Thiên Đồng

Xứ Phật Huyền Bí

5 bài viết trong chủ đề này

Xứ Phật huyền bí

Nguyễn Hữu Kiệt dịch,Nguyễn Minh Tiến hiệu đính


CHƯƠNG I: CẢNH GIỚI CỦA TÂM THỨC


Trong phần đầu của hồi ký này được trình bày trong tập sách “Các bậc chânsư Yogi Ấn Độ”, độc giả đã thấy tôi từ bỏ giấc mộng tầm đạo trên Hy Mã Lạp Sơnnhư thế nào. Đức độ và năng lực cảm hóa của sư phụ tôi đã khiến cho tôi phải hổthẹn mà thấy rằng mình đã hết sức viển vông khi nghĩ đến việc rời xa người đểmong mỏi một sự chứng đạo nơi những động đá vô tri trên núi Tuyết. Sau khi đãthấu triệt và từ bỏ hoàn toàn mọi ý tưởng ra đi, tôi lại quay về dưới chân sưphụ Śrỵ Yukteswar.

– Bạch thầy, con đã về!

Sư phụ yên lặng nhìn tôi với ánh mắt từ hòa khi tôi đến ra mắt người lúc vừatrở về đạo viện. Tuy hết lòng hối tiếc về sự sai lầm đã cãi lời thầy, nhưng tôithực sự yên lòng vì mối giao cảm tôi đã có được trong đêm hôm trước với sư phụnhờ sự giúp sức của Ram Gopal. Tôi biết người đã sẵn lòng cảm thông và tha thứcho tôi. Hơn thế nữa, vẫn thương yêu che chở cho tôi như tự bao giờ.

– Con hãy xuống bếp xem có còn món gì ăn hay không. Con có vẻ mỏi mệt sau mấyngày đi đường.

Mối quan tâm nhỏ nhặt của thầy làm tôi thật sự xúc động. Bây giờ thì tôi hiểulà mình không bao giờ còn có thể rời xa thầy được nữa. Những động đá vô trigiác trên núi Tuyết kia rõ ràng là không thể nào so sánh được với sư phụ đầylòng thương yêu từ ái của tôi.

Tôi tự ý thức được sai lầm của mình, và hình dung rõ thậm chí một người chacũng không dễ tha thứ hoàn toàn cho đứa con ngỗ nghịch dám cãi lời mình ra đivì một ý tưởng sai trái. Vậy mà sư phụ không một lời trách mắng, cũng khôngbiểu lộ chút buồn giận nào đối với tôi. Ngài quả thật là hiện thân vô cùng củalòng từ bi mà người thế gian không sao có thể hiểu hết được.

Khi tôi mang việc này ra hỏi sư phụ, người tươi cười nhìn tôi và nói:

– Mọi tình thương của thế gian thật ra đều có mục đích. Người cha thương connhưng cũng đặt nhiều kỳ vọng ở con mình. Nếu đứa con không làm theo ý mình,người ấy sẽ thấy thất vọng, buồn khổ và hờn giận... Còn ta, ta không hề đặt kỳvọng nơi các con, không muốn các con phải làm điều gì đó nhân danh ta, càngkhông hề lợi dụng các con vào bất cứ mục đích vị kỷ nào khác. Vì thế, các conkhông thể làm cho ta thất vọng. Ngược lại, chỉ có sự hạnh phúc chân thật mà cáccon đạt đến mới thật sự làm cho ta vui sướng mà thôi.

° ° °

Cuộc sống của tôi ở tu viện trở lại bình thường như trước. Nhưng giờ đây tôicảm thấy đức tin của mình vững chãi hơn nhiều. Hơn thế nữa, qua tiếp xúc vớiRam Gopal tôi mới hiểu ra sư phụ tôi hoàn toàn không phải một vị tôn sư bìnhthường như trước kia tôi vẫn tưởng. Tôi biết rằng, ẩn giấu bên trong vẻ ngoàirất giản dị, bình thường của người là một sự chứng ngộ sâu xa mà chỉ những hànhgiả đã đạt đạo mới có thể nhìn thấy được. Tôi đã thấy rõ là Ram Gopal không hềche giấu sự kính trọng sâu xa khi nhắc đến sư phụ tôi.

Tôi dành thời gian nhiều hơn cho việc tham thiền và tiết giảm tối đa những câuchuyện phiếm không cần thiết với những huynh đệ khác trong đạo viện. Tôi cònkhám phá ra một điều là thỉnh thoảng tôi có thể tập trung tư tưởng ngay cả khiđang đi dạo trong vườn cây hoặc ven bờ sông chứ không chỉ trong những lúc ngồiyên thiền định.

Một hôm, tôi vừa bắt đầu ngồi xuống tham thiền trong một góc vắng ở cuối hànhlang, được một lúc thì nghe có tiếng gọi của sư phụ từ xa:

– Mukunda, Mukunda!

Tôi cảm thấy không hài lòng. Lẽ ra sư phụ không nên gọi tôi vì chắc chắn ngườiđã biết là tôi đang tham thiền. Một tâm trạng hờn giận khởi lên trong tôi, vàtôi tự thấy mình không sao tập trung tư tưởng được. Tôi cố gắng ngồi yên thêmmột lúc nữa. Thầy tôi lại gọi:

– Mukunda, Mukunda!

Tôi vẫn im lặng không đáp lại và tiếp tục cố gắng tập trung tư tưởng nhưng gầnnhư không sao làm được. Một lúc lâu, tiếng gọi của thầy tôi lại vang lên:

– Mukunda, Mukunda!

Quá thất vọng, tôi giận dỗi đứng lên và đi về phía người, vẫn không lên tiếngđáp lại. Khi đến bên người, tôi nói với giọng trách móc:

– Bạch thầy, lẽ ra thầy không nên gọi con trong lúc con đang cố gắng ngồithiền.

Sư phụ thản nhiên như đã hiểu hết mọi chuyện:

– Ta biết, và ta cũng biết là con đang tham thiền với tâm trạng như thế nào nữakìa.

Xấu hổ vì bị thầy đọc thấu vào trong tư tưởng, sự hờn giận của tôi bỗng chốctiêu tan và thay vào đó là sự kính phục vô cùng. Tôi nói:

– Vâng, bạch thầy con không sao tập trung tư tưởng được.

Sư phụ Śrỵ Yukteswar khoan thai nhìn tôi và nói:

– Bởi vì con đã khởi sự tham thiền với một mong cầu. Con tưởng rằng sự cố gắngcủa con sẽ giúp con đạt được kinh nghiệm thiền định chân thật hay sao? Đã thế,con còn khởi tâm hờn giận, con tưởng rằng việc tham thiền của con là quan trọngnhất trong cả vũ trụ này hay sao?

Tôi lặng lẽ cúi đầu nhận lỗi. Thầy tôi đã thấu suốt mọi suy nghĩ cũng như cảmxúc của tôi. Tôi không thể biện bạch và cũng không muốn biện bạch gì nữa, chỉyên lặng cúi đầu chờ nghe lời thầy chỉ dạy.

– Con nên biết, việc tham thiền chỉ là một phương tiện để giúp con tu tập. Nếucon cố chấp cho rằng việc ngồi thiền là mục đích của sự tu tập, con sẽ khôngbao giờ thực sự đạt đến thành công. Cả vũ trụ này không phải vạn vật đều biếtngồi thiền, nhưng vẫn lặng lẽ chuyển hóa không phút giây ngừng nghỉ. Nếu conchưa nắm rõ được lẽ nhiệm mầu ấy thì việc ngồi thiền của con chỉ hoàn toàn làmột sợi dây trói buộc mà thôi. Con người ta ai ai cũng đều sống được mà khôngcần phải ngồi thiền.

Tôi có phần nào choáng váng trước những lời dạy này của sư phụ. Quả thật từ xưanay tôi vẫn tưởng việc ngồi thiền là mục đích của người tu tập. Nhất là trongthời gian gần đây, tôi lại càng chú ý nhiều hơn đến việc ngồi thiền, xem đó làmục tiêu quan trọng nhất của mình!

Thầy tôi chờ một chút như để cho tôi kịp lấy lại tinh thần rồi mới thong thảnói tiếp:

– Thiền định là pháp môn vô cùng quý giá để giúp người tu nhanh chóng đạt đếnsự giải thoát. Nhưng nếu người tu tập cố chấp vào phương tiện, lấy đó làm cứucánh của mình, thì thiền định lại trở thành một sợi dây trói buộc còn khó dứtbỏ hơn cả những hệ lụy khác của thế tục, vì rất khó được nhận ra. Nếu hiểu đượcđiều đó, con sẽ thấy việc ngồi thiền dễ dàng hơn, và khi con không ngồi thiềncũng không phải là không ở trong trạng thái giải thoát mọi hệ lụy.

Rồi sư phụ nhìn thẳng vào mắt tôi và nói:

– Nếu con hiểu được những lời ta nói, cuộc đời tu tập của con sẽ không uổngphí.

° ° °

Trở về phòng mình, trong đầu tôi luôn ám ảnh những điều sư phụ vừa nói. Sau bữacơm chiều, tôi ngồi lặng lẽ trước hành lang bên ngoài phòng mình và suy nghĩrất nhiều. Tôi mơ hồ nhận ra có những điều từ xưa nay mình đã lầm lẫn khônghiểu đúng trong việc tu tập.

Buổi tối, tôi ngồi thiền như thường lệ. Tuy nhiên, thay vì là bốn giờ đồng hồnhư mọi hôm, đêm ấy tôi đã ngồi suốt đêm không ngủ.

Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôibừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc saymê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định. Thay vì vận dụng thiền địnhnhư một phương tiện để đạt đến tâm trạng giải thoát và duy trì trạng thái giảithoát ấy trong đời sống, tôi đã bám lấy những giây phút an vui ngắn ngủi trongthơi gian nhập định mà cho đó là cứu cánh của đời mình. Càng suy nghĩ, tôi càngthấy hiểu rõ hơn và như trút bỏ được gánh nặng cố công từ lâu nay. Tôi thấy tâmhồn trở nên thanh thản, nhẹ nhàng.

Giờ đây, tôi thấy việc ngồi thiền không còn là những giây phút khó nhọc căngthẳng đầy cố gắng, mà trở thành những giây phút nghỉ ngơi thanh thản, tạo điềukiện dễ dàng cho tâm hồn lắng dịu lại sau những nhộn nhịp hay căng thẳng trongđời sống. Từ nhận thức này, những lúc không ngồi thiền cũng không phải là hoàntoàn bất ổn, mà người tu tập vẫn có thể giữ gìn tâm yên lắng thanh tịnh nhưtrình độ chứng ngộ tâm linh đã đạt đến trong thời gian ngồi thiền.

Đến khoảng nửa đêm thì một điều kỳ diệu đã xảy ra với tôi. Trong trạng thái tậptrung tư tưởng gần như hoàn toàn cao độ, tôi có cảm giác thân thể mình bất chợtnhẹ bỗng đi như không còn chút trọng lượng nào. Một lúc sau, không gian quanhtôi sáng dần lên trong một vùng ánh sáng ngày càng rực rỡ, và trong vùng sángyên lặng ấy vạn vật dần hiện ra thật rõ ràng theo đúng với bản chất của chúng.

Thoạt tiên là hàng cây lớn chạy dài từ trước phòng tôi ra cổng tu viện. Trongtrạng thái tinh thần sảng khoái đến khó tả này, tôi nhìn thấy hàng cây hiện rarõ hơn cả trong ánh sáng ban ngày. Hơn thế nữa, tôi còn nhìn thấy được cả nhữngrễ cây lớn nhỏ chằng chịt trong lòng đất, và cả những dòng nhựa đang luânchuyển bên trong mỗi thân cây.

Bên trên bầu trời, những tinh tú cũng hiện rõ trong tầm mắt tôi như cả một thếgiới kỳ diệu đang chuyển động không ngừng mà mỗi mỗi đều tuân theo những quỹđạo nhất định không hề sai lệch. Điều kỳ lạ là ánh sáng tỏa ra từ các vì saogiờ đây như mờ nhạt hẳn đi trong vùng ánh sáng linh diệu tỏa ra từ quanh tôi.

Càng về sau, tôi có cảm giác như thân thể mình ngày càng trở nên rộng lớn mênhmông không giới hạn. Cảm giác thanh thoát nhẹ nhàng lan rộng khắp châu thân vànhư len lỏi đến từng ngỏ ngách khắp nơi trong vũ trụ. Trong giây phút ấy, tôithấy mình đã hoàn toàn hòa nhập cùng với cả vũ trụ bao la và với cả từng gốccây ngọn cỏ vô tri giác cho đến các loài côn trùng bé bỏng ẩn núp tận tronglòng đất sâu im lặng. Cảm giác an lạc siêu thoát đó tồn tại rất lâu cho đến khitừ trong đêm tối vọng lên những tiếng gà gáy sáng xa xa bên ngoài những bứctường bao quanh đạo viện. Và tuy không còn giữ được trạng thái ấy cho đến sáng,nhưng tôi vẫn còn cảm thấy nhẹ nhàng thư thái trong một tâm trạng mà từ trướcđến nay tôi chưa từng có được.

Sau bữa điểm tâm, tôi tìm lên phòng sư phụ dự định sẽ trình bày với người kinhnghiệm tâm linh mà tôi vừa trải qua. Nhưng khi vừa gặp người, bỗng dưng tôichợt hiểu ra là điều ấy hoàn toàn không cần thiết. Chỉ trong một thoáng, tôibất chợt nhớ lại kinh nghiệm đã trải qua với Ram Gopal lần trước và một tiasáng lóe lên trong trí tôi, tôi hiểu chuyện gì đã xảy ra đêm qua: Chính sư phụđã giúp tôi trải nghiệm qua một thế giới tâm thức tuyệt vời, cảnh giới của mộtngười đã chứng ngộ mà phải còn lâu lắm tự thân tôi mới có thể đạt đến.

Tôi lặng lẽ đến trước mặt sư phụ và chí thành lễ bái để tỏ lòng biết ơn sâu xađối với những ân huệ mà người đã dành cho tôi.

Sau lần ấy, tôi tự thấy mình thay đổi rất nhiều. Tôi không còn cảm giác khóchịu, bực tức mỗi khi có một công việc bất ngờ nào đó ngăn cản tôi không thểtham thiền vào giờ đã định. Tôi cũng không còn cảm giác nôn nao, chờ đợi để đếnlúc được ngồi yên tĩnh một mình và dứt bỏ tất cả mọi vọng tưởng, tìm đến cảmgiác an vui trong thiền định... Ngược lại, tôi cũng dễ dàng tập trung tư tưởnghơn gần như bất cứ lúc nào. Thời gian ngồi thiền mang lại cảm giác thư thái dễchịu mà rất lâu sau khi ra khỏi thiền định tôi vẫn còn giữ được. Một đôi khi,tôi còn có thể tập trung tư tưởng và đạt được sự thư giãn hoàn toàn ngay trongkhi đang làm một công việc thường ngày nào đó, hoặc lúc đang theo hầu sau sưphụ.

Bây giờ, tôi hiểu ra rằng việc ngồi thiền chỉ là một phương tiện, mà mục đíchđạt đến cần phải vượt thoát bên ngoài phương tiện ấy. Tôi cũng hiểu được vì saosư phụ tôi không hề xem giờ giấc thiền định của người là bất khả xâm phạm nhưmột số các vị tôn sư khác. Thực tế tôi đã thấy nhiều khi có khách đến viếngthăm và đàm đạo vào giờ tham thiền, sư phụ vẫn vui vẻ tiếp chuyện, giải thíchmọi thắc mắc cho họ mà không tỏ vẻ khó chịu chút nào. Đối với người, gần nhưmọi thời khắc đều là sống trong thiền định, nên người không cần phải cố chấpvào những giờ tĩnh tọa cố định như chúng tôi.

Từ kinh nghiệm bản thân đã trải qua, tôi càng vững tin hơn vào sự dắt dẫncủa sư phụ, cho dù một đôi khi tôi quả thật vẫn chưa hoàn toàn hiểu được hếthành trạng của người.


http://rongmotamhon....5-online-2.html

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHƯƠNG II: NHỮNG QUYỀN NĂNG KỲ BÍ


Một ngày kia, tôi trịnh trọng mang lên phòng sư phụ sáu cây bông cải do tôitrồng được ở khoảng vườn phía sau đạo viện.

– Bạch thầy, chính tay con đã chăm bón luống bông cải này, và đây là những câytốt nhất con đã chọn ra để thành kính dâng lên thầy.
Sư phụ nhìn tôi cười hiền hòa:



– Ta cảm ơn thành ý của con. Có lẽ bản thân ta cũng sẽ không dùng hết những câybông cải này, nhưng ta rất cần đến chúng trong vài ngày nữa để nấu một bữa cơmđãi khách. Vì thế, món quà tặng này của con là vô cùng giá trị. Nhưng tạm thờicon hãy thay ta cất giữ cho đến lúc đó.



Tôi vâng lời sư phụ, mang những cây bông cải về phòng và xếp kỹ lưỡng vào mộtgóc, dùng một tấm bìa cứng để che phía bên ngoài.



Sáng hôm sau, sau giờ điểm tâm sư phụ gọi tất cả chúng tôi đến và nói:

– Hôm nay là một ngày đẹp trời, ta muốn cùng tất cả các con đi dạo ra bờ sông.Trong không khí thoáng mát ở đó, ta sẽ có một vài chuyện trao đổi cùng các con.

Theo thông lệ, chúng tôi hiểu là sư phụ đang có ý định giảng giải với tất cảchúng tôi về một đề tài quan trọng chung nào đó. Vì nếu không như thế, ngườithường chỉ dành thời gian để chỉ dạy riêng cho mỗi người mà thôi. Vì thế, chúngtôi hối hả thu xếp và tập trung đầy đủ ở cổng đạo viện chỉ trong chốc lát.

Sư phụ Śrỵ Yukteswar đi trước, chúng tôi xếp thành hai hàng theo sau người.Chúng tôi cùng thong thả tiến bước ra bờ sông.

Vừa được một quãng ngắn, sư phụ bỗng dừng chân và đưa mắt tìm tôi. Người gọi:

– Mukunda!

Tôi đáp lời thầy và bước ra khỏi hàng, tiến nhanh đến bên sư phụ. Thầy nhìn tôinghiêm nghị:

– Dường như con đã quên đóng cổng sau của đạo viện?

Tôi đáp ngay mà không kịp suy nghĩ:

– Bạch thầy, con không quên đâu ạ.

Sư phụ im lặng. Người nhìn tôi một lúc nữa rồi nhoẻn cười và nói:

– Thật ra là con đã quên. Này con, công phu thiền định không phải chỉ để tỉnhgiác trong lúc ngồi thiền, mà cho dù những chuyện nhỏ nhặt nhất trong cuộc sốngcon cũng không được quyền xao lãng. Nhất là khi chuyện ấy thuộc về trách nhiệmmà tập thể đã giao phó cho con.

Lúc này tôi mới chịu suy nghĩ kỹ lại và thừa nhận thầy đã nói đúng. Sáng nay,vì quá vội vã đi ra cho kịp với các huynh đệ, tôi đã quên mất việc ra đóng cổngsau của đạo viện. Vì thế tôi im lặng cúi đầu.

Thầy tôi nói tiếp:

– Vì sự bất cẩn này là do nơi con, nên sẽ chỉ một mình con gánh chịu mà thôi.

Rồi sư phụ tiếp tục đi. Chúng tôi im lặng đi theo, mỗi người theo đuổi một ýnghĩ về câu nói khó hiểu cuối cùng của thầy.

Khu vực chúng tôi ở tuy không mấy khi bị trộm cắp, nhưng thầy đã dạy chúng tôiphải hết sức cẩn thận đề phòng. Thầy thường nói:

– Người tu hành chúng ta không có tài sản riêng. Những gì chúng ta đang sở hữuthật ra chỉ là những gì chúng ta được giao cho gìn giữ. Chúng ta không thể đểcho xảy ra bất cứ một sự mất mát nào do tính bất cẩn của mình. Hơn thế nữa, nếuchúng ta tạo điều kiện cho kẻ trộm thực hiện được hành vi trộm cắp, đó là đãgián tiếp khiến cho họ lún sâu vào tội lỗi.

Chính vì vậy, đạo viện chúng tôi xưa nay chưa hề bị kẻ trộm viếng thăm, vì cáccổng trước và sau luôn được khóa cẩn thận. Tất cả chúng tôi không ai bảo ai đềulấy làm băn khoăn về lời dự báo của thầy. Tuy chúng tôi không có những tài sảnrất quý giá để gợi lòng tham của kẻ trộm, nhưng ít ra thì những vật thực haydụng cụ cá nhân của mỗi người cũng không dễ được bọn trộm từ chối.

Buổi giảng pháp của thầy vẫn được diễn ra bình thường trên bờ sông. Tuy vậy,riêng tôi không ghi nhớ được bao nhiêu vì luôn ám ảnh bởi việc cổng sau của đạoviện đang bỏ ngõ, mà tất cả huynh đệ thì chẳng còn ai ở nhà cả.

Chúng tôi trở về vào lúc đã gần đến giờ cơm trưa. Khi còn cách đạo viện chừnghơn hai trăm thước, sư phụ bỗng dừng lại, gọi chúng tôi và đưa tay chỉ về phíabên kia cánh đồng trống. Một người đàn ông dáng đi xiêu vẹo đang lần bước theomột con đường mòn, tay xách một cái túi lớn đu đưa theo từng bước chân của ôngta mà chúng tôi không sao nhận rõ được. Sư phụ nói:

– Ông ta vừa vào đạo viện và trở ra qua lối cổng sau. Vật mà ông ta lấy trộm làmột tài sản thuộc về Mukunda. Các con không cần đuổi theo để lấy lại, vì tacũng có một phần quyền hạn về tài sản ấy, nên ta đã quyết định vui lòng tặngcho ông ta.

Tất cả chúng tôi đều ngơ ngác, không hiểu sư phụ đang nói đến món đồ gì, vàcàng không hiểu khi kẻ trộm đang đi sờ sờ trước mắt chúng tôi nhưng thầy khôngcho chúng tôi đuổi bắt.

Về đến đạo viện, tôi lập tức kiểm tra lại phòng mình. Mọi thứ đều nguyên vẹn,ngay cả món giá trị nhất là chiếc đồng hồ trong phòng tôi cũng không bị mất.

Nhưng ... khi tôi nhìn đến góc phòng thì mấy cây bông cải đã không cánh mà bay.

Giờ thì tôi hiểu ra vì sao là tài sản của tôi nhưng sư phụ cũng có quyền quyếtđịnh. Bởi vì tôi đã dâng tặng nó cho người. Sự bất cẩn của tôi đã bị trừng phạtvì món quà mà tôi dâng cho sư phụ giờ đây vĩnh viễn không đến được tay người.

Lấy làm ân hận về việc đó, tôi tìm lên phòng thầy để sám hối. Sau đó, tôi đánhbạo hỏi thầy:

– Bạch thầy, chúng con thừa sức đuổi theo kịp tên trộm khi thầy chỉ cho chúngcon. Vì sao thầy không cho chúng con làm điều đó?

Sư phụ cười bao dung:

– Con tưởng đó là một tên trộm bình thường hay sao? Thế tại sao hắn ta khônglấy gì khác ngoài mấy cây bông cải? Thế tại sao hắn ta lại chọn đi ăn trộm vàokhoảng thời gian rất dễ bị bắt gặp?

Tôi ngẩn người ra, suy nghĩ lại và thấy mình quả thật đã ngốc nghếch khi khôngđặt ra những câu hỏi này ngay từ đầu.

Sư phụ cười xòa và phá tan mọi sự nghi ngờ của tôi:

– Thật ra người ấy chẳng phải là một tên trộm. Đó là một người mất trí vẫnthường đi lang thang ở làng kế bên. Thay vì một bữa cơm đãi khách, ta đã đổi ývà muốn tặng những cây bông cải ấy cho ông ta để ông có được một bữa ăn thịnhsoạn nhất từ sáu tháng nay. Giờ này ông ta đã bán những cây bông cải ấy ở chợvà đang dùng cơm với số tiền bán được. Chính ta đã thông báo cho ông ấy biếtviệc cổng sau đạo viện không khóa và ông ta có thể đi thẳng vào phòng con đểlấy mấy cây bông cải. Ta mong rằng đây là một bài học có thể giúp con có cuộcsống tỉnh giác hơn nữa.

Tôi từ biệt sư phụ trở về phòng. Quả thật, càng ngày tôi càng hiểu ra sư phụ làmột bậc chứng ngộ đầy quyền năng, nhưng người luôn thể hiện một cuộc sống bìnhthường như bao nhiêu người khác. Không bao giờ sư phụ bộc lộ những năng lựcsiêu nhiên của mình mà không vì một mục đích giáo hóa nhất định nào đó.

° ° °

Không bao lâu sau vụ những cây bông cải bị mất, lại một chuyện khác xảy ra làmcho tôi hiểu thêm nhiều hơn về sư phụ.

Một trong những cây đèn dầu hỏa lớn của chúng tôi bị thất lạc. Không ai biết nóở đâu. Vào thời đó, một cây đèn dầu hỏa như thế là một tài sản rất giá trị, vìchỉ những nhà giàu có mới mua nổi.

Sau chuyện những cây bông cải, anh em chúng tôi không ai còn lo lắng về vụ mấtmát này. Chúng tôi cho rằng sư phụ thừa sức biết được cây đèn dầu hỏa này đangnằm ở đâu.

Sư phụ hiểu được ý nghĩ đó của mọi người. Người tập trung anh em lại và tra hỏikỹ lưỡng. Một người thú nhận là đã dùng cây đèn dầu để soi đường đi ra giếngnước phía sau. Sư phụ liền nói:

– Vậy thì các con hãy chia nhau đi tìm chung quanh giếng.

Chúng tôi yên chí là sẽ tìm thấy theo lời sư phụ. Nhưng hơn một giờ đồng hồ lụclọi khắp nơi vẫn không ai tìm thấy gì. Khi ấy, một đệ tử khác bỗng nhớ ra, liềnđến thưa với thầy:

– Bạch thầy, nhưng mới tối hôm qua con còn dùng cây đèn ấy để soi đường đi lấycủi.

Sư phụ liền nói ngay:

– Vậy các con hãy đến tìm chung quanh nhà để củi.

Và thêm một giờ đồng hồ tìm kiếm vô ích nữa. Không ai tìm thấy cây đèn ở đâucả.

Buổi tối, khi cùng ngồi hóng mát với sư phụ trên sân thượng, tôi hỏi thầy:

– Bạch thầy, lẽ nào thầy không biết cây đèn dầu hỏa ở đâu?

Sư phụ nhìn tôi cười hóm hỉnh:

– Thế con nghĩ tại sao thầy phải biết? Và biết để làm gì kia chứ?

Tôi chợt hiểu ra dụng ý của sư phụ. Năng lực siêu nhiên của người không dùngvào những mục đích nhỏ nhen vụn vặt!

° ° °

Ít lâu sau đó là một ngày lễ hội tôn giáo. Cùng với các đạo viện khác trongvùng, chúng tôi cũng tham gia bằng một cuộc diễu hành dự kiến sẽ đi băng quathành phố, vòng ra theo bờ sông và trở về đạo viện theo một lối khác.

Sư phụ ủy thác cho tôi việc tổ chức cuộc diễu hành. Tôi sẽ phụ trách tất cả từviệc chuẩn bị cờ xí trang hoàng để mang theo cho đến sắp xếp giờ giấc và hướngdẫn lộ trình cho các anh em trong đoàn.

Sau khi đã hoàn tất mọi việc, tôi lên phòng tìm gặp sư phụ:

– Bạch thầy, con còn một điều chưa hiểu.

Sư phụ nhìn tôi với ánh mắt từ hòa:

– Con cứ hỏi.

– Bạch thầy, theo ý thầy thì trên lộ trình của đoàn diễu hành chúng con sẽ đimột đoạn khá dài trên bãi cát ven sông. Nhưng sau khi băng ngang qua thành phố,chúng con sẽ đến đó ít nhất cũng là gần trưa. Với nhiệt độ nóng bức của mùanày, bãi cát sẽ nóng bỏng, mà theo lễ phục tu sĩ của chúng con thì mọi ngườiđều đi chân trần. Như vậy làm sao có thể chịu đựng qua khỏi bãi cát được?

Sư phụ đáp:

– Thầy đã có nghĩ đến chuyện ấy rồi. Như vậy con có thể yên tâm.

Rồi thầy không nói gì thêm nữa. Tôi không còn cách nào khác hơn là đặt niềm tinhoàn toàn vào lời thầy.

Buổi sáng hôm khởi đầu cuộc lễ, trời xanh ngắt không một chút mây. Nhưng khivừa đi được khoảng một nửa đường băng ngang thành phố, chúng tôi nhìn thấy xaxa phía bờ sông bắt đầu nổi lên vài đám mây đen kịt. Khi chúng tôi ra đến bờsông, không khí mát dịu và mặt cát hãy còn sũng nước, rõ ràng là ở đây vừa cómột cơn mưa. Hơn thế nữa, những cụm mây trắng như còn đọng lại trên nền trời vàlà đà bay theo để thỉnh thoảng lại che mát cho chúng tôi. Nhờ đó, đoàn diễuhành với những cờ xí trang hoàng rườm rà đã đi suốt hết đoạn đường theo dự tínhmà không mệt mỏi lắm.

Tôi không thể hiểu sự việc theo cách nào khác hơn là chính thầy tôi bằng cáchnào đó đã tạo ra được cơn mưa và những đám mây bất ngờ che mát cho chúng tôi.

Khi tôi đem việc ấy nói với sư phụ, người cười nhẹ và bảo tôi:

– Một ngày nào đó rồi con sẽ hiểu được mọi việc. Khi ấy con sẽ thấy thật ra thìthiên nhiên và con người không hề xa cách nhau như người ta vẫn tưởng.

° ° °

Cuộc diễu hành chỉ là phần mở đầu cho cuộc lễ của chúng tôi, bởi vì buổi chiềuhôm đó đạo viện còn phải đón tiếp đến hàng trăm quan khách cũng như những mônđệ cũ của thầy tôi từ khắp nơi quay về.

Tất cả anh em chúng tôi đều bận rộn tíu tít để lo cho mọi việc được chu toàn.Tuy thức ăn cũng chỉ đơn sơ với các món rau đậu và bánh hấp, nhưng vì số lượngrất đông nên việc phục vụ không phải là nhẹ nhàng. Đến chiều tối, khi chén bátđã được dọn rửa và một số anh em đang chia nhau quét dọn sân bãi, sư phụ chogọi tôi đến và nói:

– Thầy rất hài lòng về tinh thần làm việc cũng như những gì con đã thực sự làmđược trong thời gian chuẩn bị, và nhất là trong ngày hôm nay. Đêm nay con cóthể ngủ lại cùng phòng với thầy. Thầy có chút việc sẽ cần đến con.

Tôi vô cùng sung sướng khi nghe sư phụ nói như vậy. Được ngủ lại phòng thầycũng có nghĩa là sẽ có mấy tiếng đồng hồ tọa thiền gần bên thầy, và đây là mộtkinh nghiệm mà không một môn đồ nào lại không hết lòng ao ước. Nói cách khác,đây là một vinh dự mà không mấy khi một vị tôn sư ban cho đệ tử của mình. Vìthế, mặc dù đã vô cùng mệt mỏi vì sự gắng sức trong những ngày qua, nhưng tôibỗng thấy hết sức phấn chấn và bao nhiêu sự mệt nhọc bỗng chốc đều tiêu tan.

Tối hôm đó, sau giờ tọa thiền, tôi ngả lưng nằm xuống vào khoảng đã gần nửađêm. Tôi thấy thầy tôi lặng lẽ đứng dậy và mặc áo dài, chuẩn bị đi ra ngoài.

Lấy làm ngạc nhiên, tôi ngồi dậy thưa hỏi:

– Bạch thầy, con không hiểu thầy phải đi đâu vào giờ này?

– Có một nhóm đệ tử bị trễ tàu và lát nữa họ sẽ đến đây. Ta muốn chuẩn bị vàimón thức ăn cho bọn họ.

Tôi lấy làm hoang mang, có ai lại đến thăm đạo viện vào lúc đã gần một giờ sángkia chứ? Dù tôi biết là không nên nghi ngờ lời thầy, nhưng quả thật tôi cảmthấy khó mà tin được trong trường hợp này. Vì vậy, tôi nhổm dậy và mặc áo đitheo. Sư phụ nói:

– Con có thể nghỉ ngơi. Ta sẽ tự làm bếp. Hôm nay con đã làm quá nhiều việc vàta biết con đang rất mệt.

Sư phụ đã hoàn toàn nói đúng, nhưng có điều gì đó còn hơn cả sự nhọc mệt khiếncho tôi không thể nằm yên trở lại. Đó là sự nôn nao muốn biết xem lần này cóquả thật thầy đã dự báo đúng hay chăng. Vì thế, tôi nói:

– Bạch thầy, con có thể giúp thầy một tay cho nhanh hơn.

Chúng tôi cùng vào bếp, và tôi lấy làm ngạc nhiên thấy rằng thầy tôi là một taylàm bếp hết sức nhanh lẹ và vén khéo. Chỉ trong chốc lát, chúng tôi đã nấu xongcơm nóng, canh rau và vài món đậu xào rất thơm ngon.

Sư phụ xoa đầu tôi và nói:

– Đêm nay con đã vượt qua được giới hạn của sự mệt mỏi và vui vẻ thực hiện mộtcông việc bất ngờ. Từ nay về sau thầy có thể yên tâm là con sẽ đủ sức chịu đựngmọi khó nhọc trên con đường tu tập và hoằng pháp.

Khi thầy vừa nói dứt câu này thì tôi nghe có tiếng chân người ngoài sân. Sưhuynh trực đêm vừa mở cổng đạo viện và đưa vào một nhóm môn đệ cũ của thầy!

Tôi xuống cầu thang và tiếp đón những vị khách muộn màng này. Một người trongbọn nói:

– Sư huynh không cần thông báo với sư phụ vào giờ khuya khoắt này. Chúng tôiquả thật lấy làm bối rối đã quấy rầy quý huynh, nhưng chúng tôi bị trễ tàu vàkhông đến kịp cuộc lễ ngày hôm nay.

Tôi mỉm cười trấn an cả nhóm:

– Các sư huynh không cần lo lắng. Sư phụ đã biết trước việc trễ tàu của các vịvà đã tự tay nấu mấy món ăn để chờ sẵn.

Tất cả đều lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng họ không thể nghi ngờ chút nào nữa khi tôiđưa họ vào phòng ăn với thức ăn nóng hổi rõ ràng là vừa mới được nấu xong.

Khi các vị khách đã dùng cơm xong và được hướng dẫn đi nghỉ, tôi trở lại phòngsư phụ. Người nhìn tôi, cười nhẹ và nói:

– Điều duy nhất hôm nay thầy có thể chưa hoàn toàn hài lòng về con là con đã cóchút nghi ngờ khi nghe thầy thông báo một việc mà con cho là rất khó xảy ra.

Tôi lặng thinh cúi đầu nhận lỗi. Thầy nói tiếp, giọng vui vẻ:

– Tuy nhiên, đó cũng là việc rất bình thường. Một đệ tử thường chỉ đặt niềm tinhoàn toàn vào bậc thầy khi họ đã đạt được sự chứng ngộ giống như thầy, tuy rằngnhư thế quả thật là có phần muộn màng.

Tôi lặng thinh ghi nhớ lời thầy và tự hứa sẽ không còn bao giờ dám nghi ngờ lờinói của thầy một lần nữa.

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHƯƠNGIII: NHỮNG LỜI TIÊN TRI


Một hôm, sư phụ hỏi tôi:

– Mukunda, tại sao con không đeo một món linh phù hộ thân?

– Bạch thầy, vì con chỉ tin vào nhân quả mà thôi.

Tôi nhớ lại món linh phù mà mẹ tôi đã để lại cho tôi và sự biến mất kỳ lạ củanó vào lúc tôi gặp được sư phụ Śrỵ Yukteswar. Quả thật, tôi chỉ thừa hưởng mónlinh phù ấy do mẹ tôi trao lại, còn bản thân tôi chưa bao giờ nghĩ đến việcdùng một vật hộ thân để làm thay đổi số mệnh của mình.

Sư phụ nói:

– Vấn đề không phải là con có tin hay không. Thái độ đúng đắn nhất đối với mộtvấn đề là xác định xem nó đúng hay không đúng, thay vì là tuyên bố tin haykhông tin. Trước thời Newton, người ta không phát biểu được định luật về trọnglượng, nhưng những trái táo vẫn tự biết phải rơi như thế nào. Con người từ rấtlâu xa trước đây đã nhận biết được nhiều phương thức tác động tích cực vào cuộcsống. Điều đó không có nghĩa là đi ngược lại luật nhân quả, nhưng nó có sự lýgiải riêng của nó.

– Bạch thầy, nhưng có quá nhiều những tay bói toán đã lạm dụng sự mê tín củacon người.

– Đúng vậy. Và bọn họ đã làm hoen ố đi những khoa học thật sự mà người xưatruyền lại. Chẳng hạn như khoa chiêm tinh hoặc khoa tướng số... Trong thực tế,một nhà hiền triết chân chính am hiểu khoa chiêm tinh có thể nhìn thấy trước sốmạng của một người hoặc nhiều người trong một chừng mực nào đó. Điều đó cónghĩa là ông ta căn cứ vào những biểu hiện trong vũ trụ để đọc được quá khứ củamột người, và biết được nó sẽ dẫn đến một tương lai như thế nào, nhưng không cónghĩa là ông ta có quyền năng làm cho sự việc sẽ xảy ra như thế nào hoặc ngăncản được sự xảy ra của chúng. Tuy vậy, có những phương thức tác động nhất địnhcó thể tạo ảnh hưởng thay đổi tích cực, và thông thường thì nguyên lý hoạt độngcủa những phương thức này chính là nhờ vào đức tin. Đứng từ một góc độ nào đó,sức mạnh của đức tin cũng là một trong những nguyên nhân để tạo ra hoặc làmthay đổi nghiệp quả của một con người. Xét cho cùng, nhân và quả của mỗi conngười cũng là do chính người ấy tạo ra chứ không ai khác. Vì vậy, thay đổi đứctin của anh ta theo một chiều hướng nào đó có thể giúp làm chuyển biến tích cựcnhững điều xảy đến cho anh ta.

Tôi im lặng một lúc lâu rồi mới đánh bạo thưa hỏi:

– Bạch thầy, con vẫn chưa hiểu vì sao hôm nay thầy nói với con những điều ấy?

Sư phụ nhìn tôi với ánh mắt cảm thông, vì người đọc thấu sự hoang mang của tôilúc ấy:

– Này Mukunda, nếu con chỉ là một tu sĩ bình thường đi tìm sự giải thoát ở mộtmức độ nào đó cho chính bản thân mình, ta cũng không cần quan tâm nhiều đến connhư thế. Nhưng đến hôm nay ta có thể nói cho con biết rằng trách vụ của con lớnhơn thế rất nhiều. Con sẽ là người thay ta đảm đương việc truyền giáo sangphương Tây, và điều đó buộc con phải có một kiến thức rộng về đủ các bộ mônkhoa học, nếu như con muốn rằng tiếng nói của con được người ta lắng nghe.

– Bạch thầy, con sẽ cố gắng.

– Ta biết con không tin vào khoa chiêm tinh, và đã có lần con đốt bỏ lá số tửvi mà cha mẹ đã xin cho con. Sự vững tin vào nhân quả là điều rất tốt, nhưngthái độ của con còn có phần nào đó xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về khoa họcnày.

Tôi hơi có phần ngạc nhiên, nhưng rồi tự kiềm chế được. Quả thật không cóchuyện gì thầy tôi không biết được, ngay cả những việc xảy ra từ trong quá khứmà chính tôi tưởng chừng cũng đã lâu không nhớ đến.

Ngày tôi còn bé, cha mẹ tôi có xin cho tôi một lá số tử vi. Trong đó có đoạnnói rằng tôi sẽ cưới vợ ba lần và hai lần góa vợ. Từ khi tôi bắt đầu khôn lớn,tôi đã lấy làm khó chịu về lời tiên tri đó, bởi vì ngay cả việc cưới vợ cũng đãkhông phải là điều tôi nghĩ đến. Một hôm, tôi đốt lá số tử vi ấy đi, lấy tro bỏvào một phong bì bằng giấy và bên ngoài ghi lên dòng chữ rằng:

“Chỉ những hạt giống đã gieo vào đất ẩm mới có thể nảy mầm và đơm hoa kếttrái.”

Tôi đặt phong bì ấy trở lại nơi cất lá số tử vi để mọi người đều biết việc làmcủa mình. Anh Ananta đã chế nhạo tôi rằng: “Em không thể đốt cháy sự thật giốngnhư lá số tử vi này. Những gì đến sẽ đến.”

Thật ra, tôi không nghĩ là bằng cách đốt cháy lá số tử vi tôi có thể làm thayđổi vận số, nhưng tôi tin rằng những điều kiện tinh thần hôm nay chính là mảnhđất để những hạt giống của quá khứ đâm chồi. Và nếu tôi cương quyết không tướitắm, chăm sóc cho những hạt giống ấy thì nó không thể dễ dàng nảy mầm lên được.Tôi nghĩ như vậy là vì tôi đã cương quyết sẽ sống cuộc đời tu sĩ mà không lậpgia đình như anh tôi. Nhưng anh Ananta đã không có đủ hiểu biết để nhận ra ýnghĩa sâu xa trong lời thách thức số mệnh của tôi.

Quả thật, cho đến khi tôi bước vào tuổi trưởng thành, gia đình tôi trước sau đãba lần tính chuyện hôn nhân cho tôi, và bằng cách này hay cách khác tôi đềuphản đối thành công những kế hoạch ấy. Về sau, khi nghĩ đến khoa chiêm tinh vàcác lá số tử vi, tôi không có mấy ấn tượng tốt đẹp ngoài việc cho rằng chỉ lànhững lời đe dọa vớ vẩn dành cho những người thiếu hẳn đức tin.

– Bạch thầy, không phải thầy đã dạy con rằng, người ta phải lãnh chịu những quảbáo tốt hoặc xấu mà họ đã tạo ra, và không có cách nào để tránh né hoặc trốnchạy? Như vậy thì những lá số tử vi liệu có ích lợi gì? Và nói chung thì khoachiêm tinh liệu có ích lợi gì?

Thầy tôi cười bao dung:

– Sẽ có ngày con không nghĩ như thế nữa, nếu như con hiểu biết nhiều hơn vềkhoa chiêm tinh. Những người đi trước chúng ta đã đúc kết trí tuệ tinh hoa củanhiều đời để nhận biết rằng có một mối tương quan nhất định giữa mỗi con ngườivới toàn thể vũ trụ này, và nói cụ thể hơn là với một số các vì tinh tú trênbầu trời, với vị trí và sự chuyển vận của chúng. Những mối tương quan ấy đượcxác lập không do một ý chí quyền năng nào, mà do chính nơi những nghiệp quả tốthoặc xấu của mỗi người. Nếu một người hiểu được và nhìn thấy rõ những mối tươngquan ấy, người đó cũng đồng thời có được những phản ứng tích cực hơn thay vìchỉ chờ đợi mọi việc tuần tự xảy đến.

– Bạch thầy, như thế không phải là chống lại luật nhân quả hay sao?

Thầy tôi bật cười:

– Liệu con có thể chỉ ra được một cách rạch ròi rằng đâu là nhân, đâu là quảcủa một người trong một sự việc hay không? Con nên nhớ rằng, một sự việc nếuđược xem là quả của quá khứ thì đồng thời cũng chính là nhân của tương lai.Thậm chí ngay trong mỗi một sự việc, có những yếu tố được quyết định do nghiệplực từ đời trước, nhưng cũng có những yếu tố lại được quyết định ngay tronggiây phút hiện tại. Sự đan xen phức tạp, tinh vi ấy đã làm cho không một trítuệ nào của người đời có thể thấy rõ được tất cả mọi yếu tố nhân quả, mà chỉ cóbậc đã giác ngộ hoàn toàn, đấng Như Lai Chánh Đẳng Giác mới có thể thấy rõ vàhiểu đúng được tất cả.

– Bạch thầy, xin cho con một ví dụ.

– Như có một nhóm người đang muốn đi Calcutta, họ cùng ngồi trên một chiếc xeđể chờ khởi hành. Khi xe sắp chạy thì một người trong số đó nhìn thấy bên kiađường có một con chó, vì bới đống rác để tìm thức ăn nên bị một cái thùng gỗrơi xuống đè vào chân. Con chó không sao rút chân ra được. Người ấy động lòngthương liền chạy sang để cứu con chó. Khi anh ta bẩy cái thùng gỗ nặng nề lênvà lôi được con chó ra thì chuyến xe đã khởi hành mất rồi. Anh ta đành phải lấylàm tiếc mà ngồi đợi chuyến xe sau. Không ngờ chuyến xe trước ấy vừa ra khỏithành phố thì gặp tai nạn và lật nhào xuống ruộng, mọi người không còn ai sốngsót. Con có thể nhìn những điều ta nói qua sự việc này. Cộng nghiệp sẽ xảy đếncho cả nhóm người này là họ phải chết trong vụ tai nạn lật xe. Những điều ấyđược quyết định từ ác nghiệp nào đó họ dã gây ra vào những thời điểm khác nhautrong quá khứ. Nhưng ngay trong giây phút mà nghiệp quả đã chín muồi, một ngườitrong số họ đã phát khởi lòng thương với một sinh vật. Hành vi này được quyếtđịnh ngay trong giây phút hiện tại, xuất phát từ tâm lành của chính anh ta màkhông phải do sự thúc đẩy của nghiệp lực. Chính nhờ một quyết định đúng đắn,một việc lành được thực hiện đúng lúc, anh ta đã thoát khỏi một cái chết thêthảm do nghiệp lực đưa đến.

– Bạch thầy, như vậy con hiểu là trong mọi trường hợp, phát khởi thiện tâm baogiờ cũng là cách tốt nhất để tác động tích cực vào nghiệp lực.

– Hoàn toàn chính xác. Nhưng ngoài ra thì những tha lực hộ trì cũng có nhữngtác động nhất định. Chẳng hạn như hôm nay ta sẽ cho con một bài học về việc ấy.

– Bạch thầy, con xin lắng nghe.

– Ta đã nghiệm cho con một lá số tử vi ngay trong lúc này, và biết rằng trongmột thời gian ngắn nữa con sẽ mắc phải một căn bệnh rất khó chịu. Căn bệnh ấysẽ kéo dài trong 6 tháng. Tuy nhiên, ta có một món linh phù mà chính ta đã làmphép chú nguyện vào. Nếu con đeo nó vào người từ nay đến ngày đó, căn bệnh sẽđược rút ngắn còn lại 24 ngày. Trong việc này, ta cho con hoàn toàn quyết định,con có thể nhận đeo nó hoặc là không đeo.

Sư phụ nói rồi đưa cho tôi một vật nhỏ có vẻ như được đúc bằng bạc và chì, códây đeo. Tôi quyết định đeo nó vào người ngay trước mắt sư phụ để tỏ cho ngườithấy tôi hoàn toàn tin tưởng vào lời dạy của người, cho dù bản thân tôi quảthật chưa hiểu rõ. Kinh nghiệm qua nhiều lần tỏ thái độ hoài nghi với sư phụ đãcho tôi thấy là bao giờ cũng chỉ dẫn đến sự hối tiếc mà thôi.

Tuy vậy, trong thâm tâm tôi lấy làm nôn nóng mà chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra,bởi vì sức khỏe tôi lúc ấy đang rất tốt nên việc ngã bệnh có vẻ như phần nàothật khó tin.

Sau đó mấy hôm thì sư phụ có việc đi Bénarès. Còn tôi thì cũng quên dần đi lờitiên tri của người.

Nhưng chưa được một tuần lễ sau nữa thì tôi bắt đầu nghe đau nhói ở bên hông.Thầy thuốc địa phương cho biết tôi bị đau gan nhưng ông không chắc lắm trongviệc chữa trị vì không có đủ thuốc men. Tôi quyết định đặt trọn niềm tin vào sưphụ.

Những ngày sau đó thật là dài lê thê với những cơn đau hành hạ và tôi suy nhượcnhanh chóng vì chẳng ăn uống gì được bao nhiêu. Tôi dồn mọi nỗ lực vào công phuthiền định và nghĩ đến món linh phù sư phụ đã cho tôi như một lá bùa hộ mệnh.

Hơn ba tuần sau, khi tôi tưởng chừng như mình không còn đủ sức để chịu đựng lâuhơn nữa thì sư phụ trở về như một cứu tinh.

Sư phụ vào phòng thăm tôi ngay khi vừa trở về đạo viện. Thầy lấy tay xoa đầu vàhỏi han bệnh tình của tôi. Tôi ứa nước mắt vì cơn đau mà cũng vì vui mừng đượcgặp lại sư phụ trong những giây phút nguy nan của đời mình:

– Bạch thầy, xin hãy cứu con.

– Con quên lời ta đã nói rồi sao? Nếu con thật sự tin tưởng ta thì chẳng có gìphải lo lắng cả.

Tôi nhẩm tính và chợt nhận ra ngày hôm đó đúng là ngày thứ 24 kể từ hôm tôiphát bệnh. Sư phụ tự tay pha cho tôi một ly nước nóng và đỡ tôi ngồi dậy trêngiường bệnh. Tôi uống hết ly nước và thầy bảo tôi hãy nằm yên để nghỉ ngơi.

Đêm hôm đó, tôi ngủ một giấc rất say và giật mình thức giấc vào khoảng nửa đêm.Một cảm giác nóng ran dễ chịu nơi món linh phù tôi đeo trên ngực, lan dần rakhắp vùng ngực và rồi xuống đến vùng bị đau. Tôi có cảm giác nơi chỗ đau ngàycàng nóng lên, ban đầu rất dễ chịu, rồi sau đó nóng bỏng đến cực độ. Khoảng nửagiờ sau thì những cảm giác ấy dần dần tan biến mất. Tôi đưa tay sờ vào chỗ bịđau và kinh ngạc khi nhận ra đã không còn cảm giác gì nữa. Toàn thân tôi khôngcòn nghe mỏi mệt rã rời như suốt mấy tuần lễ qua, mà thay vào đó là một sự sảngkhoái, thanh thản mà đã lâu tôi không có được.

Ngày hôm sau, tôi hoàn toàn bình phục trước sự ngạc nhiên của tất cả huynh đệtrong đạo viện. Tuy vẫn còn gầy ốm nhưng tôi ăn uống trở lại bình thường vàkhông còn bị cơn đau hành hạ nữa. Và khoảng hai tuần sau thì tôi đã lấy lạiđược sức khỏe như trước.

Một buổi tối, sư phụ gọi tôi lên phòng của người và nói:

– Thầy hy vọng là qua lần này con đã hiểu ra được nhiều điều. Có những khoa họctuy không nên lấy đó làm cứu cánh nhưng cũng không thể tùy tiện phủ nhận tínhđúng thật của nó khi chúng ta chưa có đủ hiểu biết. Trên đường hoằng hóa saunày, con còn phải dựa rất nhiều vào đức tin và kiến thức bao quát của mình.Thầy mong rằng từ nay con sẽ chín chắn hơn và sẵn sàng học hỏi những điểm mớithay vì là cố chấp vào những gì đã biết.

Cuộc đời phiêu bạt đầy sóng gió của tôi về sau đã chứng tỏ sự lo xa và nhữnglời dạy dỗ của sư phụ là hoàn toàn đúng đắn.

http://rongmotamhon.net/mainpage/doc-sach-Xu-Phat-huyen-bi-68-2027-online-2.html

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHƯƠNG IV: NHỮNG TRƯỜNG HỢP LẠ LÙNG


Một trong những ngườibạn của tôi, anh Santosh, là con trai của một bác sĩ thú y, ông Chunder Roy.


Chunder Roy là một kiểu người trí thức nửa mùa, hiểu biết thì nông cạn nhưnglòng tự cao tự đại thì rất lớn. Ông chưa từng có thái độ tin tưởng vào bất cứđiều gì khác hơn là những điều ông đã học được ở trường lớp.

Santosh là một người giàu lòng tin, và chính anh đã khẩn khoản nhờ tôi nói vớisư phụ Śrỵ Yukteswar để người giúp đỡ trong việc cải hóa con người của cha anh.

Chúng tôi thành công trong việc thuyết phục ông Roy đến viếng thăm đạo viện mộtlần. Tuy nhận lời nhưng ông nói với giọng rất trịch thượng:

– Tôi đã nghe lắm người ca ngợi ông đạo này, nên cũng muốn đến thăm một lần xemsao.

Cuộc gặp gỡ hết sức tẻ nhạt với vài ba câu chào hỏi xã giao và những khoảng imlặng kéo dài. Sư phụ tôi có vẻ như không muốn chủ động đưa ra vấn đề gì cả.

Khi ông bác sĩ đã ra về, sư phụ hỏi tôi:

– Con đưa một người sắp chết đến đây làm gì?

Tôi lấy làm ngạc nhiên về câu hỏi ấy:

– Bạch thầy, nhưng ông ta là một người đang khỏe mạnh.

– Người ấy sắp chết đến nơi rồi.

Tôi thật sự bàng hoàng, vì tôi biết sư phụ không nói đùa và càng không nói saisự thật:

– Bạch thầy, con trai ông ấy vẫn nuôi hy vọng là thời gian sẽ giúp cải hóa ôngta. Nhưng nếu như thế thì quả là tuyệt vọng. Cầu xin thầy hãy cứu vớt ông ta.

Sư phụ đáp:

– Điều quan trọng vẫn là những quyết định cải hối từ phía ông ta. Nhưng theolời khẩn cầu của con và tấm lòng thành của người con trai, ta sẽ tạo cho ông ấythêm một số cơ hội.

Dừng một lát, sư phụ nói tiếp:

– Tuy ông ta là bác sĩ thú y, nhưng ông đã không tự biết được là ông đang bịchứng tiểu đường rất nặng. Khoảng một tuần nữa ông ta sẽ bắt đầu nằm liệtgiường. Các y sĩ sẽ bó tay, và ông ta sẽ chết trong vòng 5 tuần lễ kể từ hômnay. Với sự giúp sức của ta, nếu ông ấy chịu đeo một món linh phù đã được chúnguyện, ông sẽ khỏi bệnh cũng vào ngày mà lẽ ra ông phải chết. Ta biết là ôngsẽ phản đối dữ dội trước khi chịu đeo món linh phù vào người.

Sư phụ lại im lặng. Một lát, người đưa cho tôi món linh phù nhỏ bé và nói tiếp:

– Sau khi khỏi bệnh, con hãy khuyên ông ta ăn chay, không được ăn thịt. Nếu ôngta không nghe lời khuyên đó, ông ta sẽ chết trong vòng sáu tháng sau, đúng vàongày mà ông ta nghĩ rằng mình đã hoàn toàn khỏi bệnh.

Ngày hôm sau, tôi mang món linh phù đến tìm Santosh và chúng tôi cùng thuyếtphục bác sĩ Roy đeo nó vào người. Ông ta phản ứng dữ dội bằng những lời nặng nềvà xúc phạm:

– Đừng hù dọa ta với những lời tiên tri này nọ. Ta đang rất khỏe và sẽ khôngbệnh hoạn gì cả. Hãy dẹp những món linh phù vớ vẩn ấy đi.

Nhưng một tuần sau thì Santosh lại đến tìm tôi và thông báo là cha anh đã đồngý đeo món linh phù. Ông ta đang trong tâm trạng hốt hoảng vì quả thật ông đãngã bệnh và bác sĩ điều trị xác định đúng là bệnh tiểu đường như lời thầy tôinói. Hơn thế nữa, bác sĩ còn tuyên bố bệnh của ông đã đến giai đoạn mà y họclúc ấy hoàn toàn bó tay và chỉ còn chờ ngày chết. Hết sức kinh ngạc trước nhữngdự báo chính xác của thầy tôi, ông lập tức bảo Santosh đến tìm tôi để xin đượcđeo món linh phù như một tia hy vọng cuối cùng.

Khi chúng tôi đến chỗ ông thì bác sĩ điều trị cũng vừa bước ra. Ông nói nhỏ vớiSantosh:

– Bệnh của cha em đã nguy kịch đến mức không sao cứu chữa được nữa rồi.

Tôi nhìn ông ta, lắc đầu và nói:

– Không, sư phụ tôi đã nói là ông ta sẽ khỏi bệnh. Căn bệnh của ông ta chỉ kéodài một tháng thôi.

Ông bác sĩ trố mắt nhìn tôi như nhìn một người mất trí, rồi không buồn cãi lại,ông xếp y cụ ra về.

Một tháng sau, ông ta tình cờ gặp tôi trên đường phố và đón tôi lại, nói với vẻhết sức kinh ngạc:

– Này em, tôi không biết sư phụ của em là ai, nhưng chắc chắn ông ta là một nhàtiên tri hoặc một người chữa bệnh thần bí. Ông Roy đã hoàn toàn bình phục mộtcách rất đột ngột. Trong đời thầy thuốc của tôi, tôi chưa gặp một trường hợpnào tương tự như vậy trước đây cả.


Tôi liền ghé qua thăm ông Roy và nói cho ông biết là ông nên ăn chay nếu nhưmuốn giữ gìn được sức khỏe và sinh mạng của mình. Ông ta im lặng lắng nghenhưng không có vẻ gì là tin nhận.

Sáu tháng sau, tôi lại tình cờ gặp ông tại một cửa hiệu bán tạp hóa. Ông chàotôi và nói:

– Em hãy chuyển lời tôi đến với sư phụ em rằng tôi đã hồi phục sức khỏe rấtnhanh nhờ ăn nhiều thịt. Lời khuyên phản lại khoa học dinh dưỡng của ông takhông gạt gẫm được tôi đâu.

Tôi nhìn ông ta, quả thật ông rất mập mạnh và không còn chút dấu hiệu nào củabệnh tật.

Nhưng sáng hôm sau, Santosh hốt hoảng chạy đến đạo viện tìm tôi và thông báo:

– Cha tôi đã bất ngờ qua đời hồi sáng nay mà không có dấu hiệu gì báo trước cả.

Tôi lặng thinh. Lời cảnh báo của sư phụ là hoàn toàn chính xác. Tiếc thay, ôngta đã không có đủ phước duyên để nghe theo!

° ° °

Một trong những đặc ân mà sư phụ dành cho tôi là được quyền đưa bạn bè của tôivề đạo viện để hội kiến cùng sư phụ. Rất nhiều người trong số đó đã được sư phụdắt dẫn vào con đường tín ngưỡng.

Anh bạn Sasi của tôi cũng là một người trong số đó. Từ khi được quen biết sưphụ tôi, anh thường xuyên đến đây vào những ngày cuối tuần, lắng nghe nhữngbuổi giảng của sư phụ một cách rất thích thú. Sư phụ tôi cũng tỏ ra rất mếnanh.

Nhưng Sasi là một thanh niên phóng đãng, ăn chơi vô độ. Một hôm sư phụ nhìnthẳng vào anh và nói rất nghiêm nghị:

– Sasi, nếu con không thay đổi cách sống, con sẽ mắc bệnh nặng, và đừng tráchta là đã không khuyên can con trước.


Sasi cười và nói:

– Bạch thầy, con tin lời thầy, nhưng có lẽ chỉ biết nhờ thầy cầu nguyện cho màthôi. Con không đủ ý chí để thay đổi lối sống từ lâu nay.

Sau đó tôi đã nhiều lần gặp riêng Sasi để cố gắng thuyết phục anh thay đổi, vìtôi hiểu rất rõ tầm quan trọng trong lời cảnh báo của sư phụ. Nhưng anh ta nói:

– Không phải tôi nghi ngờ lời nói của thầy, nhưng quả thật tôi không thể nàothay đổi được cuộc sống hiện nay.

Ít lâu sau Sasi không còn ở gần chúng tôi nữa. Anh đến Bénarès và ở lại đó khálâu.


Hơn một năm sau, một hôm tôi đang cùng sư phụ uống trà thì sư huynh trực nhậtvào báo là có khách. Sư phụ nhìn tôi và nói:

– Sasi đến đấy. Nó đã không nghe lời ta. Con hãy ra nói là ta không muốn gặp nónữa.

Tôi bước ra sân đón khách và thấy quả đúng là Sasi, vóc dáng hết sức tiều tụy.Tôi liền nói với anh rằng sư phụ đã biết anh đến và người không muốn gặp anh.Sasi ứa nước mắt nói:

– Mukunda, tôi không chỉ đến đây để viếng thăm. Tôi cần gặp người để cầu xinngười cứu mạng tôi.

Vừa nói, anh vừa đẩy tôi ra để đi thẳng vào phòng sư phụ. Khi tôi theo vào đếnnơi, tôi nghe anh đang nói với thầy qua tiếng khóc:

– Bạch thầy, bác sĩ điều trị bảo rằng con đã mắc bệnh lao đến thời kỳ bất trị.Họ nói rằng con chỉ sống được không quá ba tháng nữa. Con biết chỉ có thầy mớicứu được con vào lúc này mà thôi. Con khẩn cầu thầy hãy từ bi cứu vớt lại cuộcsống cho con.

Sư phụ nhìn anh lắc đầu:

– Đã quá muộn rồi con ạ. Ta đã thấy trước ngày này từ lâu nhưng tiếc là con đãkhông nghe lời ta.

Sư phụ nói rồi yên lặng nhắm mắt lại chìm sâu vào thiền định.

Sasi kiên nhẫn quỳ trước mặt người như vậy trong khoảng hai giờ đồng hồ. Quảnhiên, cuối cùng người cũng mở mắt ra. Tôi biết sư phụ chỉ muốn thử thách niềmtin của Sasi mà thôi. Người nói:

– Thôi con hãy về đi. Trong hai tuần nữa con sẽ khỏi bệnh. Và sau đó thì conhãy liệu mà cân nhắc lối sống của mình.

Sasi mừng rỡ lộ ra nét mặt:

– Bạch thầy, con có cần phải uống thuốc không?

– Tùy con. Dù uống hay không cũng chẳng có vấn đề gì. Dù sao thì con cũng sẽkhông chết vì bệnh lao đâu.

Tôi hơi băn khoăn vì câu nói có vẻ hơi bí ẩn của sư phụ. Nhưng Sasi không hoàinghi gì. Sư phụ bỗng nói thêm với giọng nghiêm nghị:

– Con về đi, đừng để có khi ta lại đổi ý đấy.

Sasi hối hả từ biệt về ngay.


Tôi lấy làm quan tâm đến trường hợp của anh và vì thế thường ghé thăm anh trongnhững ngày sau đó. Và tôi thật thất vọng khi thấy bệnh tình của anh ngày càngnguy kịch, không có vẻ thuyên giảm chút nào. Vào ngày cuối cùng của tuần lễ thứhai theo lời dự báo của sư phụ, tôi đến thăm anh và anh không còn nói được nữa,chỉ nằm yên trên giường đưa mắt nhìn tôi. Ánh mắt của anh như khẩn cầu tôi hãythay anh mà van xin cùng sư phụ. Ông bác sĩ điều trị nói với tôi:

– Anh ta không thể qua khỏi đêm nay.

Tôi tức tốc trở về đạo viện, tìm lên phòng sư phụ. Người nhìn tôi với ánh mắtlạnh lùng mà tôi chưa thấy trước đó bao giờ:

– Sao con lại cuống lên như thế? Ta chẳng đã nói là Sasi sẽ khỏi bệnh hay sao?

Không đợi tôi nói ra lấy một lời, sư phụ đã bảo tôi như thế. Tôi không còn cáchnào khác hơn là cúi chào và lui ra.

Không ngủ được khi nghĩ đến bạn mình đang hấp hối trên giường bệnh, tôi rời đạoviện và tìm đến nhà Sasi ngay trong đêm.

Khi đến nơi, tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy Sasi đang ngồi uống sữa trêngiường. Nhìn thấy tôi, anh tươi cười nói:

– Mukunda! Thật là kỳ diệu! Chỉ cách đây không đầy nửa giờ, tôi đột nhiên nhìnthấy sư phụ Śrỵ Yukteswar hiện ra trong phòng này. Người đứng nơi cửa phòngnhìn tôi không nói gì, nhưng ánh mắt ngài như có sức nóng truyền đến chỗ tôi.Kể từ lúc đó tôi thấy cơn đau và sự mệt mỏi như tan biến dần. Chỉ một lúc sauthì sư phụ không còn ở đó nữa. Tôi cảm thấy đói bụng cồn cào, liền ngồi dậy đòiuống sữa.

Tôi không còn biết nói gì, chỉ lặp lại lời khuyên Sasi là sau khi hếtbệnh hãy liệu mà tu tỉnh cuộc sống.

Chỉ hai tuần sau thì Sasi hồi sức và lên cân rất nhanh trước sự kinh ngạc củabác sĩ điều trị cho anh. Ông tuyên bố đây là một trường hợp chưa từng có vàkhông thể nào giải thích được bằng những kiến thức y học mà ông hiện có.

Nhưng tiếc thay đoạn kết của câu chuyện này lại thật đáng buồn. Sasi vẫn chứngnào tật nấy, thậm chí còn tránh né không lui tới nơi đạo viện như trước nữa. Cólần anh bảo tôi là vì anh cảm thấy xấu hổ khi gặp mặt sư phụ.

Chỉ sáu tháng sau thì anh ngã bệnh trở lại. Và lần này tôi đã vĩnh viễn mấtanh.

° ° °

Một bạn học cùng lớp của tôi, Dijen Babu, là người đang đứng giữa ngã ba đườngvề mặt tâm linh. Tôi nói thế, vì anh ta một mặt muốn đặt niềm tin vào tínngưỡng tôn giáo, một mặt lại cũng hoài nghi về những giáo lý đôi khi rất trừutượng và không dễ gì chứng minh được bằng toán học.

Và vì thế, một ngày kia tôi mời anh đến thăm đạo viện của chúng tôi.

Dijen theo tôi đến viếng thăm đạo viện vào một buổi chiều và được tiếp chuyệncùng sư phụ Śrỵ Yukteswar. Sau lần đó, anh thực sự quan tâm đến tín ngưỡng vàthường xuyên lui tới đạo viện ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, những kiến thứckhoa học của trường đại học dường như đã làm cho anh không sao dứt sạch mốinghi ngờ về những đạo lý trừu tượng mà người ta đòi hỏi anh phải tin nhận thayvì là lý luận và chứng minh. Chẳng hạn, có lần anh thú nhận với tôi là vẫn khôngtin được vì sao một điều tệ hại xảy ra cho chúng ta hôm nay lại dứt khoát phảilà hậu quả của một hành vi xấu trong quá khứ, khi mà chẳng ai có thể chỉ rađược mối liên hệ đó cả!

Tôi thầm mong có một dịp nào đó để Dijen hiểu ra rằng không phải mọi sự thậttrong cuộc đời này đều có thể được chứng minh bằng toán học.

Một ngày kia, sư phụ có việc phải đi Calcutta trong mấy hôm. Sư phụ để lại mộtmảnh giấy, bảo tôi và Dijen hãy ra ga đón người trở về vào sáng thứ Tư, chuyếnxe lửa 9 giờ sáng.

Nhưng vào khoảng 8 giờ 30 hôm thứ Tư, khi đã sắp sửa cùng Dijen ra ga đón thầy,tôi bất chợt có linh cảm là thầy đang muốn nhắn gửi tôi điều gì đó. Tôi liềnvào phòng và ngồi xuống tập trung tư tưởng, giữ cho tâm hồn thật yên tĩnh.Trong trạng thái đó, một lúc sau tôi nghe thấy tiếng sư phụ như vang lên trongthinh lặng: “Thầy còn một số công việc chưa giải quyết kịp, nên sẽ không về vàochuyến xe lửa 9 giờ như đã định. Các con không cần phải đi đón thầy.”

Tôi đi ra cổng, gọi Dijen lại và cho anh biết rằng qua giao cảm tôi đã được sưphụ cho biết là người sẽ không về kịp như đã định và vì thế không cần phải điđón. Dijen nhìn tôi với vẻ hoài nghi và nói:

– Thầy đã dặn lại chúng ta bằng giấy mực hẳn hoi. Còn giờ đây anh chỉ dựa vàocái linh cảm trừu tượng chẳng ai thấy được của anh để tuyên bố thay đổi, tôilàm sao có thể tin là anh nói đúng được kia chứ?

Tôi không thể nói thêm gì hơn, chỉ bày tỏ thái độ cương quyết là sẽ không đi.Dijen có vẻ bực tức, bỏ ra cổng một mình. Anh ta không thể tin vào thông báo cótính cách đầy bí ẩn của tôi.

Quay trở về phòng, tôi bỗng thấy nhớ sư phụ lạ thường. Chỉ mấy ngày không gặpmà tôi thấy như đã xa cách người quá lâu, không được nghe giọng nói ấm áp,không được nhìn dáng đi khoan thai, ánh mắt hiền từ của người... tôi cảm thấy mộtsự trống vắng không sao bù đắp được.

Tôi ngồi xuống tọa cụ của mình, bắt đầu thư giãn và tĩnh tọa. Không khí yêntĩnh và tâm trạng thư thái làm cho tôi thấy nhẹ nhõm đi bao nhiêu ý tưởng phiềntoái. Tôi thấy đầu óc mình trở nên minh mẫn lạ thường và một cảm giác lâng lângsảng khoái như chưa từng có được.

Trong trạng thái kỳ lạ đó, bất chợt tôi hình dung thấy sư phụ như đang hiện ratrước mặt tôi. Không phải ở Serampore, cũng không phải Calcutta, mà là trên mộttoa xe lửa, trong bộ y phục màu vàng sậm thường ngày mà lúc này tôi có thể thấyrõ đến từng nếp gấp... Cùng đi với người là một tiểu đồng ôm cái bình bằng bạcsáng chói đang ngồi ở phía bên trái. Sư phụ quay lại nhìn và cười với tôi:

– Chắc con chưa quen lắm với cách giao tiếp như thế này. Nhưng xem ra cũng tiệnlợi đấy chứ.

Rồi thầy chỉ tay về phía chú tiểu đồng:

– Con thấy đấy. Ta vừa thu nhận thêm một đệ tử nhỏ. Và vì việc này mà ta phảichậm trễ một đôi chút. Nhưng chuyến xe lửa ta đang đi đây sẽ đến ga vào lúc 10giờ. Con có thể cùng Dijen đến đón ta cũng vừa kịp đấy.

Những âm thanh, tiếng nói ấy vang lên rõ ràng trong im lặng như thể tôi khôngnghe chúng bằng tai mà bằng vào một thứ giác quan khác. Cũng vậy, những hìnhảnh không đi vào trí óc tôi bằng nhãn quan thông thường mà bằng một khả năngtiếp nhận hoàn toàn khác...

Rồi trạng thái kỳ diệu ấy tan biến dần đi. Tôi trở lại với tâm trạng bìnhthường khi nghe có tiếng bước chân vang lên từ phía ngoài sân. Một cách mơ hồ,tôi biết đó là Dijen đã trở lại từ nhà ga xe lửa.

Khi tôi mở cánh cửa phòng khách để nhìn ra sân thì quả đúng là Dijen. Anh nhìntôi có vẻ hơi bẽn lẽn vì biết rằng mình đã sai khi không nghe lời tôi. Tuy vậy,anh không giấu được sự ngạc nhiên về điều ấy:

– Mukunda! Tôi không sao tin nổi là anh nói đúng, nhưng quả thật là vậy. Sư phụđã không về trên chuyến xe lửa lúc 9 giờ. Tôi đã chờ đến chuyến 9 giờ 30 vàcũng không thấy.

Tôi mỉm cười với anh ta:

– Nhưng thầy sẽ về trên chuyến xe lửa lúc 10 giờ. Vì vậy tôi với anh phải đingay kẻo không kịp.

Dijen mở to mắt nhìn tôi kinh ngạc và cuối cùng cũng miễn cưỡng đi theo tôi.Chúng tôi đến nhà ga vừa lúc xe lửa đến. Dijen hỏi tôi:

– Anh biết chắc là sư phụ sẽ về trên chuyến xe lửa này?

– Đúng vậy. Tôi đã tiếp chuyện với thầy qua thần giao cách cảm. Tôi biết sư phụcó đưa về một tiểu đồng, và cậu bé ấy ôm một cái bình bằng bạc đi cùng sư phụ.Người mặc bộ y phục màu vàng sậm.

Khi tôi vừa nói dứt câu ấy thì cũng vừa lúc Dijen nhìn thấy được sư phụ từtrong đám đông hành khách vừa xuống tàu. Anh trố mắt nhìn thầy rồi quay sangnhìn tôi như đang quan sát một hiện tượng kỳ lạ mà bộ óc của anh không sao lýgiải được. Bởi vì quả thật sư phụ mặc bộ y phục màu vàng sậm và đang cùng đivới một chú bé ôm cái bình bằng bạc sáng chói!

Bản thân tôi cũng bàng hoàng không ít. Lần đầu tiên trong đời tôi đã nhìn thấyđược một cách hoàn toàn chính xác những hình ảnh vượt qua không gian. Chínhnhững hình ảnh của sư phụ và chú bé ôm bình bạc này đã được tôi nhìn thấy lúcnãy, khi họ ngồi trên toa xe lửa còn tôi thì đang ngồi trong phòng. Nhưng giờđây thì thực tế chứng minh rằng đó không phải là những ảo giác mà là những hìnhảnh hoàn toàn có thật!

Sư phụ đã đi đến chỗ chúng tôi khi mà cả hai đều còn chưa lấy lại được tâmtrạng bình thường. Người hiểu được điều đó và nói với cả hai:

– Các con không phải suy nghĩ quá nhiều về những điều vốn vượt quá tầm hiểubiết của các con. Cách tốt nhất là hãy thừa nhận những gì là sự thật, và chínhkinh nghiệm bản thân sẽ dần dần giúp các con hiểu rõ.

Trên đường về, tôi kể cho Dijen nghe việc tôi đã nhìn thấy sư phụ khi người còntrên xe lửa. Lúc này, anh đã hoàn toàn tin lời tôi và quay sang hỏi:

– Tôi không biết các nhà khoa học sẽ nghĩ sao nếu họ cũng chứng kiến việc nàynhư tôi và anh.

Tôi mỉm cười:

– Cách đây một thế kỷ, anh cũng có thể đặt ra câu hỏi tương tự nếu có ai đó đãsử dụng đến vô tuyến điện. Khoa học không phải đã hiểu hết những năng lực củacon người cũng như trong vũ trụ. Nhưng điều đáng mừng là có vẻ như dần dần rồingười ta cũng hiểu, cho dù việc lý giải sự việc bao giờ cũng đi sau rất nhiềuso với việc tiếp nhận nó bằng trực giác. Biết đâu chừng trong khoảng một thế kỷnữa, khoa học cũng có thể làm được điều tương tự như chúng ta hôm nay nhờ vàomột loại thiết bị nào đó.[1]

Dijen có vẻ trầm ngâm rất nhiều:

– Vâng, có lẽ anh nói đúng. Chỉ có điều giờ đây tôi thấy không còn hứng thú đểtiếp tục theo học ở trường đại học nữa!


http://rongmotamhon.net/mainpage/doc-sach-Xu-Phat-huyen-bi-68-2028-online-2.html

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHƯƠNG IV: NHỮNG TRƯỜNG HỢP LẠ LÙNG


Một trong những ngườibạn của tôi, anh Santosh, là con trai của một bác sĩ thú y, ông Chunder Roy.

Chunder Roy là một kiểu người trí thức nửa mùa, hiểu biết thì nông cạn nhưnglòng tự cao tự đại thì rất lớn. Ông chưa từng có thái độ tin tưởng vào bất cứđiều gì khác hơn là những điều ông đã học được ở trường lớp.

Santosh là một người giàu lòng tin, và chính anh đã khẩn khoản nhờ tôi nói vớisư phụ Śrỵ Yukteswar để người giúp đỡ trong việc cải hóa con người của cha anh.

Chúng tôi thành công trong việc thuyết phục ông Roy đến viếng thăm đạo viện mộtlần. Tuy nhận lời nhưng ông nói với giọng rất trịch thượng:

– Tôi đã nghe lắm người ca ngợi ông đạo này, nên cũng muốn đến thăm một lần xemsao.

Cuộc gặp gỡ hết sức tẻ nhạt với vài ba câu chào hỏi xã giao và những khoảng imlặng kéo dài. Sư phụ tôi có vẻ như không muốn chủ động đưa ra vấn đề gì cả.

Khi ông bác sĩ đã ra về, sư phụ hỏi tôi:

– Con đưa một người sắp chết đến đây làm gì?

Tôi lấy làm ngạc nhiên về câu hỏi ấy:

– Bạch thầy, nhưng ông ta là một người đang khỏe mạnh.

– Người ấy sắp chết đến nơi rồi.

Tôi thật sự bàng hoàng, vì tôi biết sư phụ không nói đùa và càng không nói saisự thật:

– Bạch thầy, con trai ông ấy vẫn nuôi hy vọng là thời gian sẽ giúp cải hóa ôngta. Nhưng nếu như thế thì quả là tuyệt vọng. Cầu xin thầy hãy cứu vớt ông ta.

Sư phụ đáp:

– Điều quan trọng vẫn là những quyết định cải hối từ phía ông ta. Nhưng theolời khẩn cầu của con và tấm lòng thành của người con trai, ta sẽ tạo cho ông ấythêm một số cơ hội.

Dừng một lát, sư phụ nói tiếp:

– Tuy ông ta là bác sĩ thú y, nhưng ông đã không tự biết được là ông đang bịchứng tiểu đường rất nặng. Khoảng một tuần nữa ông ta sẽ bắt đầu nằm liệtgiường. Các y sĩ sẽ bó tay, và ông ta sẽ chết trong vòng 5 tuần lễ kể từ hômnay. Với sự giúp sức của ta, nếu ông ấy chịu đeo một món linh phù đã được chúnguyện, ông sẽ khỏi bệnh cũng vào ngày mà lẽ ra ông phải chết. Ta biết là ôngsẽ phản đối dữ dội trước khi chịu đeo món linh phù vào người.

Sư phụ lại im lặng. Một lát, người đưa cho tôi món linh phù nhỏ bé và nói tiếp:

– Sau khi khỏi bệnh, con hãy khuyên ông ta ăn chay, không được ăn thịt. Nếu ôngta không nghe lời khuyên đó, ông ta sẽ chết trong vòng sáu tháng sau, đúng vàongày mà ông ta nghĩ rằng mình đã hoàn toàn khỏi bệnh.

Ngày hôm sau, tôi mang món linh phù đến tìm Santosh và chúng tôi cùng thuyếtphục bác sĩ Roy đeo nó vào người. Ông ta phản ứng dữ dội bằng những lời nặng nềvà xúc phạm:

– Đừng hù dọa ta với những lời tiên tri này nọ. Ta đang rất khỏe và sẽ khôngbệnh hoạn gì cả. Hãy dẹp những món linh phù vớ vẩn ấy đi.

Nhưng một tuần sau thì Santosh lại đến tìm tôi và thông báo là cha anh đã đồngý đeo món linh phù. Ông ta đang trong tâm trạng hốt hoảng vì quả thật ông đãngã bệnh và bác sĩ điều trị xác định đúng là bệnh tiểu đường như lời thầy tôinói. Hơn thế nữa, bác sĩ còn tuyên bố bệnh của ông đã đến giai đoạn mà y họclúc ấy hoàn toàn bó tay và chỉ còn chờ ngày chết. Hết sức kinh ngạc trước nhữngdự báo chính xác của thầy tôi, ông lập tức bảo Santosh đến tìm tôi để xin đượcđeo món linh phù như một tia hy vọng cuối cùng.

Khi chúng tôi đến chỗ ông thì bác sĩ điều trị cũng vừa bước ra. Ông nói nhỏ vớiSantosh:

– Bệnh của cha em đã nguy kịch đến mức không sao cứu chữa được nữa rồi.

Tôi nhìn ông ta, lắc đầu và nói:

– Không, sư phụ tôi đã nói là ông ta sẽ khỏi bệnh. Căn bệnh của ông ta chỉ kéodài một tháng thôi.

Ông bác sĩ trố mắt nhìn tôi như nhìn một người mất trí, rồi không buồn cãi lại,ông xếp y cụ ra về.

Một tháng sau, ông ta tình cờ gặp tôi trên đường phố và đón tôi lại, nói với vẻhết sức kinh ngạc:

– Này em, tôi không biết sư phụ của em là ai, nhưng chắc chắn ông ta là một nhàtiên tri hoặc một người chữa bệnh thần bí. Ông Roy đã hoàn toàn bình phục mộtcách rất đột ngột. Trong đời thầy thuốc của tôi, tôi chưa gặp một trường hợpnào tương tự như vậy trước đây cả.


Tôi liền ghé qua thăm ông Roy và nói cho ông biết là ông nên ăn chay nếu nhưmuốn giữ gìn được sức khỏe và sinh mạng của mình. Ông ta im lặng lắng nghenhưng không có vẻ gì là tin nhận.

Sáu tháng sau, tôi lại tình cờ gặp ông tại một cửa hiệu bán tạp hóa. Ông chàotôi và nói:

– Em hãy chuyển lời tôi đến với sư phụ em rằng tôi đã hồi phục sức khỏe rấtnhanh nhờ ăn nhiều thịt. Lời khuyên phản lại khoa học dinh dưỡng của ông takhông gạt gẫm được tôi đâu.

Tôi nhìn ông ta, quả thật ông rất mập mạnh và không còn chút dấu hiệu nào củabệnh tật.

Nhưng sáng hôm sau, Santosh hốt hoảng chạy đến đạo viện tìm tôi và thông báo:

– Cha tôi đã bất ngờ qua đời hồi sáng nay mà không có dấu hiệu gì báo trước cả.

Tôi lặng thinh. Lời cảnh báo của sư phụ là hoàn toàn chính xác. Tiếc thay, ôngta đã không có đủ phước duyên để nghe theo!

° ° °

Một trong những đặc ân mà sư phụ dành cho tôi là được quyền đưa bạn bè của tôivề đạo viện để hội kiến cùng sư phụ. Rất nhiều người trong số đó đã được sư phụdắt dẫn vào con đường tín ngưỡng.

Anh bạn Sasi của tôi cũng là một người trong số đó. Từ khi được quen biết sưphụ tôi, anh thường xuyên đến đây vào những ngày cuối tuần, lắng nghe nhữngbuổi giảng của sư phụ một cách rất thích thú. Sư phụ tôi cũng tỏ ra rất mếnanh.

Nhưng Sasi là một thanh niên phóng đãng, ăn chơi vô độ. Một hôm sư phụ nhìnthẳng vào anh và nói rất nghiêm nghị:

– Sasi, nếu con không thay đổi cách sống, con sẽ mắc bệnh nặng, và đừng tráchta là đã không khuyên can con trước.


Sasi cười và nói:

– Bạch thầy, con tin lời thầy, nhưng có lẽ chỉ biết nhờ thầy cầu nguyện cho màthôi. Con không đủ ý chí để thay đổi lối sống từ lâu nay.

Sau đó tôi đã nhiều lần gặp riêng Sasi để cố gắng thuyết phục anh thay đổi, vìtôi hiểu rất rõ tầm quan trọng trong lời cảnh báo của sư phụ. Nhưng anh ta nói:

– Không phải tôi nghi ngờ lời nói của thầy, nhưng quả thật tôi không thể nàothay đổi được cuộc sống hiện nay.

Ít lâu sau Sasi không còn ở gần chúng tôi nữa. Anh đến Bénarès và ở lại đó khálâu.


Hơn một năm sau, một hôm tôi đang cùng sư phụ uống trà thì sư huynh trực nhậtvào báo là có khách. Sư phụ nhìn tôi và nói:

– Sasi đến đấy. Nó đã không nghe lời ta. Con hãy ra nói là ta không muốn gặp nónữa.

Tôi bước ra sân đón khách và thấy quả đúng là Sasi, vóc dáng hết sức tiều tụy.Tôi liền nói với anh rằng sư phụ đã biết anh đến và người không muốn gặp anh.Sasi ứa nước mắt nói:

– Mukunda, tôi không chỉ đến đây để viếng thăm. Tôi cần gặp người để cầu xinngười cứu mạng tôi.

Vừa nói, anh vừa đẩy tôi ra để đi thẳng vào phòng sư phụ. Khi tôi theo vào đếnnơi, tôi nghe anh đang nói với thầy qua tiếng khóc:

– Bạch thầy, bác sĩ điều trị bảo rằng con đã mắc bệnh lao đến thời kỳ bất trị.Họ nói rằng con chỉ sống được không quá ba tháng nữa. Con biết chỉ có thầy mớicứu được con vào lúc này mà thôi. Con khẩn cầu thầy hãy từ bi cứu vớt lại cuộcsống cho con.

Sư phụ nhìn anh lắc đầu:

– Đã quá muộn rồi con ạ. Ta đã thấy trước ngày này từ lâu nhưng tiếc là con đãkhông nghe lời ta.

Sư phụ nói rồi yên lặng nhắm mắt lại chìm sâu vào thiền định.

Sasi kiên nhẫn quỳ trước mặt người như vậy trong khoảng hai giờ đồng hồ. Quảnhiên, cuối cùng người cũng mở mắt ra. Tôi biết sư phụ chỉ muốn thử thách niềmtin của Sasi mà thôi. Người nói:

– Thôi con hãy về đi. Trong hai tuần nữa con sẽ khỏi bệnh. Và sau đó thì conhãy liệu mà cân nhắc lối sống của mình.

Sasi mừng rỡ lộ ra nét mặt:

– Bạch thầy, con có cần phải uống thuốc không?

– Tùy con. Dù uống hay không cũng chẳng có vấn đề gì. Dù sao thì con cũng sẽkhông chết vì bệnh lao đâu.

Tôi hơi băn khoăn vì câu nói có vẻ hơi bí ẩn của sư phụ. Nhưng Sasi không hoàinghi gì. Sư phụ bỗng nói thêm với giọng nghiêm nghị:

– Con về đi, đừng để có khi ta lại đổi ý đấy.

Sasi hối hả từ biệt về ngay.


Tôi lấy làm quan tâm đến trường hợp của anh và vì thế thường ghé thăm anh trongnhững ngày sau đó. Và tôi thật thất vọng khi thấy bệnh tình của anh ngày càngnguy kịch, không có vẻ thuyên giảm chút nào. Vào ngày cuối cùng của tuần lễ thứhai theo lời dự báo của sư phụ, tôi đến thăm anh và anh không còn nói được nữa,chỉ nằm yên trên giường đưa mắt nhìn tôi. Ánh mắt của anh như khẩn cầu tôi hãythay anh mà van xin cùng sư phụ. Ông bác sĩ điều trị nói với tôi:

– Anh ta không thể qua khỏi đêm nay.

Tôi tức tốc trở về đạo viện, tìm lên phòng sư phụ. Người nhìn tôi với ánh mắtlạnh lùng mà tôi chưa thấy trước đó bao giờ:

– Sao con lại cuống lên như thế? Ta chẳng đã nói là Sasi sẽ khỏi bệnh hay sao?

Không đợi tôi nói ra lấy một lời, sư phụ đã bảo tôi như thế. Tôi không còn cáchnào khác hơn là cúi chào và lui ra.

Không ngủ được khi nghĩ đến bạn mình đang hấp hối trên giường bệnh, tôi rời đạoviện và tìm đến nhà Sasi ngay trong đêm.

Khi đến nơi, tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy Sasi đang ngồi uống sữa trêngiường. Nhìn thấy tôi, anh tươi cười nói:

– Mukunda! Thật là kỳ diệu! Chỉ cách đây không đầy nửa giờ, tôi đột nhiên nhìnthấy sư phụ Śrỵ Yukteswar hiện ra trong phòng này. Người đứng nơi cửa phòngnhìn tôi không nói gì, nhưng ánh mắt ngài như có sức nóng truyền đến chỗ tôi.Kể từ lúc đó tôi thấy cơn đau và sự mệt mỏi như tan biến dần. Chỉ một lúc sauthì sư phụ không còn ở đó nữa. Tôi cảm thấy đói bụng cồn cào, liền ngồi dậy đòiuống sữa.

Tôi không còn biết nói gì, chỉ lặp lại lời khuyên Sasi là sau khi hếtbệnh hãy liệu mà tu tỉnh cuộc sống.

Chỉ hai tuần sau thì Sasi hồi sức và lên cân rất nhanh trước sự kinh ngạc củabác sĩ điều trị cho anh. Ông tuyên bố đây là một trường hợp chưa từng có vàkhông thể nào giải thích được bằng những kiến thức y học mà ông hiện có.

Nhưng tiếc thay đoạn kết của câu chuyện này lại thật đáng buồn. Sasi vẫn chứngnào tật nấy, thậm chí còn tránh né không lui tới nơi đạo viện như trước nữa. Cólần anh bảo tôi là vì anh cảm thấy xấu hổ khi gặp mặt sư phụ.

Chỉ sáu tháng sau thì anh ngã bệnh trở lại. Và lần này tôi đã vĩnh viễn mấtanh.

° ° °

Một bạn học cùng lớp của tôi, Dijen Babu, là người đang đứng giữa ngã ba đườngvề mặt tâm linh. Tôi nói thế, vì anh ta một mặt muốn đặt niềm tin vào tínngưỡng tôn giáo, một mặt lại cũng hoài nghi về những giáo lý đôi khi rất trừutượng và không dễ gì chứng minh được bằng toán học.

Và vì thế, một ngày kia tôi mời anh đến thăm đạo viện của chúng tôi.

Dijen theo tôi đến viếng thăm đạo viện vào một buổi chiều và được tiếp chuyệncùng sư phụ Śrỵ Yukteswar. Sau lần đó, anh thực sự quan tâm đến tín ngưỡng vàthường xuyên lui tới đạo viện ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, những kiến thứckhoa học của trường đại học dường như đã làm cho anh không sao dứt sạch mốinghi ngờ về những đạo lý trừu tượng mà người ta đòi hỏi anh phải tin nhận thayvì là lý luận và chứng minh. Chẳng hạn, có lần anh thú nhận với tôi là vẫn khôngtin được vì sao một điều tệ hại xảy ra cho chúng ta hôm nay lại dứt khoát phảilà hậu quả của một hành vi xấu trong quá khứ, khi mà chẳng ai có thể chỉ rađược mối liên hệ đó cả!

Tôi thầm mong có một dịp nào đó để Dijen hiểu ra rằng không phải mọi sự thậttrong cuộc đời này đều có thể được chứng minh bằng toán học.

Một ngày kia, sư phụ có việc phải đi Calcutta trong mấy hôm. Sư phụ để lại mộtmảnh giấy, bảo tôi và Dijen hãy ra ga đón người trở về vào sáng thứ Tư, chuyếnxe lửa 9 giờ sáng.

Nhưng vào khoảng 8 giờ 30 hôm thứ Tư, khi đã sắp sửa cùng Dijen ra ga đón thầy,tôi bất chợt có linh cảm là thầy đang muốn nhắn gửi tôi điều gì đó. Tôi liềnvào phòng và ngồi xuống tập trung tư tưởng, giữ cho tâm hồn thật yên tĩnh.Trong trạng thái đó, một lúc sau tôi nghe thấy tiếng sư phụ như vang lên trongthinh lặng: “Thầy còn một số công việc chưa giải quyết kịp, nên sẽ không về vàochuyến xe lửa 9 giờ như đã định. Các con không cần phải đi đón thầy.”

Tôi đi ra cổng, gọi Dijen lại và cho anh biết rằng qua giao cảm tôi đã được sưphụ cho biết là người sẽ không về kịp như đã định và vì thế không cần phải điđón. Dijen nhìn tôi với vẻ hoài nghi và nói:

– Thầy đã dặn lại chúng ta bằng giấy mực hẳn hoi. Còn giờ đây anh chỉ dựa vàocái linh cảm trừu tượng chẳng ai thấy được của anh để tuyên bố thay đổi, tôilàm sao có thể tin là anh nói đúng được kia chứ?

Tôi không thể nói thêm gì hơn, chỉ bày tỏ thái độ cương quyết là sẽ không đi.Dijen có vẻ bực tức, bỏ ra cổng một mình. Anh ta không thể tin vào thông báo cótính cách đầy bí ẩn của tôi.

Quay trở về phòng, tôi bỗng thấy nhớ sư phụ lạ thường. Chỉ mấy ngày không gặpmà tôi thấy như đã xa cách người quá lâu, không được nghe giọng nói ấm áp,không được nhìn dáng đi khoan thai, ánh mắt hiền từ của người... tôi cảm thấy mộtsự trống vắng không sao bù đắp được.

Tôi ngồi xuống tọa cụ của mình, bắt đầu thư giãn và tĩnh tọa. Không khí yêntĩnh và tâm trạng thư thái làm cho tôi thấy nhẹ nhõm đi bao nhiêu ý tưởng phiềntoái. Tôi thấy đầu óc mình trở nên minh mẫn lạ thường và một cảm giác lâng lângsảng khoái như chưa từng có được.

Trong trạng thái kỳ lạ đó, bất chợt tôi hình dung thấy sư phụ như đang hiện ratrước mặt tôi. Không phải ở Serampore, cũng không phải Calcutta, mà là trên mộttoa xe lửa, trong bộ y phục màu vàng sậm thường ngày mà lúc này tôi có thể thấyrõ đến từng nếp gấp... Cùng đi với người là một tiểu đồng ôm cái bình bằng bạcsáng chói đang ngồi ở phía bên trái. Sư phụ quay lại nhìn và cười với tôi:

– Chắc con chưa quen lắm với cách giao tiếp như thế này. Nhưng xem ra cũng tiệnlợi đấy chứ.

Rồi thầy chỉ tay về phía chú tiểu đồng:

– Con thấy đấy. Ta vừa thu nhận thêm một đệ tử nhỏ. Và vì việc này mà ta phảichậm trễ một đôi chút. Nhưng chuyến xe lửa ta đang đi đây sẽ đến ga vào lúc 10giờ. Con có thể cùng Dijen đến đón ta cũng vừa kịp đấy.

Những âm thanh, tiếng nói ấy vang lên rõ ràng trong im lặng như thể tôi khôngnghe chúng bằng tai mà bằng vào một thứ giác quan khác. Cũng vậy, những hìnhảnh không đi vào trí óc tôi bằng nhãn quan thông thường mà bằng một khả năngtiếp nhận hoàn toàn khác...

Rồi trạng thái kỳ diệu ấy tan biến dần đi. Tôi trở lại với tâm trạng bìnhthường khi nghe có tiếng bước chân vang lên từ phía ngoài sân. Một cách mơ hồ,tôi biết đó là Dijen đã trở lại từ nhà ga xe lửa.

Khi tôi mở cánh cửa phòng khách để nhìn ra sân thì quả đúng là Dijen. Anh nhìntôi có vẻ hơi bẽn lẽn vì biết rằng mình đã sai khi không nghe lời tôi. Tuy vậy,anh không giấu được sự ngạc nhiên về điều ấy:

– Mukunda! Tôi không sao tin nổi là anh nói đúng, nhưng quả thật là vậy. Sư phụđã không về trên chuyến xe lửa lúc 9 giờ. Tôi đã chờ đến chuyến 9 giờ 30 vàcũng không thấy.

Tôi mỉm cười với anh ta:

– Nhưng thầy sẽ về trên chuyến xe lửa lúc 10 giờ. Vì vậy tôi với anh phải đingay kẻo không kịp.

Dijen mở to mắt nhìn tôi kinh ngạc và cuối cùng cũng miễn cưỡng đi theo tôi.Chúng tôi đến nhà ga vừa lúc xe lửa đến. Dijen hỏi tôi:

– Anh biết chắc là sư phụ sẽ về trên chuyến xe lửa này?

– Đúng vậy. Tôi đã tiếp chuyện với thầy qua thần giao cách cảm. Tôi biết sư phụcó đưa về một tiểu đồng, và cậu bé ấy ôm một cái bình bằng bạc đi cùng sư phụ.Người mặc bộ y phục màu vàng sậm.

Khi tôi vừa nói dứt câu ấy thì cũng vừa lúc Dijen nhìn thấy được sư phụ từtrong đám đông hành khách vừa xuống tàu. Anh trố mắt nhìn thầy rồi quay sangnhìn tôi như đang quan sát một hiện tượng kỳ lạ mà bộ óc của anh không sao lýgiải được. Bởi vì quả thật sư phụ mặc bộ y phục màu vàng sậm và đang cùng đivới một chú bé ôm cái bình bằng bạc sáng chói!

Bản thân tôi cũng bàng hoàng không ít. Lần đầu tiên trong đời tôi đã nhìn thấyđược một cách hoàn toàn chính xác những hình ảnh vượt qua không gian. Chínhnhững hình ảnh của sư phụ và chú bé ôm bình bạc này đã được tôi nhìn thấy lúcnãy, khi họ ngồi trên toa xe lửa còn tôi thì đang ngồi trong phòng. Nhưng giờđây thì thực tế chứng minh rằng đó không phải là những ảo giác mà là những hìnhảnh hoàn toàn có thật!

Sư phụ đã đi đến chỗ chúng tôi khi mà cả hai đều còn chưa lấy lại được tâmtrạng bình thường. Người hiểu được điều đó và nói với cả hai:

– Các con không phải suy nghĩ quá nhiều về những điều vốn vượt quá tầm hiểubiết của các con. Cách tốt nhất là hãy thừa nhận những gì là sự thật, và chínhkinh nghiệm bản thân sẽ dần dần giúp các con hiểu rõ.

Trên đường về, tôi kể cho Dijen nghe việc tôi đã nhìn thấy sư phụ khi người còntrên xe lửa. Lúc này, anh đã hoàn toàn tin lời tôi và quay sang hỏi:

– Tôi không biết các nhà khoa học sẽ nghĩ sao nếu họ cũng chứng kiến việc nàynhư tôi và anh.

Tôi mỉm cười:

– Cách đây một thế kỷ, anh cũng có thể đặt ra câu hỏi tương tự nếu có ai đó đãsử dụng đến vô tuyến điện. Khoa học không phải đã hiểu hết những năng lực củacon người cũng như trong vũ trụ. Nhưng điều đáng mừng là có vẻ như dần dần rồingười ta cũng hiểu, cho dù việc lý giải sự việc bao giờ cũng đi sau rất nhiềuso với việc tiếp nhận nó bằng trực giác. Biết đâu chừng trong khoảng một thế kỷnữa, khoa học cũng có thể làm được điều tương tự như chúng ta hôm nay nhờ vàomột loại thiết bị nào đó.[1]

Dijen có vẻ trầm ngâm rất nhiều:

– Vâng, có lẽ anh nói đúng. Chỉ có điều giờ đây tôi thấy không còn hứng thú đểtiếp tục theo học ở trường đại học nữa!


http://rongmotamhon.net/mainpage/doc-sach-Xu-Phat-huyen-bi-68-2028-online-2.html

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay