Posted 10 Tháng 9, 2013 TANG THƯƠNG NGẪU LỤC (Trời đất là khuôn biến hóa, mây huyền vi mở đóng khôn lường.......)Tang thương ngẫu lục (chữ Hán: 桑滄偶錄, nghĩa là "ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu") là tập ký bằng chữ Hán do đôi bạn thân là Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án cùng hợp soạn vào khoảng Lê mạt-Nguyễn sơ, tức khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 tại Việt Nam.Lịch sửBài Tựa in ở đầu tập Tang thương ngẫu lục cho biết bởi những cuộc tang thương, khiến người ta tất có cái cảm khái tang thương, ấy tập sách Tang thương này sỡ dĩ có là vì thế đó. Và theo Trúc Khê, cũng vì chép nhiều chuyện biến thiên của hồi ấy (cuối Lê), cho nên có cái tên sách là Tang thương ngẫu lục, nghĩa là những câu chuyện ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu.Ban đầu Tang thương ngẫu lục chỉ có bản viết tay trong một thời gian gần trăm năm. Đến năm Bính Thân (1896), niên hiệu Thành Thái thứ 8, Tiến sĩ Gia xuyên Đỗ Văn Tân đang là Tổng đốc Hải Dương quyên tiền khắc ván, từ đó mới có bản in.Năm 1943, nhà xuất bản Tân Dân cho in Tang thương ngẫu lục, bản tiếng Việt do nhà văn Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch.[sửa]Ý nghĩa và nội dungBàn về ý nghĩa tập ký, bài Tựa viết:Từ Lý, Trần, Lê, Trịnh đến nay, trên dưới mấy trăm năm có những điều quốc sử chưa ghi, dã sử chưa chép; hai ông đều thu cả vào trong cõi mắt tang thương. Nếu hai ông hết thẩy đều cho là việc tang thương mà quên đi, thì những chuyện ấy phỏng được mấy lâu mà mai một đi mất. May mà lấy ngòi bút tang thương biên chép, nên nó mới còn là cánh bè chở bến mê, ngọn đèn soi nhà tối; đặt tên là Tang thương ngẫu lục, ý nghĩa có thể nhận biết được vậy.Tang thương ngẫu lục là tập ký mang nặng tính chất truyền kỳ. Trừ một số ít truyện nói về các đời trước, còn đa phần đều viết về thời Lê mạt. Sách được chia làm 2 quyển: quyển Thượng có 40 bài, quyển Hạ có 49 bài (không kể bài Thơ đề sau của người khác). Có một số bài ghi mỗi tên tác giả. Căn cứ theo bản in năm 2000 do Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin in lại theo bản của nhà xuất bản Tân Dân (1943), thì:Ở quyển Thượng có 13 bài và ở quyển Hạ có 19 bài đề tên Kính Phủ, tức Nguyễn Án.Ở quyển Thượng có 10 bài và ở quyển Hạ có 23 bài đề tên Tùng Niên, tức Phạm Đình Hổ.Số bài còn lại không đề tên, nên không rõ của ai hay do hai ông cùng hợp soạn.Căn cứ nội dung từng truyện, Dương Quảng Hàm đã xếp chúng thành 5 mục sau:Tiểu truyển các danh nhân: Nguyễn Duy Thời, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, v.v…Thắng cảnh: Bài ký chơi núi Phật Tích (Chùa Thầy), núi Dục Thúy, v.v…Di tích: Bia núi Thành Nam, Tháp chùa Báo Thiên, Thành cũ Trào Khẩu, Miếu Thanh Cẩm, Cái miếu cổ ở cử Đông Hoa,v.v…Việc cuối đời Lê: Chuyện cũ trong phủ chúa, Thi Hội, v.v…Chuyện hay, chuyện lạ: Thần Tôn hoàng đế, Hiển Tôn hoàng đế, Chuyện Nguyễn Duy Thời, Hồ Gươm, Nguyễn Văn Giai, Người nông phu ở Như Kinh, Người nông phu ở An Mô, Ma Đồng Xuân, Ông Nguyễn Bá Dương, Thành Đạo Tử, Mẹ ranh càn sát, v.v....Nhận xétDương Quảng Hàm khen ngợi rằng:Tang thương ngẫu lục cùng với Vũ trung tùy bút đều là những tài liệu quí dùng để khảo cứu về lịch sử, địa lý, điển lễ, phong tục ở cuối đời Lê..Nguyễn Phương Chi nêu ý kiến:Một số lớn truyện ghi chép những giai thoại về các nhân vật lịch sử với ý thức đề cao những người đã góp công trạng trong việc gìn giữ, xây đắp và tô điểm cho nước non, xứ sở (như Nguyễn Đăng Cảo, Nguyễn Công Hãng, Đặng Trần Côn, Bà vợ thứ ông Nguyễn Kiều…). Một số truyện miêu tả một vài cảnh sinh hoạt xa hoa trong phủ chúa, cảnh những con quan ngang ngược lộng hành ngay chốn kinh thành; đối lập với đấy, là cảnh sống của các tầng lớp nhân dân đang bị bần cùng, bị đẩy ra chiến trường vì quyền lợi ích kỷ của tập đoàn thống trị (như: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, Quận mã Đặng Lân…). Một số truyện khác, với nghệ thuật điêu luyện, hai tác giả đã khắc họa những danh lam, thắng cảnh, những di tích…với nhiều phong vị và màu sắc (Chùa Phật Tích, Hồ Gươm…).Cuối cùng, là một truyện ma quỷ, một số sự tích hoang đường, kỳ lạ. Đây chính là nét đặc sắc làm nên giá trị của sách. Bởi ở chỗ màu sắc hoang đường được vận dụng như thủ pháp nghệ để ghi lại những hình ảnh của thời đại đầy biến động. (Ma Đồng Xuân, Nội đạo tràng, Mẹ ranh càn sát…).Với lối văn kể chuyện giản lược, ngắn và súc tích. "Tang thương ngẫu lục" tuy chưa thể xếp ngang hàng với "Vũ trung tùy bút", song nó cũng là một tập truyện ký có giá trị văn học và sử học đáng kể..Trích WIKIPEDIAhttp://vi.wikipedia....ABu_l%E1%BB%A5c Bài 1: VUA THẦN TÔNTriều Lê, Vua Kinh Tôn ( 1600-1619) tại vị đã lâu chưa có Hoàng Tử. Nhà Vua ngày đêm cầu khẩn trời đất cho chóng có con. Được ít lâu, Hoàng hậu họ Trịnh có mang, nhưng khi lên gường cữ, trở dạ mấy hôm mà chưa sinh được. Vua đương lo ngại, chợt mê ngủ, thấy có người đến tâu rằng “ Hoàng Tử hiện còn đang ở chợ Bảo Thiên (1), Hoàng Hậu đã sinh sao được”. Tỉnh dậy, Vua sai Nội Giám ( Trung Quí) ra chợ dò xemLúc đó, trời tờ mờ sang hãy còn lác đác sao thưa, trong quán chợ chưa có người, chỉ thấy dưới quay bán thịt có lão ăn mày, tóc bạc phơ phơ, tuổi chừng 81, 82 nằm trên mặt đất, rên rỉ chờ chết. Nội Giám về tâu, Vua lại cho ra hỏi thì lão ấy đã tắt thở vào lúc trời vừa sang tỏ. Cũng đúng, giữa lúc ấy, Hoàng Tử ra đời. Sau lớn lên nói ngôi làm vua Thần TônKhi Vua Thần Tôn tại vị, đặt ngày sinh nhật làm tiết Thọ Dương. Mỗi năm hữu-ti cho dựng Hành-tại, ở chợ Bảo Thiên, các quan Bộ Lễ sắm sửa xe ngựa, cờ kiệu rước Vua ra đấy, rồi lấy trúc uốn thành 2 cây : Thiên Tuế và Vạn Tuế, để nghênh giá hồi cung. Khi về đến nơi, các quan trong tòa Kinh- Diên (2) rước 2 cây đó đi qua chỗ Vua ngự 3 lần và hô chúc “ Hoàng Đế Vạn Tuế”. Lễ xong Vua lên ngự tại điện Vạn Thọ chịu lễ chào mừng rồi ban yến cho các quan tại trước sân rồng. Các đời Vua sau noi theo và gọi lễ ấy là lễ Khánh Thọ Bảo ThầnVua Thần Tôn có 4 con: Chân Tôn, Huyền Tôn, Gia Tôn và Hy Tôn đều nối ngôi Vua. Từ đời Trung-hưng vua Hiển Tôn đứng vào bực nhất về Phúc và ThọVào khoảng niên hiệu Vĩnh-Hựu (1735-1740) Vua Ý Tôn sai lấy gỗ tạc hình con Hạc và hình người lực sĩ Chiêm Thành bày ở chùa Thiên Phúc, trên núi Phật Tích để thờ tượng vua Lý Thần Tôn, vì tương truyền chính vua Thần Tôn nhà Lý đã thác sinh ra vua Thần Tôn nhà Lê vậyNhận xét về truyền thuyết luân hồi, than trước than sau (3) nêu ra do từ Đạo Phật, người Quân Tử ( Nhà Nho chân chánh) không nói đến hoặc ít nói đếnNhư chuyện Lý Thần Tôn, kiếp trước là vị Thiền Sư Từ Đạo Hạnh, kiếp sau là ông lão hành khất ở chợ Báo Thiên lại kiếp sau nữa là Vua Thần Tôn nhà Lê! Như thế thì một vị sư, một người ăn mày đã 2 kiếp tái sinh làm vua. Thật là khó hiểuChú thích: (1) Chợ Bảo Thiên: Khi trước ở về phía Tây-Nam Hồ Gươm Hà Nội(2) Kinh-Diên là nơi các quan chuyên việc giảng sách để nhà Vua nghe(3) Luân hồi, tiền than, hậu than là kiếp trước, kiếp sau theo thuyết Nhà Phật Bài 2-VUA HIỂN TÔNNăm Ất Tỵ, niê hiệu Cảnh Hưng ( 1785) là năm Vua Hiển Tôn thưởng thọ (70) bảy mươi tuổi. Đình thần hồi ấy có ông Bùi Huy Bích và ông Hồ Sĩ Đống giúp việc trong chính phủ, bàn dân tôn hiệu là:”Uyên Ý Khâm cung Nhân Từ Đức Thọ Hoàng Đế” và làm lễ vào ngày Thánh Thọ(1)Trong thời ấy, lễ Thiết Triều bỏ đã lâu, nên sân chầu cũ ở núi Nùng Sơn đã bỏ và đổi làm điện Kính Thiên để thờ trời đất và phụ phối đức Thái Tổ Hoàng Đế. Những ngày Sóc, Vọng ( mùng 1 và rằm) thì thiết triều tại điện Cần Chánh. Trong điện này 2 nhà tả hữu đãi lậu (2) ở sau, đổ nát, sân thềm cỏ mọc um tùm, cao ngập đầu gối, phân ngựa bừa bãi. Nay sắp có việc, các quan Đề Đốc, Lĩnh Binh phải đốc xuất vệ sĩ quét tước sân Đan Trì và sửa sang viện Đãi lậu cho tề chỉnhTrước khi hành lễ một ngày, quan Doãn Phủ Phụng Thiên là Hoàng Vĩnh Chán đốc xuất các thuộc viên áo mũ chỉnh tề, ban đêm ở trong Tư Lễ giám trông coi sửa soạn các bài biểuĐến ngày lễ, Vua lên tọa ngự, 2 bên có 2 ban văn võ đứng xếp theo hành. Con thứ 4 của nhà Vua làm chức Đại Tư Đồ Sùng Nhượng Công đứng đầu ban võ, thứ nhì là Ông Hồ Sĩ Đống. Vị Quốc Lão Quận Công Nguễn Hãng đứng đầu bên Văn, thứ nhì là Ông Bùi Huy Bích. Còn toàn thể các quan huộc hàm Hồng Lô Tự thì đứng xếp hang theo thứ tự ở cửa phía trong và phía ngoài để giúp việc lễ. Ông Phan Huy ích quì ở giữa hữu ngự điện, tuyên đọc bài biểu, tiếng vang ra tận ngoài cửa Đoan MônKhi làm lễ xong, viên Thái Giám mặc áo bào hồng, thắt đai văn tế, từ phía sau hữu ngự bước xuống tuyên chỉ ban yến ở hai bên nhà Đãi LậuBao nhiêu phụ lão đứng xem đều nói: “Từ niên hiệu Chính Hòa (1680-1705) đến nay đã 80 năm, chưa được xem một buổi nghi lễ long trọng thế này"....Chú thích:(1) Thánh Thọ : Ngày sinh nhật của Nhà Vua(2) Đãi Lậu tức là hai ngôi nhà tả hữu ở trước điện nhà Vua Bài 3. CHUYỆN CŨ TRONG VƯƠNG PHỦSauk hi vua nhà Lê đổi ngôi, có một người đến làm thuê cho tôi ( Người này nguyên là một nội thị của thời Chúa Tĩnh Vương trước), biết những việc cũ trong Vương phủ rất rõ ràng, y thuật lại với tơi rằng:-“ Mỗi năm, trước tết trung thu độ vài tháng. Chúa truyền lấy gấm ở trong kho ra, giao cho các cung nữ làm lồng đèn, hang trăm nghìn chiếc rất tinh xảo, mỗi chiếc có thể đáng giá vài chục lạng bạcĐúng hôm rằm, Chúa ngự ra chơi Bắc cung. Cung này có cái ao gọi là Long-Trì rộng độ nửa dặm, trồng nhiều hoa sen hoa súng… Bên bờ ao đắp đất, chồng đá làm núi, chỗ cao chỗ thấp, đèn đặt mặt trước mặt sau trông đường nào cũng có thế đẹp. Bên phải để riêng một chỗ ngồi dành cho các việc đàn hát. Trên bờ ao có trồng mấy trăm gốc Phù dung, treo đèn ở trên, ánh sáng soi xuống nước lấp lánh như muôn vàn ngôi saoCác quan Nội Thị từ tam phẩm trở lên, chít khăn, mặc áo đàn bà ngồi bán hàng ở bên lề đường, đủ thứ hàng hóa Nam-Bắc cho đến cả hoa, quả, rượu chè cùng các món thực phẩm không thiếu thứ gì chồng chất cao như núiCác cung nữ đi lại mua bán, tha hồ tự do, vừa mua vừa tranh cướp bất cứ giá cả bao nhiêu. Lại bắt chước những tiếng thường dùng ở nơi chợ búa thôn quê, để thách thức trêu cợt nhau, tiếng nô đùa vang suốt cả ngàyĐến nửa đêm, Chúa ngự kiệu xuống thuyền rồng, các quan hầu và các phi tần đều gõ ván thuyền, hát khúc đò đưa, thuyền chợt bơi qua bơi lại, trôi theo làn sóng, bỗng nhiên tiếng đàn, tiếng sáo, lời ca bỗng hòa nhau thanh âm lanh lảnh tựa như khúc nhạc trời trên cung QuảngChúa ngắm cảnh, long vui vẻ, mãi khi có tiếng gà gáy mới trở về cung" Bài 4. ÔNG NGUYỄN DUY THỜIQuan thượng thư Nguyễn Duy Thời là một vị văn tướng nổi danh đời Trung Hưng. Tính ngay thẳng nên khuyên can chúa Trịnh điều gì chúa đều ngheTrong Vương phủ có 1 cỗ xe làm rất hoa mĩ. Một hôm ông đứng cạnh, bỗng trúng phong cấm khẩu ngã lăn vào xe. Chúa cho vực lên xe đưa về nhà, hôm sau ông vào chầu thưa rằng: “ Hôm qua tôi bị trúng cơn gió độc, nhờ ơn Chúa thượng tha lỗi cho. Nhưng xe này đã bị người ốm nằm vào, không đáng để Chúa thượng dùng nữa, nên tôi xin lựa những bảo vật trong xe đem nộp lại”. Chúa biết ông định can ngăn mình không xa sỉ nên không trách móc gìMột hôm ông xin cáo về ở Yên Lãng, khi ấy Chúa có 1 nàng Quí phi người làng Mông phụ, nàng Quí phi này được chúa rất sủng ái nên hay cậy thế cậy thần, ông thường nói xa xôi để khuyên canKhi ấy, Chúa nhận thấy ông cáo về làng vắng, Chúa liền đi thuyền rồng lên kinh lý tỉnh Sơn Tây để tiện đường vào chơi nhà bà PhiKhi thuyền Chúa đi qua Yên Lãng, ông ra bờ sống đón mà thưa rằng:“ Phía tây không có giặc dã, chỉ vì một người đàn bà mà Chúa thượng phải đem quân lính lên tuần tiễu tận đây, thì việc nước còn ra thể thống gì nữa”Nói xong, ông liền ra lịnh cho vệ sĩ không được chở thuyền đi nữa, Ai không theo sẽ bị xử tội theo quân pháp. Vì thế Chúa phải hồi loanTrong phủ ông ở, có một nhà riêng gọi là Tư Chính Đường. Mỗi khi ở trong triều về, ông nghỉ ở đó. Trong nhà chỉ có 2 thằng nhỏ, ngày đêm chực hầu mà thôi. Người ngoài tuyệt nhiên không ai dám đến cầu khẩn việc gì, ngay vợ con cũng không được đếnMột hôm, có người mắc tội đáng chết, đã đi kêu van khắp nơi quyền quí không ai giúp được, ai ai cũng không cứu nổi. Vợ người bị tội liền tìm gặp 2 người hầu, khóc lóc nhờ nói xin lễ ông hai ngàn vàng. Hai người hầu từ chối xua tay bảo rằng: “ Tướng công tôi không phải là người mà vàng bạc làm chuyển long được. Nhưng tôi thấy chị lo lắng cũng thương hại không nỡ làm thinh. Vậy để tôi ướm xem”Nói xong bưng vàng vào nhà, bày ngay ở chỗ giường ông nằm. Đềm khuya ông ở trong triều về, lên giường nằm đụng phải vàng rơi loảng xoảng, ông ngạc nhiên hỏi:“ Làm sao có của này”. Người hầu quì lạu xin tha tội và kể đầu đuôi. Ông ngồi im một lúc rồi bảo:- Thôi, cho dứng dậy, ta không bắt tội mày. Án tử hình là việc lớn, nay vì mối lợi hai ngàn vàng, mà mày còn trẻ đã dám đương lấy cái chết, nhưng hoặc giả là ý trời chăng! Thế mụ ấy cho mày bao nhiêu?- Bẩm, sáu trăm lạng- Thôi, số bạc ấy cho mày, còn ta không nhận tí gì đâu, hãy đem trả ngay lại cho người ta”Nói xong, lập tức ông bảo đánh xe vào cung, gõ cửa xin hầu, Chúa giật mình trở dậy, mời vào hỏi có viêc gì mà khẩn cấp. Ông thưa:“ Lúc ban ngày tôi xét một việc án can hệ, kẻ phạm tội phải xử tử. Đem đến có người nói là nó bị oan không kêu vào đâu được. Vậy xin Chúa thượng xét lại”Chúa thượng cười mà bảo rằng: “ Tiên sinh khó nhọc quá, sao không để đến mai?”Ông thưa: “ Thần sợ để chậm một chút, lỡ có vẻ nghiêng thêm về ý riêng”Chúa ân cần khuyên nhủ, sau người tù ấy thoát khỏi tội chềtBài 5. HỐ HOÀN KIẾM Mùa hạ năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng ( 1786) đương nửa đêm, giữa hồ Hoàn Kiếm, bỗng có những vật đỏ ối hiện ra trên đảo, tia sang nhoáng tỏ ra bốn phía, bay về bờ phía nam rồi biến mấtSau đó sóng gió ầm ầm nổi lên. Sáng hôm sau thấy xác tôm cá nổi trên mặt nước không biết bao nhiêu mà tả. Có người nói, ở trên nóc nhà Trung Hòa Đường trong phủ Chúa cũng hiện ra những vật tương tự, ánh sang tỏa ra bốn phía rồi tự nhiên tắt ngấmSau đó ít lâu, nhà Lê mất nước Bài6. ÔNG NGUYỄN VĂN GIAIÔng Nguyễn Văn Giai người làng Thiên Lộc ( Hà Tĩnh), khi giữ chức Chưởng Quản Lục Bộ ( Chức Thủ Tướng), các bậc thân quí của Chúa đều kiêng nể không dám làm chuyện phạm phápMột hôm, viên Quận Mã ( con rể Chúa) đi đánh giặc thua bỏ chạy, ông cho bắt bỏ vào ngục rồi khép vào tử tội. Chúa muốn tha nhưng không biết nói cách nào, nhân đem những chỉ dụ ra để cãi lý, song rốt cuộc không cãi nổi ôngÔng có nhiều vợ, vợ nhỏ 5,6 bà, bà thứ ba được ông yêu nhất. Quận chúa liền đem những đồ báu ngọc, nhờ người vú đưa vào xin yết kiến bà, và đem việc Mã Quận ra nóiBà Ba từ chối mà rằng, “Tướng Công là người thanh liêm, vả lại việc đó là việc can hệ trọng trong Triều, tôi đâu dám can dự vào”Quận chúa cố nài nỉ, bà Ba chầm chậm nói: “ Thế thì sang mai, bà sửa xôi nếp cái, lợn nhỏ luộc chin, để sẵn cả các thứ gia vị cùng dao vào mâm chờ lúc Tướng Công đi vắng mang cả mâm vào đây mà biếu”. Quận chúa mừng rỡ cảm ơn ra vềSáng hôm sau, khi sắp sửa vào Triều, ông bảo dọn cơm sang, bà Ba thưa: “ Trong Triều đã đầy đủ các quan, hay để lúc về hãy dùng cơm vậy”Ông nghe lời ra xe đi, khi tan Triều về đến nhà nhân đương đói, thấy mâm đồ ăn, mở ra lại thấy sẵn dao liền thái thịt lấy xôi ăn. Ăn xong, ông hỏi sao có thức ăn đó. Bà Ba mới thú thật, ông giận lắm, phàn nàn một lúc lâu rồi nói: “ Lỗi tại ta, Lỗi tại ta. Chỉ vì một bữa ăn no mà tha chết cho một mạng người, hay là ý trời đã định thế chăng”Vội đánh xe vào trong hầu Chúa để xin tha tội cho Quận Mã, Chúa mừng lắm y ngay.Lại một hôm vào Triều, đi qua chợ Cửa Đông thấy có người bán một con cá thời ngư, bề ngang bảy thước. Ông đứng lại xem và khen ngợi. Khi ông ở trong Triều về đã thấy người đem cá đến dâng biếu đứng đầy cổng mà toàn là những khúc cá Thời Ngư (1). Ông đùa bảo đem ráp tất cả những miếng cá lại xem, thì thấy đủ hình con cá duy thiếu mất khúc đuôi. Hỏi các hang cá mới biết bếp nhà Chúa mua để tiến rồi. Ông than rằng: “ Con cháu ta chắc không được hưởng lộc nữa” ( Vì cá mất đuôi, tức là không có hậu) Sau quả đúng như lời ông nóiNgười cùng huyện với ông được cử lên là ông Dương Chí Trạch, con rể của ông làm Á Tường, ông lo rằng sẽ chuyên quyềnNhân một hôm ăn tiệc, lại có lũ phường chèo dóng mũ áo ra múa hát, Dương Công đã nói kháy rằng: “ Nhà ngươi có tài năng gì làm lắm trò như vậy” Ống lặng làm thinh không chấpVề sau có vị Quốc Lão là Phạm Trứ cầm quyền chính. Một viên Tù trưởng phạm tội đáng chết, người vợ liền đút lót với người đầu bếp của ông, nhờ mang chim sẻ vào dâng nói: “ Cụ lớn ưa thích món này”. Người đầu bếp nướng món chả chim để ông xơi. Khi ăn xong ông hỏi, người đầu bếp mang vàng ra lạy xin tha tội. Ông liền móc cổ nôn ra hết và bảo:-“ Thôi, mày đem vàng ra ngay đi, ta không trách phạt gì” Đến khi người tù sắp bị xử tử, ông vào xin hầu Chúa xin tha tội chết cho hắn. Chúa nghe theoHai việc nói trên kể cũng giống nhau. Hai ông đều là văn Tướng, nổi danh thời Trung Hưng, mà một ông ăn lễ thịt lợn luộc, một ông ăn chả chim sẻ mà nên chuyện. Vậy thì, há chẳng nên cẩn trọng sự ham thích đấy ru?Chú thích:Thời ngư là cá nước ngọt, hình đẹp mà dài, sắc trắng tinh, thịt thơm ngon Bài7: NGƯỜI NÔNG PHU LÀNG NHƯ KINHNăm kỷ dậu, trước (1789) loạn lạc vừa yên thì chứng dịch tả lại phát dữ dội. Ban ngày thường trông thấy ma. Đâu đâu cũng nghe thấy tiếng rên rỉ, khóc than. Bạn tôi là ông Ninh Quí Hoằng, quê ở Côi Trì kể chuyện với tôi rằng:-“ Làng Như Kinh có người nông phu ra đồng kiếm củi, gặp một toán quân rất đông kéo đến, vội vàng bỏ gánh củi đứng nép vào cạnh đường, liếc trông thấy 1 người lính cầm kiếm đi trước, đầu đội khắn đỏ ( hồ đó thường gọi là khăn mào gà). Nhìn kỹ thì là người bạn cũ của mình. Người lính trông thấy bác nông phu, mừng lắm chạy lại chào hỏi và vội tháo chiếc khăn đỏ quàng cho, rồi dắt vào quán mời uống rượu. Trong quán rượu thịt rất nhiều tùy ý lấy ăn, người chủ quán không hỏi gì cả.Lúc đó trời làm đói kém, bác nông phu đang không có ăn, nay được bạn mời liền ăn uống môt bữa no say. Khi ăn xong thấy xe ngựa kéo đến ầm ầm, cậu lính vội giật lấy chiếc khắn đỏ đi ra, bác nông phu ngồi trơ nhân mộc ở giữa quán. Mọi ngườ nhìn thấy ngờ là Thần Ôn Dịch bắt giữ lại. Bác nông phu cứ thực tình kể lại câu chuyện và dẫn củ quán ra xem chỗ đặt gán củi ở bên đường để tỏ rõ sự thực. Quả nhiên chủ quán thấy gánh củi còn nguyên mới tha cho về” Bài8. NGƯỜI NÔNG PHU ẤP YÊN MÔÔng Ninh lai kể tiếp chuyện sau:- "Cũng nắm ấy, tại ấp Yên Mô ( một ấp nhỏ trong vùng) có một nông phu nghèo phải đi ăn mày ở bãi tha ma. Tối đến, cùng một bạn hành khất khác phải nằm ngủ trong một cái quan tài bỏ không bên cạnh bên đường cái. Đêm càng khuya bụng càng đói trằn trọc mãi không ngủ được. Trông ra chỉ thấy ánh trăng mập mờ trên đường, bỗng thấy xe ngựa kéo qua, đông như đàn cá nối đuôi, hai người nhìn nhau sợ quá chui xuống gầm sàn, đu mình lên sàn nín hơi không dám thở. Một lúc nữa thấy trống chiêng cờ quạt, rước một chiếc kiệu bát cống, đặt ở trước quán, rồi chiêng trống tạm yên, quân lính dừng lại- Trên kiệu có tiếng truyền gọi Xã lệnh ra hỏi, quân lính dạ rân như sấm. Một lúc lâu, thấy một người đội mũ phốc đầu, áo thụng ( kiểu mão tế thần) quì ở trước kiệu mà trình to rằng:- Thưa , tôi, Xã lệnh, xin yết kiếnBác nông phu ở gầm sân đưa mắt nhìn ra, nhận thấy người quì ấy giống hệt pho tượng Thành Hoàng vẫn thờ ở đình làng. Trên kiệu có tiếng hỏi: “Sổ lính làm xong chưa” Xã lệnh cuối đầu đáp: “ Ấp tôi vừa nhỏ lại vừa nghèo, lại mới gặp loạn lạc, dân cư bỏ chạy, chưa thấy mấy người trở về nên chưa bắt lính được”Trên kiệu lại có tiếng quát to: “Ta phụng mệnh đi điểm binh, có lệnh xuống đã lâu, nhà ngươi còn lựa lời quanh co nói khéo thực đánh trị tội theo quân pháp”Tức thì có mấy ông mặc Triều phục quì xuống xin hộ rằng:“ Vị thần này vốn tính tình mình mẫn, trung trực đã được Thượng Đế để ý lựa chọn, hãy nên rộng tha cho”Rồi lấy khuỷu tay huých vào viên Xã lệnh bảo phải dâng ngay sổ lính. Bất đắc dĩ Xã lệnh phải kể 2 người trong ấp. Một là bác nông phu đang ở dưới gầm sàn, còn một người nữa cũng là hạng nghèo đói ở trong làng không nơi nương tựaSổ dâng lên, vị ngồi kiệu sai các viên chức kiểm nhận rồi nổi trống kéo đi. Lúc đó gà đã gáy sangBác Nông phu sợ toát mồ hôi, cùng người bạn lúm khúm ở gầm sàn bò ra, nhưng cũng vui long vì đã nghe tin sắp thoát được bể khổ, liền đi đến những nhà trong ấp cầu xin một bữa ăn no say rồi chết. Người trong ấp cũng sẵn long cho. Quả nhiên cách mấy hôm, bác ta ốm chết và người cùng có tên trong sổ bắt lính hôm ấy cũng chết" Bài 9. CON MA ĐỒNG XUÂN Ông Trần Văn Vĩ người làng Từ Ô, khi ra Kinh Đô thi Hội, đến trọ tại một ngôi nhà cũ của quan Nội thị Thuyên quận ở phường Đồng Xuân ( ngoi nhà này trước kia ông ngoại tôi là cụ Thiêm Hiến hiệu Thanh Khê cũng đã ở) Trên gác nhà này có nhiều ma quái. Có khi thấy một vật đỏ ối to bằng cái đầu, sánh lòe ra tứ phía, vụt cái lại tắt, có khi nghe rõ tiếng kêu ở trên xà nhà, soi đèn xem thì không thấy gìÔng Vĩ không tin bảo kê giường lên gác nằm, và nói : “ Nếu có ma ta sẽ chống chọi lại với nó”Ngày đêm ông đọc sách mải miết không có lúc nghỉ, mỏi mệt vừa chợp mắt thấy có cô gái xinh đẹp đến gõ đầu giường ông nằm mà bảo rằng:“ Nay nhà Lê sụp đổ tới nơi rồi, mà bộ ông cũng chẳng đỗ đạt gì đâu, đừng gân cổ đọc sách dọa nạt tôi làm gì” Nói xong ngâm 1 câu thơ rằng:Sa trường ẩn ẩn kiến chi thônNghĩa là: Ngoài chốn sa trường, thấp thoáng thấy xóm thuyền chàiÔng tỉnh dậy còn nhớ rành rành, và sợ quá vội dời nhà đi chỗ khác. Khoa ấy quả nhiên ông thi trượt và chẳng bao lâu nhà Lê mất nướchttp://hocthuatphuon...pic=4275.5;wap2 Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 9, 2013 Bài 10. Ông NGUYỄN CÔNG HÃNGQuan thượng thư Nguyễn Công Hãng là một văn tướng nổi danh đời Chúa An Vương ( tức Trịnh Cương), đỗ Tiến Sĩ năm 21 tuổi, làm đến Đốc Trấn An Bang ( nay là tỉnh Quảng Yên). Trấn này lưng dựa vào núi, mặt trông ra bể. Vua Hồng Thuận khi trước đã có câu thơ khắc vào đá như sau:Cự tẩm uông đương triều bách xuyênDịch: Trăm ngọn sống châu về bể rộng mênh môngÔng chép đưa các bạn đồng niên xem, nhưng lầm chữ CỰ ( lớn) ra chữ TÁP ( vòng quanh) nên bị chế giễu.Ông từ quan lui về khảo cứu, học lại các điển cố, luật lệnh sổ sách của Triều đình. Vài năm học xong, hiểu biết rộng hơn lại ra làm quan. Phàm gặp việc gì ngang trái ở trong Triều ông đều can ngăn, lời nói tha thiết, thẳng thắn khiến chúa giận nhưng cũng phải nguôi như cơn mưa tạnhTrong một bài Khải, tạ từ khi đi sứ, ông đã có câu:“Xoa dịu vẩy rồng, làm tan được mấy cơn sấm sét”Ấy là việc có thựcNăm thứ 57 đời Nhà Thanh, niên hiệu Khang Hy, ông làm Binh Bộ Tả thị Lang gặp ký tuế cống, được sang làm chức Chánh Sứ. Khi xưa Đức Thái Tổ Hoàng Đế giao chiến với quân nhà Minh ở núi Mã Yên(1) có chém chết viên tướng nhà Minh là An Viên Hầu Liễu Thăng, người nhà Minh buộc phải bồi thường nộp cống bằng vàng để đền mạngKhi nhà Mạc cướp ngôi, nhà Minh sai Cửu Loan và Mao Bá Ôn sang đánh. Mạc sợ lại xin dâng cống người bằng vàng để cầu hòa. Đầu năm Trung Hưng, nhà Minh lại viện cớ đã giết công thần của họ là Mạc Mậu Hiệp, bắt ta phải đúc người bằng vàng dâng cống để tạ lỗi rồi dần dần thành lệ. Nay ông xin bãi bỏ lệ cống hiến đóSau các Bộ, Viện bên Trung Quốc lại đem các việc cống đó ra hỏi, ông nói:-“ Quốc Vương tôi ngày nay theo giữ nghiệp cũ, vẫn không trễ nãi việc chức cống, còn các việc thâu thành nạp khoản thì kẻ sứ thần này không dám biết đến”Sau họ lại hạch đến chuyện Liễu Thăng bị giết, ông nói:-“ Liễu Thăng là một viên tướng nhà Minh, nay Hoàng Triều nhà Thanh bao gồm có hàng muôn nước, can chi phải nhắc đến chuyện cũ, yêu sách mọi điều, để trả thù một người. Sao đủ để khuyên răn người theo qui thuận.”Lại còn bắt cống hũ nước rửa ngọc trai lấy ở giếng Loa Thành ( theo sự tích Trọng Thủy-Mỵ Châu) ông cũng bỏ đi, mà lấy nước giếng ở Ba Sơn đem cống, họ thử không thấy hiệu nghiệm liền trách, ông nói:-“Đó là vì khí mạch của Trời-Đất, lâu ngày ắt phải đổi”Từ đó, hai thứ cống hiến ở trên được miển là bắt đầu từ ông vậyKhi đi Sứ về, ông cùng ông Thanh Mai, Lê Anh Tuấn cùng làm Tể Tướng khảng khái coi việc thiên hạ như việc mình, nghiên cứu kỹ lưỡng trong mọi phát minh sáng tạo, bao nhiêu qui mô trong chốn Đài Các ( trỏ các cơ quan tổ chức hành chính) kể có hơn trăm nay đều do ông sửa địnhXét ra từ thời Trung Hưng, những thể thức về mũ áo các quan chửa được chánh đáng, ông liền nhân khi đi sứ, tìm hiểu về các phẩm phục của nhà Minh để về sửa đối cho phù hợp. Phàm các mũ-áo đại triều như mũ phốc đầu, áo bổ phục (2), nền đỏ là trên hết, thứ đến xanh huyền. Những y phục ngày thường: Quan văn chít khăn lương câu, quan võ chít khăn yến vĩ, áo thanh cát ( hai vạt trước vén lên buộc vào sau lưng), các quan dưới chít khăn chữ đinh, quân phục thì nón chớp kiểu thầy chùa, áo chẽn tay. Những lối y phục đó nay hãy còn dùngÔng lại hay khích lệ tiết tháo của các sĩ phu, những học sinh trường Giám được phép ngồi ngang hàng nói chuyện với các quan. Ông muốn bắt chước lối Chế Nghệ của Bắc Triều, thay đổi các thể văn để luyện thi học trò nhưng việc chưa thànhThấy kinh phí nhà nước không đủ, ông đề nghị giảm bớt số ruộng quân cấp cho các Công Thần, việc này ông bị số đông Công thần oán tráchKhi đó, Chúa Trịnh lại muốn mở Phủ như đầu đời Trung Hưng ( việc cũ của ông Nguyễn Duy Thời) nhưng ông can đi, mới thôiTrong hồi ấy, Uy Vương ( tức Trịnh Giang) làm Thế Tử, An Vương cử ông làm chức Thái Phó ( thầy dạy) ông liền làm tờ Khải (3) mật tâu Chúa rằng: “ Thế Tử là người nhu nhược, không kham nỗi việc lớn”An Vương ( tức Trịnh Cương) nói:-“ Không phải ta không biết như thế, nhưng từ ngày Thế Tử được tạm cầm quyền bính, chưa hề phạm lỗi lầm lốn, nên ta không nỡ”Ông cúi đầu tâu:-“ Biết con không ai bằng cha, kính xin Chúa Thượng vì xã tắc mà lo tính”Chúa Trịnh liền cất tở Khải của ông vào hộp. Một hôm nhân kỳ đại lễ, Thế Tử là lể sai lầm, Chúa giận, cho vời các quan họp bàn, định truất ngôi Thế Tử. Việc chưa thành thì Chúa mất ở dọc đường trong khi sang chơi Cổ Bi. Lúc đó ông ở Kỳ Viên, phi giấu không phát tang. Khi về Kinh, mới báo tin dữ, ông liền họp các quan ở Đô Đường mà rằng:-“ Thế Tử có lỗi lớn, Tiên Vương đã có nói. Nay xin lập con lớn lên nối ngôi, các quan còn đang ngồi yên chưa tỏ ý kiến thì ông Nguyễn Hiệu, hiệu Lan Khê, thầy học của Thế Tử chống lại mà rằng:-“ Thế Tử có lỗi gì đâu. Tiên Vương nói đó là để cho Thế Tử gắn sức tốt hơn chớ nên khinh thị bàn đến việc đó”Thế tử lên nối ngôi, bắt được tờ Khải của ông, bãi chức và bắt ông đem ông đi an trí tại vùng Tuyên Quang, rồi lại sai Trung sứ đánh thuốc độc cho chếtHồi trước, Trịnh An Vương thấy kiểu đất nhà mình có câu “ Truyền ngôi được tám đời, thì sẽ thấy đại họa ( tai vạ lớn) nổi từ vách ra” nên mới bày ra cuộc xây dựng ở Cổ Bi để yểm trừ tai vạ. An Vương thường bảo ông rằng:-“ Cửu Long có kiểu đất quí, Tiên sinh nên đem phần mộ tổ tiên đến mà táng, đừng để người khác chiếm mất”Vì thế ông bị nhiều người ghen ghét gièm phaKhi ông đi sứ Tàu, qua thành Ứng Sơn có làm bài thơ viếng Trung Liệt Công (4) là Dương Thúy Am, trong có 2 câu rằng:Ám chúa hưu luân sùng ái thụHoàng thiên hà nhẫn độc trung thầnXin dịch nghĩa như sau”Viên Quan thị ( ái nam ái nữ) mà được Ám chúa thương yêu thì có đáng kể gì, chỉ trách: Hoàng Thiên sao nỡ hại kẻ trung thầnCâu đó thật là ứng nghiệm vào cuộc đời của ông(nguyên trong bài sấm có ghi:Ông tổ 5 đời của Trung Liệt Công là người nước ta, theo quân Minh sang Tàu nối đời ở thành Ứng Sơn, thuộc tỉnh Hồ Bắc. Trung Liệt Công, tên là Liên đỗ tiến sĩ triều Minh, làm quan đến Tả Đô Ngự Sử rồi vì hặc Ngụy Trung Hiền mà bị hại. Sau được truy lập bàn thờ ở nguyên quán, đến nay hãy còn. Khi ông đi sứ, con cháu có đem những đạo sớ cũ còn sót lại cho ông xem)Đời còn truyền tụng rằng: Lúc sinh thơi có một thầy xem bói triết tự vào thăm, ông viết mấy chữ sau nhờ đoán:Thập nhị nguyệt hoa tàn(Tháng mười hai, hoa rụng)Ông thầy bói xem triết tự khuyên ông nên xử sự theo lối ( cấp lưu dũng thoái), ông im lặng chẳng nói gì, Chẳng được bao lâu thì xảy ra tai vạÔng thầy này không ai rõ họ tên, chỉ thường hay đi lại các nơi tư thất của những bậc công khanh, quyết đoán nhiều câu rất ứng nghiệmĐến cuối đời Long Đức ( Lê Thánh Tôn) Vua Hiến Tôn là con nối nhưng không được lập làm Vua, đến ẩn trốn trên gác chuông chùa Phật Tích, cũng gặp ông thầy Triết tự này, nhờ xem hộ và viết một chữ Cảnh, ông thầy phục xuống lạy mà nói:“ Mặt trời rọi xuống kinh đố(6) là biểu hiện của bậc Thiên Tử rồi”Quả nhiên, sau vua Ý Tôn nhường ngôi, Hiến Tôn được lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Cảnh HưngMột thuyết nói: Khi ông làm Tể Tướng, có một ông quan trong Triều bị bệnh gần chết? Người nhà đến cầu đảo tại đền Tản Viên, rồi lại nằm mơ thấy có Thần bảo:“Việc sinh tử do Tòa nam Đẩu trông coi, không phải phần việc của ta”Người nhà cố cầu xin, Thần lại bảo”“ Tướng công Nguyễn Hãng là bậc dị nhân, sao không đến kêu với ông”Tỉnh dậy người nhà đến yết kiến ông, kể lại câu chuyện, ông liền bảo cho sống thêm 1 kỷ nữa(7). Sau quả như lờiChú thích:(1) Mã yên nay là tỉnh Lạng Sơn- Bắc phần(2) Phốc đầu, là mũ có cánh chuồn, Bổ phục là áo có miếng thêu ở đằng trước và đằng sau, để nhận định các cấp bậc của quan văn, quan võ(3) Tờ Khải là tờ sớ của các quan dâng lên Chúa Trịnh(4) Trung Liệt Công ( xin xem lời ghi trong bài sấm ở trên)(5) Cấp lư dưỡng thoái là dòng nước đương chảy xiết thì phải cấp bách ngừng lại, ý nói thôi làm quan nên cáo về(6) Chữ Cảnh, trên có Nhật là mặt trời, dưới có chữ Kinh là Kinh đô. Cả chữ trên dưới có nghĩa là mặt trời trên Kinh đô, nên ông thầy đoán là mặt trời rọi xuống Kinh đô, là điềm tốt, là lên ngôi Vua(7) Kỷ: 12 năm Bài 11. Ông NGUYỄN BÁ DƯƠNGÔng Nguyễn Bá Dương, người làng Nguyễn Xá, huyện Thần Khê, tính không tự giữ kềm chế, hay uống rượu. Nhà nghèo nhưng ông vẫn coi như không. Hồi ông lên học ở Kinh đô, ngoài tấm áo che than, không còn một vật gì đáng giá. Thường uống rượu chịu của một người đàn bà ở làng Kẻ Mơ ( tức là làng Hoàng Mai ngày nay gần Hà Nội). Ông nợ tiền rượu đến 900 đồng, bị người đàn bà đón đường đòi nợ. Có cô con gái người làng Kẻ Mơ cùng đi với người đàn bà đó, thấy thế vội vã đặt gánh xuống, can người đàn bà không được, liền lấy tiền lưng ra trả hộ, rồi vội quẩy gánh đi. Ông chạy theo tạ ơn, rồi hỏi họ tên, cô xua tay nói:-“ Tôi thấy cậu là người học trò vì rượu chè mà bị xấu hổ với một người đàn bà, nên không đành lòng mà trả hộ, chứ không mong sự đền báo”Nói rồi đi thẳng không ngoảnh lại. Ông trở lại hỏi người đàn bà đòi nợ để rồi ghi vào lòng. Sau lên học ở Sơn Tây, trọ nhà người hào trưởng. Thường ngâm nga rồi làm văn, nhiều khi không sẵn giấy, viết lên cả mặt án thư, son mực lẫn lộn, màu gỗ đen nhèmĐến kỳ thi Hương, ông từ biệt nhà trọ về quê đi thi. Qua các kỳ thi hạch ở Huyện và ở Trấn, ông đã nức tiếng là người hay chữ. Khoa ấy ông thi đỗ Hương tiến, năm sau lại đỗ Tiến Sĩ, cùng khoa với ông Ngô Thời Sĩ. Các bạn thi đậu, ai nấy đã xe ngựa, tôi đòi rộn rịp nhưng ông vẫn nằm khoèo ở nhà trọ. Có bà phu nhân người cùng một quận với ông ( làm bảo mẫu cho Quận Chúa) nghe tin ông đỗ, sai người đem kiệu đến đón, hứa gả con gái cho, bà đưa mấy chục con cháu, đứa nào cũng tha thước gấm là cho tùy ông kén chọn. Nhưng ông chỉ một mực đòi lấy cô gái Làng Mơ , Quận phu nhấn nói: “ Cũng được”Bèn sai đem xe ngựa, vàng lụa đi đó cô gái Làng Mơ về làm vợ chính, còn người cháu gái Quận phu nhân làm vợ thứ. Người ở Kinh đô đều nức nở khenLàm quan tại triều, ông được tiếng là thẳng tính. Khi giữ việc hình án ở Ải Châu ( Thanh Hóa) có viên Án trấn Mỗ cậy thế chính cung Đặng Phi làm càn. Ông bắt trói, bắt phải bồi hoàn, nếu không sẽ đánh trượng cho chết. Mỗ phải nộp số tiền đã ăn đút lót là 400 lạng vàng. Ông bỏ Mỗ vào ngục rồi cho xe về Kinh, đem vàng lễ ấy dâng nộp. Tờ khai trình đến Chúa Trịnh, Đặng Phi nghe tin việc Mỗ bị nhục, khóc kêu với Chúa, Chúa cười mà rằng:-“Số vàng hiện đủ đây, còn kêu oan gì nữa”Phi hổ thẹn không dám nói và lui. Mỗ đành phải chịu tội. Người châu Ái đến nay hãy còn khen và nhắc đến chuyện đóCó người kể chuyện rằng, khi chưa đỗ, ông du học ở Kinh đô, một hôm gặp Bình Trung Công, người ở Diên Hưng đang chống gậy đứng ở cửa tư đệ, thấy ông chợt hỏi, rồi trỏ bức bình phong có hình cây thông và đá đặp ở trên tường bảo ông đề một bài thơ, ông liền đề ngay bài tứ tuyệt như sau:Thạch thượng thanh tùng bách xích trườngPhi hoa mãn động thủy sinh hươngĐinh ninh tiều tử hưu khinh phạtLưu thủ tha niên tác đổng lương( Trên đá thông xanh trăm thước trườngHoa bay đầy động nước đưa hươngDặn dò tiều tử khoan tay chặtDành để năm sau nối cột rường( Bá Hồng Thiên dịch)Giải nghĩa:Mấy vần thơ trên tả cảnh thông, đá, hoa động nhưng ngụ ý nói một vị quan to, lương đống của triều đìnhBình Trung Công xem thơ khen là người tài và ban thưởng rất hậyMãi đến cuối niên hiệu Cảnh Hưng, bài thơ đó vẫn còn Bài 12. QUẬN MÃ ĐẶNG LÂNQuận mã Đặng Lân là em trai bà Tuyên Phi của Chúa Tĩnh Vương ( em cùng mẹ), thường hay làm điều phi pháp. Y true ghẹo một người đàn bà không được, liền cắt vú người ta. Người chồng đi kiện, bị bắt giam vào ngục Ngự Sử Đài, sau vì có Phi xin cho nên được tha. Tĩnh Vương đem nàng Quận chúa thứ hai gả cho Lân. Các đồ trang sức và của hồi môn, so với tiền Triều, xa sỉ gấp hơn mười lần. Biệt thự dựng ở phía tây nam Kinh thành Thăng Long, các thứ vật dụng như của một vị Vương giả. Lân đắc chí càng càn rỡ, nuôi trong nhà hơn trăm tiểu đồng, thường cho đội mũ đeo gươm, ra ngoài chợ chè rượu bê tha, làm hại mọi người, quan Kinh Doãn không kềm chế nổi. Mỗi khi Lân đi ra, đem theo mấy chục con chó săn con nào cũng đeo nhạc vàng, khoác áo thêu, chạy trước chạy sau, cản cả đường lối. Một hôm, nhân cơn tức giận, Lân giết chết nội giám là Sử Thọ Hầu, rồi cắm thanh gươm ở trước cửa, không ai dám vào bắt. Quan Thự Phủ, quận mã Hoàng Bỉnh Khiêm đến quát mắng, Lân mới sợ không dám động, bèn sai cùm lại bắt tống ngục. Đinh thần đủ mặt họp bàn không biết quyết định ra sao, sau cùng xin với Phi đày Lân ra An Quảng. Lân vâng mệnh cùng kẻ tùy tùng trước sau đi ra khỏi cửa kinh. Nhà chức trách sắm sẵn ghe thuyền để sẵn ở bền song Nhị Hà, để cho y ra nơi bị đày, nàng hầu vợ lẽ đi theo rất nhiều, tiếng đàn sáo véo von không dứt. Ra đến nơi, quan địa phương phải làm nhà cửa cho y ởKhi con của Phi là Cung Quốc Công ( Trịnh Cán) bị phế. Quan coi giữ, bắt Đặng lân giam vào ngục, rồi y nhịn ăn mà chết Bài 13. THÀNH ĐẠO TỬThành Đạo Tử người ở Sơn tây, tuổi trẻ thi đỗ Hương tiến, rồi chán nghề thi cử, ngao du sơn thủy. Sau gặp chân nhân Phạm Viên đi theo, núi cao song lớn, vết chân trải qua hầu khắp. Một hôm cùng với hai người đạo hữu đi theo chân nhân ra chơi biển cả. Giữa lúc sóng to gió lớn, bỗng thấy một con đường quanh co khúc khủy dẫn tới một trái núi, cây cỏ um tùm, lại có những quả đào to bằng cái đầu. Chân nhân ngồi tạm nghỉ và nghiêng bầu uống rượu, cho mỗi người mấy quả đào và bảo đừng ai giấu hạt đem về. Kẻ theo hầu đều vâng nghe. Rượu uống xong, chân nhân ra đi, Thành Đạo Tử đi sau, cho là Chân nhân không thể biết, liền giấu hạt đào trong người. Rồi lẩn quẩn nữa ngày không tìm được đường đi ra, nghĩ có lẽ vì hạt đào giấu trong người, bèn lấy vứt đi, mới đi ra được khỏi núi. Chân Nhân đang ngồi ở phía trước ngồi rót rượu uống, thấy Thành Đạo Tử đến cười mà bảo rằng: “ Sao đi chậm thế”Rồi Chân nhân lấy 1 quyển sách, bí mật trao cho, đoạn cùng với mấy người theo hầu phơi phới bay vụt đi mấtThành Đạo quay về, lang thang khắp nơi sơn thủy, một hôm cùng với đồ đệ đi chơi dọc đường vào gõ cửa một nhà, hỏi thăm chủ nhân. Người coi cửa mỉm cười nói:- Chủ nhân tôi mắc chứng đau tim, bùa dấu tốn kém nhiều chưa khỏi. Chẳng hay tiên sinh có chữa được không?- Thành Đạo đáp chữa được. Người coi cửa mừng rỡ vào báo với bà chủ. Bà chủ mừng rỡ mời vào làm rượu thết đãi và sai người sắm sửa đạo tràng. Thành Đạo ngăn đi mà rằng:- Không cần. Kìa, trên nóc nhà có một con mọt ma nó cầm giáo mà đâm vào tim người bệnh. Bây giờ bắt một con cóc treo lên dọa nó tự khắc nó phải luiNhà chủ nghe lời làm theo, quả nhiên bệnh khỏi và đưa biếu rất hậu nhưng Thành Đạo nhất định không lấyThành Đạo lên chơi núi Thu – Tinh, cầm đuốc vào soi trong hang, giữa đường đuốc tắt tối om không biết lối nào mà ra. Trong hang có những tảng đá nát nhũn như bùn, ăn vào rất thơm ngon và khỏi được đói. Sau thấy có một cái kiệu đi qua, ẻ theo hầu rộn rịp. Đến xem thì thấy người đi kiệu là một người bạn học cùng ở với mình khi trước đã chết. Người ấy giật mình hỏi:- Đây là nơi cửa ải của người và ma chia cách nhau. Sao bác lại đến được đây?Người bạn cởi áo mặc cho, Thành Đạo thấy trước mắt dần dần sang sủa lên, bèn theo lối đó mà đi ra khỏi hang. Về đến nhà thì người nhà tưởng là đã chết nên đã để tang và sắp đến ngày giỗ đầuThành Đạo cùng với ông cụ họ Vũ làng tôi có quen, trong lúc uống rượu thường nhắc nhở đến nhau Bài 14: ÔNG LÊ THỜI HIẾNThái Úy Lê Thời Hiến là người làng Phú Hào, huyện Lôi Dương, tính nết ngang tang, không nghề nghiệp và không hợp với ai. Ông ra chơi Kinh, quen với chàng Năm là học trò ở Chiêu Văn Quán. Chàng Năm là con nhà kép hát, không được thi cử, nhà rất nghèo nàn. Ông thường đi lấy trộm của người khác đem cho, chàng Năm hỏi ở đâu ra, ông chỉ cười không đáp. Một hôm chàng năm bảo ông rằng:- Tôi nghe xứ Quảng Thuận(1) đất hiếm mà dân giàu, vị chúa ở đấy lại biết đãi người một cách khiêm nhượng, rõ cách xử sự của bậc bá vương. Nếu ta đến theo và đem theo mưu kế ra thuyết cho họ nghe, thì trên có thể làm được như Tề Hoàn, Tấn Văn, dưới cũng không mất được cái thế chân vạc. Ý bác nghĩ thế nào?Ông thủng thỉnh nói:- Chí tôi khác thế, nhưng tôi cũng không ngăn cản bácÔng hỏi định bao giờ đi, chàng Năm nói sang mai sẽ đợi để cùng từ biệt, ở trạm Hoàng Mai. Ông y hẹn. Khi đi qua hiệu bán vàng bạc ở Hoàng Đình, ông vào cuỗm lấy hai món đồ chạy đi rất nhanh, không ai đuổi kịp. Đến Hoàng mai đã thấy vợ chồng chàng Năm đã ở đấy, tiền lộ phí không có, chỉ có mấy cân gạo. Ông đưa tặng đồ vàng, chàng Năm cầm tay từ biệt nói:- Chuyến này tôi đi xa muôn dặm mà không chết, đều là nhờ ơn Bác, tôi há dám chẳng ghi long. Sau này gặp nhau ở biên cương, toi xin noi theo chí của bác, để đền báo lạiHơn một tuần sau chàng năm vượt qua bờ cõi của Châu Hoan đến bờ phía bắc của Linh Giang “ Sông Gianh” ( T.T.Kim Sử lược trang 304). Quân canh giữ bên sông xét hỏi nghiêm ngặt, thuyền không thể qua được. Chàng năm phải đẵn tre bám vào vượt ngược song bơi tràn đi mới qua được bờ bên Nam, lại bị quan coi giữ bờ Nam bắt được trói lại đem về nộp Chúa. Sau khi trò chuyện được Chúa rất hài long tha cho lại dung làm tướng. Chàng Năm bày mọi phương kế đánh giữ: đắp lũy ở Đông Hải dài hơn tram dặm cong như hình cầu vồng cắt ngang Nam – Bắc dựng vòm khói, đặt cửa sung, hễ có việc nguy cấp thì vừa bắn sung vừa đốt khói thong báo về quốc đô. Các cửa bể Minh Linh, Nhật lệ đều đóng cọc và khóa sắt để giữ cản tàu thuyền, tùy nghi xếp đặt, bố trí rang buộc rất kiên cốĐoạn đem quân qua sống tiến lên mạn Bắc, hạ thành giết tướng rất nhiều, làm cho triều đình phải quên ăn mất ngủ tìm mọi phương kế để chống giữ, tuy có làm giảm bớt được những trận đánh nhưng bờ cõi vẫn chưa thu phục lại được hếtHồi này, ông Lê Thời Hiếu, ứng mộ tong quân đã lập được nhiều công trạng, được thằng làm Đốc Trấn, điều khiển việc quân tại Châu Hoan. Chàng năm nghe tin nói:“ Nay bác lê đã làm tướng phương Bắc, ta nen tạm lánh”. Liền thu quân rút lui, lại đưa thư xin trả lại những vùng đất đã chiếm được, tự nhận là Nam phiênÔng Lê dâng thư về triều, xin cho Nam Bắc nghỉ binh. Nhân dân hai châu Hoan- Diễn được sống yên ổnÔng trọng nhậm ở Tar61n hơn 20 năm, trong địa hạt được vô sự, nên được tiếng phong là Thái Úy Hào Quốc Công. Khi mất được phong tước vương, dân châu Hoan nhớ ơn, lập miếu thờ đến nay vẫn cònCháu họ của ông là Thời Điểu đỗ Đông Tạo Sĩ tức là tam giáp Tiến Sĩ võ làm chức Hữu- kiểm- điểm có quen với tôi, đã đem chuyện cũ của ông Lê Công kể lại cho tôi ngheMột thuyết nữa nói: Khi chàng Năm qua sông, phải đi ở chăn trâu cho người. Một hôm dắt trâu qua cửa Tướng Quốc, nghe thấy trong dinh có tiếng đọc sách, chàng Năm liền buộc trâu ở ngoài rồi đi vào. Quan Tướng Quốc bận áo nhà Nho ngồi, cùng các học trò đọc sách. Chàng Năm chắp tay đứng dưới thềm, ghé mắt trong một lúc lâu, quan Tướng Quốc làm lạ hỏi:- Có biết chữ không?Chàng Năm thưa:- Tôi vừa thấy Ngài giảng về Nho quân tử và Nho tiểu nhân, tôi rất thích ngheTướng Quốc nói:- Thế nào là Nho quân tử và Nho tiểu nhân?- Thưa Ngài, về Nho tôi chưa được rõ. Tôi làm nghề chăn trâu. Xin nói về kẻ chăn trâu: Trong những kẻ chăn trâu, có người quân tử, có kẻ tiểu nhân. Thế nào là tiểu nhân: Đi kiếm cỏ ở ngoài ruộng, đều là hạng này cả. Quân tử thì không thế, là người có tài năng, có khí phách, buồn bực chưa có dịp thi thố ra, phải tạm trốn vào cái nghề đó. Ninh Thích gõ sừng, Bách Lý hề cho trâu ăn chính là những hạng chăn trâu quân tửQuan tướng Quốc nghe nói cho là lạ, liền xuống thềm đón lên, nhưng chàng Năm xua tay rồi điDò tìm biết chỗ chàng làm mướn. Tướng Quốc sai người đến gọi, chàng từ chối mà rằng:“ Ngày xưa vua tề Cảnh Công đi săn. Vời Ngu Nhân bằng cờ tinh, mà người ta không đến, là bởi không hợp lễ. Nay Quan Tướng Quốc đã không cho tôi là kẻ hèn hạ mà lại muốn làm nhục tôi bằng cách đòi hỏi không hợp lễ ư? Xin cam phận hèn hạ, tôi không muốn đếnNgười đi gọi trở về trình, quan Tướng Quốc liền tắm gội trai giới, sai sứ đem thư và lễ vật đến đón. Chàng Năm bấy giờ mới đứng dậy, mắc áo nâu ngắn, đầu để trần, đi chân không, sứ giả xin thay áo, chàng không nghe nói:-“ Tôi vốn dĩ là một kẻ làm mướn, sao nên thay đổi cái bản sắc của mình”Chàng đến nơi, quan Tướng Quốc ngảnh về phía đông, tôn thờ làm thầz, rồi tiến dẫn lên chúa. Chúa đắp đàn, phong cho làm tướngHai thuyết trên chưa rõ thuyết nào đúng nên xin chép cả ra đâyChú thích:(1) Đất Nam là đất của Chúa NGuyễn(2) Chàng Năm trong chuyện này là Ông Đào Duy Từhttp://hocthuatphuongdong.vn/index.php?PHPSESSID=i6ocmtemvbvs2ia8db48j8mua7&topic=4275.10;wap2 Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 9, 2013 Bài 15: Ông ĐỖ THẾ GIAI – Ông HOÀNG NGŨ PHÚCHai ông Đỗ Thế Giai và ông Hoàng Ngũ Phúc khi chưa gặp thời, làm bạn với một viên hoạn quan. Uy Vương ( Trịnh Giang) ốm, bọn tiểu nhân làm nát chính sự, bốn phương trộm giặc nổi lên như ong. Viên hoạn quan hăm hở nói:- Tôi xem qua vận giời và việc người, họ Trịnh sắp mất. Sao ta chẳng phù một vị Hoàng Tử vào trong rừng núi, nổi nghĩa binh như đức Cao HoàngHai ông nói:Không phải, nhà Trịnh có công lớn, ấy là mệnh Trời. Có lẽ lại phục hưng cũng nên. Hãy nên để thử xem, nếu không sẽ liệu cũng chưa muộnHoạn quan sầm mặt đứng dậy, phủi áo đi. Một lúc ông Đỗ đi ra, qua phủ Lượng Quốc ( Phủ Chúa) thấy người em thứ tư ( cùng mẹ) của Uy Vương, đương ở cửa Phủ, cùng bọn nội giám ngồi ở đất chơi chọi gà, ông trông thấy kinh ngạc, về nói với ông Hoàng rằng:“ Người ấy thật là vị Chúa của ta”Bèn đem trầu rượu đến nói với người coi cổng để được vào yết kiến. Vương đệ rất trọng hai ông là người có tài năng và khí phách. Chẳng bao lâu, Uy Vương thoái vị, Vương đệ được lập, hiêu là Minh Vương. Vì hai ông đã theo từ khi vị ngộ ( Chúa chưa lên ngôi) nên Chúa hết lòng tin dụng. Ông Đỗ trông coi việc trong, ông Hoàng việc ngoài, giặc cướp các nơi đều bị bắt trừ đến hếtViên hoạn quan cùng phủ Hoàng Tôn Di Chức, Duy Mật cùng đi đánh úp được vùng Trấn Ninh mà chiếm giữ lấy, phụng Hoàng Tôn lên làm vua, hoạn quan tự xưng là Minh Quận Công, đắp thành lũy, sửa giáp binh, hơn ba mưới năm, quân ngoài biên không được cởi giáp. Chúa Trịnh mỗi khi hỏi đến việc miền tây ( Trấn Ninh) hai ông thưa:- Mưu chủ của họ hãy còn, chưa thể mưu tính đượcSau Duy Chức mất, Duy Mật lên thay, Minh Quân chết, ông Hoàng liền nói với triều đình:- Nay Minh Quận Công đã chết, thì đánh lấy Trấn Ninh dễ như chẻ tre vậyChúa Trịnh khởi binh, sai Đốc Trấn Hoan Châu ( Nghệ An) là Bùi Thế Đạt thống xuất quan quân, ba đạo tiến đánh. Duy Mật tự thiêu chết. Việc Trấn Ninh được yên từ đó Bài 16: CHÙA TIÊN TÍCHChùa Tiên Tích ở về phía nam Kinh Thành, được tu bổ lại trong thời Chúa Trịnh – Vương ( Trịnh Sâm). Người ở kinh thành, kẻ ngâm tre gỗ, người giúp xẻng cuốc, để xây đắp, đi lại ở ngoài đường, mấy năm công việc mới xongChùa rộng lớn, nóc chồng, cửa kép. Sân bày tám miếng đá vuông, cao chừng hai thước, trên để những chậu hoan lan, gió mát nhẹ đưa, hương bay thơm phức. Phía sau chùa thong với đường cái, đằng trước trông xuống một con ngòi nước trong. Cây tháp ở giữa phía hữu, cao chin tầng, bốn góc đeo nhạc, trang hoàng những nét vàng xanh rực rỡ. Từ phía tây đi về phía nam, vào chùa đường xe quanh co đều lát đá cả. Con cừ uốn lượn vòng chảy ra một cái hồ. Hồ sâu, rộng nước trong xanh, mùa hè hoa sen nở nhiều, mùi hương bay xa hàng dặm. Chung quanh bờ hồ cây đá chen nhau. Trước chùa về phía tả, chỗ nước cừ chảy thong ra hồ có bắt cái cầu. Dưới cầu ghe thuyền đi lại, trên cầu lợp thành mái nhà, cột rồng cuốn trên những tấm ván khắc chạm vảy rồng. Bên cạnh cầu mấy chục bước, phía nam cừ và phía bắc là hồ dựng cái ly cung để làm chỗ vua chúa ngự chơi trông những cây leo và sấu, bảy cây muỗm, trắc, thong cành lá um sùm đến nỗi ánh mặt trời không hề soi lọt. Dưới đất bày trâu đá, hươu đá mỗi thứ hai con, sừng châu vào nhau, chế tạo rất inh tế linh động. Đó là vật cũ của nước Chiêm Thành, do ông Hoàng khi đi đánh miền Nam lấy được. Bên kia hồ là nhà Kiều-nhạc-Hầu Nguyễn Khản. Hầu là bạn áo vải của Chúa, được mắc áo thường ra vào trong cung. Mỗi khi Chúa đến chơi chùa, lại đến thăm nhà Hầu và một lần đích thần chúa viết bốn chữ:“ Tâm Phúc Hòa Trung” nghĩa là long dạ ôn hòa, ngay thẳng để ban cho Trụ Trì chùa ấy là con gái bà Thái Trưởng Quận Chúa ( em họ vè ngành ngoại của Chúa). Những khi Chúa nhàn rỗi, ngự giá chơi đùa, cùng các phi tần nội thị thả thuyền chơi trên hồ, hát khúc hái sen. Sông, cây lồng ánh sang trông rất ngoạn mục, chẳng kém gì những cuộc vui chơi trong VŨ Lăng (1) vậy.Năm Ất Tỵ (1785) lính canh của nhà chùa nghe tiếng y ỷ như tiếng khóc than cực kỳ ai oán, lắng tai nghe thì tiếng ây phát ra ở trên bờ hồ, lúc khóc lúc nín. Sáng hôm sau ra xem chỗ ấy, thấy nước mắt của hai con trâu đá còn ướt mà cỏ trên mặt đất đều bị xéo bừa bãi, hình như hai con trâu đá đã chọi húc nhau. Lính canh sợ hãi, báo cáo với triều, triều đình sai thợ đá đập phá cả trâu vất vào lò lửa. Chùa hiện nay bị phá hủy, chỉ còn cỏ rậm rạp phất phơ trong ngọn gió thu , muốn tìm lấy một vài hòn ngói vụn, viên gạch nát cũng không thể tìm được. Trò đời thịnh suy thay đổi, ngậm ngùi khôn xiết nên lờiChú thích:(1) Chuyện Ngư Phủ và Đào Nguyên Bài 17: LIỆT PHỤ ĐOÀN PHU NHÂNBà Đoàn phu nhân là vợ thứ của ông Du Lĩnh Hầu Ngô Phúc Du, người làng Trảo Nha ( Hà Tĩnh). Hầu là con nhà tướng, trong năm Cảnh Hưng, quản đốc đội quân tiền phong. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786) bị chết tại trận. Bà vợ cả qui y cửa Phật, Đoàn thị đẹp mà không con, được Hầu coi như vợ chính. Hầu mắc nạn chết, Đoàn phu nhân vẫn cười và nói như thường; người nhà đều lấy làm lạ. Chưa bao lâu, phu nhân đem vệc nhà dặn dò người nhà Hầu, rồi đến lập một đàn chay ở chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng, chỗ tu của bà vợ cả. Làm chay xong, phu nhân cùng bà vợ cả cùng lũ con của Hầu ra đặc bài vị ở bến Thúy Ái, nơi Hầu chết trận khi trước, ngoảnh về phía Nam chiêu hồn để tế, mọi người gần xa kéo tới xem đông lắm. Đoạn phu nhân ăn mặc chải chuốt, son phấn điểm trang, bơi một chiếc thuyền con ra giữa dòng, gieo mình xuống nước mà chết. Dân ở đấy lập miếu thờÔng Huấn Đạo An Nhân Hà Sách Hiển có thơ vịnh rằng:Khả liên nhị bách dư niên quốcThiên lý dân di nhất phụ nhânDịch:Khá thương nước cũ hai trăm lẻGiữ được di luân chỉ một bàDiễn nghĩa:Thương thay một nước dựng lên đã hơn hai tram năm ( nói triều Hậu Lê) mà đến lúc mất, chỉ có một người đàn bà giữ được lẽ giời và đạo làm người mà thôi Bài 18: NGƯỜI LÀM MƯỚN Ở KINH THÀNH Tại kinh thành có một người làm mướn đến làm cho Phạm chân nhân. Hắn kêu nghèo khổ, xin chân nhân cứu giúp. Chân nhân im lặng, bảo chìa bàn tay hữu ra, ngầm đọc chú và vẽ bùa vào, dặn sau này khi nào gặp lúc cùng quẩn, nên ngửa bàn tay ấy để xin tiền, có thể được 36 đồng. Anh phúc bạc, đừng nên lấy quá. Người kia theo lời, nhưng một hôm lại xin liền mấy lần được đến 5 quan mới thôi, nên lần sau thử không linh nghiệm nữa Bài 19: Ông LÊ TUẤN ANHÔng Lê Tuấn Anh khi cầm quyền chính trong nước, bà phu nhân từ làng Thanh Mai đến Kinh, đi qua làng Đắc Sở(1) ngủ trọ ở nhà cạnh đền quan Tướng quân Lý Phuc Man nằm mơ thấy tiếng quân hầu dẹp đường rồi có người nói là bà phu nhân của quan Tướng Quân họ Lý và thăm. Khi ngồi chơi, Lý phu nhân nói;- Phu nhân đối với tôi là chỗ quen biết, tôi muốn nói xin một điều, mong Qui phu nhân y cho.Bà xin vângLý phu nhân tiếp:- Nhờ phu nhân nói với Tướng Công hộ rằng: nhà cũ của chúng tôi đã nát, xin lưu ý choBà hỏi duyên cớ, Lý phu nhân nói:- Ông Lê Anh Vũ triều trước và ông Lê Anh Tuấn bây giờ đều là thân sau của tướng quân tôi. Quí phu nhân quên ư?Lê phu nhân vâng lời rồi tỉnh, đến Kinh nói với ông Lê. Ông tự bỏ tiền ra sửa chữa đền ấy. Nay đền hãy cònChú thích:(1) Làng Đắc Sở: Tục gọi là làng Giá, thuộc huyện Đan Phượng tỉnh Hà Đông bây giờhttp://hocthuatphuon...ic=4275.15;wap2 Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 9, 2013 Bài 20: Ông BÙI THẾ VINHCụ ngoại bảy đời của tôi là ông Bùi Thế Vinh, đỗ tiến sĩ trong năm Diên Thành ( 1566-1577), quan hàm Tự Khanh. Khi nhà Mục mất ngôi, ông lui về quê nhà, rồi cùng ông Đỗ Uông ở làng Đoàn Tùng, ông Nhữ Công Tông ở làng Nhữ Xá đều bị mời ra làm quan nữa, nhưng riêng ông Bùi Thế Vinh lấy dao con rạch đầu gối cáo bệnh không chịu ra. Nhân lúc ấy có bà Thường Quốc phu nhân tự thắt cổ tuẫn tiết. Hai người đều được người ta khen ngợi, nhân có lời ngạn: “ Con dao Đông luân; dây thừng phu nhân”Phụ lục: Ca dao bằng quốc âm:Loài chi mày Thượng thông, Thượng nhữ(1)Những dơ tuồng tặc tử gian thầnNào dao lá trúc Đông Luân (2)Nào thừng tiết nghĩa phu nhân kia làChú thích: Thượng thông trỏ ông Đỗ Uông, Thượng Nhữ trỏ ông Như Công Công Tông(2) Đông Luân là tên làng ông Bùi Thế VInh Bài 21: Ông NGUYỄN CÔNG HOÀNÔng Nguyễn Công Hoàn người làng Cổ Đô huyện Tiền Phong ( thuôc tỉnh Sơn Tây) là than phụ ông Thượng Thư Bá Lân. Ông có tiếng hay chữ, lừng lẫy một thời, đối với ai ông cũng nhã nhặn, nhưng về chữ nghĩa, thì ông không nhượng ai bao giờ, đó là đặc tính của ôngÔng Lê Anh Tuấn, người cùng huyện, trẻ hơn ông cùng với ông làm bạn không kể tuổi. Gặp kỳ khảo ở huyện, ông Lê trúng giải nhất, ông trúng giải hai. Ông đem văn ra so sánh, nhất định không chịu kém. Ông Lê đỗ rồi làm quan, ông không them chơi với nữa. Con ông là Thượng Thư Bá Lân, sớm hiểu thấu về văn cử nghiệp ( lối văn đi thi) sức học của ông và cha xấp xỉ ngang nhau. Ông nhiều phen bắt so tài, Bá Lân cố tránh thì bị ông trách mắng. Một lần hai cha con bới thuyền trên sông để làm văn thi, hẹn rằng ai kém thì phải ném xuống sông. Khi làm xong, ông nhận thấy văn ông hơi kém, liền nhảy xuống sông tự trầm thật; ông Bá Lân khóc lóc rồi vớt lênMột lần đến thăm quan Tể tướng Nguyễn Công Hãng, đến cổng ông đã gọi ngay tên. Người canh cổng vào báo, ông Hãng lật đật chạy ra đón rước. Xin ông làm thơ vịnh Lưu-Nguyễn vào Thiên Thai, trong tiệc rượu ông làm ngay 6 bài, đến nay vẫn còn truyền tụngKhi xuống chơi Kinh, ông làm bạn với Chân nhân Phạm Viên, ông hỏi về sự cùng đạt, chân nhân nói:Số ông không làm “ đuôi đàn cháy” ( ý nói không thi đỗ làm nên to được) nhưng con ông thì làm toÔng liền bỏ việc đời, theo chân nhân xin học tiên thuật. Vào núi Mỹ Lương, nhưng dọc đường hết lương ăn, ông đến một xóm nọ. Trong xóm có ông già đón khách vào, nhà làm thức ăn kỳ lạ đưa lên, nấu hấp một đứa trẻ lên ba tuổi để thết đãi ông, ông không dám động đũa. Chân nhân cười, gọi đem món sơn hào thết đãi. Đi không được bao lâu đến chỗ ở riêng của chân nhân, tên hầu nhỏ dọn lên món thịt chuột thối nát để uống rượu, mùi hôi bẩn xông lên gớm chết, ông lấy vạt áo che mặt không dám trông. Chân nhân nói:- Ông tục duyên còn nhiều, chưa thể tu được, liền đưa ông vềÔng Bá Lân thi đỗ Hội Nguyên, cha mẹ đều còn. Các bạn đỗ đồng khoa đến họp cả ở làng Cổ Đô để mừng. Ông Hoan mặc bộ quần áo quê mùa ra tiếp khách, cười mà nói rằng:- Thằng Bá Lân nhà tôi mà đỗ đầu thì ra thiên hạ không còn ai nữaKhi ông Lê Tuấn Anh làm Tể tướng, ông Bá Lân vì việc công bị lỗi, nghĩ không nhờ cha đi nói hộ, thì không thể nào gỡ được, liền nói với cha. Nhưng ông Hoan mặc kệ không nói gì. Họp cả họ lại khóc lóc van nài, ông mới khẽ gật đầu. Rồi ông đi chân không đến dinh quan Tể Tướng, lội qua cầu hồ mà vào để chân bê bết những bùn vào ngồi chỗ công sảnh, hỏi Tướng công có nhà không. Lê Công áo dài chững chạc ra đón mời. Ông nói:- Vì chuyện thằng con, tôi phải đến quấy phiền cố nhân, một lời giúp đỡ, giá trọng nghìn vàng. Tôi không nói Tướng Công cũng lượng rõÔng Lê vâng nhời, ông liền đứng dậy ra về. Ông Lê cố mời ở lại không đượcTuổi ông càng cao, sức học càng rộng. Ông nghe ở Thanh Trì có người học trò tập văn trường Giám lần nào cũng trúng giải nhất, bèn ìm đến tận nơi. Đêm khuya vào làng, đường quanh co, phải lội qua ao, đến gõ cổng nhà người học trò mà nói:- Ta là Nguyễn Công Hoàn đây, anh ra đấy làm thi với ta nàoNgười học trò lật đật đi ra khiêm tốn từ chối. Ông không nghe, người ấy xin khất đến kỳ văn trường Giám, ông mới chịu về. Sau ông làm văn thi tại trường Giám, luôn mấy kỳ đều chiếm giải nhất, ông mới về Sơn TấyTuổi già, một lần ông đến thăm nơi thờ Thiền Sư Huyền Quang, chiêm bao thấy Thiền Sư bảo rằng:- Ông đã tìm ra được việc Bích Cơ (1), nên nghe đâu Thượng Đế tăng tuổi cho ông 1 kỷ đấySau quả ông được sống lâuChú thích(1) Bích cơ là tên một người đàn bà, từng đã cáo giam là quyến rũ được Huyền Quang ( Việt Nam Phật giáo Sử lược của Thích Mật Thể, tr.172) Bài 22: Ông LÊ HỮU KIỀUKhi còn ít tuổi, ông Lê Hữu Kiều là người lãng mạn, không chịu bó buộc theo lễ phép. Ông học ông Thám Hoa Vũ Thành được ông Thám coi trọng và giao du với chân nhân Phạm Viên. Một lần ông Thám ra cho bài tập, đầu bài là: “ Về Sở, người Sở không tin. Về Hán, người Hán sợ hãi, vậy túc hạ định về đâu?”. Chân nhân đùa làm thử, nhờ ông đưa cho ông Thám chấm cho. Ông Thám giật mình nói:- Người làm văn này phải là bậc thần tiênSai người đón mời nhưng chân nhân không đếnÔng Kiều đi theo mấy tháng, chân nhân khuyên trở về. Sau thi đỗ làm quan giữ nết rất ngay thẳng, không a dua luồn lọt, nhất là ghét đạo Phật lắm. Hồi đi sứ qua Tàu, qua một căn chùa, thấy ở mái hồi lang có một pho tượng có chữ vàng là “ Bồ Tát lê Hữu Kiều”, ông bừng tỉnh. Từ đấy để tâm nghiên cứu kinh điển nhà Phật. Khi thôi làm quan, mở ra một sở tuyên giảng đạo Phật, người đến nghe giảng lúc nào cũng hàng mấy tram, phần nhiều là những người có tiếng trong rừng Thiền cả. Chúa Trịnh Minh Vương ( Trịnh Doanh) và Tĩnh Vương ( Trịnh Sâm) có ban cho nhiều vị sư được lên chức Hòa Thượng . Những vị này cũng đều là học trò của ông Bài 23: Ông NGUYỄN TRỌNG THƯỜNGÔng Nguyễn Trọng Thường người làng Trung Cần, huyện Thanh Chương ( Nghệ An). Thuở nhỏ nhờ ông ngoại nuôi nấng dạy bảo, tuổi trẻ đã biết làm văn, khi lớn lên học ở ngoài. Một đêm ông chiêm bao thấy một mỹ nhân đem trà, quả đến tặng biếu, cùng ông trò chuyện nói cười than mật. Từ đấy, thường đêm như vậy. Nhưng trải mấy năm giời, giữa hai người không có việc xằng bậy nhảm nhí. Rồi một đêm mỹ nhân từ biệt để về, ông cầm tay hỏi ngày tái ngộ thì nói:- Chúng ta sẽ gặp nhau ở trạm Phù Dung, tại hồ Động ĐìnhNăm mười sáu tuổi đã đổ khoa Hương, sắp sửa tới Kinh thi Hội. Một hôm ông ngoại ra bài cho học trò tập, thấy trong đám đông có một chàng thiếu niên chưa đến giờ ngọ đà vào nộp quyển rồi đi ra. Ông ngoại xem nói:- Có lẽ là chân nhân Phạm Viên đùa ghẹo ta đâyRồi ông liền đặt bút đi theo. Ra đến ngoài đồng thì kịp, bèn theo chân nhân đi chơi núi Long Hổ, đến cửa ải Chấn Nam, ông quì gối thỉnh giáo. Chân nân nói:- Đây không phải là việc của ngươi. Tiền trình rộng lớn, đừng nên theo đuổi việc thừa, vô íchLiền trao cho tập số Thái Ất, hẹn sẽ trả lại ở hồ Động ĐìnhÔng Thường thi đỗ làm quan trong ngoài niều nơi, nhưng rất ơ hờ, không lấy sự làm quan vui thú. Khi đi sứ Tàu, đem việc nhà dặn bảo con cái, rồi đem nhiều tiền của đi theo. Qua trạm Phù Dung ở hồ Động Đình, thấy ở hai bên cạnh đường có hai cái miếu, một cái đã gần đổ nát. Hỏi dân ở đấy nói:“ Cái miếu sắp đổ, thần húy là Nguyễn Trọng Thường hương tàn khói lạnh đã mấy chụn năm rồi còn cái miếu kia là thờ bà Phu Nhân”Ông giật mình bừng tỉnh ngộ, liền bỏ tiền ra nhờ người dân ở đấy tu bổ lại. Khi đi sứ trở về, thuyền qua hồ Động Đình, ông giở cái hộp đựng số Thái Ất ném xuống, cái hồ theo nước cuồn cuộn mà chìm. Đêm ngủ ở trạm Phù Quang, lại thấy mỹ nhân đến. Sáng ôm sau ông mất ở thuyền, sứ bộ đem thi hài về nước Bài 24: BÀI KÝ CHƠI NÚI PHẬT TÍCH( Chùa Thầy)Năm Bính Thìn, ngày mười hai tháng ba, tôi cùng ông Nguyễn Nghiêu Minh, ông Trần Vấn Chi, ông Nguyễn Quế Nham, ông Hoàng Hy Đỗ đi chơi núi Phật Tích. Bảy giờ sang từ cửa đô đi ra, đến trưa thì đi qua làng Kim Thi ( Làng Thìa ở huyện Kim Phượng) lên lầu chuông ở cạnh đường nhìn phía tây, trông núi Phật Tích, thấy sắc xanh xanh. Quan bến đò Đắc Sở ( Đô Giá) đến làng Thụy Khuê, ở ngụ tại đền Nguyễn phu nhân ở phủ Quốc Oai. Phu nhân là em gái bà Thái phi, vợ chúa Minh Vương Trịnh Doanh xuất giá rồi tu sửa các chùa ở làng Thiên Phúc, người dân ở đây lập đền lên thờ. Đền dựa vào núi, núi này giáp giới hai làng Thiên Phúc – Thụy Khuê sử gọi là núi Thạch Thất, tục gọi là Sài Sơn ( núi Thầy) đó là nơi chứng đạo của Từ Đạo Hạnh đời Lý. Phía tả núi là ngọn Hàm Long, hình thế cao ngất, có ao Long trì bao bọc chung quanh một cái gò dựa vào núi là chính điện chùa Thiên Phúc. Điện kề nước, do Thiền Sư họ Từ dựng nên, một gian hai chai, lối kiến trúc rất cổ. Giữa thờ Phật, bên tả là chân than của Thiền Sư, bên hữu là ngự dung vua Lý Thần Tôn. Trước ngự dung, có những tượng chim Hạc và lực sĩ Chiêm Thành, mỗi thứ đều hai, khoảng năm Vĩnh Hựu ( 1735-1740) sắc truyền chế tạo, tương truyền vua Thần Tôn triều Lê là hậu thân của vua Thần Tôn triều Lý. Hai bên cạnh chùa bắt hai cái càu qua ao: bên tả là cầu Nhật tiên thông suốt vào đền Tam phủ ở cái đảo trong ao, bên hữu là cầu Nguyệt tiên bắt dựa vào cánh tay hữu trái núiGiờ dậu lên chùa Thiên phúc, nhà sư trụ trì là Tịch Khiết mời ngồi lại nói chuyện. Tịch Khiết người làng Thiên Phúc, ăn nói nhã nhặn, bặt thiệp. Giờ tuất trở về đền phu nhân. Sáng hôm sau cùng Chân Túy Ông lên ngọn Hàm Long. Ông là con giai thứ ba của Nguyễn phu Nhân, đỗ Hương tiến nay nhập tịch làng Thụy KhuêPhía tả ngọn Hàm Long độ nửa dặm có mả và miếu thờ Lã Nam Đế, dân đấy nói là di tích của Lã Gia. Sách Thiên Nam quốc ngữ nói: “ Mả Lã Gia ở vường trúc” chưa rõ đằng nào phải. Xét trong sử ký thì Nam Đế là hiệu của của hai vua Lý Tiền, Hậu, Lã Gia chỉ là thừa tướng của Triệu Ai Vương, lời dân ấy nói hình như không đúng ( chưa chắc tin được) vậy cứ ghi vào đây để đợi bậc biết rộng ( thức giả)Ở sau lưng núi có hai cái hang: một là Bò cốc ( hang Bò) nước có cá, và một cái gọi là Thần cốc ( Hang Thần) Tiền triều đến ngự đây chơi, sai nội thần vào xem, thấy con rắn lớn lại phải quay raGiờ Tỵ qua cầu Nguyệt Tiên, lần bậc lên núi. Trên lung núi có bia, khắc bài thơ ngự chế của Chúa Định Vương ( Trịnh Căn) lên mấy bận nữa đến chùa Thiên Phúc, riêng là nơi để Thiền Sư đốt hương tụng niệm khi trước. Trụ trì chùa này nguyên là một Nội thần của tiền triều, thấy khách đến mời đón ân cần bằng những món ăn trong núi. Trước chùa đi xuống ba bậc là vườn trúc, nay không còn trúc, trong vườn dựng bốn cây tháp. Động Phật Tích ở sau chùa, động ngoài không tối lắm, có thờ Sơn thần phía bên tả. Một cái suối từ khe trên núi chảy xuống, miệng suối có cái đầu rồng ( tức là vòi nước) từ miệng suối trỗi lên, mùa hạ thi đầy, mùa đông thì cạn. Những tấm bia, mài đá tạc thành lớn nhỏ rất nhiều, nét chữ mập mờ, đều từ thời Trung hung trở về sau cả. Khoảng giữa động, vách đá đứng sững. Xếp đá trèo lên độ một trượng đến cửa động trong, đi vào phải bò gọi là hang Cắc cớ. động trong ngang dọc ước độ 1 trượng, Thiền Sư trút xác ở đó, vết đầu trên vách đá, vết chân trên mặt đá đến nay vẫn còn, người ta thường lấy son rập in. Cạnh đấy là 1 pho tựng của Thiền Sư. Tôi có lưu đề ở động ngoài 11 chữ “ bính thin quí xuân Tùng niên phủ huề hữu đăng thử” nghĩa là tháng quí xuân năm Bính Thìn, Tùng niên Phú dắt bạn lên đấy chơiĐúng trưa lên chỏm chợ giời, mây quang trời tạnh, gió mát nhẹ đưa. Đá núi lởm chởm, cái thành hình bàn cái thành hình ghế hình lò rượu, hình chén rượu, vị trí thiên nhiên, xinh đẹp tuyệt vời. Trên đỉnh có một tảng đá phẳng. Đứng trên ngọn này nhìn ra chung quanh, các núi Phượng Hoàng, Qui Lân, Mã yên, Long Đẩu, Hoa Phát đều quanh quất chầu cả lại. Ông Hoàng Hy Đỗ đốt hơn tram cái pháo hoa, những người kiếm củi và trẻ chăm trâu ngơ ngác. Trở về động ngoài Phật tích, Chân Túy Ông và Trần Vấn Chi cùng nhau uống rượu. Vượn núi ba bốn con thập thò qua lại ở nóc điện và cành cây. Hy Đỗ, Quế Nhâm vỗ tay cười, hang núi nổi lên những tiếng vang đáp lại, Giờ mùi, xuống thăm Phúc Lâm, ở phía bắc núi, đề vài dòng chữ lên vách : “ Đang Sơn du lãm, bất giác thi hứng mãn sơn, bất năng thu thập”. Nghĩa là: lên núi chơi, xem, bất giác hứng thơ dãy núi, không thể thu nhặt lại được. Lạc khoản đề là “ Song Thanh” bác Chân Ngô đề đùa chơi nối vào rằng : “ Ngã diệc bất ước nhi hợp” . Nghĩa là ta cũng không hẹn mà hợp đúng cùng một ýRồi lên chùa Bối Am ở chỏm núi Bối Am. Chùa, nhân cái động mà làm thành, nửa gỗ nửa đá. Theo bia ở trên vách đá thì đó là một bà Tôn Nữ họ Mạc về đời Hồng Ninh ( 1588-1590) xuất của nhà mà dựng nên. Trụ trì ở đó có nhiều sư nữ. Trên vách có nhiều thơ vịnh đề, xem qua một lượt rồi đi trở xuống. Dưới núi có hang Dũng Phật, thờ mấy toàn tượng cổGiờ Thân, kéo Chân Túy ông, Trần Vấn Chỉ cùng đến ngồi uống rượu ở cầu Nhật Tiên. Sen trong ao mới mọc tốt tươi, biếc biếc xanh xanh, phơi phới trên mặt nước. Các ông Nghiêu Minh, Quế Nham, Hy Đỗ không biết uống rượu, ngồi bên bàn rượu uống nước trà. Đêm khuya mới trở về chỗ ngủNgày 14, sang sớm khởi hành lên núi Hoa Phát, ở phái tả núi Phật Tích. Trên lung chừng núi có cái gác chuông. Phật điện là chùa Hoa Phát, sư nữ Trụ trì nguyên là vợ người họ Phan, tuổi già xuất gia đầu Phật, pha trà thết khách, có cái phong vị lịch thiệp của người thành thị. Đằng sau chùa đi xuống một bực có cái tháp đá sừng sững. Từ phía tả chùa men đá đi lên đỉnh núi, thấy có một khối đá lớn bằng cái nhà, chênh vênh như cực đổ. Canh khối đá ấy có cái chùa nữa mái, gần đây do người Ô Châu ( Thuận Hóa) quyên tiền dựng nên, chùa này hiu quạnh vắng bóng ngườiGiờ Tỵ từ núi Hoa Phát lên núi Phượng Hoàng. Núi này trông như một con chim lớn nghiêng cánh liệng chực sà xuống. Giữa mở ra một cái động đá, trong thờ Phật, hơi sương nặng chĩu ướt cả áo khan người. Trong dộng có ba cái hang, hai cái nhỏ mà nông, còn một cái lớn sâu thẳm không có đáy, tục truyền là có đường xuống thẳng địa phủ. Cửa động cây cối lòa xòa, nhân đốt lửa sưới ngồi nghỉ một chútGiờ Mùi, giã cảnh trở về phía đông. Đến làng Vân Canh ( vào ngủ nhờ nhà người anh họ của tôi là ông huyện thừa họ Phan) đêm nói chuyện về chùa Phật Tích, ông nói:- Cụ ngoa6i bốn đời của tôi là cụ Bảng Nhỡn, có bà con gái ( tức là bà cô tổ ngoại) thuở nhỏ mộ đạo Phật, chỉ đòi đi tu. Cụ Bảng tôi ép lấy chồng, Bà tự đốt hai ngón tay để tỏ chí. Hồ bà xuất gia tu ở chùa Tiên Lữ, thường sang chơi núi Phật Tích, vào hang Thần Cốc. Hang này tối đen mù mịt, ngày cũng như đêm. Đốt đuốc đi vào hai ba ngày hãy còn nghe tiếng gà, tiếng chó kêu trên mặt đất. Đi vào càng sâu càng thấy cảnh khác lạ. Ở một chỗ thấp lõm, có những xương người chồng chất, nhũ đá rủ xuống thành ra vô số hình hiểm quái: người đi, thú chạy, giường ghế giá áo ngổn ngang không biết bao nhiêu mà kể cho xiết được. Bên cạnh đường có một dòng nước sắc xanh như lam, một ông lái cầm thuyền đợi khách. Bờ bên kia trời lờ mờ sang, chợ búa, người vật không khác gì ở nhân gian. Hỏi thăm thì ông lái đò bảo chợ Âm phủ. Do con đường đá đi lên phía trước, gặp một ông già khuyên nhà sư trở về. Nhà sư không nghe. Chợt có con rắn to bằng cái vựa nằm chắn ngang đường, bấy giờ nhà Sư mới chịu quanh về. ra khỏi hang tính từ ngày đi đã được một tháng hai ngày. Sư là người tu hành có trì giới rất cao chắc không nói nhảm. Vậy cũng chép câu chuyện ấy vào đâyTrên đây là kể đại lược cảnh núi còn những chuyện khác tai mắt không được tiếp xúc thì không dám nói đếnNgày 15, giờ Ngọ, Đông dã điền, Tùng Niên phủ chépChú thích:(1) Phủ là tiếng trang nhã dung để xưng tên của người đàn ônghttp://hocthuatphuon...ic=4275.20;wap2 Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 9, 2013 Bài 25: DẬT SỰ CỦA CỤ THÁI TỂCụ Thái Tể Trung Thuần Công nhà tôi xưa đi công cán về , người Mạc bắt giữ lại bấy giờ xa giá về Thanh Hoa, tin tức của Triều đình đoạn tuyệt. Thượng Thư nhà Mạc là ông Trần Lịch Chiêu, người làng Hoa Thiều cùng huyện, thấy cụ là người có nghĩa khí, muốn tha cho, đêm đến ông đi qua sở giam nói phong long là giời sắp sang. Cụ hiểu ý bèn lẩn đi ra. Đến làng An Thường thì quân đuổi theo cấp bách, cụ phải trốn vào nhà người, đào hang mà ẩn, đổi lốt thành người làm mướn, gánh một gánh rau đi. Qua sông Bái, gặp một viên tướng du kích nhà Mạc là Mỗ, hắn nhìn kỹ rồi mời về nhà, làm rượu khoản đãi. Ông bỡ ngỡ không hiểu. Chợt tên ấy đưa vợ con ra lạy mà rằng:- “Năm Ngọ, Ngài ở Đài Sảnh, có người bị kiện, Ngài xử rõ được nỗi oan cho người ấy. Ngài đã quên rồi ư”. Thưa chính là tôiBấy giờ cụ nhớ ra, cụ ở chơi đấy một đêm rồi viên ấy cũng theo cụ vào Nam Bài 26: Ông ĐÀM THẬN HUYÔng Đàm Thận Huy người làng Ông Mặc (Bắc Ninh), bà mẹ là Mỗ phu nhân sinh ra được ông và ông thứ tên là Thận Giản. Trong làng bấy giờ có một ông già người làng Tả Ao, đất Hoan Châu ( Nghệ An) đến làng làm địa lý có nhiều sự ứng nghiệm. Phu nhân nghe tiếng đến xin để hộ ngôi mả chồng. Ông già nhận lời để đất cho, nhưng cố ý trùng trình mãi. Mỗi khi đi đâu, tối đến vẫn về ở nhà họ Đàm. Một khi gặp mưa, ông già bắt phu nhân cõng mình, hai ông (con) xin thay thì ông gạt đuổi đi. Phu nhân vui vẻ cõng. Đến đêm, ông giả lén vào buổng thì phu nhân chống cự một cách nghiêm nghị. Ông già than rằng:- Đó thật là một người đàn bà tiết tháo, ta phải đền bồi mới được.Rồi ông già chọn chỗ đất tốt để mộ cho. Sau hai ông nối nhau thi đỗ. Gặp khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, ông cả (con trưởng) nhân đang làm Thượng Thư Bộ Lại đem quân đánh kẻ nghịch, bị thua mà chết. Triều Lê, khi Trung Hưng, tặng tước vương và lập đền Tiết nghĩa để thờ Bài 27: Ông LÊ TUẤN MẬUTriều trước, ông Lê Tuấn Mậu, người làng Xuân Lôi, huyện Yên Phong làm quan đến chức Đô Ngự Sử. Bấy giờ Mạc Đăng Dung, do sự đánh vật mà được làm nên quan to. Ông nhiếc hắn rằng:- Anh đừng cậy sức, ta rất có thể như thế được, nhưng không them làm đấy thôiĐặng Dung tức, xin với vua cùng ông thử sức, ông hang hái nhận lời, bôi mỡ vào mình, cài kim vào tóc và khố, vật cho Đặng Dung ngã suýt chếtKhi Đăng Dung cướp ngôi, ông thác bệnh không ra. Y cố mời mãi, ông bảo người đỡ vực vào triều, rồi nhổ vào mặt hắn mà chết Bài 28: Ông DƯƠNG BANG BẢNÔng Dương Bang Bản người huyện Thanh Liêm, sau được nhà vua ban tên đổi họ là Lê Trung. Tuổi già sinh được một con trai, nhờ vợ người phường chài nuôi hộ. Lớn lên về nhà nhưng không thiết học hành, chỉ cứ đi theo phường chài. Ông nghĩ vì tính nết đã quen nên không lấy làm lạ. Gặp ngày Tiên Húy, ông bị vời về Kinh, ông chiêm bao về nhà thấy những con ma tóc đỏ ngồi chễm chệ ở giường thờ, còn ông cha của ông đai mũ tề chỉnh, nhưng đều đứng giãn ra ngoài cả. Tỉnh dậy, nghĩ ra, ông cho tìm khắp chốn nhưng thuyền trôi bè nổi, lênh đênh chẳng biết là về đâu. Nhà phường chài đem công tử đi, nhập tịch ở huyện Giao Thủy, lớn lên công tử đỗ Tiến Sĩ. Khi vinh qui người làng bảo nhau rằng:- Anh chàng ở đâu, sao lại đến ở làng chúng taCông tử nghe nói, dò hỏi những người than cố mới biết được gốc rễ Bài 29: ÔNG UÔNG SĨ ĐOANÔng Uông Sĩ Đoan khi chưa đỗ, ở rể tại một nhà giàu kia trong làng tôi, sinh được một con giai. Người vợ dữ tợn, hễ thấy bè bạn chồng đến chơi, đều đuổi quầy quậy và nói:- Cái đồ dài lưng tốn vải ăn no lại nằm, làm gì mà ỏm tỏi, bắng nhắng thế- Gặp khoa, ông sắm sửa đi thi, người vợ keo kiệt không chịu cấp hành lí lệ phí. Ông giận dỗi vùng vằng ra đi, người ấy đuổi theo lột hết quần áo, ông phải lội xuống ao ẩn nấp. Một cô gái làng bên cạnh, cùng bà mang vải đi chợ bán, thấy thế bảo bà hỏi xem đầu đuôi ra sao, rồi xé vải tặng để ông đóng khố. Khoa ấy ông thi đỗ, bèn cưới người con gái ấy làm vợ ông. Ông làm quan trong Triều hơn 60 năm, thọ 99 tuổiNgười con gái ấy được phong Chính phu nhân. Quan Bồi tụng Sĩ Lang, quan Huyện Cẩm Giàng Sĩ Thiến, quan Lại Bộ lang Sĩ Trạch đều do phu nhân sinh ra cả.http://hocthuatphuon...ic=4275.25;wap2 Share this post Link to post Share on other sites
Posted 20 Tháng 9, 2013 Bài 30: HÓA HỔSơn Vi có tên Mỗ, là người để sai khiến trong ấp, vào rừng lạc đường, gặp một ông cụ già cởi áo mặc cho và dặn đi sau. Mỗ ngứa ngáy, một lúc sau đã thấy mình hóa thành con hổ, các hổ khác kéo đến cùng mình thân cận, cùng ăn cùng ở, được thịt thì chia cho mình ăn. Một hôm về nhà, nghe thấy vợ đương khóc, Mỗ thương xót gầm lên, muốn chết, vợ sợ hãi khua thanh la để hăm dọa, Mỗ sợ phải đi. Mỏi mệt nằm trên một tảng đá, lại thấy ông già đến bảo rằng:- Xin trả lại cái áo mượn của ta ngày trước. Nói rồi, cưỡi lên bụng hổ lấy gươm rạch rồi lột da, đau đớn tưởng chết được. Ông già chợt đi đằng nào mất, nhìn lại mình đã trờ thành người ngày xưa, đi tập tễnh về nhà thì sắp đến kì giỗ đầu. Vạch lung ra, thấy hãy còn những vết longChao ôi! Mỗ là hổ mà lại là người, người đấy mà lại là hổ. Thật lạ lung hết chỗ nói Bài 31: ĐỨA CON ĐENNgười con gái ở phố Lai Trào, thuộc trấn Hoa Dương, lấy người lái buôn nước tây đen. Sau người lái buôn về nước, nàng hỏi kì tái ngộ thì hắn nói:-Hễ 3 năm kg thấy sang, thì cứ việc đi lấy chồngQua kì hạn ấy, nàng cải giá, làm bạn với một người là Mỗ sinh được một người con trai, da thịt đen hệt như người chồng cũ. Mỗ muốn vứt bỏ đi, bởi có người biết bảo:- Đó là dư khí hãy còn sót lại, cho nên rợ Hồ có cái tục rửa ruột. Không sao (không việc gì) đâu.Khi người lái buôn đến tìm vợ, thấy đứa con bèn kiện để đòi. Quan xử đứa con về người lái buôn, còn người vợ vẫn thuộc về MỗSau nàng sinh mấy đứa con nữa, thì đều không khác thường ( không đen nữa) Bài 32: HANG NÚITrong hồi đánh vào Miên Nam, mấy người lính đi xuyên qua rừng, thấy một cái hang. Vào xem, ban đầu thấy tối đen, nhưng sau sáng rạng dần. Có thể trông rõ được hết, một lúc nhìn trong đó có dân cư, tiếng nói ríu rít không thể hiểu. Bọn lính vì đói, phải cướp lấy cái ăn, bọn người kia phải tan chạy như chim. Một lúc họ lại tụ tập kéo đến rất đông. Bọn lính sợ phải ra, dung những tên nhọn vừa đi vừa bắn lại. Về thuật với mọi người, lại kéo vào xem thì chẳng thấy gì cảBài 33: ANH KẺ TRỘM LÀNG LÂM HỘNgười lý – tưởng Mỗ làng Lâm Hộ, huyện Kim Hoa vốn xưa là một anh ăn trộm. Hồ thân phụ tôi Tri huyện ở huyện ấy. Mỗ nhân có việc đến huyện, kể lại hết những chuyện thiếu thời, không thiếu chuyện gì. Mỗ nói: Mỗ thường cùng tên Ất sang ăn trộm ở làng bên cạnh, đêm đi qua rừng bỗng thấy động tâm. Đến làng bên, chia nhau rình ở cổng làng. Ước chừng nửa trống canh, Mỗ nghe thấy tiếng đổ ngã huỳnh huỵch rất lớn, vội chạy lại xem. Một con hổ đương ôm Ất mà ngồi chồm hổm; Mỗ nhìn chăm chăm rồi hăng hái xông đến đánh trúng trán hổ. Hổ gầm lên mà chạy, Ất thì ngã vật ra đất, Mỗ đến gần nâng đỡ, thấy Ất hơi thở rất yếu, hai má bị cào toạc đến một tấc thịt. Mỗ hỏi, lúc lâu Ất mới nói:-Khát lắmMỗ rón rén đi tìm thấy dưới một mái nhà có rãnh nước nông, không đủ vốc tay bèn lấy áo thấm đem lại vắt cho Ất uống. Tỉnh rồi cõng về. Đi đươc nửa đường đã rạng đông. Ất khỏi, Mỗ thôi làm nghề ăn trộmÔi! Cứu bạn trong khi nguy cấp mà chẳng tiếc mình, đó là việc làm của những bậc liệt – sĩ đời xưa, nay lại thấy trong đám kẻ trộm, thật cũng là lạ lắm Bài 34: Ông ĐỖ UÔNG Đời Mạc, có ông Đỗ Uông, người làng Đoàn Tùng. Khi chưa đỗ, từ kinh đô về đến huyện tôi, trời đã tối, đường đi vắng tanh, không có ai qua lại. Chợt ở trong đền Thời – Cử có mấy chục quân kị kéo ra, đuổi theo sau ông. Ông đi nhanh gấp đường, qua làng Hoạch – Trạch gọi lớn: “ Bác Hoạch Trạch cứu tôi với”. Trong đền im lặng. Đến đền làng Minh Luân cũng lại gọi như vậy, thần đến đáp rằng:-“Em đới với bác Thời – Cử là tình cùng huyện, không tiện ra giúp ông anh được. Vậy ông anh nên cầu cứu với bác La Xá”Ông theo lời, đến La Xá quả có mấy tram quân giáp trụ theo ngay lời gọi mà kéo ra, quân địch sở phải chạy lui. Về đến làng Đoàn Tùng, ông đốt hương làm lễ ở sân, viết một đạo sớ đem việc ấy tâu lên thượng đế. Sớ đốt chưa xong, đã thấy giời nổi cơn sấm sét dữ dội, mưa xuống như dốc chĩnh nước. Đến sáng, nghe người ta đồn, đền Thời Cử đã bị sét đánh tan tành rồi. Ông mừng thầm. Tự tin cậy, sau ông thi đỗ bảnh nhỡn, sang đời Lê, làm quan đến Thượng Thư, sắc phong Phúc ThầnBài 35: TƯỚNG QUÂN ĐOÀN THƯỢNGLàng Hồng Thị, huyện Trường – Tàn có Tướng – Quân Đoàn – Thượng, đời Lí Huệ Tôn, cùng em con bà vú tuân lệnh đi dẹp giặc và trấn ở Hồng Châu. Nhà Lý mất, Đoàn chiếm cứ riêng một châu ấy tự giữ. Quan Thái Sư nhà Trần là Thủ Độ, bề ngoài gải vờ giảng hòa, nhưng ngấm ngầm truyền lệnh cho Hoài Đạo Hiến, Võ Vương Nguyễn Nộn đem trọng binh đánh úp. Hai bên đương đánh nhau kịch liệt, quân Trần lại từ miền Văn Giang đến đánh phía trước. Tướng quân liền bỏ Nộn, quay về chống cự phía Tây, bị nhát thương ở cổ, chỉ còn như sợi chỉ chưa đứt, phải cởi đai lung buộc lấy, tức giận hầm hầm chạy về phía Đông. Đến làng An Nhân, có một ông già đội mũ thắt đai chắp tay đứng bên đường mà nói:- Tướng quân là bậc người trung liệt, Thượng đế đã cất dụng đấy, lại chỉ một cái gò làng bên mà nói:- Đấy là nơi Ngài được hưởng sự thờ cúng xin đừng bỏ quaTướng quân vâng nhời, đến chỗ ấy xuống ngựa, gối giáo mà nằm, liền có mối đùn lên lấp đất. Dân cư tạc tượng thờ. Đến sau sông Nhị vỡ, nước ngập tràn lan miếu đổ. Khi nước xuống, tượng giạt xuống làng An Nhân, làng An Nhân bèn dựng miếu mới để thờ, miếu ở bên bờ sông An Nhân, trước mặt trông ra hai đường cái chính hai tỉnh Đông, Bắc, uy linh hiển hách, người buôn bán qua lại khó khan, chỉ đưa mắt với nhau. Một hôm, người coi miếu bỗng ngã lăn ra đất lúc lâu rồi vùng dậy ngồi lên ghế cao, gọi những người kì cựu trong làng ra bảo rằng:- Ngày mai phải quét dọn sạch sẽ vì có Đức Vua đến thăm cảnh. Người nào mặc áo đen và đi chân không là đúng đấy. Phải chào đónMọi người đều vâng lời. Hôm sau ai nấy mũ áo chững chạc đứng đợi dưới bến. Trời đã về chiều, mỏi mệt đã toan giải tán. Chợt bờ bên sông, có một vị sư, mình mặc áo lục thù, đằng sau có một tên tiểu đồng theo hầu, đi ngang qua cầu, đến trước cửa đền ngồi nghỉ. Mọi người đốt hương sụp lạy, nhà sư lấy làm lạ hỏi, ai nấy đem lời thần tâu lại. Nguyên bấy giờ, vua Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con, tự xưng là Điều Ngự Đại Sĩ, xuất gia, tu ở chùa núi Yên Tử, bên mình mang một cái lọ, một cái bát thường đi lại trong các xóm làng, dần dần người thường chả ai biết nữa. Tối hôm đó, dừng bước ở làng An Nhân, nghe câu chuyện thần nhân báo trước, Ngài lấy làm thích, bèn ngủ trọ ở đấy một đêm, Ngài giảng bảo về lễ nhân quả, khuyên nên thể theo đức hiếu sinh của giời. Sớm hôm sau, Ngài dậy sớm và trở về Kinh sư. Đến tối, bỗng một cơn mưa to gió lớn nổi lên, rồi thần tọa quay mặt về Đông; từ đấy những người đi qua đường không còn bị tai nạn gì nữa. Lịch Triều phong tặng là là Thượng đẳng thần (Lũy cũ Trường Tân đến nay vẫn còn)http://hocthuatphuon...ic=4275.30;wap2 Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 10, 2013 Bài 36: SÔNG DỤNG Huyện Nam Đường ( nay là Nam Đàn) có sông Dụng là sông lớn ở Châu Hoan. Nguồn phát ra từ Trầm Châu, đi qua Đại Đồng, Đồng Luân, lướt trên trại Sa Nam, bến Phù Thạch mà chảy ra bể. Thường có song lớn mênh mông, chỗ nào cũng có vực sâu, nhất là vào khoảng những làng Đại Đồng, Đồng Luân càng nhiều lắm. Bên cạnh vực có những làng xóm cư dân đông đúc. Người ta thường thấy có mây bọn người đàn bà con gái đến chợ buôn bán, y phục, ngôn ngữ ra lối tỉnh thành. Có người dò theo, thấy bọn người ấy đi đến sông thì mất. Một hôm có một người dân xuống bến Đồng Luân rửa tay, rồi hóng mát, đứng khuất vào khoảng lau sậy, thấy trên bãi cát có 2 người cỡi ngựa chạy quanh 3 vòng rồi cùng song cương mà đi xuống nước cả. Người ấy nín thở đứng lặng xem ra thế nào. Một lúc, thấy mấy tòa lâu đài nổi lên ở giữa dòng sông, nhỏ như quyển sách, chỉ trong chớp mắt đã cao lên đồ sộ. Quan lại, kẻ hầu, người hạ nhộn nhịp đi lại khá đông. Mục lúc lâu, người ấy ngứa cổ không thể nhịn được, dằng hắng 1 tiếng, lập tức những lâu đài trước mắt, chìm mất hết, rồi có hai con cá lớn, cụt đầu nổi ở bến sông, nước sông đỏ lòmĐinh quân, người làng Đại Đồng làm đến Tri – phủ, một lần qua bến đò lại Xá ở Hải Dương, thấy trong quán có một bà già, chừng 63,64 tuổi hỏi mình rằng:- Ông có phải người làng Đại Đồng không? Sao tiếng nói giống thế?Đình quân nói:-Làng ấy cách ngàn dặm, làm sao bà lại biết?Bà già cười:- Đại Đồng là nơi tôi vẫn chơi khi xưa, có ông không biết đấy thôiHỏi kĩ thì bà nói:- Tôi người ở đây, thuở nhỏ ra tắm sông, bị thần sông là Giang Đông Hầu bắt lấy. Ở sông này được 3 năm thì hầu cải bổ vào làm việc ở trấn Đồng Luân, coi vực Đại Đồng? Ngoài những lúc hầu hạ chăn màn, tôi thường lên chợ chơi thành quen, không phải một ngày. À cha con Thiếu Vệ Mỗ, cha con Lý Trưởng Mỗ, nay hãy còn cả chứ? Đó là những người hào trưởng trong làng. Thiếu vệ có người con gái chết đuối phải không?- Phải.Thì chính một người lính hầu ở dưới trướng của Hầu tôi là con rể d8a61y! Long Cung hay lấy vợ trên trần, đều cho bọn lính tráng đi bắt, cũng một đi khi là Quan Phủ đi bắt lấy nhưng mà ít thấy. Ở trấn được 5 năm, một lần có cái bè ở mạn ngược xuống, chở kèm theo 4 cây gỗ chò. Hầu thích những cây gỗ ấy, tung nước lên cho bè đắm. Mấy tên thủy thủ chết oan, họ kiện đến quan Trấn, quan Trấn xử Hầu và đuổi về chỗ cũ. Về đến đây, Hầu thả tôi lên, tôi theo song chìm nổi bềnh bồng, hoảng hốt như trong mộng. Người nhà vớt tôi, mấy ngày tôi mới tỉnh lại. Làng mây, cung nước đến nay trước mắt còn như thấy rành rànhĐầm Đông Liệt ở huyện ấy ( Nam Đàn) cách sông khá xa, thuyền bè không đi thông vào được. Tục truyền có con thuồng luồng ngắn vuốt, linh thiêngMột người lái buôn nước mắm ở huyện Hưng Nguyên, bữa kia từ Hoan Châu ra kinh đô, đỗ thuyền ở bến sông Nhị. Bấy giờ đương mùa hạ, nước to, người lái bán hàng xong, nhưng chưa going buồm về được. Một hôm người ấy thấy 3,4 người công sai, đem rượu thịt đến cùng mình đánh chén. Tiệc rượu gần vãn, họ lấy ra một phong thư ghé tai bảo lái buôn rằng:- Tôi là quân hầu của thần thuồng luồng đầm Đ6ng Liệt. Thần đi đánh núi Tản Viên, dọc đường bỏ mình, nhờ bác đưa giúp thơ này đến vực Đồng Luân hộNgười lái vâng lời, nhổ thuyền xuôi nam, thuyền đi như tên, chốc lát hơn nghìn dặm, tối hôm ấy đã đến Đồng Luân. Người lái buôn gõ thuyền gọi, thấy dưới nước có tiếng thưa rồi nhận lấy thư, dặn người lái hãy chờ đấy. Lúc lâu nghe văng vẳng có tiếng khóc thê thảm. Đêm khuya, có hai người lính đội lên cái hộp giầu, trong đó có đựng 20 lượng vàng đưa để tạ ơn, người lái đó chối:Đã được buồm xuôi nươc thuận là đã được ban ơn rồi, tôi đâu dám nhận số vàng ấy. Người lái chỉ xin nhận cái hộp mà trả lại vàng. Từ đó, xuôi ngược giang hồ, một đời không gặp sự kinh hãi nào cảBài 37: NÚI ĐÔNG LIỆTNúi Đông Liệt, đứng trên bờ đầm, trên đỉnh có một chỗ thủng lớn, tương truyền là vết cũ sao sa, rộng đến hơn chục mẫu, nước khi đầy khi cạn. Trong núi có bàn cờ đá, cạnh bàn có một lốt bàn chân, to hơn chân người bình thường. Có một người con gái giẫm chân vào đó, bụng thấy cảm động rồi có mang sinh ra một đứa con gái. Đứa con ấy lọt long ra đã biết nói, biết việc quá khứ và tương lai. Tiếng đồng đến Triều đình, được vời vào Kinh, hỏi việc quỉ thần, hỏi đâu trả lời ngay dược đấy. Thấy là quái dị, Triều đình lại cho về. Được 3 tuổi thì đứa bé chết. Người ta cho là Tiên, lập miếu thờ, nay miếu đó hãy còn dưới núiBài 38: NÚI RẾTNgọc sơn, thuộc về một cái ấp, ở giữa hai châu Hoan – Ái. Ấp đấy có một ngọn núi, gọi là núi Rết. Có miếu thờ làm ngay ở giữa hang núi. Hàng năm phải lấy người làm vật cúng tế, người trong ấp cắt lượt nhau gánh chịu; họ đem vàng bạc mua chuộc những người lang thang 4 phương thành ột thói thường. Có một anh nghèo kiết kia đến lượt, phải làm vật tế thần, không biết làm thế nào. Tới kì, anh tắm rửa sạch sẽ, để đi làm vật hy sinh nhưng trong mình giấu sẳn một con dao sắc. Canh tư, anh ta hăng hái ra đi. Làng tế xong, khóa trái cửa lại, rồi về. Mỗ cầm dao chặn cửa hang đợi chừng một trống canh thấy một mùi tanh nồng nặc tỏa ra 4 phía, rồi một con rết cực kì lớn như cái mộc ( lá chắn) rầm rầm từ trong hang bò ra. Anh giơ dao đâm ngay, chẳng mấy chốc thì con rết chết. Từ đấy không thấy còn cái quái nữa. Núi nay thành một nơi danh thắng cùng với núi Phục Dực nổi tiếng như nhauBài 39: NỘI ĐẠO TRÀNGTriều Lê khi mới trung hung, việc binh đao vừa tạm yên, thì giống ma quỉ ở rừng núi và yêu quái nổi lên rất nhiều, dân gian thật là khổ sở. Tại làng An Đông, huyện Quảng Xương có người tên là Trần Lộc, vốn làm nghề phù thủy. Một hôm đi qua núi Na, nhân đương ngày hè nắng dữ, ngồi nghỉ ở khoảng rừng cây tươi tốt. Bỗng ở trên đỉnh núi có một ông già đầu bạc phơ phơ, dựa vào đỉnh núi ngó xuống lấy nón mà vẩy, Trần Lộc xắn áo đi lên, quá (xế) trưa thì lên đến đỉnh, phục xuống làm lễ bái yết. Ông già vỗ về rằng:- Nhà người là người thành thật, đôn hậu, Thượng đế đã có ý lựa chọn ngươi, sai ta trao cho những bí quyết, ghé vào tai mà bảo:- Đó là những phép Phật thượng không, nhà ngươi nên siêng năng làm việc tế độ, toàn sen sẽ chẳng xa gì- Nói xong thì không thấy đâu nữa. Trần Lộc trông lên trên không mà bái tạ. Rồi trở về đem những phép ấy ra thử dùng thì đều linh nghiệm, được nổi tiếng về bùa phép. Người ta gọi Trần Lộc là Phật Tổ Như Lai: hai con là Tả-Hữu, Tôn Thánh; người đồ đệ giỏi nhất là Tiền quan Tôn Thánh; còn ngoài ra là Bồ Tát, Kim Cương, Minh sư, Thượng trung, Hạ thặng v.v Mỗi hàng một danh hiệu mỗi khác. Nghe nói núi Mỏ Diền có một con yêu, thường làm tai nạn cho những khách qua đường, liền sửa soạn hành trang đi đến để trị. Con yêu vận lối cung trang giữ trên đầu núi, cùng Tổ sư chống cự 3 ngày không phân thua được. Tổ sư tức lắm, phóng một cái quyết lật đổ núi. Yêu hóa làm con quạ bay vút lên trời, Tổ sư lại phóng mấy cái quyết trúng vào mình nó, nó phải sa xuống đất mà chếtMười hai cửa bể ở miền Tây Nam, mỗi cửa đều có một vị thần, thường làm cho nước bốc cao lên như núi, chốc lát lại đổ xuống tan đi, thuyền bè nào gặp phải không thể sống sót được. Xảy có việc phải đi trông nom ở Sùng sơn, nên không trừ nốt đượcBấy giờ vua Thần Tôn mắc một bệnh lạ, có người bảo là cái nhân quả kiếp sau của vua Lý Thần Tôn ( Xem ở Lĩnh Nam trích quái) trong triều ngoài nội đều lo ngại. Đại Nguyên súy Thanh Vương tính kế, xin vua nhường ngôi cho thái tử rồi xứng Thái Thượng Hoàng, ở cung riêng để chữa bệnh. Dùng qua bùa thuốc trong mấy năm không thấy hiệu nghiệm gì cả. Nghe tiếng Tổ sư, triều đình sai Trung sứ đến đón mời. Tổ sư nghĩ vì cái yêu khí ở vùng Tây nam mới yên, chưa dám đi ngay, liền cử đồ đệ là Pháp Bộ kim Cang đi thay, đấm vào ngực mà niệm chú. Hơn một tháng, Thượng Hoàng khỏi bệnh, trở lại ngôi rồng, truyền xuống dựng riêng trường Nội Đạo đê được vẻ vang. Kim Cương trở về, đường qua làng Bố Vệ, giữa khi người làng đang làm lễ tế thần, Kim Cương đứng đái ở trước đình, bị mấy người trẻ tuổi ở trong làng tức giận trói lại. Kim Cương nói mãi mới được tha về, bằng bắt một cái quyết trói rồi đi. Lập tức trong đình, già trẻ ai nấy hai tay chặp vào nhau mà ngồi dựa cột, chỗ năm người, chỗ ba người, muốn giằng gỡ cũng không thể được, cả làng kinh ngạc. Có người nói, vừa nãy có một thuật sĩ vô lễ, người làng trói rồi thả ra, hay là hắn chăng. Cho người đi tìm thì chẳng thấy đâu cả. Việc đến tai triều đình, vua nói:- Đó là Pháp Bộ Kim Cang đóHỏi đến Tổ sư, Tổ sư sợ, trách mắng Kim Cang, rồi xét lại bao nhiêu bài quyết đã trao rồi rút lại hết, chỉ còn lại những bài quyết thỉnh Phật và trừ tà lưu hành ở đời. Ở vùng Bắc Giang, có một phái gọi là Nộ Đạo Tràng, lấy trượng (gậy) trị bệnh, đó không phải là phái nàyBài 40: BÀ VỢ THỨ ÔNG NGUYỄN KIỀUBà vợ thứ ông Hạo Hiên Nguyễn Kiều là bà Đoàn Thị Điểm, người đất Giang Bắc, nguyên là em gái ông Tinh Nguyên Đoàn Luân. Bà nổi tiếng văn học, cùng anh vui việc bút nghiên, vẫn thường kình địch nhau về văn thơ. Một buổi tối, bà ngồi trước đài trang tô điểm, ông Đoàn thì rửa tay ở trên cầu ao, ông Đoàn đọc rằng:Chiếu kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm(Trước kính vẽ mày, một nét thành ra hai nét)Bà liền đối lại ngay:Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân(Bên ao ngắm nguyệt, một vòng hóa ra hai vòng)Ông Thái học sinh Đặng Trần Côn mến tiếng, đưa bài thơ để được vào thăm. Bà cười mà rằng:- Cậu học trò mới học ấy, bõ gì nói chuyện.Ông Đặng tức giận trở về, cố chí mài giũa kinh sử. sau trở nên một bậc Danh sĩBà kén chồng khe khắt lắm, bao nhiêu người muốn lấy mà bà không vừa ý. Đến khi đã quá tuổi cập kê, về làm vợ ông Hạo Hiên. Trong chốn khuê môn, vợ chồng kính trọng nhau như khách, đương thời cho là một chuyện đẹpÔng hạo Hiên mất, những học trò theo học ông trước nay lại theo đuổi bà, thành danh được đến mấy chục ngườiTrong tập Tục truyền kí, có ba chuyện đền thiêng Cửa Bể: Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ, An ấp liệt nữ, của bà làm còn lưu hành ở đờiNgười cháu là Mỗ, con gái ông Tinh Nguyên, bà vốn yêu dấu, lấy ông Nguyễn Xuân Huy, Đốc Trấn Sơn Nam. Khi ông Xuân Huy cùng người con giai mất bà có câu đối (làm thay) rằng:Tuyền hạ thừa hoan, ưng tri quân hữu tửMộng trung đối thoại; thùy vị thiếp vô phuNghĩa là:Dưới suối hầu vui, con, đành rằng chàng cóTrong mơ trò chuyện, chồng, ai bảo thiếp khôngCâu này ý nói chồng và người con giai đã chết, nay bố con sẽ được gặp nhau, cùng vui ở nơi chin suối thì rõ là chàng có con, vợ ở lại nơi dương thế, vẫn được gặp chồng, cùng nhau trò chuyện trong giấc mộng thì ai nở bảo là không có chồngNăm 78 tuổi, bà còn đi lại chốn kinh kì, mở trường dạy học trò.http://hocthuatphuon...ic=4275.35;wap2 Share this post Link to post Share on other sites
Posted 17 Tháng 10, 2013 Bài 41. ÔNG CHU VĂN TRINH - (CHU VĂN AN) Đời nhà Trần có ông Chu Văn Trinh, tức là Văn An, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ấn Tiên sinh, người làng Quang Liệt, Huyện Thanh Trì, đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám. Đời vua Dụ Tông dâng sớ xin chém 7 người, rồi treo mũ từ quan về ở ẩn ở núi Chí Linh, dạy học trò. Sĩ phu đều kính ngưỡng như núi Thái sơn, sao Bắc đẩu. Quan Tư Đồ Chương Túc Hầu Trần Nguyên Đán có tặng thơ rằng: Phiên âm: Phủ miện hòn khuê tâm dĩ hội Phong sương an cảm khốn hàn mai Bạch vân vạn điệp sơn phi yểm Tử mạch đa kì ngã mã đồi Huệ trường vật kính cô hạc oán Bồ luân bảo vị hạ dân hồi Hy triều xã tắc thiên phương tộ Khẳng sứ Tiên sinh lão bích ôi Dịch văn: Trâm hốt, cân đai đã nguội lòng Gió sương đâu dám phạm mai đông Muôn trùng mây bạc non che khuất Bao lối đường hoa, ngựa biếng going Màn huệ kinh gì lời hạc oán Xe bồ quay lại, bụng dân mong Đương triều xã tắc giời còn tựa Sao để Tiên sinh chốn thẳm cùng Giải nghĩa: Mũ, đai, tram, hốt (tức là việc công danh) thì lòng Tiên sinh đã nguội lạnh. Ngày nay, Tiên sinh đã như một cây mai giá lạnh rồi thì gió sương không dám phạm đến Mây trắng muôn đợt cài lấp cửa núi, che khuất chỗ Tiên sinh ẩn dật. Đường đời lắm lối, làm cho con ngựa của Tiên sinh đã mỏi chồn rồi, không muốn rong ruổi nữa Nằm trong màn huệ không giật mình vì tiếng hạc lẻ kêu đêm. Nhưng xe bồ của Tiên sinh cũng nên, vì lòng dân trông cậy mà quay lại Vả chăng, xã tắc của Hoàng Triều đương được lòng trời giúp đỡ, hì lẽ đâu lại để Tiên sinh ẩn náu ở chốn non xanh xa thẳm (Những câu thơ trên tỏ lòng ngưỡng qui biết chừng nào) Ấy ông được đời kính trọng như vậy Đời truyền rằng: khi ông dạy học ở thông Cung Hoàng, trong bọn học trò có hai người thiếu niên, dung mạo kì vĩ, không bao giờ ngồi cùng chiếu với các học trò khác. Có người trông thấy họ đi từ dưới nước lên. Ông biết là thủy thần, gặp năm nắng to, ông sai đi làm mưa. Hai người từ chối thưa: - Thượng đế phong tỏa cả sông hồ, không lấy đâu ra giọt nước nào mà làm mưa được - Ông bảo lấy nươc ở nghiên mực, Hai người nói: - Lời thầy dạy không dám trái, nhưng trái ý thượng đế sẽ bị nghiêm phạt Hai thiếu niên đi, một lúc mưa xuống như trút. Bỗng chốc thấy có hai con thuồng luồng bị cụt đầu rơi xuống, ông thu nhặt rồi đem chôn ở ngoài cánh đồng làng, tục gọi là mả thuồng luồng Sau khi ông mất, người làng dựng đền thờ ngay trên chỗ nền nhà học cũ , những bậc thân sĩ trong làng đều được phối hưởng. Trong năm Cảnh Hưng, ông Bùi Huy Bích cầm quyền, dò hỏi dòng họ còn được 16 người, thấy đã đổi sanh họ Nguyễn, và đều ngu độn không biết gì, ở vào hạng cùng dân cả. Ông truyền lấy lại họ cũ, và chọn một trẻ em dạy cho học, để sẽ tiến dẫn lên triều đình, xin phong ấm cho, như việc xưa bên Trung Hoa đối với nhà Nho đời Tống là ông Trình, ông Chu, nhưng chợt có biến nên việc ấy chưa làm được Bài 42: ÔNG LÊ TRÃI - (NGUYỄN TRÃI) Tiền triều có ông Lê Trãi, hiệu Ức Trai tiên sinh, nguyên họ Nguyễn. Cha là ông Phi Khanh (hàm Tự Khanh) người huyện Phượng Nhỡn. Tính ưa phong thủy, nhân dời mộ tổ đến tang ở làng Nhị Khê, huyện Thương Phúc, do vậy làm nhà ở làng ấy Ông đỗ Tiến sĩ đời nhà Hồ, làm quan tới chức Ngự Sử Đài Chánh Chưởng, Nhà Hồ mất, ông theo cụ Tự Khanh tránh loạn ở Côn Sơn, có câu thơ Dạ y ngưu đầu vọng trung nguyên Nghĩa là: Đêm lần trong sao đẩu, sao ngưu mà vời trông đất nước Đủ tỏ tấm lòng ưu thời mẫn thế của ông thường biểu lộ trong thi ca Hồi này, có người làng Hoắc Sa (Sơn tây) là Trần Nguyên Hãn làm nghề bán dầu, buổi tối qua làng Thụy Hương, vào ngủ ở đền Hy Khang Đại Vương Lý ông Trọng. Đêm khuya thấy vị thần ở làng bên cạnh đến rủ Vương cùng lên chầu đức Thượng Đế, Vương từ chối nói là nhà có vị Quốc Công ngủ trọ. Lúc gà gáy, vị thần ấy đi chầu về, Vương hỏi hôm nay Thiên đình bàn việc, có những hiệu lệnh gì? Vị thần nói: - Thượng Đế xét đến nước Nam chưa có chủ, nên có sai Lê Lợi làm vua, Lê Trãi làm tôi Trần tỉnh dậy, bèn đi dò tìm được ông Lê Trãi bảo cho biết. Ông (Lê Trãi) đến hỏi lại, thì nằm mơ thấy Vương bảo rằng: - Việc bí mật ở Thiên Đình không thể tiết lộ. Chị Tiên Dung biết rõ cả đấy. Và người đàn bà nói thì Thượng Đế không quở trách. Vậy nên đem một vạn vàng nan đến lễ, chị ấy sẽ kể cho mà nghe Ông theo lời: đến cầu bà chúa Tiên Dung, rồi mơ thấy bà gọi bảo rằng: - Này, Lê Trãi! “Lê Lợi làm vua, Lê Trãi làm tôi, nhà ngươi còn chưa biết ư?” Hỏi kĩ lại thì nói Lê Lợi người ở đất Lam Sơn, Thanh Hóa Ông liền cùng ông Trần tìm đến, thấy Lê Lợi đương mặc áo nâu ngắn, vác bừa, dắt bò từ ngoài đồng vào. Các ông xin vào ở lại một đêm, nhân khi gặp ngày Tiên húy, nhà Lê Lợi giết lợn làm cỗ. Ông xuống bếp đun nấu, thấy Lê Lợi cầm dao thái thịt, vừa cắt vừa ăn, liên bảo riêng với ông Trần rằng: - Bà Tiên Dung nói lừa ta đấy! Rồi đến đền để đòi vàng lại. Đêm ấy bà Tiên Dung lại bảo: - Lê Lợi làm vua, đã có mệnh lệnh, nhất định rồi; chỉ vì Thiên tinh chưa giáng đấy thôi, sao không đến mà đợi? Bấy giờ Lê Lợi đã được quyển Binh thư và thanh gươm thần, đêm nằm đóng cửa đọc sách. Ông nhòm trộm và cùng ông Trần đẩy cửa bước vào. Lê Lợi tuốt gươm xông ra, hai người đều phục xuống đất nói: “chúng tôi đường xa lặn lội tìm đến chỉ vì Minh Công có thể làm chủ thiên hạ được đấy thôi”. Lê Lợi cười mà lưu lại, mưu việc khởi binh. Ông bảo chưa nên vội. Bèn dựng nhà dạy học, thường chế ra những cái trống bỏi, nấu mật đặc nặn ra những con gà con chó cho lũ trẻ làm đồ chơi. Trẻ khác thấy thế đua nhau nói với cha mẹ đến xin theo học. lại thường lấy mỡ viết lên khắp lá cây trong rừng mấy chữ sau: “Lê Lợi vi quân, Lê Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua Lê Trãi làm tôi) Sau kiến ăn mỡ đục thành nét chữ. Những người đi kiếm củi thấy thế, cho là sự thiêng liêng, người nọ bảo người kia, nhân thế người đến nương theo càng ngày càng đông Năm Mậu Tuất (1418) dấy quân, trước sau gồm 20 trận đánh, ông thường dự bàn mưu lược trong quân trường Năm Bính Ngọ (1426) đánh ở Tụy Động, quân ta đại thắng, tiến đến áp bức thành Đông Đô Thành Sơn Hầu nhà Minh là Vương Thông đóng thành chống giữ Năm Đinh Mùi (1427), nhà Minh sai An Viễn Hầu Liểu Thăng, Kiềm Quốc Công Mộc Thạnh chia đường đều tiến đến cửa Đông Đô. Vua Lê Lợi đánh nhau với giặc ở núi Mã Yên, chém chết Liễu Thăng, bắt sống bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ, hơn ba trăm người. Mộc Thạnh đương đêm phải chạy trốn. Vương Thông mở cửa thành ra hàng vua tha cho được trở về Bắc. Từ đấy, hai nước thông hiểu, bao nhiêu giấy tờ đều do ông soạn thảo. Khoảng năm Thiệu Bình (1431-1439) bài biểu tạ việc thăng quan có những câu: Phiên âm: Viên môn trượng sách, lâm đại tiết nhi bản sinh trung nghĩa tự tri Hổ khẩu điền thân, quyết hòa nghị nhi lưỡng quốc can qua dĩ tức Dịch nghĩa: Quất ngựa tới cửa quan, gặp tiết lớn mà nửa đời phơi trung nghĩa Dấn thân vào miệng cọp, quyết giải hòa cho hai nước can qua Đó là những lời đúng sự thực cả. Vì công lao lớn được ban quốc tính, trao cho chức Vinh Lộc Đại Phu, Nhập Nội Hành Khiển, Tri Tam Quán Sự Ông Trần sau được phong chức đến Quốc Công, khi mât được phong Phúc thần. Nay có đền thờ ở làng Hoắc Sa Văn thơ của ông Trãi có khí lực dồi dào. Khoảng năm Thuận Thiên (1428-1433) làm những bài văn như Bình Ngô Đại Cáo, bia Thần Đạo ở Vĩnh Lăng, Lam Kinh, đều có chép trong sách Thực Lục, ở đây khỏi phải chép thừa. Hoảng năm Thiện Bình, nhà vua tặng bà Chiêu Nghi làm Hoàng Thái Phi ( Bà này không phải sinh mẫu của Thái Tôn, nhưng có công nuôi dạy nên vua cũng coi như mẹ), ông phụng mệnh thảo bài chế như sau: Phiên âm: Trẫm duy Khắc kinh duy thân Duật truy lai hiếu Phủ cảo đế gian nan chi nghiệp Duy trung khuê dự lượng chi cần Tái dương đại hiệu ư triều đình Dụng thỏa thục linh ư u tịch Cụ vị mỗ Bỉnh tri ý đức Kinh sự Tiên triều Tảo bản dãng chi càn khôn Cộng trất một kì phong vũ Phụng thừa cờ trữu, vô vong sái tảo chi tâm Nhân bổ y thường, kì tận di phùng chi ích Nhất tâm tại ngự Thập tải my khuy Mang đường khi văn, Tuy thủy phong sa, doãn bị thường ư hiểm trở Hô đà mạch phạn, Lâu đình dậu chúc, thường tương trợ kì khát cơ Trí ngao cực chi diện an Đa kê minh chi cảnh giới Phương mẫu hậu bất hạnh nhi thăng thệ Độc trẫm thân hữu lại kì phù tri Thâm hoài cổ phục chi ân Cảm phục truy sung chi điền Việt khảo Thành Chu chi di chế Nghi gia Thái phi chi tàn phong Vu dĩ chương bảo hực chi công Vu dĩ tận ai vinh chi lễ I hi Vi dịch mạnh phục, lưu huy vô gián kí tồn cong Mã liệp lậu tuyền, bỉ sức hữu quang ư minh mạc Dịch nghĩa: Trẫm nghe Đối với dung thân Trước nên hiếu kính Giữ được cơ nghiệp lớn lao của Cao Đế Nhờ công sse6ng năng giúp đỡ của Đức Bà Vậy: Phải tôn hiệu lớn ở Triều đình Để thỏa hồn thien6ng nơi u tịch Đức Bà mỗ, Giữ gìn đức tốt Thờ phụng tiên triều Gặp buối trời đất chông chênh: Từng cùng gió mưa tắm gội Nâng niu khăn túi, một lòng không sai Khâu vá áo xiêm, mười năm chẳng thiếu Đức Cao Hoàng tổ, Từng trải những bước gian nan ( như vua Hán Cao, nào mây ráng ở Nam Đường (1), gió cát ở Tuy Thủy(2) Lại qua những buổi cơ hàn (như vua Quang Võ) nào cơm chiêm ở Hô Đà(3), nào cháo đậu ở lâu Đình(3) Đều có đức bà: chia sẻ đắng cay Sớm hôm săn sóc Khi đức Mẫu Hậu băng hà, Trẫm được nhờ ơn dìu dắt Nhờ ơn dưỡng dục, dám nhãng truy sung Vậy, nay theo qui chế cũ của nhà Thành Chu Tôn phong Bà làm bậc Thái phi Để tỏ công ơn phù trì, để hợp lễ thương kính Than ôi! Áo xiêm dâng tiến, vinh quang chắng cứ mất còn; Nắm đất vun bồ, rực rỡ khắp nơi minh mạc Khi tặng bà Chiêu Nghi làm Trinh Ý Nguyên Phi, ông phụng soạn bài chế rằng: Phiên âm: Trãm duy Thành nhân chế lễ, đạo mạc trận ư thân thân Triều đình suy ân, nghĩa ưu đôn ư quí quí Tái ban chế phát Dụng bi u quynh Cụ vị Mỗ Thục thân nhu gia Đương càn không thảo muội chi tế Hình cung khốn cần kiệm chi phong Linh sơn khưu bỉ chi gian nan, vưu tư chủ quĩ Lẫm lộ y thường chi lam lũ, chinh lại di phùng Mỗi niệm tá phụ tiên triều chi công Khởi vong bảo hựu xung nhân chi đức Thời phương đại định Dục thân chi hiếu chi tình Cảm hệu truy sung chi điền Thị dụng trạc chi tam phi chi liệt Dĩ chiêu dị số chi vinh I hi Sinh dưỡng tuy thù, ân hữu đồng ư võng cực Tủ sinh vô giàn, kí mặc hựu ư vĩnh chung Dịch nghĩa: Trẫm nghe Thánh nhân đặt lễ, đạo không gì trọng hơn yêu mến người thân Triều đính ra ân, nghĩa chẳng gì hậu hơn, tôn trọng bậc quí Nay ban chế sách, để làm sáng rọi nơi tới mờ Đức Bà mỗ Người vốn tinh hạnh nhu mì, đoan trang tĩnh nhất Đương khi mờ tối bao trùm trong khoảng trời đất Đã tỏ tinh thần cần kiệm ở chốn cung vi Khi ở núi Linh sơn, lương thực khô khan từng nhờ lo liệu Hồi ở trại lẫm Lộ, áo xiêm rách rưới thường cậy vá may Những nhớ đến công giúp đỡ tiên triều Hà lại quên ơn phù trì tiểu tử Buổi vừa bình định, người đã qua đời Tình chi hiếu muốn tỏ ra Lể truy sung phải nhớ đến Vậy tôn bà lên hàng ba vị Hậu phi, để tỏ sự vinh qui đặc biệt Than ôi Sinh nuôi dẫu khác, ơn săn sóc chính cũng như nhau Sống thác là thường, việc hộ trì hẳn là còn mãi Đó là những bài văn hay, làm cho người đọc được khoái trá Có lần ông bị lỗi phải hạ ngục, nhưng lại được than gay. Dần thăng lên đến Môn hạ Tả Gián Nghị Đại Phu kiêm Hàn Lâm Thừa Chỉ Học Sĩ, tước Tế Văn Hầu. Tính điềm đạm có chí ẩn dật. Thơ tặng bạn có hai câu rằng: Phiên âm: Thân ngoại phù danh yên các quýnh Mộng trung hoa điển cố sơn tri Dịch nghĩa: Việc được ghi công trên gác khói cao thẳm cũng chỉ là phù danh ở bên ngoài Thực ra, ta vẫn mơ màng cái cảnh hoa nở chim kêu ở chốn núi rừng Ông có cái biệt thự ở Kinh Bắc gọi là Tiên Viên. Cuối năm Thiệu Bình, ông đến cửa ai Nam Quan đợi mệnh Bắc Triều. Bấy giờ Thái Tông Hoàng Đế ngự giá Bắc tuần, đến chơi Tiên Viên, rồi bang hà đêm hôm ấy. Người ta bảo vợ ông là nàng Nguyễn Thị Lộ đã giết vua, nên ông bị tội, cả một nhà không kỳ lớn bé đều bị chu di ( Chém bỏ thây ở ngoài chợ) Khi xưa đánh nhau ở núi Mã Yên với quân Minh, quân ta bắt được Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc. Hoàng giỏi phong thủy, khi ở nước at đã đi xem khắp các kiểu đất và có ghi cả. Đến nay Hoàng bị bắt, ông Nguyễn Trãi coi là tù binh, không cần kính trọng, Hoàng cười bảo rằng: - Mả tổ nhà tôi có Xà văn Tinh, nên dù có nạn cũng chỉ trong năm ngày mà thôi; không như mả nhà ông, có vạ rất lớn bị tru diệt Ông không tin, sau Hoàng được tha về mà ồng thì vì Thị lộ mà mắc tai vạ. Người ta cho là ứng nghiệm Nay xét mả Tổ nhà ông ở Nhị Khê, huyệt táng ở ruộng bằng phẳng, người thì cho là cách “tướng quân mở cờ” người thì cho là hình “tướng quân cụt đầu”. Vì hướng nam có cái gò rùa qua đuôi lại. Trong bảng Kiểm kì cuả Hoàng Phúc nói rằng: “Nhị khê mạch đoản, họa thảm chu di” chính là trỏ vào đấy vậy Đời truyền, khi ông chưa hiển đạt, ở làng Nhị Khê dạy học trò, một hôm trỏ cái gò ngoài đồng bảo học trò: - Ngày mai các anh giẫy cỏ ở cái gò ấy để dựng nhà dạy học Học trò vâng lời, tảng sáng hôm sau ông nằm mơ thấy một người đàn bà đến nói: - “ Tôi, người còn yếu. con còn nhỏ, xin hãy thư cho ba bữa, để tôi được dời đi nơi khác” Tỉnh dậy, ông ra gò xem thì thấy học trò đã dọn xong rồi. Họ bắt được 2 quả trứng, hỏi lí do, họ nói: - Vừa rồi thấy con rắn, chúng con đánh nó cụt đuôi chạy mất Ông cầm hai quả trứng về nươi giữ. Đêm hôm ấy chong đèn đọc sánh, ông thấy có một con rắn trắng leo lên xà nhà, rỏ giọt máu xuống sách, ướt chữ Đại (là đời), vết máu thấm xuống ba tờ giấy. Ông tự hiểu mà rằng: - Nó sẽ báo oán ta đến 3 đời sau Trứng rắn nở ra được 2 con, một dài một ngắn, ông sai đem thả xuống sông tô lịch ở làng bên, nay những rắn ấy làm thần sông Khi ông hiển đạt, thường mỗi ngày ở triều đình về, qua phố hàng chiếu, gặp một người con gái nhan sắc rất đẹp. Hai bên dùng thơ đùa cợt rồi ông yêu mến, lấy về làm thiếp. Trong năm Thiệu Bình, người ấy thường đi lại vào trong cung cấm, vua Thái Tông cho làm chức Nữ Học Sĩ. Đến khi vua thăng hà, Triều đình đem nàng ra hỏi tội. Nàng nói là do ông xúi. Vì thế nên ông phải tội. Khi bị hành hình, người con gái hóa thành con rắn bò xuống mặt nước mất Ông có một người thiếp chạy trốn xuống vùng Sơn Nam, ẩn ở nhà người rồi sinh ra được một người con trai là Anh Võ. Sau lâu, chủ nhà ấy mới biết là vợ lẽ của ông. Khoảng năm Quang Thuận (1460-1469) vua Thành Tông lên nối ngôi, thương ông mắc oan, xuống chiếu rửa tội, truy tặng là Thái Sư Tuệ Quốc Công. Dò hỏi về con cháu ông Trãi, mới tìm được Anh Võ đem về. Lớn lên Anh Võ làm quan ở Đài sảnh, rồi phụng mệnh đi sứ Tàu. Khi qua hồ Động đình, thấy trên mặt nước xuất hiện một con rắn, rồi song gió nổi lên dữ dội, ông khấn xin cho đi xong việc nước, sóng gió mới im. Sau khi đi chầu vua Tàu về, đến hồ Động Đình, thuyền bị úp sấp mà chết đuối, được truy tặng Thái Sư Sùng Quốc Công Trong năm, Cãnh Hưng (1740-1786) làm sổ dân chính. Triều đình muốn rút bớt ân trạch đối với những công thần khai quốc. Khi xem đến đạo sắc ông Trãi, quan Thị lang Bộ Hộ là Bảng Nhỡn Lê Quí Đôn xé đi mà rằng: - Đây là loạn thần tặc tử còn cáo sắc làm gì? Nói chưa dứt lời thì mơ màng ngủ lịm đi, thấy hai người lính đến bắt đem đi một nơi: chung quanh có tường bao vây và những cây cổ thụ, thân cây lớn bằng 10 vòng tay người. Trên điện có đến mấy chục chiếc ghế bành chạm rồng, hành lang phía hữu đặt 1 cái sập cao, có 1 vị quan văn ngồi, đội mũ phốc đầu, mặc áo hổ phục (5) hai bên tả hữu có người đứng uy nghiêm. Lính điệu ông bảng nhỡn vào bắt quì xuống thềm. Vị quan văn ngồi trên sạp cao quát lớn: - Ta là Tế văn Hầu, nhà ngươi là một gã tiểu sinh mới học, sao dám càn giỡ xúc phạm đến bậc bề tôi cũ có công của Triều trước, tội đáng chết không thể tha thứ Ông Bảng Nhỡn nín hơi không dám ngẩn mặt lên trông. Cạnh đấy, có một viên khan mỏng, áo tấc, van xin hộ. Một lúc lâu, Tế Văn Hầu mới nguôi giận mà nói: - Công danh sự nghiệp của ta, cố nhiên không thèm so sánh với nhà ngươi. Duy ngươi thường hay tự kiêu là tay giáp bảng thì về thử đọc Bình Ngô Đại cáo của ta, nếu ngươi có viết được hay hơn thì xé sắc của ta mới không có lỗi Ôi! Ông là người có những công lao to lớn như thế mà không giữ nổi được mình, con cháu lại bị chu di gần hết. Chó cỏ, rồng đất(4) vẫn là mối than chung từ xưa đến nay, thật đáng buồn thay Chú thích: (1) Hán Cao Tổ, khi còn hàn vi phải ẩn náu ở núi Mang Đường. Sách nói: thường có đám mây ngũ sắc che ở trên đầu (2) Hán Cao Tổ bị quân Sử vây ở Tuy Thủy, nhờ một trận gió bão tung cát mịt mù, mới được giải vây mà thoát nạn (3) Khi vua Quang Võ vì hết lương thực ở sông Hô Đà, Phùng Di dâng cơm, lại khi vua bị đói ở Võ Lân Đình, Phùng Di dâng cháo (4) Đời xưa cúng tế thường tết chó cỏ, nặn rồng đất để cúng. Cúng xong thì vứt đi. Vì thế người at thường ví vào những công thần, sau khi đánh Đông dẹp bắc xong thường bị coi rẻ (5) Bồ phục là thứ áo trước ngực, sau lung có thêu kim tuyến và cỉ tơ ngũ sắc. Áo quan văn có những hình cầm quan võ có những hình thú, để nêu rõ phẩm trật các quan http://hocthuatphuon...ic=4275.40;wap2 Share this post Link to post Share on other sites