Thiên Sứ

TẠI SAO GỌI LÀ THƠ ĐƯỜNG?

5 bài viết trong chủ đề này

Kính thưa quí vị và các bạn.

Tôi mở chủ đề này vì một thắc mắc của tôi. Do trí thức và sự hiểu biết có hạn, nên hy vọng được quí vị ghé ngang đây giải đáp.

Từ trước đến nay thể thơ "Thất ngôn bát cú" chúng ta vẫn gọi là "Thơ Đường" và được lý giải là có xuất xứ từ những văn sĩ Trung Hoa thời Đường sáng tạo ra và trở thành phổ biến trong giới thi ca Đông phương gọi là - ảnh hưởng văn hóa Hán.

Nhưng theo sự hiểu biết có hạn của Thiên Sứ tôi thì thấy ngay Lý Bạch, Đỗ Phủ cũng rất ít làm thể thơ này (Bản thân tôi chưa tìm thấy bài nào, nhưng vì trí thức có hạn nên không dám nói là không có, mà chỉ nhận xét là "rất ít"), mà thơ Đường lại tỏ ra phổ biến ở văn hóa Việt nhiều hơn ở Trung Hoa. Bởi vậy, tôi nghi ngở:

* Thơ Đường không có xuất xứ từ đời Đường - Thế kỷ VI - IX.

* Thể thơ này có nguồn gốc từ văn hiến Việt.

Mong được quí vị và các bạn cho biết những bài thơ Đường cổ tiêu biểu có nguồn gốc từ các thi sĩ Trung Hoa.

Xin cảm ơn.

Thiên Sứ

Share this post


Link to post
Share on other sites

BÀI VIẾT SƯU TẦM LIÊN QUAN.

Nguồn - thienduongnhac.com

A. NGUYÊN LÝ THI CA

Tác giả: Trần Trọng San - Thi pháp thơ chữ Hán

Sưu tầm: Lê Việt

Tài liệu cổ nhất của Trung Quốc đề cập đến thơ là sách Thượng Thư. Thiên Thuấn điển sách này viết rằng: "Thơ để nói chí, ca để vịnh lời, thanh nương theo vịnh, luật hòa các thanh. Tám âm được hài hòa, không cướp bậc nhau."

Người đời sau đều căn cứ vào ba chữ "thi ngôn chí" trong sách này khi bàn về nguyên lý của thi ca. Chữ "chí" ở đây được hiểu là toàn thể tư tưởng và tình cảm con người.

Đời Hán, Ban Cố viết trong sách Hán thư rằng: "Thơ để nói chí, ca để vịnh lời. Vì thế lòng cảm nỗi vui buồn, rồi thanh ca vịnh mới thốt ra."

Thiên Nhạc ký, sách Lễ ký cũng nói: "Thơ để nói chí, ca để vịnh thanh, múa để động vẻ mặt; ba thứ đó có gốc ở trong lòng, rồi sau nhạc khí mới kèm theo."

Nhưng chỉ đến bài Mao thi đại tự của Vệ Hoành đời Hậu Hán thì cái quan niệm về thi ca mới được trình bày rõ ràng:

"Thơ do ở chí mà ra. Ở trong lòng là chí, phát ra lời là thơ. Tình xúc động ở bên trong, rồi biểu hiện ra lời. Vì lời không đủ nên thở than, vì thở than không đủ nên vịnh ca, vì vịnh ca không đủ nên bất giác tay múa chân giậm. Tình phát ra thanh, thanh thành văn gọi là âm. Âm của đời thịnh thì yên vui, nghe đó biết chính trị thuận hòa; âm của thời loạn thì oán giận, nghe đó biết chính trị ngang trái; âm của nước mất thì đau buồn, nghe đó mà biết được dân khốn khổ. Bởi thế làm đúng lẽ đắc thất, cảm trời đất, động quỉ thần, không gì bằng thơ. Đấng tiên vương dùng thơ để làm hoà tình vợ chồng, thành đạo hiếu kính, dày nhân luân, đẹp giáo hóa, đổi phong tục."

Chúng ta thấy rằng đã từ lâu người Trung Quốc quan niệm thi ca là hình thức đầu tiên của văn học, có trước âm nhạc và văn tự. Như Thẩm Ước đời Lục Triều nói rằng: "Ca vịnh nổi lên, phải từ khi bắt đầu có loài người." Khi nói rằng thi ca là sự biểu hiện tự nhiên của tình cảm, tư tưởng con người, họ đã nêu rõ được yếu tố chính của thơ là cảm xúc. Vì công dụng bộc lộ tình cảm của thi ca nên triều đình có thể biết được tình dân qua những vần thơ truyền tụng trong dân gian; do đó có việc "thái thi" và "hiến thi" trong thời đại của Kinh Thi. Cũng do đó mà thi ca được coi là phương thế sửa chính tình cảm: chính quyền có thể và nên dùng thơ trong việc giáo hóa nhân dân (thuyết "thi giáo"); nhân dân cũng có thể dùng thơ để gián tiếp can ngăn nhà cầm quyền. Đó là khởi nguyên của chủ trương "phúng gián" và quan niệm "văn dĩ tải đạo" trong văn chương cổ điển Trung Quốc.

Đến đời Tống, trong bài Thi kinh truyện tự của Chu Hi, vấn đề nguyên lý thi ca được trình bày đầy đủ hơn, và quan niệm "thi giáo" cũng được giải thích cặn kẽ hơn:

"Người ta sinh ra vốn tĩnh, đó là tính trời. Cảm sự vật rồi xúc động, đó là cái dục của tính. Đã có dục thì không thể không có tư tưởng. Đã có tư tưởng thì không thể không có ngôn ngữ. Đã có ngôn ngữ thì có điều không nói hết được, mà phát ra lời ngậm ngùi, thở than, tất có âm hưởng, tiết tấu tự nhiên mà không nguôi nổi, do đó thơ được làm ra. (...)"

"Lòng người ta vì cảm xúc vì sự vật rồi phát biểu ra lời, cái còn dư lại chính là thơ. Sự cảm xúc của lòng người có tà có chính, cho nên sự phát biểu ra lời có thị có phi. Duy bậc thánh nhân ở trên là không có sự gì cảm xúc mà không ngay thẳng, bất cứ lời nói nào cũng đủ dạy đời. Hoặc có sự cảm xúc nào bác tạp, lời phát biểu nào không thể lựa chọn được, thì người trên hẳn nghĩ đến việc xét mình, rồi nhân đấy mà có lời khuyến trừng, đó cũng là giáo hóa vậy. Xưa trong lúc thịnh thời đời Chu, trên từ nơi giao miếu triều đình, dưới đến chốn hương đảng làng xóm, lời nào nói ra cũng đều là chính cả. Thánh nhân bèn hiệp lời ấy vào thanh luật rồi dùng cho người làng, dùng trong đất nước để giáo hóa thiên hạ. Đến như thơ của liệt quốc, thì mỗi khi Thiên tử đi tuần thú, cũng đều đem ra mà xem xét để thi hành cái phép tắc truất trắc. Từ đời Chiêu Mục về sau, ngày càng suy đồi, cho đến lúc dời sang Đông thì bỏ hẳn không giảng dạy nữa. Đức Khổng tử sinh ra trong thời gian đó. Vì ngài không có chức vị, không thể thi hành chính sách khuyến trừng truất trắc, nên ngài mang kinh sách ra thảo luận, bỏ chỗ nào trùng phức, sửa chỗ nào rối loạn; chỗ nào tốt mà không đủ để bắt chước, chỗ nào xấu mà không đủ để làm răn, ngài cũng san tước đi. Ngài làm việc ấy để theo điều giản ước, bảo cho người đời lâu dài về sau, khiến cho người học trò có chỗ căn cứ mà xét điều đắc thất, điều tốt thì theo, điều trái thì đổi. Vì vậy, tuy chính sách của ngài không thể thi hành trong một thời, nhưng giáo hóa của ngài thì lan khắp muôn đời. Như thế thì thơ có thể dùng để giáo hóa vậy."

Chúng ta thấy rằng về nguyên lý thi ca, các luận giả từ đời Hán trở về trước, khi nói "thi ngôn chí" đã trình bày một yếu tố của thơ là cảm xúc, bây giờ với bài Thi kinh truyện tự của Chu Hi lại nêu thêm một yếu tố nữa là nhạc tính khi nói đến "âm hưởng, tiết tấu" của thơ. Đến đây vấn đề nguyên lý thi ca đã thành định luận. Sau này không có luận giả nào đưa ra một ý kiến nào khác nữa.

Lê Việt sưu tầm

Share this post


Link to post
Share on other sites

B. KỸ THUẬT THƠ

Yếu tố quan trọng trong kỹ thuật thơ là phương pháp diễn đạt (poetic diction).

Ngoài những phương pháp diễn đạt tinh tế, tân kỳ, đôi khi thơ hay còn do kỹ xảo. Kỹ xảo là phương cách vận dụng tài tình các yếu tố cấu tạo nên bài thơ như: từ (word), câu (sentence), hình ảnh (imagery), nhạc điệu (rythm).

Nhạc điệu là yếu tố quan trọng trong thơ về mặt hình thức. Dù làm theo thể thơ cũ hay thể thơ mới, đều có nhạc điệu. Đến cả thơ tự do, không bị hạn chế bởi âm luật cũng được tạo nên một nhạc điệu riêng để dễ gây cảm xúc cho người đọc.

Kỹ thuật tuy không phải là yếu tố chính để cấu trúc nên một bài thơ, nhưng một nhà thơ thiếu kinh nghiệm kỹ thuật làm thơ có thể làm thơ hay, nhưng cái hay có thể không trọn vẹn. Thơ họ có thể chứa đựng nhiều ý tưởng hay, đẹp, nhưng có hình thức vụng về về cách dùng chữ, đặt câu, hoặc lủng củng về âm vận, nhạc điệu ... Tất cả các chi tiết này thuộc về kỹ thuật cấu tạo thơ, hay kỹ xảo tu chỉnh, do kinh nghiệm học hỏi hay sáng tác mà có. Như vậy, ta thấy rằng có hồn thơ để làm công việc sáng tạo chưa đủ, mà còn cần biết về kỹ thuật làm thơ và có ít nhiều kiến thức về kỹ xảo càng hay.

Thơ thất ngôn bát cú Đường Luật phải có vần, có niêm, có đối chặt chẽ. Thể thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Các câu 3-4, 5-6 phải đối nhau từng đôi một, thì người làm thơ phải tìm chữ đối cho chính xác, như danh từ, tính từ, trạng từ, động từ phải đối nhau từng đôi một và không những đối từ mà còn phải đối ý. Chẳng hạn:

Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

(Bà Huyện Thanh Quan)

Nên lưu ý một chi tiết: Ngôn ngữ Việt Nam vốn là Hán - Việt, nên trong thơ có đối thì ngoài những điều kiện trên, các từ đối phải dùng từ Hán đối với Hán, Việt đối với Việt, chứ không thể Hán đối Việt hay Việt đối Hán. Ở những câu thơ trên ta thấy: ngư ông đối với mục tử (Hán), viễn phố đối với cô thôn (Hán), chim bay mỏi đối với khách bước dồn (Việt).

Sau đây là bài thơ độc vận "Ai" của cụ Tú Hải Văn để minh họa cho bài viết nầy:

NHỚ HUẾ

Ai vẫn thương Ai vẫn nhớ Ai.

Khuyên Ai chớ vội giận hờn Ai.

Tưởng là dặm liễu bay hồn khách.

Nào thấy mành hoa thoáng bóng Ai.

Gió thuận buồm xuôi vui mặt bạn.

Canh tàn rượu tỉnh giật mình Ai.

Cầm tay dặn với ba câu chuyện.

Biết cậy Ai về nhắn lại Ai.

Share this post


Link to post
Share on other sites

C. MẤY ĐIỀU KỴ TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT

Phép làm thơ, có mấy điều tối kỵ không nên phạm đến:

1- Thất luật : Những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng

2- Thất niêm : Câu trên đang theo luật Bằng mà câu dưới sang luật Trắc hoặc câu trên đang theo luật Trắc mà câu dưới làm sang luật Bằng

3- Lạc vận : Đang theo vần này mà gieo sang vần khác, như vần trên là trời mà vần dưới là mây thì gọi là lạc vận.

4- Xuất vận : Người ta đã hạn định cho những vần gì, mà mình dùng vần khác, thì gọi là xuất vận.

5- Trùng vận : Câu trên đã dùng một vần, câu dưới lại dùng như thế nữa thì gọi là trùng vận.

6- Cưỡng áp : Các vần gieo gượng ép, không được hiệp lắm.

7- Khổ độc : Trong một bài thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẳn, trong một bài ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu chẳn đáng là từ bằng mà làm ra từ trắc.

8- Phong yêu hạc tất : từ thứ tư và tứ thứ bảy trong thơ thất ngôn, từ thứ hai và từ thứ năm trong thơ ngũ ngôn trùng một âm.

9- Đối không chỉnh : Khi những từ trong bài thơ phải đối nhau mà từ nặng từ nhẹ không được cân.

10- Trùng từ hay trùng ý : Từ hay ý đã dùng rồi mà lại còn dùng nữa.

--------------------

Lê Việt

Share this post


Link to post
Share on other sites

BÀI VIẾT SƯU TẦM LIÊN QUAN.

Nguồn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thơ Đường luật

Posted Image

Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ cách luật xuất hiện từ đời Đường (Tang), Trung Quốc. Thơ Đường luật gọi là thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể, không theo cách luật ấy.

Vì giáo dục, thi cử... đều bằng tiếng Hán, nên từ lâu người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng Hán, trong đó có thơ theo luật Đường.

Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc Việt.

Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ 20. Kể từ phong trào Thơ Mới trở đi, người Việt rất ít làm thơ theo luật Đường.

Bố cục một bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật gồm 4 phần: Đề, thực, Luận, Kết. -"Đề" gồm 2 câu đầu,câu đầu goị là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đí vào phần sau. -"Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích ró ý đầu bài. -"Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, phát triển rộng ý của đầu bài. -"Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài.

Thơ Đường luật nghiêm khắc ở 3 chỗ: Luật, Niêm và Vần. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn, biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy tắc này.

Luật

Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.

LUẬT BẰNG TRẮC

Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật". Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát cú luật trắc.

Luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ vần bằng bằng chữ "B", vần trắc bằng chứ "T", những vần không có luật để trống, thì luật trong các chứ thứ 2-4-6-7 có thể viết là:

1. Luật vần bằng

  • Thất ngôn tứ tuyệt
Câu số .....................Vần ..................................Ví dụ: Mời trầu của Hồ Xuân Hương

1 ..........................B......T....B.. B.....................................Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

2..........................,T......B....T.. B.................................... Này của Xuân Hương mới quệt rồi

3.......................... T......B....T.. T.................................... phải duyên nhau thì thắm lại

4.......................... B......T....B.. B.................................... Đừng xanh như , bạc như vôi

Chữ thứ ............1. 2 3 4 5 6 7

  • Thất ngôn bát cú
Câu số................... Vần............... Ví dụ: Thương vợ của Trần Tế Xương

1.........................B......T...B..B..................Quanh năm buôn bánmom sông

2.........................T......B...T..B................. Nuôi đủ năm con với một chồng

3........................ T......B...T..T..................Lặn lội thân khi quãng vắng

4.........................B......T...B..B..................Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

5.........................B......T...B..T................. Một duyên hai nợ âu đành phận

6.........................T......B...T..B..................Năm nắng mười mưa dám quản công.

7.........................T..... B.. T..T.................Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!

8.........................B......T...B..B..................chồng hờ hững cũng như không!

Chữ thứ ..........1 2 3 4 5 67

2. Luật vần trắc

  • Thất ngôn tứ tuyệt
Câu số ....................Vần....................... Ví dụ: Phong Kiều dạ bạc (楓橋夜泊)của Trương Kế (张继 Zhang Jì)Phiên âm Hán-Việt

1.......................T.....B.....T..B...........................月落烏啼霜滿天... Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

2.......................B.....T.....B..B............................江楓魚火對愁眠...Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

3.......................B.....T.....B..T............................姑蘇城外寒山寺... thành ngoại Hàn San tự

4.......................T.....B.....T..B............................夜半鐘聲到客船...Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Chữ thứ.........1 2 3 4 5 6 7

Bản dịch tiếng Việt của Tản Đà (chuyển thể thành lục bát):

Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều

Trăng tà chiếc quạ kêu sương

Lửa chài cây bãi sầu vương giấc hồ

Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

  • Thất ngôn bát cú
Câu số .........................Vần ....................Ví dụ:....... Nhớ bạn phương trời của Trần Tế Xương

1 ............................T... B.... T. B .............................Ta nhớ người xa cách núi sông

2 ............................B... T.... B. B ..............................Người xa, xa lắm nhớ ta không

3 ............................B... T.... B. T ..............................Sao đương vui vẻ ra buồn bã!

4 ............................T... B.... T. B ..............................Vừa mới quen nhau đã lạ lùng

5 ............................T... B.... T. T ..............................Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng

6 ............................B....T.... B..B ..............................Khi riêng, riêng cả đến tình chung

7 ............................B... T.... B..T ..............................Tương lọ phảitrai gái,

8 ............................T... B.... T..B ..............................Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng

Chữ thứ .............1 2 3 4 5. 6 7

Luật đối

Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) nhưng bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Nếu một bài thơ Đường mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi "thất đối". Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà,

"Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình), song nếu nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về sinh động vật, còn một câu diễn tả về tĩnh vật, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý là cách dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và "lác đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối với "chợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động vật). Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ.

Niêm

Các câu trong một bài thơ Đường giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ xuất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".

Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:

  • câu 1 niêm với câu 8

    câu 2 niêm với câu 3

    câu 4 niêm với câu 5

    câu 6 niêm với câu 7.

    Chẳng hạn với luật vần bằng:

Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3:

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Vần

Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi "thất vận". Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ.

Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau.

Biến thể

Ngoài dạng thơ Đường chuẩn luật là "thất ngôn bát cú" còn có các biến thể sau:

Thất ngôn tứ tuyệt

Thực chất là một bài "thất ngôn bát cú" đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc này nó sẽ thành một bài thơ "bốn câu ba vần" mà Nguyễn Du đã nhắc trong truyện Kiều.

Ví dụ: bài thơ sau của Quách Tấn

Từ buổi thuyền đưa khách thuận dằm

Trông chừng bến cũ biệt mù tăm

Cảm thương chiếc lá bay theo gió

Riêng nhớ tình xưa ghé đến thăm

Ngũ ngôn tứ tuyệt

Thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.

Ví dụ: từ bài trên mà thành

Thuyền đưa khách thuận dằm

Bến cũ biệt mù tăm

Chiếc lá bay theo gió

Tình xưa ghé đến thăm

Ngũ ngôn bát cú

Cũng là từ bài thất ngôn bát cú bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại vẫn giữ nguyên.

Yết hậu

Yết Hậu (yết: nghỉ; hậu: sau) là lối thơ có ba câu trên đủ chữ, còn câu cuối cùng chỉ có một chữ.

Ví dụ: bài Lươn

Cứ nghĩ rằng mình ngắn,

Ai ngờ cũng dài đườn.

Thế mà còn chê trạch:

Lươn!

Vô Danh

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay