Lãn Miên

Cập Nhật Nghiên Cứu Sử Bách Việt

2 bài viết trong chủ đề này

Cập nhật nghiên cứu sử Bách Việt

Khi nhờ Gu Gồ tìm “Bách Việt dân tộc sử nghiên cứu hội” thì tôi gặp được trang này [ zh-yue wikipedia.org/wiki] giới thiệu về tôn chỉ của Hội nghiên cứu sử dân tộc Bách Việt của TQ, nên tôi đưa nguyên văn lên đây:

百越民族史研究會

出自維基百科自由嘅百科全書

跳去: 定向、 搵嘢

百越民族史研究會係中國嘅全國性學術研究團體喺《百越民族史研究會嘅籌備規劃書》中寫明佢嘅宗旨係

對百越民族嘅名稱、族源、分布、文化習俗、社會政治經濟等方面嘅內容展開全面嘅研究。秉持團結、求實與學術民主嘅精神將一大批東南學人緊緊地團結響共同嘅學術興趣下塑造團結、和諧嘅學術氛圍構築交流、對話嘅良好平臺。秉持學術至上嘅宗旨堅持不懈每兩年舉辦一次全國性或國際性嘅學術研討會每屆年會都編輯出版高水平嘅學術論文集全面深化百越、乃至東南民族史、考古學嘅學術研究。重視學術隊伍嘅建設同人才嘅培養鼓勵、幫助年輕學者嘅成長同進步體現學會學術研究工作承前啟後、繼往開來嘅良好局面。

目錄

[收埋]

• 1 創立同會員

• 2 編物

• 3 註

• 4 出面網頁

創立同會員[編輯]

百越民族史研究會由黃現璠、翁獨健、梁釗韜、陳國強等人喺1980年6月創立。第一、二屆會長係梁釗韜中共黨員黃現璠嘅學生副會長係黃現璠、陳國強中共黨員、侯方嶽中共黨員等[1]。現任會長係廈門大學教授吳春明中共黨員。研究會嘅辦公地點喺廈門大學人類博物館3層303室。研究會嘅會員主要來自廣西、廣東、福建、江蘇、浙江、海南、安徽、江西、湖北、湖南、雲南、北京等省、市、自治區嘅大專院校、文博考古機構。

編物[編輯]

• 百越民族史研究會編《百越民族史論叢》

• 百越民族史研究會編《百越史論集》

• 百越民族史研究會編《百越民族研究》

• 百越民族史研究會編《中國百越民族史研究會年會論文集——百越研究》第1-2辑

• 百越民族史研究會編《百越民族史資料選編》

註[編輯]

1. ↑ 百越民族史研究會/2009-4-27 - 中華人民共和國教育部社會科學司指導網中國高校人文社會科學信息網

出面網頁[編輯]

• 中國百越民族史研究會第十四屆年會綜述

• 中國百越民族史研究會第十五屆年會暨環南海歷史文化國際學術研討會響海口召開

由 "

4. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư. Quyển I. Kỷ Hồng Bàng thị: "Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam)"

5. ^ Yu Tianji, Qin Shengmin, Lan Riyong, Liang Xuda and Qin Cailan (eds.) Gu Nan Yue Guo Shi., [The History of the State of Ancient Yue.] Nanning: Guangxi Renmin Chubanshe, 1988., pp. 179-188.

6. ^ Chen Guoqiang, Wu Nianji, Jiang Bingzhao and Qin Tucheng, Bai Yue Minzu Shi, [The History of the Bai Yue People.] Beijing: Zhongguo Shehui Kexue Chubanshe, 1988, pp. 41-61.

7. ^ Yu Tianzi, Qin Shengmin, Lann Riyong, Liang Xuda, Qin Cailan (eds.) pp. 194-8. Lu Mingtian, "Qin Han Qianhou Lingan Bai Yue Zhuyao Zhixide Fenbu ji qi Zu Cheng." [The Distribution and Names of the Important Branches of the Bai Yue Peoples of the Lingnan Before and After the Qin and Han.] pp. 143-159 in Bai Yue Minzu Shi Yanjiu Huipian, [The Research Committee of the History of the Bai Yue Peoples] (eds) Bai Yue Minzushi Lun Cong, [A Collection of Essays on the History of the Bai Yue Peoples.] Nanning: Guangxi Renmin Chubanshe, 1985. pp. 144-5 bổ sung sự có mặt của các loại rìu đá có vai (shouldered axe) trong cái mà tác giả gọi một đặc điểm nổi bật của văn hóa phía Đông Nam.

8. ^ Meacham, pps. 147-177.

9. ^ Khoảng thế kỷ 12-13, khi quân Mông Cổ diệt nước Đại Lý, dân nước này chạy về phía Nam và trở thành tổ tiên của người Thái hiện là sắc tộc chính tại Thái Lan và Lào, và là dân tộc thiểu số tại Việt Nam và Miến Điện. Có thuyết cho rằng những người này có tổ tiên là Bách Việt.

10. ^ Một trong nhiều ví dụ:

Trung tâm dao dao (Thử ly: trong lòng nao nao)

Tại bỉ trung hà (Bách châu: giữa dòng sông)

11. ^ Không phải "Nông Thần", "Nghiêu Đế", "Thuấn Đế" ....

12. ^ Kim Định, Dịch Kinh linh thể, [1]

13. ^ Kim Định, Gốc rễ triết Việt, Ghi chú về Lạc Thư là sách của Lạc dân

14. ^ Trần Quang Bình, Kinh Dịch, sản phẩm văn hóa của nền văn minh Âu Lạc [2]

15. ^ Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam? Loạt bài trên Thanh Niên Online

16. ^ Tìm về cội nguồn Kinh Dịch- Nguyễn Vũ Tuấn Anh

Xem thêm[sửa]

• Người Việt Nam

• Việt

• Người Trung Quốc

o Người Quảng Đông

o Người Mân Nam (người "Phúc Kiến" và "Đài Loan")

o Người Khách Gia

o Người Triều Châu

o Người Choang

• Nam Việt

• Mân Việt

Liên kết ngoài[sửa]

Tiếng Việt:

• Tìm lại nguồn gốc vùng đất Bách Việt

• Bách Việt trên Bách khoa toàn thư VN

• Văn minh cổ và nguồn gốc dân tộc Việt Nam

• Bách Việt Trong Lòng Đại Việt - Nguyễn Xuân Phước

Tiếng Anh:

• Đường di chuyển của người tiền sử theo Map of early human migration patterns

• M175 theo Genographic project

• Introduction to Yuet Culture

• Origins Of The Zhuang: The Bai Yue

Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Bách_Việt&oldid=12809683”

Thể loại:

• Các dân tộc cổ của Trung Quốc

• Người Việt

Ngôn ngữ khác

• English

• Español

• 贛語

• 한국어

• Italiano

• 日本語

• Polski

• Русский

• Vahcuengh

• 吴语

• 粵語

• 中文

• Sửa liên kết

• Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:15, ngày 18 tháng 7 năm 2013.

• Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công/Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Xem Điều khoản Sử dụng để biết thêm chi tiết.

Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cập nhật nghiên cứu sử Bách Việt

Khi nhờ Gu Gồ tìm “Bách Việt dân tộc sử nghiên cứu hội” thì tôi gặp được trang này [ zh-yue wikipedia.org/wiki] giới thiệu về tôn chỉ của Hội nghiên cứu sử dân tộc Bách Việt của TQ, nên tôi đưa nguyên văn lên đây:

百越民族史研究會

出自維基百科,自由嘅百科全書

跳去: 定向、 搵嘢

百越民族史研究會,係中國嘅全國性學術研究團體,喺《百越民族史研究會嘅籌備規劃書》中寫明佢嘅宗旨係:

對百越民族嘅名稱、族源、分布、文化習俗、社會政治經濟等方面嘅內容展開全面嘅研究。秉持團結、求實與學術民主嘅精神,將一大批東南學人緊緊地團結響共同嘅學術興趣下,塑造團結、和諧嘅學術氛圍,構築交流、對話嘅良好平臺。秉持學術至上嘅宗旨,堅持不懈,每兩年舉辦一次全國性或國際性嘅學術研討會,每屆年會都編輯出版高水平嘅學術論文集,全面深化百越、乃至東南民族史、考古學嘅學術研究。重視學術隊伍嘅建設同人才嘅培養,鼓勵、幫助年輕學者嘅成長同進步,體現學會學術研究工作承前啟後、繼往開來嘅良好局面。

目錄

[收埋]

• 1 創立同會員

• 2 編物

• 3 註

• 4 出面網頁

創立同會員[編輯]

百越民族史研究會由黃現璠、翁獨健、梁釗韜、陳國強等人喺1980年6月創立。第一、二屆會長係梁釗韜(中共黨員,黃現璠嘅學生),副會長係黃現璠、陳國強(中共黨員)、侯方嶽(中共黨員)等[1]。現任會長係廈門大學教授吳春明(中共黨員)。研究會嘅辦公地點喺廈門大學人類博物館3層303室。研究會嘅會員主要來自廣西、廣東、福建、江蘇、浙江、海南、安徽、江西、湖北、湖南、雲南、北京等省、市、自治區嘅大專院校、文博考古機構。

編物[編輯]

• 百越民族史研究會編:《百越民族史論叢》

• 百越民族史研究會編:《百越史論集》

• 百越民族史研究會編:《百越民族研究》

• 百越民族史研究會編:《中國百越民族史研究會年會論文集——百越研究》第1-2辑

• 百越民族史研究會編:《百越民族史資料選編》

註[編輯]

1. ↑ 百越民族史研究會/2009-4-27 - 中華人民共和國教育部社會科學司指導網:中國高校人文社會科學信息網

出面網頁[編輯]

• 中國百越民族史研究會第十四屆年會綜述

• 中國百越民族史研究會第十五屆年會暨環南海歷史文化國際學術研討會響海口召開

由 "http://zh-yue.wikipedia.org/w/index.php?title=百越民族史研究會&oldid=814591"

Sau đó tìm “Hội nghiên cứu sử dân tộc Bách Việt của VN” thì chẳng thấy Việt Nam có cái hội nào tên là như vậy, nhưng gặp trang của wiki, nên tôi đưa lên ở dưới đây. (Nhớ lại cuốn sách “Việt Nam cội nguồn Bách Việt” của GS Bùi Văn Nguyên ĐHSP HN, tôi đã đọc hình như năm 1986, đọc xong tôi đã tặng cuốn ấy cho một Việt kiều về nước rồi, mãi không thấy cuốn sách đó có tái bản)

Bách Việt

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm

Bách Việt (chữ Hán: 百越/百粵; bính âm: bǎi yuè) là một thuật ngữ lỏng lẻo bao hàm các dân tộc Việt cổ không bị Hán hóa hoặc bị Hán hóa một phần đã từng sống ở vùng đất mà ngày nay thuộc lãnh thổ phía nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam giữa thiên kỷ I TCN và thiên niên kỷ I CN[1][2]. Đây cũng là từ cổ chỉ vùng đất mà các dân tộc này đã sinh sống. Trong tiếng Trung Quốc cổ, các chữ (越, 粵, 鉞) đã thường được dùng thay thế nhau cho nghĩa "Việt". Từ Bách Việt lần đầu tiên thấy chép là trong Sử Ký (Ngô Khởi Truyện) của Tư Mã Thiên[3].

Mục lục

[ẩn]

• 1 Nguồn gốc

• 2 Đặc điểm và phân loại

• 3 Dòng di cư của người Hán và chiếm đất

• 4 Di sản của Bách Việt

• 5 Cách dùng hiện đại

• 6 Chú thích

• 7 Xem thêm

• 8 Liên kết ngoài

Nguồn gốc[sửa]

Bình gốm có vân khắc hình con quỳ

Thời cổ, người Trung Quốc gọi các dân tộc sống ở phía nam sông Trường Giang bằng một cái tên chung là Việt. Bắt đầu từ thời nhà Hán, sử sách thường nói đến cái tên Bách Việt với nghĩa "một trăm bộ lạc Việt". Sách Hán thư (漢書) viết: "Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê (thuộc vùng Bắc Chiết Giang), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình." Nhà sử học Trung Quốc La Hương Lâm (羅香林) đã cho rằng các dân tộc này có cùng tổ tiên với nhà Hạ. Tuy nhiên, các di chỉ khảo cổ học có niên đại thuộc thời đại Đồ Đá Mới (Neolithic) tại Quảng Tây và ở miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là các ngôi mộ chum được tìm thấy nhiều ở Việt Nam và một số ở Quảng Tây, cho thấy thổ dân bản xứ có nguồn gốc ở phía Nam và có quan hệ gần gũi với các nền văn hóa Hòa Bình (9000-5600 TCN) và Bắc Sơn (8300-5900 TCN) ở Việt Nam [3].

Các nhà ngôn ngữ dân tộc học cho rằng phát âm của từ 越 (Việt, Yue, Yueh) có thể có liên quan đến một loại sợi cây gai dầu (hemp) được làm tại nơi mà nay là Chiết Giang. Chính chữ Việt (越) có liên quan đến chữ "việt" (鉞 - cái rìu lớn, một thứ binh khí thời xưa), thường được coi là biểu tượng của hoàng gia hoặc quyền lực hoàng đế. Nhiều rìu đá đã được tìm thấy tại vùng Hàng Châu, và còn có bằng chứng rằng loại rìu đó là một phát minh của vùng đất phía Nam. Cổ sử Trung Quốc gọi tên là Việt lần đầu tiên trong lịch sử, Việt là tên một loại vũ khí độc đáo của người Việt cổ đồng thời cũng có nghĩa là vượt, vượt sông Hoàng Hà xuống lưu vực phía Nam.

Các sách cổ nói đến nhiều nhóm người Việt, trong đó có Câu Ngô (句吳), Ư Việt (於越), Dương Việt (揚越), Mân Việt (閩越), Nam Việt (南越), Đông Việt (東越), Sơn Việt (山越), Lạc Việt (雒越, người Kinh ở Việt Nam ngày nay) và Âu Việt (甌越, hay còn gọi là Tây Âu - 西甌). Đa số những cái tên này tồn tại được đến các thời đế chế sơ khai ở Trung Quốc và có thể được giải thích gần đúng là các nhóm văn hóa.

Theo huyền sử Việt Nam, một trăm người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ là tổ của các dân tộc Bách Việt. Lãnh thổ nước Văn Lang (hay Lĩnh Nam) của các vua Hùng cũng trùng với vùng đất Bách Việt [4].

Đặc điểm và phân loại[sửa]

Trống đồng Nam Việt lấy từ mộ số 1 La Bạc Loan, Quảng Tây. Trống đồng là biểu trưng quyền lực quốc gia của các tộc Bách Việt.

Nhận thấy các điểm khác biệt quan trọng giữa các nhóm tộc Việt, các học giả Trung Quốc đã cố gắng phân loại các nhóm Việt khác nhau, thường dựa trên phép gọi tên của các học giả Hán cổ hơn. Ở phía Nam vùng Quảng Đông, Quảng Tây, vùng đất mà từ thời nhà Tần đã thường được gọi là Lĩnh Nam, người Hán đã xác định các nhóm với tên Dương Việt, Nam Việt, Tây Âu, Lạc Việt, U Việt, Điền Việt, Dạ Lang, v.v.. Vào đầu thời nhà Hán, Bách Việt được chia thành các nhóm, trong đó: Đông Âu (東甌), Mân Việt (閩越), Nam Việt (南越), Tây Âu (西甌), Lạc Việt (雒越, 駱越, 貉越) là các nhóm chính.

1. Đông Âu, sống ở vùng trước là lãnh thổ của các nước Ngô và Việt. (ngày nay là vùng Ôn Châu (溫州), Chiết Giang, Trung Quốc)

2. Mân Việt, cũng nằm trong lãnh thổ cũ của nước Việt (tỉnh Phúc Kiến ngày nay), được cho là tổ tiên của người Mân ở Trung Quốc hiện đại (những người nói tiếng Mân Nam)

3. Nam Việt, trong địa bàn tỉnh Quảng Đông ngày nay, về sau phát triển vào địa bàn tỉnh Quảng Tây và vùng phía Nam. Họ được cho là tổ tiên của người Quảng Đông hiện đại.

4. Tây Âu, trong vùng ngày nay là miền Tây tỉnh Quảng Đông và miền Nam tỉnh Quảng Tây

5. Lạc Việt, khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay, là tổ tiên của người Việt Nam hiện đại.

Cho đến gần đây, các học giả Trung Quốc mới bắt đầu cố gắng phân biệt các nhóm một cách nghiêm túc hơn. Trong khi nhiều học giả vẫn dựa quá nhiều vào việc trích dẫn các sách cổ, các kết quả khảo cổ học gần đây đã bắt đầu đơn giản hóa quá trình phân tích.

Một số học giả [5][6] liệt kê các đặc điểm văn hóa của các nhóm tộc Việt như sau:

1. Tục cắt tóc ngắn và xăm mình

2. Xây nhà sàn

3. Trang phục đặc trưng bởi quần ngắn hoặc váy quấn (kilt) và đầu đội khăn xếp (turban)

4. Chế độ ăn nhiều sò hến và ếch

5. Tục nhổ răng, thường là răng nanh hoặc răng cửa trên

6. Tục lệ người cha tham gia quá trình đỡ đẻ, sau đó chăm sóc con nhỏ để người mẹ quay lại với việc làm đồng

7. Đúc và sử dụng trống đồng trong các nghi lễ

8. Bói bằng xương chim, đặc biệt là xương gà

9. Thờ vật tổ, đặc biệt là chim, bò sát, và cóc/ếch

10. Tục táng trên vách đá

11. Sử dụng nhiều đến thuyền bè và điêu luyện về thủy chiến

12. Hình dáng hình học của đồ gốm sứ

13. Kỹ thuật dệt phát triển cao

Tuy nhiên, không phải tất cả các đặc điểm trên đều có ở mỗi nhóm tộc Việt. Chẳng hạn, người Việt ven biển phía Nam Trung Quốc, phía Đông Nam Trung Quốc, cũng như ở Việt Nam, sử dụng rìu đá có vai, còn người ở vùng biển phía Bắc và xa phía Tây Nam Trung Quốc thì không.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng cách phân chia hữu ích nhất là chia các tộc Việt thành hai nhánh:

• Nhóm Bắc, phân bố khắp vùng Trung và Bắc Quảng Đông, nối với vùng Bắc và Đông Quảng Tây, và trong thời kỳ đầu còn trải dài lên phía Bắc tới Phúc Kiến, Giang Tây, Chiết Giang và Nam Giang Tô.

• Nhóm Nam, với địa bàn trải dài tới vùng mà ngày nay là Tây Nam Quảng Đông, Nam và Tây Quảng Tây, và Bắc Việt Nam.

Các kết quả khảo cổ học có hỗ trợ cho cách phân chia đơn giản này. Các cổ vật đặc trưng cho nhóm thứ nhất, nhóm Bắc, bao gồm đồ gốm hình học (geometric pottery), xẻng đá lớn (large stone shovel), và đồ đồng kiểu Sở. Đặc điểm của nhóm thứ hai, nhóm Nam, là các đồ đồng kiểu tây nam, việc sử dụng các loại dụng cụ đồ đá đa dạng, hầu như không thấy đồ gốm hình học và xẻng đá lớn [7]. Nhóm phía Nam bắt đầu từ Việt Nam và kéo dài theo vùng ven biển lên tới Quảng Đông.[8] Phát triển từ các nhóm văn hóa thời Đồ Đá Cũ bản địa, sự tiếp nối của nhóm này đã được ghi nhận. Đó là các xã hội phát triển cao với một nền tảng nông nghiệp và một bộ đầy đủ các loại đồ gốm và đồ đá. Một điểm khác biệt rõ nét khác để phân tách hai nhóm chính là sự phát triển của một trong những loại cổ vật quan trọng nhất của khu vực: trống đồng được tìm thấy chủ yếu ở các vùng Vân Nam, Quảng Tây, và miền Bắc Việt Nam. Xem thêm bài Trống đồng.

Hướng tới một phân loại cụ thể hơn, các nhà học giả khác đã sử dụng cách chia ba để phân tách các nhóm văn hóa Việt. Ba nhóm này bao gồm:

1. Nhóm Nam Việt: phân bố tại miền Trung và miền Bắc Quảng Đông, và trong thời kỳ đầu còn bao gồm cả Phúc Kiến, Chiết Giang, và Nam Giang Tô. (trùng với nhóm Bắc của cách chia đôi)

2. Nhóm Tây Âu, còn gọi là Âu Việt (甌越): phân bố ở các vùng Quế Giang (桂江) và Tây Giang (西江) của Quảng Tây.

3. Nhóm Lạc Việt: phân bố ở Tây Nam Quảng Đông kéo tới Đông Nam Quảng Tây và Bắc Việt Nam.

Tuy hai nhóm Tây Âu (phía Tây Nam) và Lạc Việt (phía Đông Nam) có thể xếp vào một nhóm khi phân biệt với nhóm Việt phía Bắc, giữa hai nhóm này cũng có những điểm khác biệt quan trọng về cấp độ phát triển. Địa lý là một nhân tố quan trọng để giải thích sự khác biệt này. Phía Tây là vùng đồi núi, do đó, giao thông liên lạc khó khăn và các đa dạng địa phương có thể được bảo tồn lâu dài hay tiếp tục phát triển. Ở miền Đông Nam và các khu vực ven biển, giao thông liên lạc dễ dàng hơn, do đó, sự thâm nhập của các văn hóa bên ngoài cũng dễ dàng hơn, và theo thời gian, các đa dạng văn hóa địa phương có xu hướng phát triển về phía một dạng văn hóa chung. Theo các kết quả khảo cổ học, tuy chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi các nhóm văn hóa vùng Đông Nam Trung Quốc và Việt Nam, các nhóm văn hóa vùng Tây Nam Trung Quốc thể hiện các khác biệt địa phương nổi bật cho thấy một giai đoạn phát triển thấp hơn, đặc biệt về kinh tế nông nghiệp.

Dòng di cư của người Hán và chiếm đất[sửa]

Kiếm bằng đồng xanh có hình đầu người Lạc Việt

Từ thế kỷ 9 trước Công nguyên, hai nhóm Việt ở phía Bắc, Câu Ngô và Ư Việt, bị ảnh hưởng ngày càng nhiều bởi láng giềng Trung Hoa ( Người Hán) ở phía Bắc. Hai nước này, một nước có lãnh thổ ở phía Nam Giang Tô, nước kia ở vùng Bắc Chiết Giang. Giới quý tộc lãnh đạo học chữ Hán, tiếp nhận các thể chế chính trị và kỹ thuật quân sự Trung Hoa. Người ta đã cho rằng sự thay đổi về văn hóa này là do tể tướng nước Ngô là Ngô Thái Bá (吳太伯) - một vương tử của nhà Chu đã chạy về phía Nam lánh nạn. Vùng đất đầm lầy ở phía Nam đã mang lại cho Câu Ngô và Ư Việt những đặc điểm độc đáo. Họ không chú trọng vào làm ruộng mà dựa nhiều hơn vào nghề thủy sản (aquaculture). Giao thông đường thủy có tầm quan trọng lớn ở phía Nam, do đó hai nước này đã tiến lên trình độ cao về kỹ thuật đóng tàu thuyền và kỹ thuật thủy chiến. Họ còn nổi tiếng với những thanh bảo kiếm.

Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, hai nước này, bấy giờ có tên là Ngô và Việt, đã tham gia ngày càng sâu vào chính trị Trung Hoa. Năm 512 TCN, Ngô đánh Sở - nước lớn nhất ở miền Trung sông Dương Tử. Một chiến dịch tương tự đã diễn ra vào năm 506, lần này Ngô chiếm được kinh đô của Sở - thành Dĩnh (郢). Cũng năm đó, chiến tranh nổ ra giữa Ngô và Việt và tiếp diễn thêm 3 thập kỷ nữa. Năm 473 TCN, Việt Vương Câu Tiễn (雒句踐 - Lạc Câu Tiễn) cuối cùng đã đánh bại nước Ngô và được các nước phía Bắc là Tề và Tấn (晉) công nhận. Năm 333 TCN, đến lượt Việt bị Sở diệt.

Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, vùng đất của Bách Việt bị nhập vào đế quốc Trung Hoa. Quân Tần còn tiến xa hơn về phía Nam dọc theo sông Tương (湘江) tới vùng đất nay là Quảng Đông và thiết lập các quận dọc theo các tuyến giao thông chính. Trong suốt thời nhà Hán, có hai nhóm Việt được nhắc đến, đó là Nam Việt ở phía cực Nam, sống chủ yếu tại các vùng Quảng Đông, Quảng Tây, và Việt Nam; và nhóm Mân Việt ở phía Đông Bắc, tập trung tại sông Mân Giang (閩江) ở vùng Phúc Kiến ngày nay.

Quá trình Hán hóa các dân tộc này được thực hiện bởi sự kết hợp giữa sức mạnh quân sự đế quốc và định cư của người Hán. Các khó khăn về vận tải và thủy thổ phương Nam đã làm cho việc chiếm đất và cuối cùng là đồng hóa các dân tộc Việt diễn ra một cách chậm chạp. Khi người Hán đến tiếp cận với các dân tộc Việt địa phương, họ thường giành lấy quyền kiểm soát lãnh thổ hoặc khuất phục dân địa phương bằng bạo lực. Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa vào năm 40, tướng Mã Viện của nhà Hán đã đem một lực lượng gồm 10.000 quân đến đánh dẹp. Trong khoảng từ năm 100 đến 184 đã có không dưới 7 cuộc nổi dậy bằng quân sự, nhà Hán đã thường phải dùng đến các hoạt động phòng vệ mạnh.

Khi dân nhập cư người Hán tăng dần, các tộc Việt dần dần bị buộc phải chuyển đến những vùng đất xấu hơn ở khu vực miền núi. Tuy nhiên, không giống với các dân tộc du mục ở miền Trung Á, chẳng hạn người Hung Nô hoặc người Tiên Ti (鮮卑), các dân tộc Việt chưa bao giờ là mối đe dọa lớn đối với sự bành trướng hay quyền kiểm soát của người Hán. Đôi khi, họ thực hiện các cuộc tấn công quy mô nhỏ vào vùng định cư của người Hán - các nhà sử học truyền thống của Trung Quốc gọi đây là "các cuộc nổi loạn". Về phần mình, người Hán coi các dân tộc Việt là những tộc người rất kém văn minh và có xu hướng gây chiến lẫn nhau.

Tuy nhiên, dưới đời nhà Tần và nhà Hán, các tộc Bách Việt vẫn cư ngụ ở vùng đất cũ của họ với các tổ chức xã hội và chính trị của riêng họ, sự cai trị của chính quyền người Hán chỉ là trên danh nghĩa. Từ thế kỉ 4, khi Trung Quốc bắt đầu bị các tộc du mục phương Bắc đánh chiếm - những người đã chiếm được toàn bộ vùng Bắc Trung Quốc và thiết lập Ngũ Hồ thập lục quốc và Bắc triều, chiến tranh đã gây ra những đợt lớn dân di cư từ phía Bắc về đổ về Nam Trung Quốc. Điều này đã tăng tốc quá trình Hán hóa( Giao thoa văn hóa giữa người Việt và người Hán) ở vùng Nam Trung Quốc, dân cư địa phương đã dần dần bị nhập vào văn hóa Hán hoặc phải rời đi nơi khác. Theo thời gian, từ "Bách Việt" đã không còn được sử liệu của Trung Quốc nhắc đến. Phần nhiều các tộc Việt đã bị Hán hóa và đồng nhất với người Hán ( Hoặc nói cách khác, người Hán di cư làm phong phú thêm văn hóa Việt phía nam Trung Hoa). Một số trở thành tổ tiên của các dân tộc thiểu số như người Cao Sơn (高山族-Cao Sơn tộc) ở Đài Loan, người Tráng, người Bố Y (布依族), người Đồng (侗族), người Hỏa (水族) ở miền Nam Trung Quốc.

Trong khi hầu hết các dân tộc Việt cuối cùng đã bị đồng hóa vào nền văn hóa Hán, người Việt Nam, hậu duệ của nhóm Lạc Việt, đã giữ được bản sắc dân tộc của mình và cuối cùng đã thoát khỏi sự thống trị của Trung Hoa vào thế kỷ 10.[9]

Di sản của Bách Việt[sửa]

Sự sụp đổ của nhà Hán và giai đoạn phân chia sau đó là đẩy nhanh quá trình Hán hóa. Các giai đoạn bất ổn và chiến tranh ở vùng phía bắc Trung Quốc, như là Nam Bắc triều và trong thời nhà Tống đã dẫn đến nhiều cuộc di dân lớn của người Hán. Hôn nhân giữa các sắc tộc và giao tiếp giữa các nền văn hóa đã dẫn đến sự pha trộn của người Hán và các dân tộc khác ở phía nam. Vào thời nhà Đường, từ "Việt" đã gần như trở thành một địa danh hơn là một từ mang tính văn hóa. Chẳng hạn, trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, một nước tại vùng ngày nay là tỉnh Chiết Giang đã dùng tên nước là Ngô Việt. Cũng giống như vậy, từ "Việt" trong "Việt Nam" có gốc từ chữ "Việt" (越) này.

Ảnh hưởng của văn hóa Việt đối với văn hóa Trung Hoa chưa được người Hán khẳng định một cách chính thức, nhưng rõ ràng ảnh hưởng đó là đáng kể. Các ngôn ngữ của những quốc gia cổ như Ngô và Việt đã hình thành nền tảng cho tiếng Ngô hiện đại (吳語 - Ngô văn) và ở một mức độ nào đó cũng là nền tảng cho tiếng Mân (閩方言) - các ngôn ngữ của vùng Phúc Kiến. Các nhà nhân học ngôn ngữ cũng đã khẳng định rằng một số lượng lớn các từ trong tiếng Trung Quốc có nguồn gốc từ các từ Việt cổ. Một ví dụ là từ "giang" (江), nghĩa là "sông". Các con sông ở phía Bắc Trung Quốc đều được gọi là "hà" (河), trong khi các con sông ở phía Nam Trung Quốc được gọi là "giang" (江). Dấu vết của ngôn ngữ Việt, đặc biệt là cấu trúc "tính từ đi sau danh từ" (ngược lại với tiếng Trung Quốc) vẫn còn lại trong các tác phẩm văn thơ kinh điển của Trung Quốc như Kinh Thi[10], và trong tên gọi của các vị thần/vương truyền thuyết mà người Trung Quốc coi là của họ như Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Khốc [11].

Ở một mức độ nào đó, một số dấu vết còn lại của các dân tộc Việt và văn hóa của họ còn có thể được thấy trong một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc, đặc biệt là người Tráng, và nhiều dân tộc ở Việt Nam.

Một số học giả cho rằng Kinh Dịch là sản phẩm của nền văn minh Thần Nông ở phía Nam sông Dương Tử (nghĩa là thuộc vùng đất Bách Việt). Có người còn khẳng định cụ thể hơn rằng đây là sản phẩm của người Âu Việt và Lạc Việt[12][13][14][15][16], với các lập luận chẳng hạn như: có thể thấy các khái niệm Kinh Dịch được mã hóa trên các họa tiết trống đồng; một số tên quẻ cũng như diễn giải quẻ của người Trung Quốc từ xưa tới nay đôi khi còn rất mơ hồ...

Cách dùng hiện đại[sửa]

Trong tiếng Trung Quốc hiện đại, các chữ "越" và "粵" là khác nhau. Chữ thứ nhất thường được dùng để chỉ vùng đất nguyên thủy của Vương quốc Việt, một khu vực phía bắc của Chiết Giang và Thượng Hải, đặc biệt là các khu vực xung quanh Thiệu Hưng và Ninh Ba. Hát tuồng Chiết Giang, chẳng hạn, được gọi là "Việt kịch" (越劇). Chữ "越" cũng được dùng để chỉ Việt Nam (越南). Chữ thứ hai "粵" (yuè) được dùng làm tên gọi tắt của tỉnh Quảng Đông. Tiếng Quảng Đông, được sử dụng tại Quảng Đông, Quảng Tây, Hồng Kông, Macau và trong nhiều cộng đồng Hoa kiều ở các nước trên thế giới, còn được gọi là "Việt ngữ" (粵語).

Trong chữ Hán-Nôm mà người Việt Nam sử dụng, chữ "越" cũng được dùng trong tên Việt Nam - "越南".

Chú thích[sửa]

1. ^ Meacham, William (1996). “Defining the Hundred Yue”. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 15: 93–100.

2. ^ Barlow, Jeffrey G. (1997). “Culture, ethnic identity, and early weapons systems: the Sino-Vietnamese frontier”. Trong Tötösy de Zepetnek, Steven; Jay, Jennifer W. East Asian cultural and historical perspectives: histories and society—culture and literatures. Research Institute for Comparative Literature and Cross-Cultural Studies, University of Alberta. tr. 1–15. ISBN 978-0-921490-09-8.

3. ^ Meacham, William "Origins and Development of Yue Coastal Neolithic: A Microcosm of Cultural Change on the Mainland of East Asia," Berkeley: University of California Press, 1983. Tác giả gọi nền văn hóa vùng nam Trung Quốc là 'Bắc Sơn Nam Trung Quốc' (South China Bacsonian)

4. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư. Quyển I. Kỷ Hồng Bàng thị: "Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam)"

5. ^ Yu Tianji, Qin Shengmin, Lan Riyong, Liang Xuda and Qin Cailan (eds.) Gu Nan Yue Guo Shi., [The History of the State of Ancient Yue.] Nanning: Guangxi Renmin Chubanshe, 1988., pp. 179-188.

6. ^ Chen Guoqiang, Wu Nianji, Jiang Bingzhao and Qin Tucheng, Bai Yue Minzu Shi, [The History of the Bai Yue People.] Beijing: Zhongguo Shehui Kexue Chubanshe, 1988, pp. 41-61.

7. ^ Yu Tianzi, Qin Shengmin, Lann Riyong, Liang Xuda, Qin Cailan (eds.) pp. 194-8. Lu Mingtian, "Qin Han Qianhou Lingan Bai Yue Zhuyao Zhixide Fenbu ji qi Zu Cheng." [The Distribution and Names of the Important Branches of the Bai Yue Peoples of the Lingnan Before and After the Qin and Han.] pp. 143-159 in Bai Yue Minzu Shi Yanjiu Huipian, [The Research Committee of the History of the Bai Yue Peoples] (eds) Bai Yue Minzushi Lun Cong, [A Collection of Essays on the History of the Bai Yue Peoples.] Nanning: Guangxi Renmin Chubanshe, 1985. pp. 144-5 bổ sung sự có mặt của các loại rìu đá có vai (shouldered axe) trong cái mà tác giả gọi một đặc điểm nổi bật của văn hóa phía Đông Nam.

8. ^ Meacham, pps. 147-177.

9. ^ Khoảng thế kỷ 12-13, khi quân Mông Cổ diệt nước Đại Lý, dân nước này chạy về phía Nam và trở thành tổ tiên của người Thái hiện là sắc tộc chính tại Thái Lan và Lào, và là dân tộc thiểu số tại Việt Nam và Miến Điện. Có thuyết cho rằng những người này có tổ tiên là Bách Việt.

10. ^ Một trong nhiều ví dụ:

Trung tâm dao dao (Thử ly: trong lòng nao nao)

Tại bỉ trung hà (Bách châu: giữa dòng sông)

11. ^ Không phải "Nông Thần", "Nghiêu Đế", "Thuấn Đế" ....

12. ^ Kim Định, Dịch Kinh linh thể, [1]

13. ^ Kim Định, Gốc rễ triết Việt, Ghi chú về Lạc Thư là sách của Lạc dân

14. ^ Trần Quang Bình, Kinh Dịch, sản phẩm văn hóa của nền văn minh Âu Lạc [2]

15. ^ Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam? Loạt bài trên Thanh Niên Online

16. ^ Tìm về cội nguồn Kinh Dịch- Nguyễn Vũ Tuấn Anh

Xem thêm[sửa]

• Người Việt Nam

• Việt

• Người Trung Quốc

o Người Quảng Đông

o Người Mân Nam (người "Phúc Kiến" và "Đài Loan")

o Người Khách Gia

o Người Triều Châu

o Người Choang

• Nam Việt

• Mân Việt

Liên kết ngoài[sửa]

Tiếng Việt:

• Tìm lại nguồn gốc vùng đất Bách Việt

• Bách Việt trên Bách khoa toàn thư VN

• Văn minh cổ và nguồn gốc dân tộc Việt Nam

• Bách Việt Trong Lòng Đại Việt - Nguyễn Xuân Phước

Tiếng Anh:

• Đường di chuyển của người tiền sử theo Map of early human migration patterns

• M175 theo Genographic project

• Introduction to Yuet Culture

• Origins Of The Zhuang: The Bai Yue

Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Bách_Việt&oldid=12809683”

Thể loại:

• Các dân tộc cổ của Trung Quốc

• Người Việt

Ngôn ngữ khác

• English

• Español

• 贛語

• 한국어

• Italiano

• 日本語

• Polski

• Русский

• Vahcuengh

• 吴语

• 粵語

• 中文

• Sửa liên kết

• Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:15, ngày 18 tháng 7 năm 2013.

• Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công/Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Xem Điều khoản Sử dụng để biết thêm chi tiết.

Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận.

Bản dịch:

Hội nghiên cứu sử dân tộc Bách Việt là một đoàn thể mang tính toàn quốc của TQ, trong bản qui hoạch trù bị của hội đã có viết rõ tông chỉ của hội là: Triển khai nghiên cứu toàn diện các nội dung về danh xưng, tộc nguồn, phân bố, văn hóa tập tục, kinh tế, chính trị, xã hội v.v. của dân tộc Bách Việt. Giữ một tinh thần đoàn kết, cầu thực và dân chủ học thuật, đoàn kết mọi học giả Đông Nam có chung ham muốn nghiên cứu và hứng thú học thuật, trong một môi trường học thuật hài hòa cùng nhau giao lưu, đối thoại và bình luận lành mạnh. Tông chỉ coi học thuật là chí thượng, kiên trì không đổi cứ mỗi hai năm một lần tổ chức hội thảo nghiên cứu học thuật có tính toàn quốc hoặc quốc tế, mỗi niên khóa hội đều có biên tập xuất bản tập luận văn học thuật trình độ cao, đi sâu nghiên cứu toàn diện vào Bách Việt cho đến dân tộc sử vùng Đông Nam và khảo cố học. Coi trọng việc xây dựng đội ngũ học thuật cùng bồi dưỡng nhân tài, cổ vũ giúp đỡ các học giả trẻ tiến bộ và trưởng thành, thể hiện môi trường lành mạnh mang tính kế tục và phát triển trong công tác nghiên cứu học thuật của hội.

Hội được thành lập từ tháng 6 năm 1980. Hội viên của hội nghiên cứu chủ yếu đến từ các viện, trường đại học, cơ quan bảo tàng khảo cổ của Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, Giang Tô, Chiết Giang, Hải Nam, An Huy, Giang Tây, Hồ Bắc, Hồ Nam, Vân Nam, Bắc Kinh.

Hội trưởng hiện nay là GS Ngô Xuân Minh, đại học Hạ Môn. Văn phòng hội tại phòng 303 tầng 3 nhà bảo tàng nhân loại học Đại học Hạ Môn.

Năm nay hội thảo khoa học lần thứ 16 của hội sẽ tổ chức tại Trường đại học Trung Sơn tp Quảng Châu trong 3 ngày từ 29/11 đến 1/12/2013 (dùng 1 ngày đi khảo sát trong tp). Chủ đề của hội thảo lần này là “ Khảo cổ với văn hóa dân tộc vùng Lĩnh Nam”, gồm các nội dung sau:

1. Phát hiện mới của nghiên cứu khảo cổ về Bách Việt ở Quảng Đông và Hoa Nam.

2. Lịch sử, ngôn ngữ và văn hóa của Nam Việt, Tây Âu, Lạc Việt.

3. Quan hệ giữa Việt tộc Lĩnh Nam với văn hóa biển.

4. Sự kế thừa văn hóa Việt tộc của văn hóa, xã hội, dân tộc đương đại vùng Lĩnh Nam.

5. Các chuyên mục khác về sử dân tộc Bách Việt.

Học giả trong nước và quốc tế trình báo luận văn trước 31/7. Nộp để tuyển chọn luận văn tham dự hội thảo trước 15/10. Ban tổ chức gửi thông báo chính thức đến tác giả luận văn được chọn tham dự vào hạ tuần tháng 10. Dự kiến 70 đại biểu tham dự hội thảo.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites