Thiên Đồng

Thiền - Mật Của Việt Nam

5 bài viết trong chủ đề này

Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung: Thứ nhất là tu tại gia…


Trần Tung chính là con trai cả của An Sinh Vương Trần Liễu. Sinh ra và lớn lên giữa những rối lẫn vô hồi của thời đại và dòng tộc, lại là một con người dĩnh ngộ và sâu sắc từ nhỏ, Trần Tung đã sớm ngộ ra được những lý lẽ vi diệu của Phật giáo, coi đấy như một diệu pháp tinh thần tuyệt vời để cân bằng lại cuộc sống của mình.

"Tiêu đầu lạn ngạch bị kim bào,
Ngũ thất niên gian thị xưởng tào.
Túng dã siêu quần kiêm bạt tụy,
Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao".


(Tạm dịch: Vận kim bào nhưng cháy đầu nát trán, Bấy lâu nay vẫn cam go vất vả. Một khi đã hơn người tài trí, Thì lúc nào mà chẳng phải lao đao).

Những câu thơ tự thán này mới đọc thì dễ cảm thấy hình như Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung than thân trách phận riêng mình. Nhưng ngẫm kỹ, lại thấy hiện lên một phong độ bình tâm đến lạ lùng của trí tuệ lớn đã biết rất rõ sứ mệnh của mình một khi đã sinh ra làm kiếp con người. Đời là bể khổ, nhưng chính trong bể khổ ấy mới có thể làm lấp lánh nên chân cốt của nhân cách phi thường. Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung đã là một nhân cách phi thường như thế.

Nhà Trần có lẽ đã là một triều đại uy mãnh vào hàng bậc nhất lịch sử nước ta với những võ công hiển hách, ba lần đại thắng quân Nguyên. Nhưng đây cũng là một triều đại không chỉ chuộng sức mạnh mà còn rất chăm lo tới đời sống tâm linh và chữ nghĩa. Và đó cũng là một triều đại với những tập tục, nếp sống hồn nhiên đến mức đôi khi hoang sơ.

Vua tôi sinh hoạt cũng còn gần gụi, giản dị. Cách hành xử của ngay cả những bậc quyền quý đôi khi cũng thô mộc. Việc Thái sư Trần Thủ Độ năm 1237 đã sắp bày cho công chúa Thuận Thiên họ Lý (đang có mang ở tháng thứ ba với Trần Liễu, con cả của Thượng hoàng Trần Thừa) trở thành hoàng hậu của vua Thái Tông Trần Cảnh (thay cho người em ruột của bà là hoàng hậu Thiên Thánh, lúc đó chưa sinh con) là một trong những ví dụ về điều đó.

Sử cũ còn chép lại, trước sự kiện trên một năm (mùa hạ năm 1236), nước to, tràn vào cung Lệ Thiên. Hiển hoàng Trần Liễu, đi thuyền vào chầu, thấy người phi cũ của triều trước lập tức "mây mưa" ở ngay cung Lệ Thiên. Khi một số đình thần hặc tội Trần Liễu, cung Lệ Thiên được đổi tên thành cung Thưởng Xuân, còn Hiển hoàng thì bị giáng xuống làm Hoài Vương cho phải phép… Là anh ruột Trần Thái Tông, Trần Liễu về sau vẫn được triều Trần trân trọng phong tước An Sinh Vương…

Trần Tung chính là con trai cả của An Sinh Vương Trần Liễu. Sinh ra và lớn lên giữa những rối lẫn vô hồi của thời đại và dòng tộc, lại là một con người dĩnh ngộ và sâu sắc từ nhỏ, Trần Tung đã sớm ngộ ra được những lý lẽ vi diệu của Phật giáo, coi đấy như một diệu pháp tinh thần tuyệt vời để cân bằng lại cuộc sống của mình.

Và mặc dù không xuất gia một ngày nào nhưng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tuệ Trung Thượng Sĩ vẫn có một vị trí nổi bật không chỉ về hành trạng xuất chúng mà cả về những suy tư, những răn dạy và những sáng tác thi ca thấm đẫm vị Thiền mà vẫn rất gần gụi với chúng sinh thường nhật. Tác phẩm "Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ lục" của ông mà đời sau đã tập hợp lại cho tới hôm nay vẫn là một đỉnh cao trong tư duy Phật giáo Việt Nam.

Trần Tung sinh năm 1230. Ông là anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và công chúa Thiên Cảm (về sau trở thành hoàng hậu Nguyên Thánh của Trần Thánh Tông, con trai Trần Thái Tông). Sau khi An Sinh Vương Trần Liễu qua đời năm 1251, Trần Tung được vua Trần Thái Tông nhận làm con nuôi, phong tước Hưng Ninh Vương và thừa kế đất thang mộc của cha là vùng Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (thuộc hai huyện Đông Triều và Yên Hưng, Quảng Ninh ngày nay).

Và phải nói rằng, mọi việc chính sự triều Trần không hề xa lạ với Hưng Ninh Vương. Đã có lúc ông được cử trông coi quân dân ở đất Lộ Hồng và đã góp không ít công vào việc xây dựng vững chãi vùng phên giậu phía Đông này của kinh thành Thăng Long, điều hiển nhiên là rất có ích trong các cuộc kháng chiến đánh đuổi quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới hồi đó.

Bản thân Hưng Ninh Vương cũng đã tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, có lần cùng với Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đem hơn hai vạn quân kịch chiến với tướng giặc Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt…

Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ ba, Hưng Ninh Vương đã được người em họ là Trần Thánh Tông cử đích thân đến doanh trại giặc vờ ước hẹn trá hàng, làm cho quân giặc mất cảnh giác, sau đó cho quân đến đánh phá, buộc chúng phải rút quân về… Không có lòng dũng cảm vô song và trí tuệ khôn ngoan mẫn tiệp, đâu mấy ai dám làm và làm được những trọng sự như vậy!

Và cũng như nhiều hoàng thân quốc thích nhà Trần khi đó, Hưng Ninh Vương đã không chối từ các chức tước cũng như các lạc thú trần gian. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ ba, ông đã được phong chức Tiết Độ sứ ở vùng biển Thái Bình và đã làm tốt trọng trách đại thần này. Ông cũng có đủ đầy thê thiếp, cũng biết đánh giá đúng ngon đẹp ở đời. Ngay cả trong việc ăn uống hàng ngày, ông cũng không hề kiêng kị gì cả.

Chuyện cũ kể lại: trong một bữa tiệc cung đình của hoàng thái hậu Nguyên Thánh (công chúa Thiên Cảm), trên bàn đầy đủ cả đồ ăn chay lẫn đồ ăn mặn. Trần Tung, lúc đó đã tu Thiền rồi, nhưng vẫn gắp ăn mọi thứ ngon lành, bất kể chay hay mặn. Hoàng Thái hậu lấy làm lạ: "Anh tu Thiền mà lại không kiêng cá thịt, làm sao thành Phật được?".

Trần Tung mới cả cười: "Anh là anh, Phật là Phật. Anh không cần thành Phật, Phật cũng không cần thành anh. Cô chẳng nghe các bậc cổ đức nói "Văn thù là Văn thù, giải thoát là giải thoát" đó sao?"…Posted Image

Đặng Đình Nguyên

HƯNG NINH VƯƠNG TUỆ TRUNG THƯỢNG SỸ TRẦN TUNG (1230-1291)

VỚI TỊNH THẤT DƯỠNG CHÂN, XÃ CHÍNH MỸ, THUỶ NGUYÊN, HẢI PHÒNG


(ĐTN): Sau những phát hiện của giới sử học, phật học nước nhà, ngày 21-1-2005, xã Chính Mỹ, huyện Thuỷ Nguyên long trọng tổ chức lễ đón nhận tượng đồng danh nhân Tuệ Trung Thượng Sỹ do Hội khoa học lịch sử Việt Nam và Tạp chí Xưa và nay vận động đúc và trao tặng. Tượng được đặt thờ trong một ngôi đền trên đỉnh núi Lim thuộc làng văn hoá Mỹ Cụ.

Vương triều Trần (1225 - 1400), kế sau triều Lý được coi là thịnh trị của thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ ở Việt Nam.

Posted Image

Nói đến triều Trần, phải nói đến hơn 30 năm nước Đại Việt với cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên, trong đó có 3 lần đại thắng vào các năm 1258, 1285, 1288 đập tan mộng xâm lăng của đế quốc hung hãn nhất trong lịch sử trung cổ ở Châu Á thế kỉ XIII. Nói đến nhà Trần, người ta còn nói đến các vị vua Trần Thái Tông, Trần ThánhTông, Trần Nhân Tông... những vương hầu, danh tướng kiệt xuất mà tiêu biểu là anh hùng dân tộc quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Chỉ từ những năm 1990, nhờ những phát hiện của giới sử học, giới phật giáo Việt Nam, lớp bụi thời gian đã được xoá dần, làm sống lại một danh thần lỗi lạc, một ngôi sao thiền học đó là Hưng Ninh Vương Tuệ Trung Thượng sỹ.

Tuệ Trung thượng sỹ tên huý là Trần Quốc Tung, là con đầu của An Sinh Vương Trần Liễu và Mẫu Quốc Trần Thị Nguyệt đồng thời là anh của Trần Quốc Tuấn và Trần Thị Thiều (sau là vợ của Trần Thánh Tông, được phong là Thiên Cảm Hoàng hậu).

Xuất thân từ hoàng tộc, được giáo huấn đầy đủ, lại có bản tính thanh cao, thông minh, nhân hậu nên Trần Tung được mọi người mến mộ. Năm 1251, vua Trần Thánh Tông cảm nghĩa phong Trần Tung là Hưng Ninh Vương. Với tước hiệu này, Trần Tung đã có những đóng góp quan trọng vào cuộc chiến tranh chống Mông - Nguyên. Với pháp danh Tuệ Trung Thượng Sỹ, Trần Tung được coi là bậc thày về phật học, thiền học đương thời.

Với 62 năm hưởng dương, ngoài các chức như trấn thủ lộ đông (Trấn Hải Dương), Tiết độ sứ vùng duyên Hải (Thái Bình Nam Định), Trần Tung còn là một nhà ngoại giao, nhà triết học, nhà thiền học với những cống hiến lớn lao cho nước nhà.

Trong cuộc kháng chiến chông Mông Nguyên, Trần Tung đã từng là Phó tổng Tư lệnh cánh quân phía đông của Trần Hưng Đạo khi tiến về Thăng Long giải phóng kinh đô Đại Việt. Năm 1284 - 1285, đặc biệt với tài ngoại giao đàm phán, Trần Tung đã li gián quân địch trong trận rút chạy của đội quân thuỷ do Ô Mã Nhi cầm đầu có Trình Bằng Phi hộ tống, tạo điều kiện cho trận quyết chiến Bạch Đằng năm 1288, đốt cháy hơn bốn trăm chiến thuyền và gần chục ngàn tên giặc đập tan mộng xâm lăng của tên đế quốc hung hãn bậc nhất thời đó.

Nói đến Trần Tung là nói đến sự nghiệp truyền bá học thuật của ông về thiền học. Có lẽ sự nghiệp ấy bắt đầu từ khi vuaThánh Tông ký thác thái tử Khâm (Sau là Trần Nhân Tông) cho vương dạy dỗ. Sau này với pháp danh Tuệ Trung Thượng Sỹ, ông đã mở tràng học trên núi Lim, tổng Dưỡng Chân (Chính Mỹ). Môn sinh các nơi về đây nghiên cứu thiền học. Tịnh thất Dưỡng Chân đã trở thành một thiền viện Trúc Lâm nay vẫn còn dấu tích. Với những tư tưởng của thiền phái Trúc Lâm yên Tử mang đậm màu sắc Việt, những học trò kiệt xuất của ông đã thành tam tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (Sơ tổ Trần Nhân Tông, nhị tổ Pháp Loa, tam tổ Huyền Quang)

Về mặt lý luận, ông đã đúc kết, đưa ra những lý giải rõ ràng về những chủ đề lớn của phật giáo đại Việt như tương quan giữa sinh và tử, sắc và không, phàm phu với thánh hiền, mê muội với giác ngộ. Những vấn đề này theo ông đều do nhận thức của mỗi người. Theo ngài mỗi người đều có phật tính (Phật tại Tâm) nên mỗi người phải tự mình phá vỡ những nhận thức bản ngã để tìm sự khác biệt trong mối tương quan nói trên, xác định con đường giác ngộ.[/font]

Những tư tưởng lớn ấy được Phật Hoàng Trần Nhân Tông thể hiện rất rõ trong quá trình sáng lập và phát triển thiền phái trúc lâm Yên Tử. Khác với hiền phái khác, thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử vẫn giữ tôn chỉ của Phật Thích Ca nhưng phương pháp hành đạo có nhiều sáng tạo, nó giải quyết tốt vấn đề lý luận: Đạo và đời “Phật tại tâm”, “Thiền nhập thế”.[/font]

Tuệ Trung Thượng Sỹ, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão (1291) tại tịnh thất Dưỡng Chân. Sau khi Thượng sỹ qua đời, đích thân phật HoàngTrần Nhân Tông cho thu thập các bài thuyết pháp cùng các tác phẩm của Vương biên tập thành sách “Tuệ Trung Thượng Sỹ ngữ lục” cho khắc ván in và viết bài “Thượng sỹ hành trang” (Thân thế sự nghiệp Thượng Sỹ), lại sai danh sỹ Trần Khắc Chung viết lời cuối sách.


CTV: Phạm Kiến Nguyên- tạp chí KHKT Hải Phòng

Hội viên chi hội KHLS Thuỷ Nguyên

http://antgct.cand.c...08/5/52234.cand

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những huyền thoại ít biết về vị thiền sư nổi tiếng nhất Việt Nam

Ngày nay, người Việt vẫn gọi ông là Lý Quốc sư - vị Quốc sư họ Lý, tôn xưng ông là đức thánh Nguyễn, sánh ngang với đức thánh Trần nổi tiếng vì những cống hiến của ông trong thời đại mình. Thế nhưng, xoay quanh vị thiền sư nổi danh nhất Việt Nam này vẫn còn những câu chuyện đậm chất huyền thoại ít người biết tới…

Tuổi thơ nghèo khó và chuyến viễn du “Tây Thiên”

Lý Quốc sư thực tế không phải là tên gọi mà là một chức danh dành cho vị cao tăng có chức vị cao nhất trong triều đại nhà Lý. Sử sách chép rằng, Lý Quốc sư vốn tên thật là Nguyễn Chí Thành, pháp hiệu là Nguyễn Minh Không. Ông sinh vào 15/10/1065 tại làng Đàm Xá, phủ Tràng An (nay là Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Cha của Chí Thành là Nguyễn Sùng, quê ở Đàm Xá, Trang An còn mẹ ông là Dương Thị Mỹ, quê ở Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Chuyện kể rằng, mặc dù gia cảnh ông Sùng rất nghèo nhưng hai vợ chồng ông bà luôn chăm lo làm việc thiện. Về sau, hai ông bà sinh hạ được một người con trai khôi ngô tuấn tú, mới đặt tên là Nguyễn Chí Thành. Cha mẹ mất từ khi Chí Thành còn rất nhỏ, lại thêm gia cảnh nhà rất nghèo nên cậu bé Chí Thành đã sớm phải mò cua, bắt cá sinh sống qua ngày.

Thời ấy, Phật giáo đã được truyền vào Việt Nam và đang ở giai đoạn cực thịnh. Phật giáo được coi là quốc giáo và có ảnh hưởng rất lớn tới mọi mặt của đời sống. Chính vì vậy, rất nhiều người dân Đại Việt thời bấy giờ đều lập chí tu hành học đạo. Chí Thành cũng là một trong số ấy.

Về việc học đạo của Chí Thành, có nhiều truyền thuyết khác nhau. Có người nói rằng, Minh Không và Từ Đạo Hạnh vốn là bạn thân từ nhỏ. Lớn lên, hai người cùng xuất gia đi tu rồi cùng một thiền sư khác tên là Giác Hải lên đường đi Tây Thiên tầm sư học đạo.

Chuyện kể rằng, khi cả ba đi đến xứ răng vàng, thấy đường xá hiểm trở, khó đi, đang định quay về thì bỗng thấy một ông già chèo một chiếc thuyền còn, thảnh thơi đi dạo chơi trên sông, 3 người cùng đến hỏi: “Thưa cụ, từ đây sang Tây Thiên đường còn bao xa?” Cụ già đáp: “Đường núi hiểm trở, đi bộ không được đâu, tôi có chiếc thuyền này có thể chở giúp các ông sang được, lại có cây gậy cho các ông cầm, cứ chỉ thẳng về phía Tây Vực mà đi, thì sẽ đến ngay”. Nói xong cụ già đọc bài kệ. Đọc kệ xong chỉ trong khoảng giây lát thuyền đã ghé đến bến Tây Thiên. Ba người nhờ vậy đến được Tây Thiên học được phép linh dị. Sau khi đắc đạo, ba người kết nghĩa làm anh em rồi cùng trở về truyền bá Phật pháp.


Nhiều người lại cho rằng, chuyện Minh Không làm bạn rồi cùng Từ Đạo Hạnh cùng đến Tây Thiên học đạo là một nhầm lẫn. Thực tế người cùng Từ Đạo Hạnh và Giác Hải đến Tây Thiên học đạo là sư Không Lộ, một thiền sư nổi tiếng khác vào thời Lý, còn Minh Không là học trò của Từ Đạo Hạnh. Năm 11 tuổi, Chí Thành gặp sư Từ Đạo Hạnh mới xin theo học. Từ Đạo Hạnh nhận Chí Thành làm đệ tử, mới ban pháp hiệu là Minh Không. Minh Không thông minh, dĩnh ngộ nên được Từ Đạo Hạnh rất khen ngợi, truyền cho tâm ấn. Chính vì vậy, trước khi viên tịch, Từ Đạo Hạnh mới dặn dò vị học trò giỏi nhất sau này giúp mình chữa căn bệnh “hóa hổ” của mình khi đã đầu thai chuyển kiếp vào vua Lý Thần Tông.

Posted Image




Vị thiền sư tài năng và căn bệnh “hóa hổ” của vua Lý

Việc chữa căn bệnh “hóa hổ” lạ lùng của vua Lý Thần Tông của sư Minh Không đến nay vẫn là câu chuyện mang đậm chất huyền thoại và gây ra nhiều tranh cãi.

Một truyền thuyết nói rằng, khi Minh Không và Từ Đạo Hạnh học đạo từ Tây Thiên trở về, giữa đường, Đạo Hạnh muốn thử tài của Minh Không liền vượt trước, hóa thành một con hổ phục trong bụi, rồi chồm ra dọa Minh Không. Minh Không đã biết trước, cứ ung dung nói với con hổ: “Đạo huynh đấy à? Tưởng đạo huynh làm gì ích lợi cho đời, lại đi làm thú dữ hại người đấy ư? Đạo huynh muốn thế, kiếp sau sẽ được làm mà…” Từ Đạo Hạnh biết mình còn kém Nguyễn Minh Không, hiện lại nguyên hình, lạy tạ và khẩn khoản nói: “Ngu đệ không tự biết mình, trót làm điều xúc phạm, xin đạo huynh tha thứ. Quả báo sau này có sa vào nghiệp chướng ấy, xin đạo huynh ra tay cứu giúp”. Quả báo mà Từ Đạo Hạnh nói đến sau này chính là việc ông phải đầu thai chuyển kiếp thành vua Lý Thần Tông và mắc phải căn bệnh “hóa hổ” kỳ lạ mà không danh ý nào có thể chữa được.

Tuy nhiên, nhiều người cũng nói rằng, chính sự nhầm lẫn giữa sư Không Lộ và Minh Không đã dẫn đến câu chuyện nói trên. Người bị Đạo Hạnh hóa thành hổ dọa trên đường từ Thiên Trúc trở về chính là Giác Hải và Không Lộ.

Chuyện kể rằng, khi ba người ngồi thuyền đến Thiên Trúc, Từ Đạo Hạnh ở lại giữ thuyền còn Giác Hải và Không Lộ lên bờ học phép. Sau khi học được phép thiêng, Giác Hải và Không Lộ đã bỏ về trước. Từ Đạo Hạnh ngồi giữ thuyền 3 ngày mà không thấy tin tức của 2 bạn đồng hành đâu, đúng lúc đó bỗng thấy một cụ già đi đến. Từ Đạo Hạnh vái chào rồi hỏi: “Cụ có thấy 2 người lên học đạo đó không? Cụ già nói: “Hai người đó đã học được phép thiêng của Ta và đã trở về nước rồi”.

Từ Đạo Hạnh bèn vái lậy và kể rõ cho bạ cụ biết mọi chuyện, cụ già nghe nói bèn sai Từ Đạo Hạnh gánh 2 thùng nước về nhà rồi dạy cho mọi phép thiêng cùng phép rút đất chân truyền Đà-la-ni. Sau khi học xong phép thiêng, Từ Đạo Hạnh tự hiềm vì 2 người bạn đã thất ước, bèn đọc thần chú khiến 2 người bạn đang đi đường đau bụng quá phải ngồi nghỉ. Sau đó, Đạo Hạnh lại dùng phép rút đất vượt lên phía trước, rồi hóa thành một con hổ núp trong bụi rậm đợi Giác Hải và Không Lộ đi qua mới nhảy ra dọa. Sau đó, chính Đạo Hạnh đã nhờ Giác Hải và Không Lộ cứu mình tránh khỏi nghiệp chướng sau này.


Không Lộ lúc ấy mới nói với Từ Đạo Hạnh rằng: “Chúng tôi bây giờ đã lớn tuổi, xin trông cậy cả vào Minh Không”. Chính vì vậy, về sau này, khi sắp viên tịch, biết mình sẽ hóa thân làm con hóa thân Lý Thần Tông sau này, Từ Đạo Hạnh mới cho gọi Minh Không đến mà dặn rằng: “Ta nay sắp xuất thế, ở cái địa vị làm thầy người ta, bệnh trái kiếp sau quyết là khó tránh nổi. Ta với người có duyên, nên cứu giúp nhau”. Nói xong, đưa cho Minh Không một gói thuốc đã được niệm chú dặn rằng: 20 năm sau, nếu nghe quốc vương bị bệnh thì lập tức đến chữa trị ngay.

Dẫu Minh Không là bạn hay là học trò của Từ Đạo Hạnh, thì có một điều chắc chắn rằng, người chữa căn bệnh “hóa hổ” kỳ lạ của vua Lý Thần Tông chỉ có một mình Minh Không. Chuyện kể rằng, Từ Đạo Hạnh sau khi viên tịch đã đầu thai làm con của Sùng Hiền hầu, em ruột vua Lý Nhân Tông, được đặt tên là Dương Hoán. Khi Lý Nhân Tông qua đời, Dương Hoán được chọn làm con người kế vị, tức vua Lý Thần Tông.

Lên ngôi không được bao lâu, tháng 3 năm 1136 vua Lý Thần Tông bệnh nặng, lông lá mọc khắp cơ thể, gầm thét như hổ suốt ngày. Các danh y tài giỏi từ khắp nơi trong cả nước được mời đến chữa bệnh nhưng bệnh của vua không thuyên giảm. Triều đình phái sứ giả đi khắp nơi tìm người có thể chữa bệnh cho đức vua. Khi sứ giả đến vùng núi Tử Trầm, nơi Minh Không trụ trì, thấy trẻ con hát câu đồng dao: “Tập tầm vông, có Nguyễn Minh Không chữa được mình rồng thiên tử…” Sứ giả thấy lạ liền hỏi thăm và tìm được Nguyễn Minh Không, mời ông vào triều chữa bệnh cho vua.

Minh Không thấy sứ giả đến, trong thuyền có rất nhiều lính chèo thuyền, muốn dọn cơm chay cho ăn, bèn lấy một cái niêu nhỏ đem cho họ cùng ăn, bảo họ rằng: “Anh em đông quá sợ không đủ no bụng, tạm ăn vậy”. Thế mà bọn lính chèo thuyền hơn một trăm người cùng ăn cũng không sao hết được niêu cơm. Khi bọn lính ăn xong, Minh Không lại bảo: “Anh em hãy tạm ngủ say một lát nữa đợi nước triều lên ta hãy bắt đầu ra đi”. Bọn lính đồng ý, đều nằm ngủ say ở trên thuyền. Mới trong khoảnh khắc, thuyền đã trở về tới kinh đô, bọn lính bơi chèo tỉnh dậy đều lấy làm lạ, phục tài của thiền sư Minh Không.

Khi sư Minh Không đến, thấy nhiều pháp sư khác cũng đang ở trên điện làm phép chữa bệnh cho vua. Họ thấy Minh Không ăn mặc quê mùa nên khinh thường không thèm chào hỏi. Sư Minh Không thấy vậy, lấy từ trong túi một chiếc đinh lớn, dài hơn 5 tấc rồi đóng sâu vào cột, sau đó lên tiếng hỏi: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì hãy nói chuyện chữa bệnh". Minh Không nói thế ba lần nhưng chẳng vị pháp sư nào dám làm. Thấy vậy, Minh Không ung dung bước lại gần, lấy hai ngón tay trái, cầm vào rồi nhẹ nhàng rút ra. Mọi người chứng kiến đều khiếp phục sức mạnh phi thường của Minh Không nên nhường ông vào chữa bệnh cho vua.

Chuyện kể rằng, khi được đưa vào gặp vua Lý Thần Tông, Minh Không lớn tiếng hỏi: “Kẻ đại trượng phu được tôn lên ngôi thiên tử, giàu có khắp bốn bể, cớ sao còn phát bệnh cuồng loạn như vậy?” Vua nghe thấy vậy, rất run sợ, không dám kêu gầm nữa. Minh Không lại sai người lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần. Minh Không dùng tay không quấy lên khoảng bốn lần, rồi tắm vua trong đó. Ngay sau đó, bệnh của vua đã bớt ngay. Ít lâu sau thì vua khỏi hẳn. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng của Minh Không và cũng là để cảm tạ ơn cứu mạng của ông, vua Lý Thần Tông phong cho Minh Không là Quốc sư, được đổi từ họ Nguyễn sang họ Lý của vua, cấp cho nhà ở, ban lộc mấy trăm hộ và được miễn thuế má. Vì vậy, sau này người ta mới gọi sư Minh Không là Lý Quốc sư, ý chỉ vị Quốc sư họ Lý.

Không chỉ nổi tiếng vì đã chữa bệnh cho vua, thiền sư Minh Không còn là người có công xây dựng rất nhiều ngôi chùa trên nước Đại Việt. Sử chép rằng, sau khi tu hành đắc đạo, sư Minh Không trở về quê nhà ở Ninh Bình, dựng chùa Viên Quang, sau đó lại lập nhiều chùa ở Phả Lại (Bắc Ninh), Giao Thủy (Nam Định), Vũ Thư (Thái Bình)... để tu hành. Trong suốt cuộc đời, Nguyễn Minh Không đã dựng tới 500 ngôi chùa trên đất Đại Việt. Ông qua đời vào năm 1141, niên hiệu Thái Bình thứ 22, thọ 76 tuổi.

Theo An Nhiên - PNTD

http://chuaphuclam.vn/index.php?/lich-su/nhng-huyn-thoi-it-bit-v-v-thin-s-ni-ting-nht-vit-nam.html

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lĩnh Nam chích quái
Trần Thế Pháp


Truyện Man nương

Vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất, bên bờ tây sông Thiên Đức có ngôi chùa Phúc Thắng. Trụ trì trong chùa là nhà sư Đà La, chẳng những tài cao đức rộng mà còn có nhiều thuật phép lạ, nên được dân chúng khắp nơi kính phục, tìm đến theo học rất đông.

Thuở ấy, trong vùng có một người con gái tên gọi Man Nương, cha mẹ mất sớm, lại nhà rất nghèo, cũng tìm đến chùa để theo học.

Man Nương tính tình thật thà, chất phát, lại siêng năng chăm chỉ, nhưng vì có tật nói lắp không tụng kinh được, nên sư Đà La giao cho việc nấu nướng để tiếp đãi các tăng ni đến chùa.

Một đêm vào giữa tháng năm, trời khi ấy đã khuya, Man Nương nấu chín nồi cháo đã lâu mà nhà sư và các tăng ni vẫn còn mải mê tụng kinh niệm Phật. Ngồi tựa ở cửa bếp để chờ, vô tình Man Nương ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết.

Khi tụng kinh xong không thấy Man Nương bưng cháo lên như mọi lần, sư Đà La bèn xuống bếp để xem sự thể thế nào. Thấy Man Nương đã ngủ say, không tiện đánh thức dậy, nhà sư liền né người bước qua để vào lấy cháo. Không ngờ chỉ như vậy thôi, mà Man Nương đã mang thai.

Có thai được ba tháng thì Man Nương cảm thấy xấu hổ quá, bèn bỏ chùa ra về. Sư Đà La, sau đó cũng rời đi nơi khác. Mấy tháng sau Man Nương sinh hạ được một mủn con gái, bèn tìm đến nơi nhà sư đang tu hành để trả con lại.

Sư Đà La ôm đứa trẻ, cùng Man Nương đi tới cây phù dung ở một ngã ba đường. Đó là một cây cổ thụ, cành lá sum xuê xanh tốt, lại có cái hốc rất to ở phía gần gốc. Đặt đứa trẻ vào trong hốc cây, nhà sư nói: "Này cây, ta gửi con Phật. Ngươi hãy giữ lấy, sau này sẽ được thành Phật".

Nhà sư nói xong, thấy miệng hốc cây tự nhiên khép kín ngay lại.

Trước khi từ giã Man Nương, sư Đà La bảo nàng hãy tiếp tục đi tu, rồi giao cho một cây trượng mà bảo: "Ta cho nàng vật này. Khi nào trời hạn, đem cắm xuống đất, tự nhiên sẽ có mưa lớn". Man Nương cung kính nhận lời.

Từ đó, mỗi khi trời làm hạn hán, Man Nương lại cắm trượng xuống đất, thế là trời lại đổ mưa to. Dân chúng trong vùng thấy vậy, đều rất đỗi vui mừng và cảm phục.

Một năm, trời đổ mưa to lại thêm bão lớn, làm cho cây phù dung có đứa bé ở trong, bị đổ. Cây trôi đến bến sông mà phía trên có ngôi chùa sư cụ Man Nương đang trụ trì thì dừng lại, dập dềnh ở bên mép nước.

Dân trong làng thấy vậy, bèn cùng nhau mang thừng chão ra buộc vào để kéo cây lên. Nhưng lạ thay, mấy chục người, rồi sau đó mấy trăm người, cùng xúm vào, mà cây vẫn không nhúc nhích.

Giữa lúc ấy, sư cụ Man Nương chống gậy từ trong chùa bước ra bến rửa tay. Thấy sự lạ, sư cụ bèn cầm vào một đầu dây kéo thử. Nhưng thật chẳng ngờ, khi sư cụ vừa khẽ chạm tay vào thì cây cũng lập tức chuyển động. Mọi người vui mừng, nhờ sư cụ kéo hẳn cây lên bờ, trong lòng ai ấy cũng đều thấy vừa ngạc nhiên vừa vô cùng cảm phục.

Cho rằng cây phù dung này linh thiêng nên dân làng bàn nhau sẽ cưa ra, để tạc thành tượng thờ.Nhưng khi những người thợ mang dao, cưa đến để phát cành xẻ gỗ, thì dao và cưa đều bị quằn, mẻ, không thể làm gì được.

Dân làng lại phải nhờ đến sư cụ Man Nương. Chỉ sau khi sư cụ thắp hương đặt lễ vật, khấn vái, rồi đứng ở đấy chứng kiến, thì tốp thợ mới phát cành và xẻ cây được.

Họ cưa thân cây làm bốn khúc, dự định sẽ tạc bốn pho tượng thờ. Nhưng đến đoạn gốc nơi có cái hốc đặt đứa trẻ ngày trước, thì tự nhiên một tảng đá lăn ra.

Vì thấy tảng đá làm cho các mũi cưa bị gãy, nên tốp thợ tức quá, hè nhau lấy gáy rìu đập lấy đập để vào, cho hả giận. Lạ thật, tảng đá vẫn trơ ra, còn các gáy rìu, tất cả đều bị quăn queo, méo mó.

Biết không thể làm gì được, nhưng vẫn tức, tốp thợ lạ hò nhau bê tảng đá ném xuống sông. Nhưng thật bất ngờ, chỉ vừa chạm mặt nước, thì tảng đá lóe sáng, rồi vừa phát sáng vừa chìm xuống dưới đáy, làm cho cả một khúc sông sáng bừng lên, cùng với những quầng sáng rộng.

Tất cả tốp thợ kinh hoàng, thế rồi tự nhiên, không ai bảo ai, cùng lảo đảo, loạng choạng, rồi nhất loạt ngã vật ra đất, bất tỉnh nhân sự.

Tình thế thật vô cùng khẩn cấp. Những người được chứng kiến vội vã đi tìm lễ vật, hương đăng, rồi mời sư cụ Man Nương xuống tận nơi khấn vái. Lại thuê cả thợ lặn đến để vớt tảng đá lên. Chỉ đến khi các việc thật xong xuôi, mới thấy tốp thợ dần dần hồi tỉnh lại.

Bốn khúc gỗ cắt ở cây phù dung ra, sau đó được tạc thành bốn pho tượng thờ. Lúc ấy nhà sư Đà La hay tin, cũng trở về chứng kiến. Ngài đặt pháp hiệu cho bốn pho tượng là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, ý là để cầu mong cho dân làng yên vui và quanh năm mưa gió thuận hòa, không bị mưa, bão, sấm, sét làm cho thiệt hại.

Ngài lại bảo đem tảng đá vào đặt bên cạnh các pho tượng đã tạc. Thế rồi,mọi người nhìn thấy, các pho tượng tự nhiên đều sáng bừng lên, hệt như đã được dát bên ngoài bằng vàng, bằng bạc.

Sau đó, theo lời dạy của nhà sư Đà La, bốn pho tượng được đưa về bốn ngôi chùa lớn trong vùng, và các ngôi chùa này,từ đấy được mang tên như của bốn pho tượng đã tạc. Riêng tảng đá, được đặt ở chính ngôi chùa có sư cụ Man Nương đang trụ trì, tức là ngôi chùa có bến sông đã vớt được cây phù dung dạo trước.

Sư cụ Man Nương còn trụ trì tại ngôi chùa này mấy chục năm nữa rồi mới viên tịch, lúc ở tuổi gần một trăm. Ngày viên tịch là ngày mồng bốn tháng tư (âm lịch), đúng bốn ngày trước lễ Phật đản. Dân chúng trong vùng vừa thương tiếc nhưng cũng vừa kính cẩn, tôn xưng sư cụ là Phật mẫu Man Nương. Danh hiệu "Phật mẫu" này để chỉ, khi sinh thời cụ đã sinh ra đứa trẻ (tảng đá), sau trrở thành tiền thân của bốn ngôi chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện trong vùng.

Lại nói về bốn ngôi chùa này, từ khi có bốn pho tượng thờ mới, thì càng ngày càng trở nên linh ứng đặc biệt. Những năm lụt lội hay hạn hán kéo dài, dân chúng đến đây cầu đảo, đều thấy luôn luôn ứng nghiệm. Từ đấy, thiện nam tín nữ tìm về ngày mỗi thêm đông. Để tưởng nhớ Phật mẫu Man Nương, nên dân chúng trong vùng lấy ngày mồng bốn tháng tư , ngày sư cụ viên tịch, làm ngày lễ hội của cả bốn ngôi chùa.

Hàng năm, cứ đến ngày này, ở các nơi dân chúng lại nô nức tìm về trảy hội, và dùng nước sạch để tắm rửa cho các pho tượng Phật trong chùa. Lâu dần, trở thành phong tục, gọi là hội tắm Phật.
sưu tầm

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những lời tiên tri chính xác 99,99% của các thiền sư Việt


Thông qua những câu sấm truyền, nhiều thiền sư Việt Nam đã tiên đoán chính xác những sự kiện diễn ra sau hàng thế kỷ.

Thiền sư Định Không giải đoán hậu vận đất nước

Thiền sư Định Không (?-808) xuất thân từ một dòng tộc quyền quý họ Nguyễn, ở hương Cổ Pháp, Bắc Ninh. Sử sách ghi lại rằng ông là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc biết đoán định tương lai.

Posted Image

Lời sấm truyền linh ứng sau 200 năm của ông về sự ra đời của nhà Lý vẫn còn được lưu lại đến nay, nội dung như sau:

Pháp khí xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Tính Lý hưng long
Tam phẩm thành công

Dịch ra tiếng Việt:
Hiện ra pháp khí
Mười khẩu chuông đồng
Họ Lý hưng long
Ba phẩm thành công

Trước khi qua đời, sư truyền lời tiên tri về hậu vận đất nước cho học trò như sau: “Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta đã mãn”.

Hơn 60 năm sau, lời của ông đã linh ứng. Nhà Đường cử Tiết Độ Sứ Cao Biền sang cai trị, bóc lột nhân dân ta. Thâm độc hơn, chúng còn đến nhiều vùng đất, thế núi linh thiêng, nơi sẽ sinh người tài giỏi, trấn yểm triệt phá long mạch, trong đó có đất Cổ Pháp của sư Định Không. Một thế kỷ sau đó Đinh Tiên Hoàng (924 – 979) chấm dứt tình cảnh loạn lạc, sáng lập ra nhà Đinh và nước Đại Cồ Việt, mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ của người Việt.

Sau này, sự chấm dứt của triều Đinh (968 – 980) cũng ứng với một lời sấm không rõ tác giả, xuất hiện vào năm 974:


Đỗ Thích giết hai Đinh

Nhà Lê sinh thánh minh

6 năm sau, trong bữa tiệc tối, nhân lúc vua quan say rượu, hoạn quan Đỗ Thích đã giết vua và người con cả Đinh Liễn. Sau đó Lê Hoàn nắm quyền kiểm soát triều đình và trở thành hoàng đế, mở ra thời Tiền Lê. Dưới thời của ông đất nước được thịnh trị và giành chiến thắng vẻ vang trước cuộc xâm lược của nước Tống.

Thiền sư La Quý tiên đoán sự ra đời của Nhà Lý


Thiền sư La Quý (852 – 936) là người họ Đinh, cũng được lịch sử ghi nhận với khả năng tiên tri của mình. Tương truyền, trước khi qua đời ông đã trồng cây gạo ở chùa Minh Châu, làng Diên Uẩn và để lại những bài kệ:

Đại sơn long đầu khỉ

Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiên nhật xuất thanh

Dịch là:

Đại sơn đầu rồng ngửng

Đuôi cù ẩn Châu minh
Thập bát tử định thành
Bông gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên

Do những từ “thập bát tử” ở câu số 3 là chiết tự của chữ Lý, nghĩa là họ Lý, nên bài thơ được diễn giải như sau: Đầu rồng hiện ở núi lớn / đuôi rồng giấu sự thịnh vượng / Họ Lý nhất định thành/khi cây gạo hiện hình rồng/ chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột / chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh". Điều này ứng với sự ra đời của nhà Lý vào tháng 11 (tháng chuột) năm Kỷ Dậu (năm gà) 1009.

Tài tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh


Thiền sư Vạn Hạnh (938 – 1025) là người họ Nguyễn, quê ở châu Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay). Ông là vị thiền sư có nhiều đóng góp trong việc mở ra nhà Lý đồng thời cũng là một nhà tiên tri.

Câu chuyện nổi tiếng nhất về khả năng tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh gắn liền với cây gạo do thiền sư La Quý trồng ở làng Diên Uẩn. Theo Đại Việt Sử Ký, vào năm 1009, cây gạo này đã bị sét đánh và hiện lên những dòng chữ như sau:

Thọ căn diễu diễu

Mộc biểu thanh thanh
Hoa đào mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sanh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình

Dịch là:

Gốc cây thăm thẳm

Ngọn cây xanh xanh
Cây hoa đào rụng
Mười tám hạt thành
Cành đông xuống đất
Cành khác lại sanh
Đông mặt trời mọc
Tây sao ẩn hình
Sáu bảy năm nữa
Thiên hạ thái bình

Sư Vạn Hạnh đã giải đoán rằng, trong câu “Thọ căn diễu diễu” chữ “căn” là gốc, gốc là vua, chữ “diễu” đồng âm với chữ yểu, nghĩa là nhà vua (Lê Long Đĩnh) sẽ chết yểu.

Trong câu “Mộc biểu thanh thanh” chữ “biểu” là ngọn, ngọn là bầy tôi, chữ “thanh” đồng âm với chữ thịnh, nghĩa là một người trong số quần thần sẽ lên nắm chính quyền.

Ở câu 3, chữ “hoa đào” ghép lại thành chữ “lê”, tức là nhà Lê sẽ sụp đổ.


Ở câu 4, ba chữ “thập bát tử” ghép lại là chữ Lý, tức là nhà Lý sẽ lên ngôi.



Trong câu “Đông a nhập địa”, chữ “đông” và chữ “a” ghép thành chữ Trần, nói về sự kế tiếp của nhà Trần sau nhà Lý. Câu “Dị mộc tái sanh” nghĩa là một họ Lê khác (Lê Lợi và nhà Hậu Lê) sẽ lại nổi lên…

Qua lời sấm này, thiền sư Vạn Hạnh đã tiên đoán chính xác những diễn biến lịch sử của dân tộc trong khoảng 5 thế kỷ, từ thời Tiền Lê đến thời Hậu Lê.

Việc cây gạo bị sét đánh và hiện ra lời sấm cũng đã được thiền sư La Quý tiên đoán trước đó với câu "Miên thọ hiện long hình" (Bông gạo hiện long hình), câu thứ 4 trong bài kệ năm 936 của ông.

Theo Kiến thức

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đại thiền sư Tuệ Tĩnh - Một góc nhìn khác

Đại y sư Tuệ Tĩnh, ngài cũng là ông Tổ của ngành y dược nước ta với khẩu hiệu nổi tiếng "Nam dược trị nam nhân" nghĩa là thuốc Nam trị bệnh cho người Nam (Việt Nam).

Posted Image


Sở dĩ Thần y Tuệ tĩnh đưa ra khẩu hiệu ấy là thời bấy giờ do sự đô hộ nghìn năm của phương Bắc nên y học cổ truyền cũng chịu ảnh hưởng lớn của y học Trung Quốc (các loại thuốc Bắc).

Đại y sư Tuệ tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh sinh năm 1330 ở tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay là tỉnh Hải Dương). Mồ côi cha mẹ từ nhỏ và được các nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thuỷ nuôi dạy. Dưới triều vua Trần Dụ Tông, thi đậu Thái học sinh (năm 22 tuổi) nhưng ông không ra làm quan mà xuất gia đi tu và làm nghề thuốc chữa bệnh cho dân.

Ông nổi tiếng là thần y vì tài chữa bệnh và đặc biệt là tìm tòi, phát hiện nhiều vị thuốc Nam quý. Trong cuốn "Hồng nghĩa giác thư y" ông biên soạn khảng 500 vị thuốc Nam và để mọi người dễ học, dễ nhớ ông viết bằng thơ Nôm theo lối Đường luật. Trong cuốn "Phú thuốc Nam" cũng bằng chữ Nôm, và đặc biệt cuốn "Nam dược thần hiệu " của ông hiện vẫn đang được các nhà y dược học đánh giá cao và có giá trị lớn đối với y học ngày nay.

Công lao đặc biệt của ông chính là đề xướng một nền y học tự chủ, tự cường, độc lập gần giống khẩu hiệu hiện nay "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam " . Không những viết sách, chữa bệnh ông còn tổ chức cho nhân dân biết cách vệ sinh, phòng chống bệnh, dạy cho nhiều đệ tử và biến các chùa thành nơi chữa bệnh (giống như trạm xá ngày nay). Đây là tư tưởng cực kỳ tiến bộ của ngành điều trị từ xa, điều trị chủ động và điều trị dự phòng, tận dụng thế mạnh tổng hợp trong nhân dân, trong thiên nhiên, tạo ra di sản quý báu cho các thế hệ sau .

Do tài chữa bệnh như thần của ông nên nhà Minh đã đòi cống sang phương Bắc để chữa bệnh cho triều đình. Ông đã chữa khỏi bệnh cho Thái hậu và được vua Minh rất sủng ái nhưng một lòng ông lúc nào cũng hướng về Tổ quốc. Lúc ông mất tại đất khách quê người có cho khắc vào bia mộ mình "về sau có ai bên nước Nam sang, cho tôi xin về với" và sau gần 3 thế kỷ có tiến sỹ Nguyễn Danh Nho (người cùng quê) đi sứ sang Giang Nam đã dập được tấm bia mộ và mang về cho đục bia tưởng niệm và thờ tại Cẩm Giàng. Đại y sư Tuệ Tĩnh là một thiền sư và là một Bồ Tát có lòng từ bi quảng đại, tượng của Thiền sư cũng là đặc biệt nhất trong số các tượng sư Tổ.

Posted Image


Thông thường trong các chùa có thờ tượng của các sư trụ trì cao tăng đắc đạo, tư thế tượng được tạc ngồi xếp bằng hoa sen, hai tay xếp trong trong lòng theo kiểu ấn tam muội (ấn thiền định), hoạc hai tay đặt trên đầu gối. Nhưng tượng của Đại y thiền sư Tuệ tĩnh lại được tạc theo tư thế ngồi trên ghế, lưng thẳng và hai tay xếp trước ngực theo kiểu ấn Chuẩn đề (Cundhe). Điều đó chứng tỏ người xưa đã đặt vị trí của Thiền sư là một Bồ Tát hoá thân của Chuẩn đề vương Bồ Tát. Quan điểm của ngài cũng là Đạo và Đời không tách riêng, Đạo phục vụ đời, Đời là nơi rèn luyện Đạo. Tư tưởng đại thừa Phật giáo ở Đại y sư Tuệ Tĩnh đã là niềm cảm hứng, sự phấn đấu noi theo của các lớp tăng ni Phật tử ngày nay theo tinh thần Từ bi hỷ xả của Đức Phật.


Huệ Thông

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay