đẻ không sai. Chính sử Việt chép cũng không sai. Bởi vì đó là những thông tin, những ghi chép lịch sử của cả cộng đồng người Bách Việt còn lưu lại chứ không phải chỉ của nước Đại Việt vào thời Lê sau này. Nếu nhìn nhận các truyền thuyết lịch sử Việt tách rời khỏi không gian và thời gian mà nó hình thành sẽ dẫn đến những lệch lạc vô cùng lớn, làm cho những câu truyện truyền thuyết trở nên không thể hiểu nổi. Với “tầm nhìn thời đại” của các chuyên gia sử học ngày nay thì những chuyện “trâu ma rắn thần” của thời cổ sử bị biến thành không “chích quái” thì cũng là “u linh”, mờ ảo. Thế nhưng, quá khứ xa xôi của người Việt lại nằm chính ở những dòng huyền sử lắng đọng đó. Chối bỏ huyền sử tức là quay mặt lại với quá khứ, với tổ tiên nòi giống. Người Việt là một phần của đại tộc Bách Việt là điều thật rõ, rõ ngay từ cái tên gọi. Vì thế lịch sử Bách Việt cũng là lịch sử của người Việt. Sách Hán thư viết: “Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.” Bách Việt là một cộng đồng các dân tộc cùng nguồn gốc sinh sống ở phía Nam sông Dương Tử cho tới bán đảo Đông Dương từ thời trước Công nguyên. Về nhân chủng học thì Bách Việt là những cư dân thuộc loại hình Nam Mongoloid (Nam Á), trong đó bao gồm những nhóm dân tộc Tày Thái, Việt Mường, Môn – Khmer và cả Miêu Dao, phân bố ở Hoa Nam và Đông Nam Á ngày nay. Trung Quốc thời nay là một tập hợp các vùng lãnh thổ nơi mà trong quá khứ đã được sinh sống bởi những tộc người khác nhau. Con sông Dương Tử chia đại lục Trung Quốc thành 2 phần gần bằng nhau. Một nửa lãnh thổ Trung Quốc là đất người Bách Việt vào thời trước Công nguyên nên lịch sử Trung Hoa không thể không có những khoảng thời gian là lịch sử Bách Việt. Hơn thế nữa, một nửa phương Nam mới là nơi đã làm nên nền văn hóa Trung Hoa cổ đại rực rỡ. Những công trình xác nhận vai trò của văn hóa Bách Việt đối với nền văn minh Trung Hoa cổ xuất hiện ngày càng nhiều. Bắt đầu từ những bước lội ngược dòng của giáo sư Kim Định vào những năm 1970 chỉ ra những đóng góp to lớn của văn hóa Việt trong văn hóa Trung Hoa cổ. Hay gần đây hơn như công bố của giáo sư người Nga Dega Deopik, Viện các nước Á – Phi thuộc trường Đại học Tổng hợp quốc gia Matxcơva, cho rằng chủ nhân của nền văn minh Trung Hoa là người Môn – Khmer, tức là người Bách Việt. Cho tới nay, chính nghiên cứu của những nhà khoa học Trung Quốc tại vùng Lĩnh Nam cũng đang khẳng định điều này. Xem lại lịch sử Trung Hoa thời trung đại. Thế kỷ thứ 13 khi vó ngựa Mông Cổ tung hoành khắp đại lục Trung Hoa, nước Đại Lý, rồi Nam Tống của người Hoa lần lượt bị quân Nguyên thôn tính. Chỉ có nhà Trần trên đất Đại Việt – Giao Chỉ là kiên cường chống quân xâm lược. 3 lần đại thắng quân Nguyên của vua tôi nhà Trần không chỉ là chiến thắng của người Việt trước quân giặc phương Bắc mà còn là chiến thắng của cộng đồng Bách Việt trước sự bành trướng của ngoại tộc Thát Mông. Nhà Trần vốn xuất xứ từ vùng đất Mân Việt ở Phúc Kiến – Chiết Giang, là đất Trung Hoa, cũng là đất Bách Việt xưa. Xét vậy thì giữa nhà Trần và nhà Nguyên rõ ràng nhà Trần mới là Trung Hoa đích thực. Nhà Nguyên là triều đại của người Mông Cổ, không liên quan gì tới Trung Hoa cổ đại. Các vua Trần rồi vua Lê sau đó trong không ít thư tịch, văn bia để lại đã gọi quốc gia của mình là cõi Trung Hạ, Trung Quốc, thậm chí Hoa Hạ (xin xem các trích dẫn trong phần Quan niệm Hoa Di trong sách Ngàn năm áo mũ của Trần Quang Đức). Gần hơn nữa, có Nguyễn Huệ, tên thật là Hồ Thơm, người họ Hồ từ tổ tiên dòng Đế Thuấn nước Ngu của Trung Hoa cổ đại. Trong cuộc đụng đầu lịch sử giữa Càn Long nhà Thanh và vua Quang Trung ở thành Thăng Long thì rõ ràng triều đại của Quang Trung mới là người Trung Hoa chính gốc. Nhà Thanh là người Mãn Kim, không hề có dây mơ rễ má gì với Trung Hoa cả. Sang đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng lên ngôi, đoàng hoàng, công khai cho đúc Cửu đỉnh, là 9 chiếc đỉnh lớn tượng trưng cho vương quyền của Trung Hoa, đặt ở kinh thành Huế. Chiếu chỉ đúc đỉnh ghi rõ: “Đỉnh là để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã tụ lại. Thực là đồ quý trọng ở nhà tôn miếu. Xưa các minh vương đời Tam đại lấy kim loại do các quan mục bá chín châu dâng cống, đúc chín cái đỉnh để làm vật báu truyền lại đời sau. Quy chế điển lễ ấy thực to lớn lắm! Trẫm kính nối nghiệp trước, vâng theo đường lối rõ ràng. Nay muốn phỏng theo đời xưa, đúc chín cái đỉnh để ở nhà Thế miếu…”. Những chiếc đỉnh được đúc theo gương “các minh vương thời Tam đại” (Hạ, Thương, Chu) này là minh chứng rõ ràng, triều Nguyễn mới là “thiên tử” chính truyền của Trung Hoa thời kỳ này. Truyền thuyết lịch sử Việt được chép trong Việt Điện u linh, Lĩnh Nam chích quái là những thu nhặt chuyện kể trong dân gian từ thời Trần. Những câu đối, hoành phi trong các đền miếu ngày nay còn giữ lại được phần lớn là từ thời Nguyễn. Có vẻ niên đại của những minh văn này không đủ xa, đủ lâu so với những thư tịch chính sử… được mang từ bên Tàu về. Nhưng giá trị của những tư liệu dân gian này là ở chỗ nó không bị chỉnh lý bởi quan niệm sử chính thống hay bị bóp nặn theo ý đồ của ai đó. Những thần phả, thần tích địa phương ở nước ta được chép với quan điểm Trung Hoa – Bách Việt rõ ràng, bởi vì vào thời kỳ đó chỉ có Việt mới là Hoa thực thụ. “Trung Hoa” trong quá khứ là từ chung chỉ “thiên hạ” của các tộc người vùng Đông và Đông Nam Á. Trung Hoa xưa và Trung Quốc nay không phải là một. Trong số các dân tộc của Trung Quốc ngày nay thậm chí còn không có dân tộc “Hoa”, chỉ có Hán tộc mà thôi. Hoa không hề là Hán như vẫn người Tàu vẫn chú thích một cách vô căn cứ vì người Hoa là người Bách Việt, còn Hán là người Bắc Mongonloid, cùng dòng giống với người Liêu, người Kim, người Thát (Mông Cổ). Nhận định lịch sử Trung Hoa cổ đại là lịch sử Bách Việt mà người Việt ở nước Nam ngày nay là một bộ phận độc lập còn tồn tại cho phép giải mã được phần lớn các truyền thuyết lịch sử Việt. Đây không phải là “lấy sử Tàu làm ta”, bởi vì “sử Tàu” hay “sử ta” ngày nay chỉ là những cách chép sử với góc nhìn mang hạn chế của vùng lãnh thổ hiện tại vào thời điểm hiện tại. Nước Nam của thời đầu Công nguyên có lãnh thổ hoàn toàn không giống với nước Đại Việt thời Lê hay với nước Việt Nam thế kỷ 21 này. Những sự kiện, những nhân vật lịch sử nước Nam thời cổ và trung đại có tầm vóc, phạm vi vượt ra ngoài khuôn khổ lãnh thổ quốc gia ngày nay bởi đó là lịch sử ghi chép theo quan điểm dân tộc Bách Việt trên địa bàn của Trung Hoa rộng lớn. Lĩnh Nam chích quái là truyền thuyết của vùng Lĩnh Nam, tức là của cả vùng đất Bách Việt. Giải mã, đối chiếu truyền thuyết và lịch sử của nước Nam không thể chỉ hạn chế ở ranh giới Việt – Trung mới được định lại vào sau thời “Trung Hoa dân Quốc” của Tôn Trung Sơn (năm 1911). Từ đầu Công nguyên cột đồng phân giới giữa Trưng Vương và Mã Viện hoàn toàn có thể nằm ở tận Bắc Quảng Tây. Bảy quận nước Nam của Giao Châu thời Sĩ Nhiếp chẳng chừa vùng Lưỡng Quảng. Lưu Cung lập nước Đại Việt năm 917 không phải là trên vùng đất Nam Việt nhà Triệu xưa? Đó đều là lịch sử Việt cả. Thiên Nam ngữ lục, trường ca thơ sử bằng chữ Nôm cuối thế kỷ 17 là một kho tàng sử liệu cực kỳ quý giá đối với nghiên cứu lịch sử Việt. Tác phẩm có niên đại cùng thời Ngô Sĩ Liên chỉnh lý Đại Việt sử ký toàn thư. Bộ ngữ lục này được sáng tác bằng thơ, bằng chữ Nôm, nhưng không có nghĩa là “tùy tác”. Đây là một tác phẩm được soạn để dâng lên chúa Trịnh, là một cuốn chính sử hoàn toàn nghiêm túc như trong câu mở đầu tác phẩm đã nói: Trải xem sự kỷ nước NamKính vâng tay mới chép làm nôm na. Truyền thuyết, thơ sử lưu truyền ngày nay bị cho là có tính “thảng thốt” về lịch sử, bởi vì những gì được chép lại không giống với dòng sử bác học đang lưu hành. Không giống không có nghĩa là không đáng tin, đáng nghĩ. Những chỗ mà dòng sử dân gian vênh lệch so với sử hàn lâm chính là những chỗ lịch sử nước Nam cần phải xem xét lại, phải diễn giải lại cho đúng với không gian thời gian của lịch sử. Bên cạnh phạm vi lãnh thổ và thời gian, để hiểu đúng truyền thuyết còn cần lùi cách nhìn nhận lại vào đúng không gian ngôn ngữ văn hóa của thời kỳ mà truyền thuyết được hình thành. Ví dụ từ “cửu trùng” hiểu như ngày nay là “9 tầng” thì sẽ dẫn đến những điều vô lý, chẳng đâu vào đâu. Xưa lên ngôi vua gọi là lên “ngôi cửu trùng”. Đền Thượng thờ vua Hùng ở Phú Thọ gọi là Cửu trùng thiên điện, không phải nghĩa là điện thờ ở 9 tầng trời mà là điện thờ Vua, thờ ông Trời. Thành Cổ Loa không phải có 9 vòng thành, mà là tòa thành từng được gọi là “Cửu trùng thành”, nghĩa là thành nơi có Vua. Cửu trùng hay trùng cửu – trường cửu là từ mượn âm, dùng để xưng tụng, tung hô với nghĩa như từ “vạn tuế”. Đời vua Hùng Vương 18 không phải là đời vua Hùng cuối cùng, mà ngược lại, 18 là trùng cửu (9×2), là con số chỉ sự trường tồn của thời đại Hùng Vương. Những cái bẫy của ngôn ngữ do sự khác biệt xưa – nay đã làm lạc hướng các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Việt, dẫn đến “sai một ly đi một dặm”. Do chữ Nho là thứ văn tự bản chất tượng hình nên để ký âm, nhất là âm của ngôn ngữ khác, các nho sĩ xưa phải dùng phép phiên thiết. Phiên thiết một âm là dùng 2 “ký tự” (2 chữ), một tự ký phụ âm, một tự ký vần, ghép lại để ghi âm. Một âm Nôm khi chép vào sử sách do vậy biến thành 2 chữ Nho, lâu ngày người ta quên đi rằng đây là các “ký tự” để ghi âm chứ không phải ghi nghĩa. Mê Linh là 2 ký tự ghi âm Minh – Minh đô của vua Hùng, chẳng phải loài chim M’linh, M’lang nào cả. Tên làng Vân Già thiết Và, chứ không phải đám mây có tuổi mà “già”… Truyền thuyết không phải là lịch sử, nhưng nếu truyền thuyết được quy chiếu vào đúng hệ tọa độ không gian – thời gian – ngôn ngữ – văn hóa sẽ trở thành lịch sử thật sự. Một trong những tọa độ căn bản của văn hóa phương Đông xưa là Dịch học, là Hà thư Lạc đồ, là Âm Dương Ngũ Hành. Hà là trời, Lạc là đất. Hà thư là những cặp số sắp xếp theo phương vị để chỉ 4 phương trời và một phương trung tâm. Do đó Ngũ Lĩnh là 1 ngọn núi tên là Ngũ, tức là ngọn núi ở trung tâm. Kinh Dương Vương đi tuần ở Ngũ Lĩnh, không phải là nơi có 5 ngọn núi ở bên Tàu. Bát Hải không phải là có 8 cửa biển mà là biển nằm ở phương Tám, tức là phương Đông. Vua cha Bát Hải Động Đình của Thoải phủ trong đạo Mẫu do vậy không hề xuất xứ từ đầm nước ở Hồ Nam mà là vị vua của biển Đông, là cha Lạc Long đã dẫn 50 người con xuống biển. Khi các con số chỉ phương hướng của Hà thư lại phối chồng lên với các tính chất của Ngũ hành hay các quẻ của Bát quái thì sự thể còn đi xa hơn nữa. Từ Lạc – Nác – Nước, cũng là Lục, là số 6, con số chỉ phương Bắc ngày nay. Hùng Vương thứ sáu là Lạc Vương, nghĩa là vua vùng đất phía Bắc, đồng nghĩa với Kinh Dương Vương (Canh Giêng Vương). Tên nước Xích Quỷ hay Xích Quẻ là quẻ chỉ hướng Nam, hướng Xích đạo. Hiểu nước Xích Quỷ của Lạc Long Quân thành “quỷ mặc áo đỏ” thì chẳng ra ngọn ngành gì cả… Những ví dụ về ngôn ngữ như vậy trong cổ sử Hoa Việt vô cùng nhiều. Không vận dụng Dịch lý thì không thể hiểu được những nhân danh, địa danh trong quá khứ, tức là không thể hiểu được những “mật mã” mà tiền nhân người Việt đã nhắn gửi trong những câu truyền thuyết. Ngôn ngữ, văn hóa không chỉ đọng lại trong thư tịch, trong truyền thuyết, trong hoành phi câu đối điện thờ. Những hiện vật khảo cổ của từng thời kỳ lịch sử, có minh văn hay không có minh văn, đều tự kể chuyện mình, kể những câu chuyện hoàn toàn không như cách “giải đoán” của các sử gia ngày nay. Tấm bia Xá lợi tháp minh phát hiện ở Bắc Ninh ghi rõ năm 601 Giao Châu là đất “thuộc bản đồ đế quốc Tùy”, do thứ sử Lưu Phương cai quản. Tức là Lý Phật Tử – Triệu Việt Vương không hề đóng đô ở Long Biên vào những năm này. Đồng tiền cổ với chữ Đinh ở mặt sau thời Ngũ đại thập quốc lại có tên được đúc trăm đồng như một là “Đại Hưng bình bảo”, xứng tên nước Đại Hưng rõ ràng. Chuông cổ Thanh Mai ở Hà Nội đúc năm Càn Hòa thứ 6 cho biết năm 948 Giao Châu đang là một huyện dưới thời vua Lưu Thịnh ở Quảng Đông. Trận đại thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng do đó không thể xảy ra vào năm 938 được… Ngày càng có nhiều những phương pháp, những dẫn chứng thuộc những lĩnh vực khoa học khác nhau soi thấy chính sử nước Nam đã được chép… đúng mà không đúng. Lịch sử bị biến thành huyền thoại vì đã không được đặt đúng, hiểu đúng trong tọa độ vốn dĩ của các sự kiện từng xảy ra. Giải mã những huyền thoại, truyền thuyết Việt không phủ nhận, mà trái lại, giúp làm rõ thêm lịch sử. Lịch sử nước Nam là lịch sử của cả đại tộc Bách Việt trên phạm vi thiên hạ Trung Hoa rộng lớn thời cổ trung đại. Lịch sử Hoa Việt thật sự càng lộ rõ thì tộc danh Bách Việt càng rực rỡ, rực rỡ như đã từng tỏa chiếu trong quá khứ. Hình ảnh trên mặt trống đồng Ngọc Lũ Những thông điệp từ quá khứ được nhắn gửi rõ ràng ngay trên mặt trống đồng, linh khí của người Việt cổ. Ở chính giữa mặt trống đồng là hình ảnh của mặt trời, nguồn sống muôn loài. Ngọn lửa ánh sáng ở trung tâm tức là Trung Hỏa – Trung Hạ hay Trung Hoa. Trung Hoa là cõi thiên hạ của người Bách Việt. Vòng ngoài cùng của mặt trống đồng Ngọc Lũ khắc 18 cặp chim, 1 non và 1 trưởng thành đang tung bay. 18 là trùng cửu, là trường cửu. Ý nghĩa của vòng ngoài mặt trống đồng là đời sau con cháu nối tiếp ông cha đời trước mà trường tồn. Thông điệp của trống đồng gửi từ ngàn xưa về là Bách Việt trùng cửu, một sự khẳng định: Bách Việt trường tồn với thời gian. 7 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 10, 2014 Chúc mừng anh Minh Xuân đã xuất bản sách. Diễn đàn lý học Đông phương là một diễn đàn học thuật thực sự, tất cả các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước của tất cả các ngành khoa học có ý tưởng gì mới đều có thể đăng bài trên diễn đàn, Mặc dù không thống nhất quan điểm, miễn không phạm nội quy. Mọi phản biện đều phải lập một topic riêng nếu tác giả đồng ý và phải là phản biện khoa học đúng nghĩa. Nếu thể hiện tính phản đối lập tức sẽ bị xóa bài hoặc loại ra ngoài diễn đàn. Cá nhân tôi luôn ủng hộ mọi mục đích chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến, mặc dù phương pháp đạt được mục đích khác nhau, có thể đúng và có thể sai. Một lần nữa chúc mừng anh. Anh có thể tiếp tục đưa các bài viết liên quan vào các topic của diễn đàn. 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 10, 2014 Cũng xin chúc mừng anh Thiên sứ đã ra mắt cuốn Minh triết Việt trong văn minh phương Đông. Tôi nghĩ là giữa những người nghiên cứu nghiêm túc dù khác cách làm nhưng rồi sẽ đi đến điểm chung. Ví dụ ở cuối cuốn sách của anh có bàn về bức tranh Đông Hồ Trê cóc kiện nhau. Tôi cũng đã từng có bài viết về bức tranh này và cũng dùng nó làm trang cuối cho sách của mình. NÒNG NỌC ĐỨT ĐUÔI Trong kho tàng truyện Nôm Trê cóc kiện nhau là câu chuyện ngụ ngôn đầy ý nghĩa. Cóc sống trên bờ, đến kỳ sinh nở đẻ xuống ao, nở ra nòng nọc. Cá Trê thấy thế dẫn về làm con mình. Cóc phát đơn kiện đòi con nhưng quan trên về tra xét, thấy lũ nòng nọc con bơi dưới nước giống như Trê, nên xử Cóc thua. Oan khuất tày đình. May nhờ có thầy Nhái bén “tư vấn”, đợi đến khi nòng nọc đứt đuôi, nhảy lên bờ thì cả nhà Cóc lại đoàn tụ. Cóc thắng kiện. Bức tranh dân gian Đông Hồ đã diễn tả rất sinh động câu chuyện này. Hình ảnh chú Cóc hai tay giơ trên đầu dâng đơn kiện lên quan “thái thú” cá chép. Xung quanh toàn là họ hàng nhà tôm cá, không có lấy một chú ếch nhái nào. Nòng nọc thì đang còn đuôi, bơi bên cá Trê. Xét xử như vậy những tưởng Cóc sẽ thua. Nhưng Cóc vẫn hùng hồn tuyên bố (chữ trên tranh): Giỏ ai quai nấy rành rànhGiương vây thích ngạnh tranh hành chẳng xong. Sự thật cuối cùng sẽ trở về đúng chỗ của nó dù xung quanh có huyên náo như thế nào.Câu chuyện này còn có chứa thâm ý gì? Bức tranh Đông Hồ Thầy đồ cóc cho biết con cóc vốn là “thầy đồ”, là người đã sản sinh ra văn tự, chính là đàn “nòng nọc” đầu to chữ khoa đẩu xưa. Thầy đồ cóc là biểu tượng của văn hóa Việt. “Con cóc là cậu ông trời”, chỉ nghiến răng cũng đã làm Trời phải sợ. Cóc quen vui thú bờ hồ,Khi ra đài các, khi vô cung đình. Chú Cóc Việt đơn giản nhưng thật cao quí, đầy hãnh diện. Đàn chữ khoa đẩu nòng nọc của nền văn hóa Việt sinh ra ở dưới nước, bị cá Trê cướp đoạt mất. Nước (thủy) trong Dịch học là tượng trưng của phương Bắc ngày nay. Con cá Trê đen nhẻm, chuyên rúc bùn ao là hình ảnh của hắc tặc – giặc phương Bắc. Hán tộc đã cướp không đàn chữ “nòng nọc” của người Việt, gọi thành “chữ Hán”. Cuộc kiện tụng ngàn năm xem “cái chữ” thuộc về ai bắt đầu. Quan tòa xét xử như trong bức tranh đều là họ hàng tôm cá cả. Một mình chú Cóc Việt đâm đơn, đòi lại chân lý, đòi lại công bằng. “Chữ Hán” là của người Việt. Cái điều tưởng như vô lý, “thế giới” ai ai cũng cười nhạo này rồi cuối cùng cũng trở về đúng vị trí của nó. Hãy nghe lời Cóc mắng Trê trên công đường: Trê kia chớ có huyên hoa,Hùm dầu có cánh ta đà chẳng ghê.Quả tình nào có hồ nghi,Ra điều bán dạ lâm trì khó coi.Phù sinh mấy kiếp ở đời,Làm cho rắn cắn được voi còn chầy.Chỉ nghề dạy khỉ leo cây,Xui nguyên dục bị, chỉ hay bày trò.Ai ngờ xã thử thành hồ,Chỉ điều cậy thế làm cho hại người.Biết rằng hươu chết tay ai,Mỏ chim, nanh chuột tranh hơi còn nhiều. Đoạn này truyện Nôm dùng toàn thành ngữ: “hùm dầu có cánh”, “bán dạ lâm trì” “rắn cắn voi”, “dạy khỉ leo cây”, “xã thử thành hồ”, “hươu chết tay ai”… Chửi rất hay và rất đúng. “Thầy đồ cóc” có khác, rất lắm chữ. Cái lý ở đời không thể nào đổi trắng thay đen được, không thể dùng quyền thế mà lấn át sự thật. Và cái sự kiện tụng ở đây đã không chỉ còn dừng lại ở phân xử chữ Nho là của ai nữa. Điển tích “săn hươu” là chỉ “thiên hạ”. “Thiên hạ” Trung Hoa thực sự là của ai? Đầu năm Nhâm Thìn đã tìm thấy chữ Lạc Việt khắc trên đá ở Bình Quả – Quảng Tây, với niên đại vào thời kí đỉnh cao của ‘văn hóa xẻng đá lớn’ cách đây 4000 – 6000 năm. Nòng nọc khoa đẩu cuối cùng cũng đứt đuôi để lên bờ, trở về với cha ông Cóc của mình. Lời “tiên tri” trong câu chuyện Trê cóc đã thành sự thực. Đáng nói là loại chữ Lạc Việt cổ này có sớm hơn chữ giáp cốt nhà Thương tới 1000 năm và “chắc chắn có nguồn gốc sâu xa với chữ giáp cốt cổ”. Nói vậy tức là chữ Lạc Việt là chính là tiền thân của chữ giáp cốt đời Ân Thương được tìm thấy Ân Khư. Nhà Thương là một triều đại dùng chữ Việt, tức là triều đại của người Việt. Con chữ, cái nền tảng của văn minh đã được phát hiện. Chân lý này thật “nhái bén”: sự thật không cần kiện mà vẫn thắng. Đã đến lúc phải trả lại “nòng nọc” cho “cóc”. Không phải chỉ trả chữ Nho cho người Việt mà còn phải trả cả văn hóa lịch sử Trung Hoa cổ đại về đúng quê cha đất tổ Việt Nam. 4 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 10, 2014 Oh! Tốt quá. Chúng ta là chứng nhân của nhau. Vì cùng cho rằng những di sản văn hóa truyền thống Việt phản ánh những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương nói chung. Về chi tiết có nhiều điểm trùng hợp. Có điều cách phân tích để đạt đến giải mã nội dung bức tranh khác nhau. Tôi đã phân tích truyện trê cóc từ 2002, trong "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam". Nhưng để nhấn mạnh vấn đề tôi luôn phải xác định rằng: "Tôi không bao giờ coi sự giải mã là luận cứ khoa học chứng minh cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương Tử". Sở dĩ tôi luôn phải xác định điều này, không phải với anh. Mà như anh đã biết, nhiếu học giả và nhà nghiên cứu - nếu không phải cố tình xuyên tạc thì cũng hiểu nhầm - rằng: tôi chứng minh cho Việt sử một cách mơ hồ vì dựa vào truyền thuyết và giải mã là không có "cơ sở khoa học". Bởi vậy, tôi phải đưa toàn bộ cuốn sách lên mạng và giải thích làm sáng tỏ vấn đề, mà trước đây tôi nghĩ họ có thể hiểu được. Chúc anh tiếp tục thành công. 4 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 17 Tháng 11, 2014 Tập II. Bước ra từ huyền thoại: từ Nam Việt đến Đại Việt. http://asakicorp.com/bachviet18/?p=887 Xin liên hệ: bachviet18@yahoo.com 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 17 Tháng 11, 2014 Hay quá! Chân lý cuối cùng cũng sáng tỏ thôi. Bà xã tôi mới sang Hoa Kỳ ngày hôm qua, có đem theo 5 cuốn "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương", tôi hân hạnh được tặng anh - nếu anh ở Hoa Kỳ - anh có thể liên hệ với haithienha - thành viên của diễn đàn và cho xin địa chỉ. Tôi sẽ xin gửi sách đến tận nơi. Về phần tôi, tôi xin là người đầu tiên đăng ký mua sách của anh, như là một người mở hàng may mắn chúc lành theo quan niệm truyền thống của nền văn hiến Việt trên diễn đàn. Chúc anh thành công trong việc chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Nền văn hiến Việt còn một sức mạnh trí tuệ rất mãnh liệt nữa là: Thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về Việt tộc, chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước. Cho dù điều đó được công nhận hay không thì đó vẫn là một thực tại khách quan đang chi phối toàn bộ lịch sử của cả một nền văn minh. Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, cội nguồn đích thực của những giá trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương và thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất là một chân lý không thể phủ nhận. Một lần nữa chúc anh thành công và tiếp tục thành công trên con đường minh chứng Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 11, 2014 Hay quá! Chân lý cuối cùng cũng sáng tỏ thôi. Bà xã tôi mới sang Hoa Kỳ ngày hôm qua, có đem theo 5 cuốn "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương", tôi hân hạnh được tặng anh - nếu anh ở Hoa Kỳ - anh có thể liên hệ với haithienha - thành viên của diễn đàn và cho xin địa chỉ. Tôi sẽ xin gửi sách đến tận nơi. Về phần tôi, tôi xin là người đầu tiên đăng ký mua sách của anh, như là một người mở hàng may mắn chúc lành theo quan niệm truyền thống của nền văn hiến Việt trên diễn đàn. Chúc anh thành công trong việc chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Nền văn hiến Việt còn một sức mạnh trí tuệ rất mãnh liệt nữa là: Thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về Việt tộc, chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước. Cho dù điều đó được công nhận hay không thì đó vẫn là một thực tại khách quan đang chi phối toàn bộ lịch sử của cả một nền văn minh. Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, cội nguồn đích thực của những giá trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương và thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất là một chân lý không thể phủ nhận. Một lần nữa chúc anh thành công và tiếp tục thành công trên con đường minh chứng Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Chú ơi, anh Minh Xuân ở HN mà! :D Hôm nào chú ra HN chú cho phép cháu mời chú cafe nhé! :D Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 11, 2014 Chú ơi, anh Minh Xuân ở HN mà! :D Hôm nào chú ra HN chú cho phép cháu mời chú cafe nhé! :D Nếu anh Minh Xuân ở Hanoi thì tại sao sách không ghi Nxb? 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 11, 2014 Cảm ơn anh Thiên sứ. Tôi đã về nước mấy năm rồi. Anh Nhật mới ở nước ngoài. Tôi cũng đã mua sách của anh ở NXB Tri thức rồi. Tôi từng gửi sách ở đó để in lúc sách của anh đang được biên tập (từ đầu năm nay). Nhưng có lẽ vì đã có quyển của anh rồi nên ông Chu Hảo không muốn có thêm một lời bàn nữa cùng chủ đề... Anh Thiên sứ cho địa chỉ, tôi sẽ gửi sách của mình vào cho anh. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 11, 2014 Cảm ơn anh Thiên sứ. Tôi đã về nước mấy năm rồi. Anh Nhật mới ở nước ngoài. Tôi cũng đã mua sách của anh ở NXB Tri thức rồi. Tôi từng gửi sách ở đó để in lúc sách của anh đang được biên tập (từ đầu năm nay). Nhưng có lẽ vì đã có quyển của anh rồi nên ông Chu Hảo không muốn có thêm một lời bàn nữa cùng chủ đề... Anh Thiên sứ cho địa chỉ, tôi sẽ gửi sách của mình vào cho anh. Oh! Tốt quá. Cuối tháng này tôi ra Hanoi, xin được trực tiếp gặp anh để nhận sách. Nếu anh ở Hanoi thì tốt qúa rồi. Chúng ta sẽ gặp nhau và trao đổi về vấn đề học thuật liên quan. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 11, 2014 Vâng. Tôi cũng từng gặp bác Lãn Miên từ năm ngoái. Nếu anh ra Hà Nội thì chúng ta có thể gặp nhau, mời cả bạn Thích Đủ Thứ tham gia cafe. Số ĐT của tôi: 01698614440. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 11, 2014 Vâng! Nhất định là như vậy. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 3 Tháng 12, 2014 Oh! Tốt quá. Cuối tháng này tôi ra Hanoi, xin được trực tiếp gặp anh để nhận sách. Nếu anh ở Hanoi thì tốt qúa rồi. Chúng ta sẽ gặp nhau và trao đổi về vấn đề học thuật liên quan. Tôi phải mong anh thông cảm vì tôi bệnh ốm quá, nên không ra Hanoi đúng hẹn. Đi khám viêm đủ mọi kiểu. Đúng là năm Ngũ Hoàng chiếu hướng Nhị hắc tọa thủ, Nhà tôi hướng Càn, tôi trạch mệnh cũng Càn, nên lãnh đủ. Cũng trấn yểm đủ kiểu, nên hôm nay bệnh đỡ nhiều. Để dứt hẳn, chắc phải tuần tới tôi mới ra Hanoi được. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 3 Tháng 1, 2015 Chúc anh Thiên Sứ năm mới mạnh khỏe. Sau nhiều lần thử với các NXB khác nhau tôi vẫn không nhận được giấy phép của NXB nào cả. Vì thế tôi tập hợp 2 tập sách trên vào một quyển, in ra một ít phục vụ ai muốn đọc. Kính mời các bạn quan tâm liên hệ theo địa chỉ bachviet18@yahoo.com. http://asakicorp.com/bachviet18/?p=934 MỤC LỤC LỜI BẠTLỜI TỰABÁCH VIỆT TRÙNG CỬU DẪN LUẬN ÔNG TRỜI BÀ TRỜI Viêm Giao Bàn CổNgọc Hoàng thượng đếQuốc mẫu Tây ThiênNúi Côn Lôn ĐẾ QUỐC LẠC HỒNG Mở sử Hoa ViệtKinh Dương VươngLên núi xuống biểnThần châu Xích huyện TẢN VIÊN SƠN THÁNH Gậy thần sách ướcNgũ hành cungSơn Tinh – Thủy TinhNgũ Nhạc và Ba Vì RỒNG BAY BIỂN BÁT Mẫu ThoảiBát Hải Động ĐìnhCuộc chiến Hùng – ThụcĐầm Nhất dạGiếng Việt NON SÔNG BÁCH VIỆT Mẹ Âu CơSinh Bách ViệtThần BổngChim bạch trĩCổ vật Thương Chu LÃO TỬ HÓA VIỆT KINH Lão Tử làng Thổ HàXây thành Cổ LoaHuyền Thiên Trấn VũÔng ĐổngNam thiên Tứ bất tử NHÂN DUYÊN TẦN VIỆT Mỵ Châu – Trọng ThủyBiển Đông thà chết chẳng theo TầnHọ Chu Việt NamTần An Dương Vương HƯƠNG BỔNG ĐỔNG ĐẰNG Đức thánh ChiêmBến Vĩnh KhangVua Mây họ PhạmLuận về tứ linh THIÊN NAM ĐẾ THỦY Người Tuấn kiệtNhâm NgaoLong HưngNam Việt Đế NAM QUỐC SƠN HÀ Mũ đâu mâuChân Định linh thầnThừa tướng Lữ GiaTam Giang nhị thánhBảy quận nước Nam LỜI THỀ SÔNG HÁT Tây Lý VươngẢ Lã Nàng ĐêMẫu vì Dương VươngHống Hát họ Trương NHỮNG ANH HÙNG THỜI LOẠN Tiền nhân họ PhùngNam Giao học tổGiao Châu Đặng cư sĩ ĐẦU VOI PHẤT NGỌN CỜ VÀNG Tiếp Lạc khai ĐinhĐô Dương Mã bất tiếnThì chi Đông Hán dám hung hăngKhu Linh người nước Nam taTây Đồ Di SÁU TRĂM NĂM LÂM ẤP Mạnh HoạchNam TriệuBia cổ nóiLưu Phương và Lý Bát Lang BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG Tây Hưng đại vươngKhun BoromTộc người TháiTam vị chúa Mường GIANG TÂY SỨ QUÂN Bột Hải triều NamDẹp Lâm ẤpGạch Giang Tây ĐẠI VIỆT ĐẠI HƯNG Khúc tam vị chủHạt Lý nảy năm câyĐại Hưng bình bảoGiữa huyện Phù Hoa TRUYỀN THUYẾT ĐINH LÊ Thời 12 sứ quânThủ lĩnh Đinh BộDiễn Châu thái thúQua cửa Thần Phù ĐÔI LỜI CHIA SẺ CÙNG TÁC GIẢPHỤ LỤC Đối chiếu truyền thuyết và lịch sửDịch tượng và ngôn ngữThơ Sử thuyết họ HùngChỉ dẫn di tích và địa danhTài liệu tham khảo 5 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 3 Tháng 9, 2015 Phiên bản số hóa của cuốn BƯỚC RA TỪ HUYỀN THOẠI, Lịch sử nước Nam qua truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian đã được phát hành trên kho sách điện tử Alezaa. Sách có thể tải về và xem trên các thiết bị điện thoại thông minh và máy tính bảng. Kính mời bạn đọc: http://alezaa.com/view?id=21208 5 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 11, 2015 LỊCH SỬ NƯỚC NAM QUA TRUYỀN THUYẾT VÀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN Quá khứ không phải là điều đã qua và qua rồi là hết. Lịch sử một đất nước, một dân tộc như phần rễ cây chìm trong lòng đất, không nhìn thấy nhưng lại quyết định khả năng vươn cao của cây. Rễ có sâu, có to thì thân và cành lá mới xum xuê vứng chãi. Nền văn minh chói ngời của cha ông một thời soi đường cho cả Thiên hạ là sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy con cháu ngày nay xốc tới. Văn nhân Nguyễn Quang Nhật. Tác giả Minh Xuân có một cuốn sách, giải mã các vấn đề lịch sử thông qua các truyền thuyết, huyền thoại dân gian. Căn cứ vào kết quả điền dã, khảo cứu các thần phả của các đền miếu cổ, Minh Xuân đã lý giải lại toàn bộ quá trình cổ sử của Việt Nam. Tôi tạm coi đó là những giả thuyết, mà khi đọc các giả thuyết này, tôi tin rằng đại đa số bạn đọc sẽ như bị ong đốt, nếu như bấy lâu nay chúng ta được dạy sử một cách một chiều, tiếp nhận văn bản kiểu tuyên truyền… Nhà văn Nguyễn Xuân Hưng. Bách Việt trùng cửuLịch sử của quốc gia, của dân tộc không thuộc về riêng ai. Các sử gia chép sử, các nhà văn hóa mô tả sử,… còn nhân dân mới là những người làm nên lịch sử. Trong khi những sử gia thận trọng biên chép các sự kiện lịch sử theo quan niệm chính thống mỗi thời đại thì còn một dòng sử khác tồn tại song song. Đó là dòng sử trong dân gian, được lưu truyền qua các câu chuyện kể, các di tích, các di vật, các danh nhân địa phương… Lượm lặt, sắp xếp những thông tin từ văn thơ cổ, những truyền thuyết từ nơi đền miếu, chốn dân dã, tập sách nhỏ này có tham vọng lớn đi tìm sự thật cho giai đoạn lịch sử nước Nam từ thời khai thiên lập địa tới khi nước Đại Việt xứng tên độc lập. 18 bài viết về huyền thoại lịch sử, đúng hơn là về những con người đã làm nên huyền thoại, muốn góp phần nào chút ánh sáng soi tìm lịch sử chân xác của dân tộc đã chìm đắm sau hàng ngàn năm tăm tối. Người viết không sợ nêu lên những nhận định, suy đoán, mà muốn đưa những vấn đề lịch sử khúc mắc ra bàn dân thiên hạ cùng suy ngẫm. Mỗi cánh cửa hé mở thì sự thật lại càng gần hơn, tỏ hơn. Như vậy cũng là tâm nguyện của người viết đã thành. Bạn đọc có quan tâm xin liên hệ mua sách theo địa chỉ bachviet18@yahoo.com.Phiên bản lần thứ 4 dày 492 trang. Mục lục chi tiết xin xem ở đây. Bản số hóa có tại sách điện tử Alezaa. Tóm tắt 18 bài viết trong cuốn BƯỚC RA TỪ HUYỀN THOẠI: 1. Ông trời Bà trờiÔng Trời là Hoàng Đế Hiên Viên, cũng là Đế Minh, vị vua Hùng đầu tiên của người Việt. Bà Trời hay Mẫu Thượng thiên là Tây Thiên quốc mẫu – Tây Vương Mẫu, cầm đầu bộ tộc Cao Sơn ở núi Côn Lôn – Tam Đảo.2. Đế quốc Lạc HồngLạc Hồng là hai vùng đất Đào – Đường thời Đế Nghiêu – Đế Nghi. Đế Nghi làm vua phương Bắc (Hồng), Lộc Tục làm vua phương Nam (Lạc), là thời kỳ Nam Giao mở nước của người Việt.3. Tản Viên Sơn ThánhVị thần đứng đầu trong các thần linh Việt là Sơn Tinh – Đại Vũ, người đã phát huy ứng dụng Hà Lạc trong công cuộc trị thủy và tập hợp các bộ tộc ở bốn phương, dựng nên nước Việt thời sơ sử.4. Rồng bay biển BátCha rồng Lạc Long Quân xuất thế nơi biển Động Đình – biển Đông là vua cha của Thoải phủ, là Hạ Khải, người mở đầu Hoa Hạ của 4.000 năm trước. Chử Đồng Tử, vị thần bất tử thứ hai của người Việt là Tông Bố Hậu Nghệ, người đã làm gián đoạn nhà Hạ thời Hạ Thái Khang.5. Non sông Bách ViệtMẹ Âu Cơ dựng nước Văn Lang ở đất Phong là Văn Vương Cơ Xương. Người sinh Bách Việt là Chu Vũ Vương sau khi diệt Ân Trụ Vương với sự phò tá của thần Phù Đổng. Những cổ vật đồ đồng thời Thương Chu hiện hữu ở vùng Đông Dương minh chứng cho những sự kiện này.6. Lão Tử hóa Việt kinhVị giáo chủ Đạo Giáo Lão Tử không ai khác là Huyền Thiên Trấn Vũ, vị thần đã sai khiến Rùa Vàng giúp vua Chu An Dương Vương dời đô từ Tây sang Đông, xây thành ở Cổ Loa.7. Nhân duyên Tần ViệtCâu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy là mối lương duyên Chu – Tần, sinh ra đại đế Tần Thủy Hoàng, thống nhất Trung Hoa thời cổ đại.8. Hương Bổng Đổng ĐằngHương là đức thánh Chiêm Lý Ông Trọng trấn Hoa Di. Bổng là Phù Đổng Thiên vương đánh giặc Ân. Đổng là Huyền Thiên Đại Thánh khiển quy xà. Đằng là vua Mây họ Phạm trấn giữ miền duyên hải.9. Thiên Nam đế thủyNgười khởi đầu nước Nam Việt là Triệu Vũ Đế, cũng là Cao Tổ Lưu Bang và là Long Hưng Lý Bôn, xuất Thái Bình, khởi nghĩa ở Long Biên mà nên nghiệp đế vương.10. Nam quốc sơn hàNước Nam Việt của nhà Triệu là chuyện Triệu Quang Phục trong truyền thuyết. 4 đời vua Triệu gắn liền với tên họ của Lữ Gia, hay Lữ tộc từ Lữ Hậu.11. Lời thề sông HátKhởi nghĩa của Nhị Trưng Vương hay Trương Hống Trương Hát nối tiếp ý chí Phục Man của Lữ Gia, lấy sông Hát làm nơi dựng cờ đền nợ nước Nam Việt, trả thù nhà cho Triệu Việt Vương.12. Những anh hùng thời loạnTiền nhân họ Phùng là Phàn Sùng đánh đuổi Lục Lâm Hán quân xâm lược. Huynh đệ Sĩ Vương 40 năm tự quản Giao Châu, chống giặc giữ là các châu mục thái thú Đặng Nhượng, Tích Quang. Sĩ Nhiếp thứ hai là Đô Hồ Phạm Tu, cũng là thần Long Đỗ, thành hoàng Thăng Long.13. Đầu voi phất ngọn cờ vàngNgọn cờ của khởi nghĩa Khăn Vàng trên đất Tượng Lâm của anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh đã chặn đứng bước tiến của Hán quân Mã Viện xuống phương Nam, làm tiền đề cho Lý Bí dựng nên nước Tây Đồ Di – Tây Thục.14. Sáu trăm năm Lâm ẤpThục Ngô mất nhưng Lâm Ấp của Mạnh Hoạch vẫn còn. 600 năm độc lập của con cháu Triệu Vũ Đế tính đến khi Lý Phật Tử về với nhà Tùy. Tấm bia cổ phát hiện ở Bắc Ninh xác nhận chùa Dâu là chùa Thiền Chúng, nơi Tùy Văn Đế xây tháp xá lợi ngay trên kinh đô của Lý Phật Tử.15. Bố Cái đại vươngLâm Ấp – Nam Chiếu lại phục hưng từ Bố Cái đại vương họ Phùng, là Khun Borom, tổ của người Thái ở Tây Bắc, Lào, Thái Lan và Vân Nam.16. Giang Tây sứ quânCao Vương Biền người Bột Hải – biển Đông đã dẹp được quân Lâm Ấp khỏi miền Đông Giao Chỉ, trở thành Tiết độ sứ Giang Tây – Tĩnh Hải đầu tiên. Những viên gạch Giang Tây xây La Thành là gạch của Tĩnh Hải quân.17. Đại Việt Đại HưngTam vị chủ họ Khúc kiến lập nước Đại Việt đầu tiên, từ Long Thành chiếm Nghiễm Châu, đóng đô ở Hưng Vương phủ, thống nhất 2 vùng Thanh Hải và Tĩnh Hải. Đồng tiền Đại Hưng bình bảo là vật chứng rõ ràng của thời đại này.18. Truyền thuyết Đinh Lê12 sứ quân là các tiết độ sứ thời Mạt Đường, là Thập quốc thời Ngũ quý. Họ Lý ẩn họ Lê, âm thầm phục quốc trên đất Đinh bộ – Tĩnh Hải, tới Lý Thánh Tông dời đô về Thăng Long và xưng Đại Việt ngàn năm độc lập. Share this post Link to post Share on other sites