VIETHA

Nguồn Gốc Loài Người Theo Các Văn Tự Sumer Cổ

3 bài viết trong chủ đề này

Nguồn Gốc Loài Người Theo Các Văn Tự Sumer cổ

 

Posted Image

Bức tranh khắc mô tả Enki, vị thần của người Sumer và một bản khắc đá của người Sumer (ảnh nền) từ thế kỷ 21 trước Công nguyên, với một bài thánh ca được khắc trên đó. (Wikimedia Commons)

 

Sumer, tức “vùng đất của các vị vua được khai hóa”, từng phát triển mạnh ở vùng Lưỡng Hà, ngày nay là Irắc, vào khoảng những năm 4500 trước Công nguyên. Người Sumer đã sáng tạo ra một nền văn minh tiên tiến với hệ thống phức tạp về ngôn ngữ và chữ viết, kiến ​​trúc và nghệ thuật, thiên văn học và toán học. Hệ thống tôn giáo của họ rất phức tạp với hàng trăm vị thần, nghi lễ và vũ trụ học. Theo các văn tự cổ xưa, mỗi thành phố Sumer đã được bảo vệ bởi một vị thần riêng của mình; trong khi con người và các vị thần sống cùng nhau, và con người là những người phụng sự các vị thần.

Huyền thoại về tạo hóa của người Sumer có thể được tìm thấy trên một bản khắc đá tại Nippur, một thành phố cổ đại vùng Lưỡng Hà được thành lập vào khoảng  những năm 5000 trước Công nguyên.

Theo bản khắc đá của người Sumer, việc kiến tạo trái đất (Enuma Elish) bắt đầu như sau:

Từ lúc  thiên đường trên cao chưa được đặt tên,

Và ở trần gian bên dưới cũng chưa có tên,

 Apsu nguyên thủy là người đã tạo ra cả hai

Cùng với mẹ Tiamut, hiện thân của sự hỗn loạn

Nước của họ hòa lẫn vào nhau,

Và không có cánh đồng nào được tạo ra, không có đầm lầy nào được nhìn thấy;

Khi chỉ có các vị thần mà không hề có sinh vật,

Và không có gì có tên, không có vận mệnh nào được định đoạt;

Sau đó ở giữa thiên đàng tạo nên những vị thần,

Lahmu và Lahamu đã được gọi là sinh vật…

Cần lưu ý ở đây rằng không chỉ có một vị thần chịu trách nhiệm về tạo hóa, vì ngay cả các vị thần cũng là một phần của tạo hóa.

 

Thần thoại Sumer khẳng định rằng, vào thuở ban đầu, chủng tộc người ngoài hành tinh có hình dạng giống con người đã cai trị trái đất. Chủng tộc này, hay các vị thần linh, có thể bay lượn trên bầu trời bằng các phương tiện hình tròn hoặc hình tên lửa. Chủng tộc này đã làm việc cật lực trên trái đất nhằm tạo môi trường sinh sống và khai thác khoáng sản.

Các văn tự đề cập đến một số thời điểm, các vị thần đã nổi loạn chống lại việc lao động của họ.

Khi các vị thần như những người thường

Gánh chịu công việc và thuế khóa

Sự khó nhọc của các vị thần là to lớn,

Công việc nặng nề, nhiều nỗi đau đớn.

Anu, thần của các vị thần, đồng ý rằng nỗ lực của họ là quá to lớn. Con trai của ông là Enki, hay Ea, đã đề xuất tạo ra con người để gánh vác công việc này, và vì vậy, với sự giúp đỡ của người chị Ninki, ông đã tạo ra con người. Một vị thần đã phải chết, thân xác và máu của ông được trộn với đất sét. Con người đầu tiên được tạo ra từ nguyên liệu này, với hình dạng giống với các vị thần.

Ngài đã sát hại một vị thần

Cùng với tính cách của ông

Ta đã gỡ bỏ công việc nặng nhọc của ngài

Ta đã áp sự khó nhọc của ngài lên con người.

Trong đất sét, thần và người

Sẽ ràng buộc với nhau,

Để cùng mang lại một sự thống nhất;

Để đến cuối thời đại

Máu thịt và Linh hồn

Những thứ vốn thuộc về một vị thần, đã chín muồi -

Linh hồn đó được ràng buộc trong một quan hệ máu thịt.

Điều thú vị ở đây là cần lưu ý rằng tinh thần được kết nối với thân thể, cũng như nhiều tôn giáo và thần thoại khác có nhắc đến.

Con người đầu tiên  được tạo ra tại Eden, một từ tiếng Sumer có nghĩa là “địa hình bằng phẳng”. Trong Sử thi Gilgamesh, Eden được nhắc đến như khu vườn của các vị thần và nằm ở đâu đó trong vùng Lưỡng Hà giữa hai con sông Tigris và Euphrates.

Ban đầu con người không thể tự sinh sản, nhưng sau đó họ được thay đổi với sự giúp đỡ của Enki và Ninki. Do đó, Adapa được tạo ra như một con người độc lập với đầy đủ chức năng. Sự “sửa đổi” này đã được thực hiện mà không có sự chấp thuận của người anh em của Enki là Enlil, và một cuộc xung đột giữa các vị thần bắt đầu. Enlil trở thành kẻ thù của con người, bản khắc đá Sumer viết rằng con người phụng sự các vị thần và đã trải qua nhiều khó khăn và đau khổ.

Mặc dù câu chuyện về tạo hóa này không chính xác nói đến hai cây ở Eden, song Adapa với sự giúp đỡ của Enki, đã bay tới Anu nơi ông ta không thể trả lời câu hỏi về “bánh và nước trường sinh”. Có các ý kiến ​​khác nhau về những điểm tương đồng giữa hai câu chuyện tạo hóa này, nhưng có một điều rõ ràng: bất tử là dành cho các vị thần, không phải cho con người.

Lưu ý: Bản dịch tiếng Sumer cổ đại sang tiếng Anh được lấy từ cuốn sách của William Bramley, The Gods of Eden.

Đăng lại với sự cho phép của Ancient Origins. Đọc bản gốc tại đây.

Một số câu chuyện về sáng tạo thế giới trình bày bởi Melodicvision:

Iznami and Iznagi: A Creation Myth from Japan
 
Watch this video on YouTube.
The Descendents of Nun: A Creation Myth From Egypt
 
Watch this video on YouTube.
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites
Hộp Sọ Người Làm Hoài Nghi Lý Thuyết về Nguồn Gốc Loài Người

Bởi: April Holloway, www.ancient-origins.net

Posted Image

Hộp sọ Petralona được phát hiện bởi một người chăn cừu ở hang động Petralona, Hy Lạp. (Wikimedia Commons)

Vũ trụ chứa đầy những điều bí ẩn và thách đố tri thức của nhân loại. Bộ sưu tập những câu chuyện “Khoa học Huyền bí” của Đại Kỷ Nguyên về những hiện tượng lạ thường đã kích thích trí tưởng tượng và mở ra những khả năng chưa từng mơ tới. Chúng có thật hay không? Tùy bạn quyết định!

Một phát hiện về hộp sọ người có khả năng làm thay đổi hiểu biết về sự tiến hóa của loài người và sự ngăn chặn, giấu giếm thông tin sau khi phát hiện hộp sọ này.

Vào năm 1959, tại vùng Chalkidiki thuộc Petralona, phía Bắc Hy Lạp, một người chăn cừu tình cờ phát hiện một hang động lộ ra sau khi tuyết tan. Ông ta huy động dân làng giúp ông phá cửa động. Họ phát hiện ra hang động bao phủ bởi thạch nhũ và măng đá, cùng một hộp sọ người được gắn vào tường (sau này người ta còn phát hiện ra một lượng lớn cổ vật hóa thạch bao gồm các loài động vật trước con người, lông động vật, gỗ, công cụ bằng đá và xương đã hóa thạch).

Hộp sọ người đã được Chủ tịch Cộng đồng Petralona chuyển đến cho Trường Đại học Thessaloniki ở Hy Lạp. Cam kết giữa hai bên trong việc chuyển giao này là sau khi hoàn thành việc nghiên cứu, sẽ mở một bảo tàng giới thiệu những cổ vật mới phát hiện từ hang động Petralona này và hộp sọ người sẽ được trưng bày ở trong viện bảo tàng – thế nhưng điều này đã không xảy ra.

Posted Image

Hộp sọ người Petralona được trưng bày tại Viện Bảo tàng Khảo cổ học Thessaloniki. (Wikimedia Commons).

Giáo sư Aris Poulianos, thành viên của tổ chức IUAES (Hiệp hội Khoa học Quốc tế Về nhân loại học và Dân tộc học) của UNESCO, là nhà sáng lập của Hiệp hội Nhân loại học của Hy Lạp, một chuyên gia nhân loại học, người đã làm việc tại Trường Đại học Moscow vào thời điểm đó, ông đã được Thủ tướng Hy Lạp mời quay trở lại Hy Lạp để giữ vị trí trong Hội đồng Các trường Đại học ở Athens. Lý do là ông đã xuất bản cuốn sách của ông có tên “Nguồn gốc của người Hy Lạp”, trong đó đã cung cấp những thông tin nghiên cứu hữu ích, chỉ ra rằng người Hy Lạp không phải bắt nguồn từ các dân tộc Slavic mà thực sự có nguồn gốc từ đất nước Hy Lạp. Sau khi trở lại Hy Lạp, Giáo sư Poulianos đã chú ý đến hộp sọ người tại Petralona và ngay lập tức bắt đầu nghiên cứu hang động Petralona và hộp sọ người này.

‘Người đàn ông Petralona’ hay được gọi là người cổ đại của vùng Petralona, có độ tuổi là 700.000 năm, trở thành người Châu Âu nhiều tuổi nhất từ trước đến nay. Nghiên cứu của Giáo sư Poulianos cho thấy người đàn ông Petralona là loài người tiến hóa độc lập ở Châu Âu và không phải là tổ tiên của loài người từ Châu Phi.

Vào năm 1964, các nhà nghiên cứu độc lập người Đức Breitinger và Sickenberg đã cố gắng bỏ qua các phát hiện của Giáo sư Poulianos, với lý giải là hộp sọ này chỉ khoảng 50.000 năm tuổi và thực chất là tổ tiên đến từ Châu Phi. Tuy nhiên, các nghiên cứu được công bố vào năm 1971 ở Mỹ trên tạp chí Khảo cổ học danh tiếng đã xác nhận lại những phát hiện trước kia, đó là hộp sọ này đúng là 700.000 năm tuổi. Việc này được đưa ra dựa trên một phân tích về địa tầng học và các trầm tích của hang động nơi hộp sọ được gắn vào. Những nghiên cứu sâu hơn trong hang động đã phát hiện ra những chiếc răng rời nhau và hai bộ xương người từ 800.000 năm trước cũng như là các mảnh hóa thạch của nhiều loài khác nhau.

Ngày nay, hầu hết các nhà học thuật, những người đã phân tích di vật ở Petralona cho biết ‘Người đàn ông Petralona’ thuộc về loài vượn người cổ khác biệt với loài Homo erectus lẫn loài Neantherthal và loài người với mô hình giải phẫu hiện đại, nhưng lại thể hiện đặc điểm của người Châu Âu. Hộp sọ 700.000 năm tuổi này cũng không thuộc họ Homo sapien hay một nhánh của Homo sapien. Điều này trái ngược với lý thuyết nguồn gốc Châu Phi về sự tiến hóa của loài người.

Khai quật thêm các khu vực trong động ở Petralona với sự tham gia của các nhà nghiên cứu quốc tế (46 chuyên gia từ 12 nước khác nhau) đã cung cấp thêm các bằng chứng như Giáo sư Poulianos đã đưa ra, bao gồm một số những phát hiện đặc biệt như các miếng gỗ hóa thạch, lá sồi hóa thạch, lông động vật hóa thạch, phân hóa thạch, những hiện vật này có thể xác định được chính xác năm tuổi cũng như là hầu hết những công cụ bằng đá và bằng xương của thời kỳ tiến hóa của người cổ đại Archanthropus, từ các tầng thấp hơn (750.000 năm) tới tầng cao hơn (550.000 năm) của các trầm tích bên trong động này.

Cuộc nghiên cứu này gián đoạn vì chế độ độc tài ở Hy Lạp, và mãi tận năm 1983 mới được tiếp nối. Sau đó chính phủ đã cấm các hoạt động khai quật tại địa điểm này trên tất cả mọi đối tượng, bao gồm nhà khảo cổ học và trong vòng 15 năm, không ai được tiếp cận đến địa điểm này hay tiếp cận tới các cổ vật đã được phát hiện ở vùng này, cho dù chính phủ không đưa ra lý do gì giải thích việc cấm đoán này. Có phải việc cấm cản này nhằm mục đích ngăn chặn phát tán những kết luận khoa học bị che giấu trong những di vật hóa thạch lạ thường ẩn sâu trong các lớp tường đá của các hang động này?

Sau khi Tổ chức Cộng đồng Ngành nhân loại học của Hy Lạp đưa sự việc này lên tòa án, 15 năm sau họ đã được cho phép tiếp cận lại hang động. Từ đó trở đi Bộ Văn hóa đang cố gắng bằng mọi cách để chiến thắng quyết định của tòa án và tiếp tục đào sâu nghiên cứu.

Những phát hiện của Giáo sư Poulianos trái ngược với cách nhìn nhận thông thường về sự tiến hóa của loài người và nghiên cứu của ông đã bị cấm. Giáo sư Poulianos và vợ ông đã bị tấn công tại nhà và bị thương vào năm 2012, người ta không phát hiện ra thủ phạm của vụ tấn công này. Ông và đồng nghiệp của ông đã bị từ chối, không cho phép tiếp cận vào hang động này để hoàn thành nốt phần nghiên cứu của họ và hiện giờ cũng không ai biết nơi để những họp sọ đó.

Hiện nay, các thông tin xung quanh hang động ở Petralona cho thấy hộp sọ được phát hiện có độ tuổi vào khoảng 300.000 năm. Tại trang thông tin Wikipedia ngày nay, bạn có thể tìm thấy những bài viết tham khảo thiếu chứng cứ và cố gắng để xác định tuổi của họp sọ Petralona này chỉ nằm trong giới hạn từ 160.000 đến 240.000 năm tuổi.

Gần đây, Giáo sư C.G.Nicholas Mascie Taylor của Trường Đại học Cambridge đã gửi một bức thư tới Bộ Văn hóa của Hy Lạp, nói rằng tuổi chính xác của họp sọ là 700.000 năm tuổi chứ không phải là 300.000 năm tuổi. Ông ấy cũng đặt nghi vấn về việc chính phủ cấm thông tin liên quan đến phát hiện đáng kinh ngạc này.

Tái bản với sự cho phép của Ancient Origins. Đọc bài gốc tại đậy.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites
Có một điều rất thú vị trong lịch sử của Đức Quốc Xã mà chúng ta chưa biết, đó là những nghiên cứu của họ về trái đất rỗng.

 

Không chỉ dừng lại ở nghiên cứu, họ còn lập được những căn cứ bí mật trong lòng trái đất để phục vụ cho những mục đích khác nhau. Trang web của USAHitman đã đăng tải các tài liệu mật lấy được từ NASA, là các bản đồ về Đế chế thứ 3, tiết lộ những địa điểm đi vào trong lòng trái đất rỗng và miêu tả về các đại dương và các lục địa khổng lồ bên trong.

Năm 1947, Đô đốc Richard E. Byrd chỉ huy 4.000 lính Mỹ, Anh và Australia thực hiện một cuộc viễn chinh đến Nam Cực trong một sứ mệnh có tên là Chiến dịch Highjump.

Posted Image

4.000 lính liên quân Mỹ, Anh và Australia cùng tham gia cuộc viễn chinh

Trong cuộc viễn chinh đến vùng đất lạnh giá này, Byrd và đội quân của ông đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt của các đĩa bay, buộc Byrd phải từ bỏ ý định xâm chiếm lục địa này.

Posted Image

Đô đốc Richard E. Byrd.

Có một nguồn tin khẳng định rằng, mục tiêu của chiến dịch Highjump là phải xác định vị trí của một căn cứ ngầm rất rộng lớn nằm sâu dưới lòng đất do người Đức xây dựng vào giai đoạn trước, trong và ngay sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, với sự trợ giúp của những sinh vật ngoài hành tinh, được nhắc đến là những “người Aryan” (Đức Quốc Xã tin đây là tổ tiên của họ, một chủng tộc ưu việt).

Posted Image

Hitler cùng người ngoài hành tinh

Căn cứ này được cho là được xây dựng ở Neuschwabenland, một khu vực thuộc Nam cực mà Đức đã phát hiện ra và tuyên bố chủ quyền trước khi nổ ra Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong thực tế, Đức đã tiến hành một nghiên cứu kỹ lưỡng về Nam cực và nước này đã tiến hành xây dựng một căn cứ ngầm dưới lòng đất trước khi diễn ra Chiến tranh thế giới thứ hai.

Posted Image

Một chi tiết đáng chú ý là vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, phe Đồng minh tính toán rằng có khoảng 250.000 người và rất nhiều tàu ngầm khổng lồ cùng những khí tài của  Đức không rõ biến đi đâu mất. Số người này với trình độ cao đủ để xây dựng một nền tảng công nghiệp. 

Có nhiều bằng chứng cho thấy, tại vùng đất quanh năm phủ đầy băng giá này, Đức Quốc Xã đã xây dựng một cơ sở quân sự, có liên quan đến những vật thể bay không xác định (UFO). Và dưới đây là những bằng chứng đó:

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay