Posted 8 Tháng 9, 2013 Tư liệu tham khảo do cụ TriTri biên soạn. ----------------------------------------------------- KHAM DƯ HỘI YẾU. TỰA. Âm dương địa lý ư nhân sự là tối thiết, phàm mộn tộ thịnh suy hay tử tôn hưng phế đều do đó ảnh hưởng, vã tiên hiền sáng tạo địa học thượng ứng thiên tinh 28 tú, hạ sát địa mạch 72 long, cát hung tàng ư bát quái, họa phúc ngụ ư can chi, ý thâm chỉ áo không thể dùng thiển kiến quả văn mà luận, thời thường khảo các thi thư, chỉ thấy thiên về bốc lạc, mà chưa truyền pháp nầy, bởi Tần Hán về trước quá thiểu địa lý thiện bổn, Ngụy Tấn về sau mới liệt chuyên gia, sau có kẻ xuyên tạc truyền ngoa ngôn mỗi người đều khác, ngụy thuyết ngày nhiều, đạo ngày xấu thêm, lời văn trong thư như thiền ngữ, lâp ý như câu đố, thấp thì ti tiện, cao thì hoang đường, bất năng dân dụng, chỉ đủ dối thế mê hoặc đời. - Vã lại muốn táng được hảo địa, phải thiên táng đắc pháp kiến tạo thích nghi, mới có thể phát phúc, hãy nên thận trọng. Dư thật thương xót cho thế nhân thường tin nhằm những dung tục địa sư làm tổn đinh phá tài tiêu tan sự nghiệp, vì không nhẩn tâm thấy vậy mới dùng sở học huyền bí được kỳ nhân truyền lại giúp cho kẻ nhân đức hiền lương, và mỗi việc đều suôn sẽ, từ đó nổi danh (1955). Rồi kẻ gần người xa đều có ý niệm là hể việc ta xem đều được yên lành. Bởi thế bất cứ việc gì họ đều nhờ người thân thiết đến năn nĩ giùm lắm, lúc có người năn nĩ từ sáng đến trưa hoặc từ trưa đến chiều, có người lại ngồi dưới đất mà năn nĩ, vì họ gặp việc gay go và biết rằng người khác không giải được, nhưng Ta có lập 3 tôn chỉ không xem là: 1- Không xem thiên vị đơn phương. 2 - Không xem làm tổn kẻ khác. 3 - Không xem việc vô kết quả. - Ba điều nầy bị 1 dù thân vẫn không xem. Vã lại thuở ấy ta làm ăn rất bận rộn tiệm bán tạp hóa sĩ lẻ tiệm bán vải, lúa thì 2 lẫm, lại thêm 6 trai 2 gái còn nhỏ làm sao dư thì giờ để giúp tất cả, nên lắm lúc phải tuyệt đối chối từ, và trong quận còn có 3 ông lão đã xem xưa nay biểu họ đi nhờ xem nhưng ai cũng đều chê cả. Những chuyện kể trên đây là thời kỳ trước 1975. Nay tuổi tác đã cao nghĩ là cũng nên dùng trên 50 năm kinh nghiệm có được để truyền lại hậu thế giúp đời, giờ soạn ra quyển Kham Dư Hội Yếu. Nầy lời văn ngắn gọn gồm điều cốt yếu thật dụng để khởi mông hậu thế nhân nhân, hiếu tử, và tránh được bị hại bởi các dung tục địa sư làm gây nên. Thì là May thay! Tu Âm Đức Mong Trời Ban Phúc, Xem Phong Thủy Tròn Phận Báo Ân. Toronto - 4/3/2005. TriTri biên soạn. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 9, 2013 Đệ Nhất Chương. Âm Trạch Phong Thủy Thấu Giải. Phong thủy có 2 phần là loan đầu và lý khí, loan đầu là hình thể của huyệt trường, loan đầu gồm có, Long huyệt Sa Thủy 4 thứ. Long - trong địa lý là chỉ sơn mạch, linh khí của núi sông, đỉnh núi cao lên xuống uốn khúc như rồng sống động ẩn hiện nên gọi là Long. Huyệt - là chổ để an táng, không phải huyệt động của núi, không phải chổ trũng của núi non, chổ trũng nơi bình địa, mà là chổ có linh khí kết tụ của núi sông nó có 4 điểm là: 1- Huyệt hình là: Oa, Kiềm, Nhủ, Đột, 4 tượng hình. 2- Huyệt tinh là: Kim, mộc, thủy, Hỏa, thổ, ngũ hành tinh. 3- Huyệt chứng là: nơi đó có vật biểu hiện chứng minh có huyệt kết. 4- Huyệt kị là: kết huyệt sở kị, thô ác, hiểm hóc, ngang ngạnh. Sa - là gò đống gồm ở phía trước, sau, bên trái, bên phải của huyệt, phàm tiền triều hậu lạc tả long hữu hổ, la thành đãi vệ thủy khẩu đều là nó cả, kham dư gọi bên tả của huyệt là thanh long, bên hữu là bạch hổ, trước mặt là chu tước, phía sau là huyền vũ, lại huyền vũ muốn cuối đầu chu tước múa nhảy, thanh long uốn khúc, bạch hổ hiền lành, thiên cơ chia làm 3 khoa, tròn trịa vuông vắn là phú, thanh kỳ tú lệ là quí ngã nghiêng bể nát là tiện, ở xa phía trước huyệt có núi cao lớn chầu về gọi là triều sơn, gần ở phía trước huyệt nhỏ thấp là án sơn, sau huyệt tựa lưng là lạc sơn, 2 bên thủy khẩu có núi kẹp lại gọi là hãn môn, ở giữa thủy khẩu có cột đá dựng đứng gọi là hoa biểu. Minh Đường- 1. Nội minh đường cũng gọi là tiểu minh đường, là sân ở trước huyệt trong vòng tay long hổ, sân nầy không được quá rộng, cũng đừng quá hẹp, quá rộng bất tụ khí, quá hẹp thì gò bó không quí hiển, sân nầy phải tụ khí tàn phong mới cát. - 2. Là trung minh đường, là sân ở ngoài vòng tay long hổ. - 3. Là đại minh đường, là sân ở phía ngoài án sơn. Thuỷ - Là huyết mạch của long, đại để nước chầu về ở trước huyệt thì muốn uốn khúc, nếu chảy ngang qua thì muốn vòng cung ôm vô, nước chảy đến thủy khẩu thì muốn vòng lại như lưu luyến, rồi mới chãy đi, đó gọi là sơn thủy hữu tình. Hựu viết: Địa lý quang kỳ phương vi tiên. Đa phúc thắng địa ứng tự nhiên hữu thành giai thị thần minh mục. Cầu chi tắc đắc chỉ quan thiên Tả long tốn thủy Nam quan tước. Hữu hổ kiền sơn Nữ quí quyền Đắc mạch thiên hoàng nhập thiên thị, (thiên hoàng hợi, thiên thị cấn) Tài đinh quí thọ phúc vĩnh miên . Phong Thủy định nghĩa. Kham dư gia xem đất tại sao gọi là phong thủy, bởi xem đất là coi trọng long, long là khí sơn mạch, khí lai thì dẩn thủy đến, khí dừng thì thủy đón ngăn. Táng giả thừa sinh khí vậy, không gió tức khí tụ, có gió tức khí tan, do đó âm trạch địa lý trước trọng đắc thủy tàng phong, nên xưng phong thủy. Thủy cố nhiên có phân cát hung, phong lại là âm trạch đại kị, dù có chân long huyệt đích, nếu bị gió thổi nhẹ thì tổn hại, nặng thì long huyệt biến đất phế, cho nên xem đất không thể thiên chọn hình thế mà bỏ đi lý khí. Thế mới biết cổ thời kham dư đại gia đặc biệt nêu lên hai chữ phong thủy làm phiêu đề, là có ý sâu trong đó, để kẻ hậu học biết lấy mà chăm chú vậy. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 9, 2013 Phong Thủy Khái Luận. Long phân ba tám (24) khí thuộc ngũ hành, âm dương tiêu trưởng tuy tại long huyệt sa thủy hướng, đản họa phúc xu cơ tại một huyệt chi trung, huyệt trung tiêu sa, huyệt trung nạp thủy, huyệt trung thừa khí, thừa pháp đó có 3, phải hiểu rõ 5 kim cố tất thẩm xét long tinh tế nhận nơi xuất mạch, thẩm huyệt tế nhận nơi động khí, thẩm lai thủy tế nhận nơi xuất diện triều ánh, thẩm khứ thủy tế nhận nơi huyền khứu tương thông, thẩm thủy cục tế nhận nơi hợp cục phá cục, thẩm long xem nơi hậu, thẩm hướng xem mặt tiền, lai thủy khán lai khứ thủy khán khứ, nếu không y hình thế man hạ la kinh, cổ thánh nói, dung y chi ngộ (sai) chỉ hại nhất nhân, dung sư chi ngộ tất phúc (tổn hại) nhân toàn gia, đều do không hiểu phong thủy, mà lập huyệt hướng vậy, nguyện kẻ hành sư chi nhân, thận trọng. Thận trọng!!. Khán địa nhập môn. Sơ học phong thủy trước phải biết rõ chính 5 hành, tam hợp 5 hành, song sơn 5 hành, thứ là sinh vượng mộ dưỡng của kim mộc thủy hỏa 4 đại cục cùng 4 đại thủy khẩu nhận rõ không nên lẩn lộn sau dùng la bàn xem sinh vượng tử tuyệt âm dương chân khí của long huyệt, sa quí tiện đắc thất, thủy cát hung tiến thoái, đều phân biệt rõ ràng, thực tập thành thuộc. Khi đến một cuộc đất, trước dùng địa bàn la kinh xem sinh vượng tử tuyệt của long, thứ dùng thiên bàn la kinh xem thủy khẩu chảy đi tại chữ gì, có quí nhân phong tại quí nhân phương vị không, rồi sau mới định huyệt lập hướng. Sinh Vượng Mộ Dưỡng rõ ràng trong tầm mắt vậy. Âm trạch quan kiện. Âm trạch quan kiện có 3 phần: 1. Tức loan đầu thiên tinh. 2. Chính châm phùng châm. 3. Chư gia 5 hành, lấy 3 đó làm âm trạch cơ bản, diệu lý của 3 thứ đó tường thuật như sau: Loan đầu thiên tinh: Loan đầu là hình thế của sơn mạch. Thiên tinh là tinh độ của phương vị, đông tây nam bắc gồm 24 hướng, 72 long, 120 phân kim, 365 triền độ phân chia, 2 đó là trong ngoài của âm trạch, không bỏ được, nói về loan đầu tuy hình tích rõ ràng cũng phải dò xem lai long để nghiệm mạch lạc, nói về thiên tinh, tuy thuộc phương vị hư không tựa hồ mênh mông vô bằng, nhưng có âm dương 5 hành đủ để đun đúc thiên địa, 2 thứ nầy thật là thể dụng của âm trạch. Chính châm phùng châm. La kinh (la bàn) là mật bảo duy nhất để xem phong thủy, ai tinh độ, chính phương vị, phân kim định huyệt đều dựa vào nó, khảo la kinh chế pháp, ư ngày xuân phân lập niết 3 thước trắc nghiệm nhật xuất để chính phương đông, ư ngày thu phân lập niết 8 thước trắc nhật nhập để chính phương tây, giữa lại giăng dây thập để trắc nghiệm nam bắc, như vậy 4 phương đã đồng đều, sau lại chế thêm thổ khuê để trắc 4 phương, vì bởi khuê niết chỉ hướng nam không chuẩn xác, nên phân lập nội ngoại 2 bàn, nội bàn kim chỉ chính tý ngọ nên gọi chính châm, ngoại bàn niết sở trắc đang nơi giữa kẻ nhâm tý bính ngọ nên gọi phùng châm, sau có kẻ thiên chấp nói kim chỉ giữa kẻ chính xác hơn nên lấy chính làm phùng, lấy phùng làm chính, lại tạo ra kim bàn ngân bàn, 3-7, 2-7, thiên bàn địa bàn lý thuyết cơ hồ không biết cái nào là phải, có thuyết chính châm dùng để kẻ long, phùng châm dùng định tọa hướng, 3-7, 2- 7, dùng để tiêu sa nạp thủy, thật ra la kinh chế từ thánh nhân, chính phùng 2 châm có điểm tương soa bổn là hiện tượng tự nhiên, vả lại thiên khí địa khí nguyên bổn bất tề, thiên khí tại tý ngọ chi trung, địa khí tại giữa kẻ nhâm tý bính ngọ, nên cổ thời hầu khí giả ư đông chí nhật đặt huỳnh chung nơi nhâm tý, hạ chí nhật đặt lâm chung nơi bính ngọ, xem đó thì diệu dụng chính châm phùng châm tự rỏ. Chư gia ngũ hành. Âm trạch mỹ ác áo chỉ tại trong 5 hành, nhưng địa lý thì 5 hành thiên biến vạn hóa, mà hình thế sơn mạch lại tại nơi thẳng, góc, vuông, tròn, rộng, hẹp, đều có 5 hành, cốt yếu là, duy có trắc khí đó nghiệm chất đó, chất thì cố định không đổi, khí thì tuần hoàn không dứt, trắc nghiệm khí vận ngũ hành không là việc dễ, may mà tiên hiền Ngô cảnh Loan đặc lập 3 thuyết để hậu học noi theo, 1 là chính 5 hành dùng định phương vị, 2 là bát quái 5 hành dùng chủ hình cục, 3 là hồng phạm 5 hành để lường sơn âm, cả 3 nầy là tiêu chuẩn địa học, ngoài ra còn 4 kinh, 3 hợp, 4 sinh, song sơn, huyền không, hướng thượng đẳng 5 hành, và kém hơn 3 thứ của Ngô thị. 1/ Chính 5 hành, quyết viết: - Đông phương mộc, nam phương hỏa, tây phương kim, bắc phương thủy, trung ương thổ. 2/ Bát quái 5 hành, quyết viết: - Chấn canh hợi mùi tốn tân mộc, kiền giáp đoài đinh kỷ sữu kim, khảm quí thân thìn cụ thuộc thủy, ly nhâm dần tuất hỏa vi chân, khôn ất cấn bính đồng thuộc thổ, bát quái 5 hành tử tế luận, (dùng tên quẻ phối hợp can chi mà luận). 3/ Hồng phạm 5 hành, là đại 5 hành, cũng gọi tông miếu 5 hành, quyết viết: - Giáp dần thìn tốn đại giang thủy, tuất khảm thân tân thủy diệc đồng, Chấn cấn kỷ 3 nguyên thuộc mộc, ly nhâm bính ất hỏa vi tông. Đoài đinh kiền hợi kim sinh xứ, Sữu quí khôn canh mùi thổ trung. (dĩ bát quái biến thông diễn ra 24 vị 5 hành biến hóa). 4/ 4 trụ 5 hành: thì bỏ trung cung thổ, lấy kim, mộc, thủy hỏa mà định 4 phương. 5/ 4 kinh 3 hợp 5 hành: 4 kinh là lấy địa chi dần ngọ tuất hợp thành hỏa cục, tị dậu sữu hợp thành kim cục, thân tý thìn hợp thành thủy cục, hợi mão mùi hợp thành mộc cục, 3 hợp là do sinh vượng mộ 3 phương kết hợp mà thành. 6/ 4 sinh 5 hành: là lấy 4 trường sinh, Giáp mộc sinh tại hợi. Bính hỏa sinh tại dần, Canh kim sinh tại tị, Nhâm thủy sinh tại thân (trên đây đều luận thủy la bàn tả toàn thuận khởi), Ất mộc trường sinh tại ngọ, Đinh hỏa trường sinh tại dậu, Tân kim trường sinh tại tý, Quí thủy trường sinh tại mão, (trên đây đều luận long, la bàn hữu toàn nghịch khởi). 7/ Song sơn 5 hành là 2 chữ đồng cung hợp can chi, lấy nạp âm 5 hành làm chủ vậy. 8/ Huyền không 5 hành. Là dựa vào thủy pháp để lập huyệt định hướng, lấy sinh nhập khắc nhập, sinh xuất khắc xuất mà phân cát hung, quyết viết là: Bính đinh ất dậu nguyên thuộc hỏa, Kiền khôn mão ngọ kim đồng tọa, hợi quí cấn giáp thị mộc thần, Tuất canh sữu mùi thổ vi chân, Tý dần thìn tốn tân kiêm tị, thân dữ nhâm phương thị thủy thần. 9/ Hướng thượng thủy thần giã, lấy thủy khẩu định trường sinh, nếu không cát thủy không thể dụng, đó là cứu bần diệu quyết, có hóa tử làm tự vượng, hoặc tuyệt xứ phùng sinh diệu dụng. Luận sinh khí. Hão địa dần táng mão phát, đều do thừa sinh khí cả, vã lại âm trạch có Long, sa, thủy, huyệt, hướng, cũng như ngũ tạng của con người, tất nhiên có sinh khí mới sống đặng, vì vậy xem đất kết lấy sinh khí làm duy nhất yếu chỉ, phàm xem đất nguyên long, trước xét sinh khí khi đến, tất có nước đi dẩn đường, thẩm huyệt cho chính trước xét sinh khí khi tụ, tất có nước ngăn chặn, có sa bao vệ, không gió thổi tan, đó là biệt rõ biết tổng quyết của sinh khí vậy, nhưng thừa sinh khí phải cho đúng pháp, dĩ nhiên phát phúc, nếu sai pháp đã không phát còn bị hại, táng lầm nơi đất chết không sinh khí, bất quá chung qui bần tiện họa còn nhẹ, nếu được đất sinh khí mà táng sai pháp, thì lại bị sát thân diệt tộc chi đại họa. Pháp thừa sinh khí có 3 điều như sau: 1) Chọn nghịch bỏ thuận. 2) Xét hình độ thế. 3) Xét kỷ lý khí. Long chéo lệch huyệt điểm nơi chính. Long chính huyệt điểm nơi chéo lệch do vậy mới phản khí nạp cốt, tử tôn năng đắc phúc vậy. Thử nãi thừa sinh khí chi tổng quyết dã. Luận Quan Quĩ Cầm Diệu. Quan là gò đống sinh ở phía sau lưng án sơn, hình thể không được cao chọi vọi, lại muốn có hồi đầu, Quĩ sinh ở sau lưng chủ sơn, muốn sát gần là quí, không nên quá dài, quá dài sẽ bị triệt khí. Cầm sinh ở nơi giữa của thủy khẩu, phàm có núi nhỏ, hoặc hòn đá nhỏ có hình như tình quyến luyến, hướng về huyệt là hợp cát. Diệu sinh ở phía ngoài khuỹu tay của long hổ, phàm có núi nhỏ hay gò đá nhỏ, dựng đứng lên có hình hướng về huyệt là cát. Tóm lại nơi huyệt kết hội đủ có 4 thứ nầy là tăng thêm điều tốt. Vã lại vô quan bất quí, vô quỉ bất phú, vô cầm bất vinh, vô diệu bất cữu, tứ giã cụ vô, tiện thị hư hoa vô dụng chi địa dã. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 9, 2013 LÝ KHÍ Xưa nay phong thủy có nhiều môn phái, nên lý luận có khác nhau, tuy nhiên Tam hợp tứ đại cục, Tam nguyên, Huyền không, Cữu tinh, bốn phái nầy được thường dùng, thịnh nhất lại là Tam hợp tứ đại cục cũng gọi là song sơn tam hợp ngũ hành, vì lấy hai chữ tính đồng 1 cung, như: nhâm tý, quí sữu, cấn dần, giáp mão, ất thìn, tốn tị, bính ngọ, đinh mùi, khôn thân, canh dậu, tân tuất, càn hợi, nó được chia làm 4 cục như sau: Kim cục: Tốn tị- (sinh), Canh dậu- (vượng), Quí sữu (mộ). Mộc cục: Càn hợi- sinh, Giáp mão- vượng, Đinh mùi- mộ. Thủy cục: Khôn thân- sinh, Nhâm tý- vượng, Ất thìn- mộ. Hỏa cục: Cấn dần-sinh, Bính ngọ- vượng, Tân tuất- mộ. Phàm tìm huyệt đứng nơi long nhập thủ mạch xem ở vòng thiên bàn La kinh coi thủy phóng về đâu nhằm chữ gì, như thủy khẩu ở tân tuất, càn hợi, nhâm tý là hỏa cục, thủy khẩu ở quí sữu, Cấn dần, giáp mão là kim cục, thủy khẩu ở ất thìn, tốn tị, bính ngọ là thủy cục, thủy khẩu ở đinh mùi, khôn thân, canh dậu là mộc cục, thủy khấu phóng nước nếu hợp long bất hợp hướng gọi là thông huyền bất thông quan, chủ sơ niên bất lợi về sau mới phát, nếu thủy khẩu phóng nước đi hợp hướng không hợp long chủ ban đầu đại phát sau suy, nên thủy khẩu phóng nước đi cần hợp hướng hợp long thì phát bền lâu. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 9, 2013 12 Long Lý Khí Ca. Kiền khôn cấn tốn vượng long hành, Giáp canh bính nhâm long tứ sinh, Ất tân đinh quí quan đới vị, Thập nhị lai long yếu nhận chân Thủy phối chân long vi lý khí, Đắc sinh đắc vượng thị kỳ phùng Lai long khứ thủy năng thành cục, Phú quí miên trường dịch tự tân Hỏa cục long thủy sinh vượng 4 cách; Bính long cấn hướng thủy lưu tân, Tốn khởi văn phong đắc lộ vân Cấn long Tốn sơn tân thủy khứ, Hướng triều bính ngọ phúc tranh vanh Mộ phùng tân hướng ất long kết, Thủy xuất kiền phương phúc thọ tăng Quí hướng bính long đa phú quí, Giai duyên tốn thủy xuất kiền môn Thủy cục long thủy sinh vượng 4 cách; Thủy qui ất địa tý long lai, Khôn hướng kiền sơn vị cức hòe Phong tủng kiền cung ất thủy khứ Khôn long nhâm hướng phúc đa tài, Tân long nhâm thủy qui tốn vị, Ất hướng phùng chi quan lộc thôi Đinh hướng nhâm long quí cực phẩm, Kiền sơn kiền thủy tốn vị qui Mộc cục long thủy sinh vượng 4 cách; Long giáp cấn phong hướng triều kiền, Thủy phóng đinh phương xuất trạng nguyên Cấn phong giáp hướng long lai kiền Tả thủy xuất đinh phúc miên miên Quí long giáp thủy hướng khôn lưu, Đinh hướng vi tôn xuất vương hầu Tân hướng giáp long sinh đinh giáp Cấn sơn cấn thủy diện khôn lưu Kim cục long thủy sinh vượng 4 cách; Canh long quí khố tố triều tông, Khôn vị cao phong tể tướng công Long tốn phong khôn canh hướng lập Quí phương phóng thủy phúc vô cùng Đinh long cấn khố tòng canh đáo Quí hướng lập doanh vị lục khanh Canh long ất hướng khôn sơn thủy Qui cấn do lai phúc thọ tang. Luận Minh Đường. Minh đường là sân ở trước huyệt, có núi bao quanh, có thủy chầu về, như triều đường của thiên tử, có nội, trung, ngoại minh đường. Nội minh đường cũng gọi tiểu minh đường, ở bên dưới quầng tròn, rộng vừa phải là tốt, quá rộng không tàng khí, quá hẹp thì bức xúc không quí hiển. Trung minh đường ở trong vòng tay long hổ, muốn vuông tròn hợp cách, đừng có đá nhọn xĩa vào, đừng có dòng nước chãy lỡ hay nghiêng. Đại minh đường ở trong án sơn, minh đường, nơi đây thì muốn rộng lớn, có thể chứa thiên binh vạn mã, đó là vương hầu lăng tẩm hùng bá thiên hạ, chứa vài trăm người là đất khanh tướng cơ chỉ, ấy là luận đại minh đường vậy. Còn duổi chân đạp được án, phát tiền thiên vạn quán, đó là nội minh đường, cần nên tụ vậy, tục sư không hiễu nội nghi đoàn tụ ngoại nghi khoan cứ cố chấp thuyết dung vạn mã, cho rằng rộng rãi là quí, mà không biết nội minh đường rộng thì khí bất tụ vô vọng phát lộc, trong long hổ có nội đường đoàn tụ, nguyên thần thu thập đóng lại nội khí, ngoài có ngọai đường rộng la liệt viễn tú mới là mỹ địa. Tóm lại huyệt thấp minh đường gần thêm kín gió táng rồi thì phát, nếu huyệt ở trên cao minh đường lại cách xa, dù cho chân long huyệt đích cũng khó phát phúc, có câu Huyệt cao minh đường viển phát phúc chờ thành chuyển, ý nói là không bao giờ có vậy, chí ư cục thế lớn nhỏ duy xem theo long mạch mà định luận, lai long trăm dặm kết 100 dặm qui mô, lai long ngàn dặm kết ngàn dặm khí khái, long mạch ngắn nhỏ kết cục nhỏ đó là thế tất nhiên, thiết bất khả võng tham đại cục thế, Sưu thủy kinh ghi 180 dạng tiết thiên cơ tải đường khí, 81 biến cách, cũng đủ lắm rồi, các tiết sở luận tuy chỉ 1 ít, học giả chỉ cần xem đọc minh đường kinh, đương biết minh đường muốn bằng chánh khai thoáng, đoàn tụ triều cung vi cát, nghiêng xã dóc hóc phá toái chèn nghẹt trở ngược là hung, hiểu được vậy thì cách khác đều thông. Luận Minh Đường Nhập Thức. Tầm được chân long huyệt đích phải biện biệt minh đường, minh đường quí nơi tụ khí, tán khí chớ nên, phàm thị huyệt tiền nơi bằng phẳng là chỗ minh đường, minh đường khu biệt có 3, thủ dụng tất tương tham, tiểu minh đường tại dưới quằng tròn, lập huyệt biện chân giã, trung minh đường tại trong long hổ, giao hội yếu suy tường, đại minh đường tại án sơn nội, phải có tứ thủy hợp, tiểu minh đường tường nhập môn thiên, nhập thức bất trùng tuyên, trung minh đường bất trọng hình thể, diệu tại thư hùng hỷ, đại minh đường yếu thủy khẩu lang, chân khí tụ kỳ gian, quan lang tỉ như vi nhận tỏa, câu liêm cũng kỳ loại, hoặc là sơn cước hay lũng điền, tỏa kết hỷ trùng trùng, thêm có hoành long lai tác huyệt, bối hậu yếu đường tắc (chèn bít), phải dùng 3 đường đồng đều xem, họa phúc nhất ban luận, minh đường quang minh chiếu vạn phương, khoan khoác thủy vi lương, hảo sa hảo thủy thường tụ diện,chủng chủng giai khả kiến, nếu như hẹp té làm sao dung, do như tọa tỉnh đồng, minh đường khoan khoát nhân hiên khoát, thông minh và lanh lợi, nhược nhiên hẹp té nhân xuẫn ngoan, bỉ ổi tham lận, cổ vân đường khoan dung vạn vật, cũng kị khoáng dã, ngoại lan nhược tại miêu mang gian, tuy lan như vị lan, vạn sơn thủ khoan vi chính pháp, bình dương tắc thủ hẹp, vạn sơn nhược hiệp bình dương khoan, thử cách bất tu khan, tiên hiền nơi ấy phân công vị, trưởng phòng cư tả biên, nhị phòng cư trung tam phòng hữu, thử lý tối ưu trường, thủy cư tả vị trưởng phòng hưng, tụ trung chư tử phú, nhược cư hữu vị tiểu phòng phát, kinh chỉ yếu phân minh, minh đường long pháp cụ thị hung, vĩnh thế bất long hưng, long chân huyệt chính đường khí tụ, phú quí tất phi tế (nhỏ) Long huyệt nhược hung đường khí hảo, nhị kỷ (20 năm) thiện ôn bảo, long huyệt nhược hảo đường khí hung, sơ táng tiện bần cùng, nhất kỷ chi dư (trên 10năm) đường khí ngộ, phát phúc tất nhiên đại, nhập thức vốn không sai. Luận Điên Đảo. (trở ngược) Điên đảo là nghịch lại, âm trạch phong thủy luôn lấy nghịch bỏ thuận, lệ pháp phản khí nạp cốt để ấm sở sinh, đó là táng pháp chọn lấy nghịch vậy. Ngoài ra như long mạch từ bên tả lại, thì huyệt nên điểm nơi bên hữu, long mạch từ bên hữu lại, thì huyệt nên điểm nơi bên tả, thủy vốn là động, nhưng muốn khéo được ở chổ yên lặng, sơn vốn là tĩnh, nhưng muốn khéo được ở chổ động (lồi lõm), trực lai thì hoành thụ, hoành lai thì trực thụ, thạch sơn thì điểm thổ huyệt, thổ sơn thì điểm thạch huyệt, chổ cấp thì điểm nơi hoãn, chổ hoãn thì điểm nơi cấp, chổ đột lên thì điểm nơi phẳng bằng, chổ phẳng bằng thì điểm nơi đột lên, cường lai thì thủ nhược, nhược lai thì thủ cường, sơn đa thì yếu thủy, thủy đa thì yếu sơn, khoan xứ thủ khẩn, khẩn xứ thủ khoan, cương giả thủ nhu, nhu giả thủ cương, chúng đại thủ tiểu, chúng tiểu thủ đại, chúng cao nghi thủ đê (thấp) chúng đê nghi thủ cao, ngạnh lai tắc hạ nhuyễn, nhuyễn lai tắc hạ ngạnh, trực giả thiên khúc, khúc giả thiên trực, chính giả thiên tà, tà giả thiên chính, dương lai âm thụ, âm lai dương thụ, phàm thử chủng chủng, định lệ giai thủ nghịch bất thủ thuận, thị tức điên đảo chi nghĩa dã (thiên là xỉa vô, tức táng vào). Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 9, 2013 Luận Thiển Thâm (cạn, sâu). Kinh nói: cạn sâu thừa đúng mức, phong thủy tự thành, trái lại dù ngưu miên cát địa vẫn chưa thấy lợi mà đã bị hại rồi, phản cát vi hung do vậy mới nói cạn sâu thật là phong thủy đệ nhất yếu nghĩa, chí ư biết được cạn sâu, các phái lập thuyết phân vân, có lấy bát quái phân âm dương mà định giả, có dùng 9 tinh phân thước tất mà định giả, (9 tinh là dùng hình thế núi phân phối mà được tên). 1- Đầu tròn thân cao là thái dương tinh. 2- Đầu tròn thân mang vuôn là thái âm tinh. 3- Đầu tròn thân cong là kim thủy tinh. 4 - Thân cao vót là tử khí tinh, cũng gọi mộc tinh. 5- Tam thể đều mang vuôn là thiên tài tinh. 6- Đầu tròn chân nhọn là thiên cương tinh. 7- Đầu tròn mang vuông chân ngay thẳng là cô diệu tinh. 8- Thân bén nhọn là táo hỏa tinh. 9- Thân uốn khúc là tảo đãng tinh. Trên đây là 9 danh của 9 sao, đều không chính xác, cạn sâu còn phải xét theo chi (bình địa long) lũng (cao sơn long) Chi dĩ đột vi chính. Lũng dĩ oa vi chính, âm lai tắc dương thụ, dương lai tất âm thụ, bởi dương phát ở ngoài nên chôn cạn để thừa chi, âm tàng ư nội nên chôn sâu để thủ chi, đó là chi lũng phân âm dương, định nghĩa cạn sâu chính xác vậy, nhưng kham dư gia cũng phải xét theo mỗi địa phương tùy đất dày mỏng, khí mạch phù trầm mà châm chước, gặp đất mỏng mạch phù, thì nên chôn trên mặt đất, rồi lấy thêm đất nơi khác đem đến bồi thêm, gặp đất dày mạch trầm, dù đào sâu 2 hay 3 mét, cũng không gọi quá sâu, thật ra cạn sâu cũng là vì thừa sinh khí vậy. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 9, 2013 Luận Thập Ác Đại Kị. 1. Ác - long phạm kiếp sát phản nghịch, kiếp sát là chổ nhập mạch có đá nhọn, hoặc gò lở cắt đứt long mạch, khi long vận đến đó tất sinh đại họa, phàm làm quan to bổng nhiên bị tịch biên gia sản, hay bị giết là tổ mộ bị kiếp sát, phản nghịch chủ con cháu làm giặc cướp bất trung bất hiếu bị cầm tù. 2. Ác - long phạm kiếm kiếp (sống kiếm), thẳng cứng là khí chết chủ sát sư, hình con trạch, con lương chết, cũng không kết huyệt. 3. Ác - huyệt phạm hung sa ác thủy, trước huyệt có nước chảy đâm vào, con lộ đâm vào, thác nước chảy rền, chủ yểu thọ đa tai. 4. Ác - huyệt phạm phong suy khí tán, huyệt có gió lộng không tụ khí, lộng bên trái trưởng phòng tuyệt, bên phải tiểu phòng tuyệt, trước huyệt cơ bần, sau huyệt yểu thọ. 5. Ác - sa phạm thám đầu trùy hung (đấm ngực) thám đầu xuất dâm đãng chơi đêm, đấm ngực chủ khắc con hại vợ. 6. Ác - sa phạm phản bối vô tình, phản bội tinh ngang ngược, chủ hung họa. 7. Ác - thủy phạm xung xạ phản cung, xung tả hữu trước sau chủ bần cùng dâm loạn, xạ cũng tả hữu trước sau chủ yểu thọ. 8. Ác - thủy phạm hoàng tuyền, bính ngọ hướng thủy xuất tốn tị canh dậu hướng thủy xuất khôn thân, Nhâm tý hướng thủy xuất kiền hợi, giáp mão hướng thủy xuất cấn dần, đều là hoàng tuyền thủy chủ phá sản tuyệt tự. 9. Ác- hướng phạm xung sinh phá vượng, nước chảy phá hướng dưỡng sinh chủ tuyệt tự, nước chảy phá hướng vượng chủ phá gia bại sản. 10. Ác - hướng phạm bế sát thoái thần, bế sát là nước không chảy về mộ khố chủ bại tuyệt, thoái thần là không thể lập hướng, vì chủ không phát phúc. Luận Cửu Ca Thập Yếu. Phải phối hợp La bàn dụng pháp, long huyệt sa thủy hướng 5 pháp, đồng xem mới ra diệu lý. 1). Địa hữu thập khẩn yếu: - Nhất yếu hóa sinh khai trướng. - Nhị yếu lưỡng nhĩ tháp thiên. - Tam yếu hà tu giải nhãn. - Tứ yếu tả hữu bàn toàn. - Ngũ yếu thượng hạ 3 đình. - Lục yếu sa cước nghi chuyển. - Thất yếu minh đường khai tĩnh. - Bát yếu thủy khẩu quan lang. - Cửu yếu minh đường nghinh triều. - Thập yếu cữu khúc hồi hoàn. 2). Địa hữu thập bất táng: - Nhất bất táng thô ngoan khối thạch. - Nhị bất táng cấp thủy than đầu. - Tam bất táng câu nguyên tuyệt cảnh. - Tứ bất táng cô độc sơn đầu. - Ngũ bất táng thần tiền miếu hậu. - Lục bất táng tả hữu hưu tù. - Thất bất táng sơn cang liêu loạn. - Bát bất táng phong thủy bi sầu. - Cửu bất táng tọa hạ đê tiểu. - Thập bất táng long hổ tiêm đầu. 3). Địa hữu thập phú: - Nhất phú minh đường cao đại. - Nhị phú tân chủ tương nghinh. - Tam phú hàng long phục hổ. - Tứ phú chu tước huyền chung. - Ngũ phú ngũ sơn tung tú. - Lục phú 4 thủy qui triều. - Thất phú sơn sơn chuyển cước. - Bát phú lãnh lãnh viên phong. - Cửu tú long cao bão hổ. - Thập phú thủy khẩu cẩn bế. 4). Địa hữu thập quí: - Nhất quí thanh long song ủng. - Nhị quí thanh long cao tủng. - Tam quí thường nga thanh tú. - Tứ quí kỳ cổ viên phong. - Ngũ quí nghiên tiền bút giá. - Lục quí quan cáo phục chung. - Thất quí viên sinh bạch hổ. - Bát quí đốn bút thanh long. - Cữu quí bình phong tẩu mã. - Thập quí thủy khẩu trùng trùng. 5). Địa hữu thập bần: - Nhất bần thủy khẩu bất tỏa. - Nhị bần thủy lạc không vong. - Tam bần thành môn phá lậu. - Tứ bần thủy bị trực lưu. - Ngũ bần bối hậu ngưỡng ngõa. - Lục bần 4 thủy vô tình. - Thất bần thủy phá thiên tâm. - Bát bần sàn sà thủy tiếu. - Cửu bần tứ cố bất ứng. - Thập bần cô mạch độc long. 6). Địa hữu thập tiện: - Nhất tiện 8 phong xuy huyệt - Nhị tiện chu tước tiêu tác. - Tam tiện thanh long phi khứ. - Tứ tiện thủy khẩu phân lưu. - Ngũ tiện bãi đầu nạo vỹ. - Lục tiện tiền hậu xuyên phong. - Thất tiện sơn phi thủy tẩu. - Bát tiện tả hữu giai không. - Cửu tiện sơn băng sơn liệt. - Thập tiện hữu chủ vô tân. 7). 28 yếu: Long yếu sinh vượng, yếu khởi phục, yếu mạch tế, huyệt yếu tàng, long lai yếu trực, cục yếu khẩn (chặt), đường yếu minh, yếu bình, sa yếu minh, yếu ngưng, sơn yếu hoàn, thủy yếu nhiễu, long yếu miên, hổ yếu triền, long yếu cao, hổ yếu đê, án yếu cận, thủy yếu tĩnh tiền yếu quan, hậu yếu quỉ, hựu yếu chẩm lạc, lưỡng biên giáp chiếu, thủy yếu giao, thủy khẩu yếu quan lang, huyệt yếu tàng phong, yếu tụ khí, 8 quốc bất yếu khuyết, la thành bất yếu tả, sơn yếu vô ao, thủy yếu bất phản khiêu, đường cục yếu chu chính, sơn yếu cao khởi. 8). 26 phạ: Long phạ ngoan, huyệt phạ khô hàn, sa phạ phản bối, thủy phạ phản khiêu, huyệt phạ phong xuy, sơn phạ can khô phá toái thủy phạ khiên ngưu trực xạ, sa phạ nghịch thủy tẩu thoán, thủy phạ phản cục khuynh tả (đổ), đối sơn phạ đĩnh hung (ểnh ngực), long hổ phạ áp huyệt, đường phạ phản tà (nghiên), tiền phạ khô tỉnh, hậu phạ ngưỡng ngõa, oa huyệt phạ ngoan muộn, sơn phong phạ 8 sát, thủy phạ kiêm 8 sát, sơn phạ tọa tiết quỉ, thủy cục phạ huỳng tuyền, long hổ phạ đọan yêu, minh đường phạ dã khoáng, huyệt tiền phạ trụy thai (thấp hõm xuống), lai mạch phạ thừa sát, Cao phạ thương thổ ngưu, đê phạ thoát khí mạch, mạch phạ lộ thai, phong phạ kiếp đỉnh, thủy phạ lâm đầu, hựu phạ cát cước, huyệt phạ thừa phong, quan phạ ai tử, long phạ khởi lãng, hổ phạ thoán đường, La kinh diện thượng phạ song kim, lập huyệt thừa khí phạ hỏa khanh. 9). 22 hảo: Long hảo loan phi phụng vũ, huyệt hảo tinh thần tôn trọng, sa hảo đôn quân ủng tòng, thủy hảo sinh xà xuất động, long hảo bất hoán chính tinh, huyệt hảo hung tinh tàng bình, sa hảo hũu triều hữu ánh, thủy hảo hữu xà hữu kính, long hảo nghịch tống trùng trùng, huyệt hảo già tàng 8 phong, sa hảo đôn khởi thiên phong, sa hảo hình hảo ngọa cung, long hảo trác bút đốn thương, huyệt hảo tứ chính minh đường, sa hảo triều dương tú giang, long hảo như tăng tọa thiền, sa hảo như nhân bĩnh bút, thủy hảo như cung thượng huyền, long hảo hữu cái hữu tọa, huyệt hảo hữu bao hữu lõa, sa hảo hữu đôi hữu đóa, thủy hảo hữu quan hữu tỏa. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 9, 2013 Ca Quyết ất Đọc - Âm Trạch Nhập Môn Ca Quyết: (Âm trạch huyệt tinh, an phần đẳng ca quyết, vốn là Liêu kim Tinh nguyên ca, đây bỏ phồn theo giản trích yếu mà lục như đây). Long huyệt sa thủy và đường khí, thành từ thiên địa dụng tại nhân. 1, Yếu tri điểm huyệt pháp, tử tế khứ khán đạp, tiền hậu tả hữu yếu đoan tường, thiết ký mạc hoang trương. 2, Phải hiểu khai mộ quyết, rộng hẹp y tiền thuyết, nhược bằng cuốc bể thái cực quằng, nước, mối xăm quan (hòm) cốt chẳng yên. 3, Xuyên phần phải hiểu rõ, sâu cạn chớ được mất, tạo hóa trong ấy thật tinh vi, thường nhân khó mà suy. 4, Làm núm (mộ) các có lệ, không phải nói dể dàng, ngũ hành tương khắc thì là hung, (kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, Thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim), đó là 5 hành tương khắc tai họa đến trùng trùng. 5, Ư thủy yếu bộ số, phó quẻ dụng thiên phụ, trước đo tọa hạ sau đo chu tước, phân biện âm dương tách cát hung. 6, Đường nước muốn quanh co, muốn hợp thủy tinh cục, chớ ai qua bạch hổ cũng tránh hoàng tuyền, phạm nhằm họa liên miên. 7, Xướng hình phải đúng tượng, đáng noi 9 tinh tướng, chỉ luận hình huyệt ngô nhân đa, tinh thể không thiên lệch. 8, Họa đồ phải pháp độ, nét nét không sai thố, xem đồ phú quí sẽ tiên tri, trên giấy lộ huyền ky (cơ). 9, Khóa nghiệm nên chân thật, tiên cơ ra từ đó, chớ nói quái dị làm người nghi, họa phúc yếu tường suy. 10, Truyền thụ chớ khinh tiết (lộ), kẻ đức mới nên nói, đó là Liêu ông truyền mật chỉ. Huyệt Tinh Nhập Thức Ca Quyết: Vì sao gọi là huyệt, địa lý như mạch người, vì sao gọi là tinh, thiên tượng tức địa hình, long thần xuống đó là huyệt kết, tinh thần tượng hình lấy tên xưng, tròn thẳng vuông nhọn cong năm thể, vốn là chỉ có 5 hình khí, cong thẳng vuông nhọn lại mang tròn, tạo thành hình thể của 9 sao, biện được hình thể 9 sao thì, họa phúc tức năng tri. 1) Phân chân giả, chân tắc sơn thủy triều, giả thì nước diêu diêu. 2) Phân sinh tử, tàng phong đắc thủy là sinh, tử thì khí phiêu linh. 3) Nên nghịch không nên thuận, nghịch là chân núi quay vòng về thuận là xuôi theo nước một bề. 4) Chọn non chớ chọn già, già là núi đá to, non là cát cỏ phủ ngoài da. Huyệt hình còn có 8 bệnh tình, làm sao để phân định. 1) Chặt tay xếp lằn lôi dưới cổ. 2) Nát là đá lõm chỏm. 3) Đứt vai nước chảy qua tay. 4) Bụng mổ trên đầu có lổ sâu. 5) Gãy tay vì bởi tả hữu thấp. 6) Mặt bể thêm thòng nước dải. 7) Hãm là chân quậy trong nước. 8) Thè lưỡi là sinh mỏ nhọn. Dẫu thành tinh tượng vẫn còn vơi, dùng lầm họa tới nơi. Huyệt diện cũng có 8 bệnh mang: 1) Quán đĩnh mạch từ não thượng sâu. 2) Tinh phong chả thấy đầu. 3) Tuột chân mạch từ dưới chân đi. 4) Linh quang vô sở tụ. 5) Băng diện sinh ngang mạch dẩy hàng. 6) Sinh khí ám trung tiêu. 7) Phì bụng no hình như úp ky. 8) Xấu hình ác thể bất thành tướng. Chớ nói lập huyệt quá tinh tường, phạm nhằm ắt hình thương. An Phần ca quyết: An phần là tìm sinh khí trong lòng đất, phép đó không dễ gì, khí ở trong đất làm sao phân tách, xem lấy tinh tượng thể hình, cần phải đắc thủy tàng phong, huyệt với khí hòa đồng. 1) Táng mặt tiền nước chảy đi, lập tức kiến bại suy. 2) Táng đất gò sóng kiếm, sát chủ sát sư thiêm (hình như lưng kiếm). 3) Táng đất ao hình (lõm), gió thổi tuyệt nhân đinh. 4) Táng đất không án sơn, chủ thiếu áo không cơm. 5) Táng nơi minh đường ngã nghiêng, chủ phá gia sản tổ tiên. 6) Táng đất long hổ lệch bên bay, chủ người nhà phân ly. An Phần ca quyết. Lại kị đồng (gò còn non), đoạn (gò núi đứt), thạch (gò núi đá) quá (long cứ đi), độc (gò cô đơn) Táng vào sinh hung tiêu phúc. Dù có sơn thiên nhiên quanh huyệt cũng chớ nên thiên (táng). Phàm nhập thức xem đào xuống, hậu long quí nhảy vọt, một núi lộ diện hợp tinh thần, có ứng thì là chân, minh đường khí tụ ôm tả hữu phú quí tất vĩnh cửu, đó cần lưu ý để tinh thần, điểm huyệt cứu nhân bần, bình địa tinh thần đồ nhất thế, cao thấp tức sơn thủy, nhược năng nhận mạch táng nơi đỉnh, đó thật phúc miên vĩnh. Tinh trung thái cực tối huyền vi, nơi đó sinh luỡng nghi, âm dương mạch phải phân biệt, long huyệt tự tương đắc, nhược thị động thì phân tứ tượng, mạch tức quật đột trạng, mạch thị hữu tích (lưng) quằn trung sinh, tức thị tái thành hình, quật là có oa lại bình diện, đột là phao ảnh kiến dương long, (tức đột kị tương phùng) âm long mạch quật hung, (xem bài âm dương long thì rỏ). Mạch Tượng khai kim Tỉnh. Mạch tượng kim tỉnh phân 4 dạng là: 1 Cái, 2 Niêm, 3 Ỷ, 4 Chàng. Mạch hoãn dùng cái (đậy), cấp dùng niêm (dán), trực dùng ỹ (dựa), hoành dùng chàng tiêm, (quan tài day ngang đụng sát vào chổ nhọn). Tức tượng khai tỉnh có 4 loại, trãm triệt điếu, trụy. Tức ngắn dùng trãm, tức dài dùng triệt, tức cao thì treo, tức thấp thì thòng. Quật tượng khai tỉnh có 4 quyết: chính, cầu, giá, chiết, lổ hẹp dùng chính (ngay), rộng dùng cầu (lên phía trên), lổ sâu dùng giá (kê lên), cạn thì dùng chiết (lấp đất thêm). Đột tượng khai tỉnh có 4 pháp: 1 Ai, 2 Tính, 3 Tà, 4 Tháp. Đơn đột lồi dùng ai, (1 hình lồi thì chèn vô). Song đột (lồi) dùng tính, (2 lồi nhập 1) chính thì dùng tà (xéo bên), lệch dùng tháp (cắm vào), yếu quyết kim tỉnh cần biết trước, hướng đầu thận trọng lựa, cuốc bể lan đài huyệt bị thương, thước tất y thiên quái, cạn sâu ngọc xích lường, ngũ cát chọn theo quẻ, lấp gò theo 5 tinh, phóng thủy y chân quyết, chọn đường muốn khuỷ quanh, Long, Cách, Sa, Hình, với Thủy Thành, phân bộ phải rõ ràng, La kinh chỉ định hướng hà phương, nên dùng quẻ suy tường. Quí nhân phương vị (định hướng yếu quyết): Giáp sơn sữu mùi vi quí nhân. Ất sơn Tý thân vi quí nhân. Bính đinh sơn dậu hợi vi quí nhân. Canh tân sơn ngọ dần vi quí nhân. Nhâm quí sơn mão tị vi quí nhân. Kiền sơn sữu mùi mão tị vi quí nhân. Khôn sơn tý thân mão tị vi quí nhân. Cấn sơn dậu hợi vi quí nhân. Tốn sơn dần ngọ vi quí nhân. Tý sơn mão tị vi quí nhân. Sữu sơn dần ngọ mão tị vi quí nhân. Dần sơn sữu mùi dậu hợi vi quí nhân. Mão sơn tý thân vi quí nhân. Thìn sơn tý thân mão tị vi quí nhân. Tị sơn ngọ dần hợi dậu vi quí nhân. Ngọ sơn hợi dậu vi quí nhân. Mùi sơn tý thân hợi dậu vi quí nhân. Thân sơn ngọ dần tị mão vi quí nhân. Dậu sơn ngọ dần vi quí nhân. Tuất sơn hợi dậu ngọ dần vi quí nhân. Hợi sơn sữu mùi mão tị vi quí nhân. Kinh vân: Thôi quan quí nhân lộc mã sơn, khởi phong chủ tiến phúc như lôi. An phần định hướng nhược năng chiếu thử thủ dụng, quí nhân phát phúc tất nhiên đại nhi thả tốc. Tam hợp ngũ hành quyết (tham khán chư gia 5 hành): Hợi mão mùi, kiền giáp đinh, Tham lang nhất lộ hành: Mộc cục. Dần ngọ tuất, cấn bính tân, vị vị thị Liêm trinh: Hỏa cục. Tị dậu sữu, tốn canh quí, tận thị vũ khúc vị: Kim cục. Thân tý thìn, khôn nhâm ất, Văn khúc tòng đầu xuất: Thủy cục. Chính Lộc Quyết (tức 12 lâm quan vị của 12 trường sinh): Giáp lộc tại Dần, Ất lộc tại Mão, Bính lộc tại tị, Đinh lộc tại Ngọ, Canh lộc tại Thân, Tân lộc tại Dậu, Nhâm lộc tại Hợi, Quí lộc tại Tý. Đó là 10 can lộc trong Mệnh thư, phàm sơn hình phong mãn (đầy đủ) hoặc nhọn tròn vuông chính, đều là lộc sơn, chủ phát hoạnh tài, chủ thực lộc vạn chung. vietnambuysell.com Share this post Link to post Share on other sites