Thiên Sứ

ĐI TÌM CHỮ VIỆT CỔ

8 bài viết trong chủ đề này

HỆ THỐNG GIÁO DỤC THỜI HÙNG VƯƠNG VÀ ĐI TÌM CHỮ VIỆT CỔ

Nguồn thegioivohinh.com

Cách đây chưa lâu, từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường chúng ta thường được nghe thầy cô giảng về lịch sử 4000 năm của dân tộc. Nhiều sách viết về lịch sử, hầu hết đều cho rằng Việt Nam có nền văn hiến 4000 năm.Thực ra cách đây 5.000-6.000 năm, cộng đồng các cư dân Việt cổ đã sinh tụ và phát triển trên một lãnh thổ rộng lớn. Sử sách nước ta và nước ngoài từ xưa và hiện nay đều xác định rõ niên đại của triều đại Hồng Bàng, với Quốc hiệu Văn Lang là từ năm 2.879 đến 258 trước Công nguyên, cũng được gọi là Kỷ Hồng Bàng, thời đại các Vua Hùng.Thời kỳ này, nền kinh tế sản xuất nông nghiệp, lúa nước đã khá phát triển với kỹ thuật đồ đồng, những trống đồng nổi tiếng mà hơn trăm năm qua đã tìm thấy ở nhiều nơi trên đất nước ta hiện nay và lãnh thổ nước Văn Lang xa xưa. Theo Khảo cổ học thì ở Việt Nam lúa nước đã có từ 10.000 năm về trước và đồ đồng đã phát triển khoảng cách đây 5.000 năm.Thành tựu khảo cổ học, chủng tộc học, v.v…về cư dân Việt cổ và vùng Đông Nam Á, tuy đến nay vẫn còn là bước đầu, mới mẻ nhưng cũng đã chứng minh được phần nào những điều trên. Đặc biệt vui mừng là trong vài thập niên gần đây, nhiều chuyên gia trên thế giới và trong nước, đã có những thành tựu quan trọng chứng minh và khẳng định nền văn hoá tiền sử của cư dân Việt, văn hoá Văn Lang, tồn tại nhiều năm trước công nguyên.

Website hodovietnam đã có dịp giới thiệu những bài viết của nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về khoảng trống trong lịch sử mà trong hàng trăm năm qua còn là những câu hỏi lớn. Một trong những thành tựu rực rỡ nhất mà ông ta xây dựng nên từ thời tiền sử là thành tựu giáo dục. Thời Hùng Vương chúng ta đã có một hệ thống giáo dục với các trường học, các thầy cô giáo và các em học sinh. Cha ông ta đã phát minh ra giấy viết và đặc biệt đã phát minh ra hệ thống chữ viết riêng.

Trong những ngày đầu xuân Mậu Tý, trang chuyên đề của Website hodovietnam sẽ giới thiệu những bài viết về chủ đề "Giáo dục và chữ viết thời Hùng Vương". Chúng tôi xin mở đầu chuyên đề này bằng bài nghiên cứu của một vị họ Đỗ, nhà giáo Đỗ Văn Xuyên. Ông còn là một nhà văn với bút danh Khánh Hoài và là nhà nghiên cứu có uy tín,, mấy chục năm qua để tâm nghiên cứu sâu về giáo dục và chữ viết thời Hùng Vương. Các thầy giáo và học sinh thời Hùng Vương được ghi chép trong các thư tịch cổ ở nhiều nơi trong nước.

I. Thầy giáo dạy thời Hùng Vương

1. Thời Hùng Vương thứ 6 – Hùng Huy Vương có thầy Lý Đường Hiên dạy học ở Yên Vĩ huyện Hoài An phủ ứng Thiên đạo Sơn Nam nay là huyện Ứng Hoà Hà Tây. Thầy có hai học trò là Cao Đường và Lý Đá học giỏi thấu tỏ mọi lẽ kinh sách, người đường thời ai cũng khen là thần đồng.

2. Lý Đá và Cao Đường trưởng thành đến khu Xuân La Nguyễn Xá trang Diên Phú huyện Diên Hà phủ Tiên Hưng trấn Sơn Nam thấy nơi đây cảnh vật hữu tình, phong tục thuần hậu. Hai ông mở trường dạy học. Nhân dân gửi con em vào học rất đông.

Giặc Ân xâm lược, hai ông theo Phù Đổng đánh giặc, giặc tan về đến núi Sóc Sơn ông cùng Phù Đổng bay về trời. Nhân dân Xuân la Nguyễn Xá trang Diên Phú huyện Diên Hà phủ Tiên Hưng Trấn Sơn Nam lập đền thờ phụng.

3. Thầy Lỗ Công dạy ở kinh thành Văn Lang, cháu ngoại vua Hùng Định Vương (Hùng vương thứ 9) là Hoàng Trù ở xã Bồng Lai huyện Từ Liêm Hà Nội theo học.

4. Thời Hùng Vương thứ 16 – Hùng Tạo Vương có thầy Ngô tiên sinh quê ở Châu Hoan dạy học ở Xuân áng xã Thuỵ Trang huyện Đường Hào phủ Thượng Hồng lộ Hải Dương có người học trò là Phan Hộ mày hổ, mũi rồng, tiếng như chuông, mới sinh ra đã có răng, học được một năm giỏi giang, văn võ tinh thông, tài trí khác đời.

Ông vào chữa bệnh cho Thái Phi vua thấy tài giỏi, phong “Đốc trưởng tiền quên ngự đô lực sĩ, Đông Đại tướng quân thiên hộ hầu.

5. Thời Hùng Vương thứ 18 – Hùng Duệ Vương có thầy Cao Đường dạy học ở khu Khổng Tước Châu Hoan, có người học trò là Chu Hoằng theo học được hơn 4 năm mà văn chương thông thái, võ bị tinh thường. Ông theo Tản VIên Sơn Thánh, trở hành vị tướng đánh Thục giỏi được vua phòng: Cai số Đại vương. Ngày 10 tháng 11 ông tự hoá, nhân dân khu Bùi Trang Hạ Bái huyên Diên Hà lập đền thờ phụng.

6. Thầy Nguyễn Thiện quê ở làng Yên Vỹ, động Hương Tích, huyện Hoài An phủ Ứng Thiên, trấn sơn Nam đến học ở Thượng Khu xã Vĩnh Lai, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Ông có hai người con trai cùng sinh giờ ngọ ngày 12/8 năm Bính Tý, lại là hai học trò văn võ toàn tài, thao lược hơn người. Khi cha chết hai anh em đến Sơn Tây vào yết kiến Tản Viên Sơn Thánh và kết nghĩa anh em cùng nhau đánh Thục thắng lơị, được Hùng Duệ Vương phong: Đại tướng công.

7. Thầy Hải Đường tiên sinh dạy học ở kinh thành Văn Lang có người học trò tên là Nguyễn Mục sinh ngày 12-9 năm GIáp Ngọ, con ông Nguyễn Danh Huyên và bà Đào Thị Túc ở trang Đông Đồ huyện Kim Hoa phủ Từ Sơn xứ Kinh Bắc, đến ở nhà cậu rột là ông Đào Công Hải làm huyện Doãn Châu Phong (Bạch Hạc) để đi học. Mới học được vài năm mà Nguyễn Mục văn chương võ nghệ tinh thông. Hùng Duệ Vương yết bảng chiêu hiền. Nguyễn Mục ứng thi được vua ban chức: Đại Phu tham gia triều đình chính sự. Quân Thục xâm lược, Nguyễn mục cầm quân đánh thắng giặc trở về được Vua phong: Y Mục đại vương. Ngày 2 tháng chạp năm Kỷ Dậu ông hoá, vua truy pong Thượng đẳng thần tối linh. Nhân dân trang Bối Khê huyện Đông yên phủ Khoái Châu lập đề thờ phụng.

8. Thầy Lã tiên sinh dạy ở Hồng Châu Hải Dương có hai người học trò là Cao Sơn và Quý Minh vă võ đã hơn người. Bấy giờ Hùng Duệ Vương hạ chiếu kén nhân tài. Hai ông ứng thi trúng tuyển, vua phong cho hai người chức Chỉ Huy Xứ: Tả Hữu tướng quân. Vâng mệnh vua hai ông đưa quân trấn thủ ở sông Lô, sông Thao, sông Đà đề phòng quân Thục xâm lược. Hai ông lập đồn ở xã Tiên Du huyện Phù Khang phủ Tạm Đái đạo Sơn Tây về sau là xã Tiên Du tổng Hạ Giáp huyện Phù Ninh Phú Thọ…

Ngày 10 tháng 11 hai ông đã hoá, nhân dân nơi đây đã tôn thờ làm Thành Hoàng làng.

9. Thầy Lỗ tiên sinh dạy học ở xã An Canh huyện Thiên Thi nay là huyện Ân thi, Hưng Yên. Thầy có 3 người học trò là Nguyễn Tuấn, Nguyễn Chiêu, Nguyễn Minh là con ông Nguyễn Xuân và bà Đoàn Thị Nghi. Ba người cùng sinh một bọc ngày 10-3 năm Bính Thìn, thật là khôi ngô kỳ vỹ. Năm lên 9 tuổi ba anh em đều theo học thầy Lỗ tiên sinh, học được ba năm đã tinh thông văn võ. Năm 15 tuổi tài năng của 3 ông đã nổi bật, nhân dân và hào kiệt trong vùng đều khâm phục. Năm 19 tuổi Hùng Duệ Vương ra bảng kén chọn nhân tài, ba ông đều trúng tuyển. Vua hài lòng phong cho ông Tuấn chức: Tư Tào điển lạc quan, ông Chiêuk chức: Tả Tư tào phán quan, ông Minh chức: Hữu Tư tào phán quan. Quân Thục đến xâm lược, ba ông theo Tản Viên Sơn Thánh đánh giặc.

10. Thầy Lỗ Đường Tiên sinh dạy ở xã Đại Đồng thuộc huyện An Đường phủ Thượng Hồng tỉnh Hải Dương.

Có người học trò là Trương Sơn Nhạc sinh giờ Thân ngày 8 tháng giêng năm giáp Thân, rất kỳ lạ, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, trong bụng có điểm nét chữ “son” trông tựa như chữ thần tiên. Một tuổi đã biết nói, năm lên 7 theo học thầy Lỗ Đường, chẳng bao lâu văn võ kỳ tài, được Hùng Duệ Vương giao cho chức Bố Chính Quan. Quân Thục đến xâm lược, ông là vị tướng đã đáh thắng giặc rồi tự hoá.. Nhân dân làng Nhiễm Dương tổng Nghĩa Xá, huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh lập đền thời phụng.

11. Thầy Niệm Hưng quê ở Mộ Trạch Hải Dương được nhân dân làng Lỗ Khê phủ Từ Sơn Bắc Ninh đón về dạy hỏi: Năm 23 tuổi nhà vua hạ chiếu kén anh tài. Niệm Hưng ứng tuyển được Hùng Duệ Vương phong chức: Chỉ Huy xứ. Quân Thục xâm lược, ông lĩnh chức Tiền Đạo đại tướng quâ, đánh thắng quân Thục ông trở về Lỗ Khê tự hoá, nhân dân tôn thờ làm Thành Hoàng Làng.

12. Thầy Nguyễn Minh quê ở huyện Lôi Dương Châu Ái đến xã Màn Xuyên tổng Đông kết huyện Đông An mở trường dạy học. Bấy giờ Hùng Duệ Vương mở khoá thi, vào thi Đình nhà vua chấm ông đỗ đầu khoá, được vua gả công chúa Ngọc Nương – công chúa thứ ba, ông cùng với Tản Viên Sơ Thánh đánh giặc Chiêm Thành thắng lợi được vua phong: Trấn Chiêm Thành cửa ải đại tướng quân.

13. Thầy Lỗ tiên sinh dạy học ở Động Lăng Xương huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng đạo Hưng Hoá, có ba người học trò là Cao Hiển công, Cao Minh công, Cao Tùng công quê gốc ở Châu ái đến ngụ cư ở Lăng Xương. Ba học trò này thật là dị tướng, hai gồ má cao vọi, tayd ài chấm gối, bàn hân có 7 cái lông dài. Học mới 3 năm mà đã am hiểu nghĩa lý, kinh sử lầu thông.

Vì có công đánh giăc Thục khi hoá được vua phong Thượng đẳng phúc thần.

14. Thầy Phạm Công Tuyển quê ở trang Hội Triều huyện Hoàng Hoá phủ Hà Chung Châu ái làm quan ở châu Xích Đằng phủ Khoái Châu, đạo Sơn Nam. Ông là Người văn chương nổi tiếng. Sau khi vợ chết ông tư quan về dạy học ở Châu Xích Đằng phủ Khoái Châu, sau lại chuyển về khu Đăng Xuyên xã Đăng Định huyện Thiên Thi….Sau khi chết nhân dân xã Đăng Xuyên huyện Ân Thi tôn thờ Thành Hoàng làng.

15. Thầy Vũ công ở Mộ Trạch Hải Dương dòng dõi thi thư lên cung thành kinh đô Văn Lang, ở thôn Hương Lan, ngày nay thuộc xã Trưng Vương – Việt Trì dạy học. Hai ông bà sinh được người con đặt tên là Vũ Thê Lang, khi trưởng thành Vũ Thê Lang đã dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là TIên Dung và Ngọc Hoa. Nhân dân đã lập đền thờ vợ chồng Vũ Thê Lang, đền này có tên là “Thiên Cổ Miếu”.

16. Thầy Lý Đường tiên sinh dạy học ở động Lăng Xứơng huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng, đao Hưng Hoá xứ Sơn Tây. Nguyễn Chiêu học thầy 3 năm liền. Sau này Nguyễn Chiêu gọi là Tả Viên Sơn Thánh phò mã của Hùng Duệ Vương.

17. Thầy Ngô tiên sinh dạy học ở thôn Trì La Huyện Thiên Thi Xứ Sơn Nam. Có hai người học trò tên là Phạm Đá, Phạm Dũng cùng sinh một bọc ngày 9/3 năm kỷ Mùi, con ông PHạm Đạt và bà Đinh THị Duyên, quê nội ở sách Biện Sơn huyện Lôi Dương phủ Thuận Thiên Châu ái. Hai học trò này hình dáng kỳ dị, mày ngài hàm én, tay dài chấm gói, bàn tay có 7 chiến lông mọc dài, năm lên tám tuổi hai anh em đến học thầy Ngô tiên sinh, mới học được vài năm đã thông kinh sử. Thời An Dương Vương có giặc Đại Man đến cướp phá Cao Bằng, Hưng Hoá. Nhà vua truyền hịch tuyển lựa chọn nhân tài. Hai ông ứng tuyển được nhà vua phong cho ông Phạm Đá là Bình Man Đô nguyên soái, ông Phạm Dũng là Thiên Quan đại tướng công. Hia ông dẹp yên giặc lại trở về Trì La, khi hoá nhân dân tôn Thành Hoàng làng.

18. Thầy Dương Như Tồn tiên sinh dạy học ở lỗi Giang, Tề Giang xưa, nay thuộc Thọ Xuân Thanh Hoá là thầy dạy tể tướng Lữ Gia thời nhà Triệu.

II. Các học trò học ở các trường thời Hùng Vương

1. Thời Hùng Vương thứ 6 có ông Tạ Quang và bà Trần Thị ở xã An Phú huyện Từ Sơn Bắc Ninh có 5 con học ở xã Điềm Xá huyện Tiên Lữ phủ Khoái Châu Hưng Yên. Năm người con này khi trưởng thành đã cùng với Hùng Đức huyện quan Tiên Lữ đánh giặc ở Châu Quỳnh Nhai, Tuyên Quang…. được vua phong: Ngũ vị đại vương.

2. Ông Vũ Huy Hiển vợ là Hoàng Thị Việt có người con giai là Vũ Nghị năm 12 tuổi ha mẹ cho đi học ở thôn Trung xã Vĩnh Lại tên nôm là làng Giải Thượng huyện Cẩm Giàng – Hải Dương. Thời Hùng Hy Vương có giặc Cao Man giặc Ân ông đã cùng với người cậu là Hoàng Công Độ, lạc tướng ở kinh thành Văn Lang đi đánh giặc lập nhiều chiến công. ÔNg Vũ Nghị đã hoá theo Thánh Gióng ở núi Sóc Sơn.

3. Đời Hùng Vương thứ 6 có Vũ Lang Lữu – sinh giờ Dần ngày 20 tháng giêng năm ất sửu là con ông Vũ Sùng và bà lê Thị Ngọc, học ở sách Lam Sơn ái Châu, Thanh Hoá. Sau lại chuyển đến học ở huyện Nam Xang phủ lý Nhân đạo Sơn Nam. ông thông thạo văn chương, thượng thiên văn, hạ địa lý, không một vật gì không biết, không một việc gì không hay, đời bấy giờ khen là: ông thánh trẻ. Giặc Ân xâm lược nước ta Vũ Lang Lữu cùng Thánh Gióng đánh tan giặc. Ông được vua phong: Võ Gia Hỗu giám sát đại tướng quân. Khi ông mất làng Vũ Xá tổng ngu Nhuế phủ Lý Nhân tỉnh Hà Nam lập đền thờ phụng.

4. Hoàng tử Hùng Bảo, Hùng Chân là con Hùng Huy Vương và con Hoàng hậu Phương Dung. Hoàng tử Bảo sinh ngày 12/02 năm giáp tí. Hoàng Tử Chân sinh ngày 10 tháng giêng năm đinh mão. Hai hoàng tử này học ở kinh thành Văn Lang, với tư chất thông minh, chăm học, ngay từ thuở thiếu niên đã tỏ ra người có tài văn võ. Lúc bấy giờ có giặc xâm lược vua cử hai hoàng tử làm tướng, phong cho hoàng tử Bảo là Bảo quốc lạc hầu, Hoàng tử Chân là Chân Võ đại tướng quân.

5. Nguyệt tinh công chúa là cháu của Hùng Tạo Vương – Hùng Vương thứ 16 học ở kinh thành Văn Lang, 19 tuổi văn võ kỳ tài, đi 7 bước làm xong bài thơ.

6. Hoàng tử Mang công là con của Hùng Nghị Vương – Hùng vương thứ 17 học ở kinh thành Văn Lang, là người thiên tư mẫn tuệ. Năm 17 tuổi Mang công lầu thông thiên kinh vạn quyển, hiểu rõ ngọn ngành của mọi nghĩa lý.

7. Thời Hùng Duệ Vương có Lương Cội công là con ông Lương Nhạc và bà Trần Thị ái, cha mẹ cho Cội công đi học ở động Chung Sơn quận Cửu Chân, Hoan Châu. Cội công rất thông minh, văn tài võ lược đều giỏi, được vua trọng dụng phong làm tướng cử đi đánh giặc, thắng lợi trở về vua lại truy phong; Đài vàng Cội Công Uy linh đại vương. Ông mất, Trang Minh Lương (tức Mỹ Lương) huyện Diên Hà phủ Tân Hưng làm đền thờ phụng.

8. Vợ chồng ông Đinh Công Bách và Tô Thị Công Nghị quê ở Châu ái, Thanh Hoá có 4 con theo học ở làng Pó Hoa trấn SƠn Nam Thượng phủ Thường Tín huyện Thượng phúc đạo Sơn Nam. Bốn người con đó là: Liêm , Vĩnh, Dũng, Bùi đều đi học chăm chỉ, đều tài giỏi cả văn lẫn võ, tài trí thông minh lẫy lừng thiên hạ, danh tiếng đến tai vua. Hùng Duệ Vương mời 4 chàng trai vào triều để giúp vua trị nước.

9. Ông Nguyễn Trường vợ là Đinh Thị Khương ngày 8 tháng giêng năm Bính Ngọ sinh được người con trai phong tư đẹp đẽ, khí vu hiên ngang đặt tên là Ngọ. Cha mẹ hco Ngọ đi học ở khu Tập Ninh xã Vân Lung động Hoa Lư phủ Trường Yên Châu ái. Chàng thông hiểu văn chương, tinh thông võ nghệ được Hùng Duệ Vương phong: Trung Thư Lệnh, Quân Thục đến xâm lược, ông là võ Tướng chỉ huy đánh thắng giặc rồi ông tự hoá, làng Tập Ninh xã Vân Lung huyện Hoa Lư – Ninh Bình lập đền thờ phụng.

10. Hùng Thiện Công và Nguyễn Thị Phương có người con trai tên là Tam Quan học ở trang Cao Xá thuộc tổng Lai Cách phủ Bình Giang nay là xã Ca An huyện Cẩm Giàng Hải Dương: Tam Quan học rất giỏi võ nghệ tinh thông, pháp thuật cao cường được Hùng Duệ Vương tuyển dụng phong: Tam Quan địa vương.

11. Ông Nguyễn Xuân và vợ là Đoàn Thị Nghị ngày 10/3 sinh một bọc được 3 người con giai thật là kỳ vỹ. Con thứ nhất đặt tên là Tuấn, con thứ 2 đặt là Chiêu, con thứ 3 đặt là Minh. Năm lên 9 tuổi cả 3 anh em đều đi học ở làng cổ Lễ xã An Canh huyện Thiên Thi nay là Ân Thi Hưng Yên. Ba ông có công đánh quân Thục xâm chiếm, khi hoá nhân dân Cỗ Lễ thờ; “Tam vị Thành Hoàng”

12. Đặng Cẩn vợ là Phùng Thị Thuần ngày 10 tháng 4 năm Nhâm Thân sinh được 2 con giai đặt tên là Minh Đức, Chiêu Chung, dung mạo khôi ngô kỳ lạ. năm lên 7 tuổi cha mẹ cho 2 anh em đi học ở Châu Quỳnh Nhai. Năm 16 tuổi lực học hai cậu tinh thông, tài năng võ nghẹe khiến vạn phu không địch nổi. Năm 20 tuổi, giữa lúc Hùng Duệ Vương dựng lầu kén rể ở thành Văn Lang để mộ người thông minh tài trí, đức độ hơn người, kén chọn bậc vương lấy công cháu Ngọc Hoa rồi vua trao ngôi báu. Hai ông vào ứng thi tài văn võ ứng đối lưu loát nhưng toàn tài chưa có. Vì thế vua chỉ phong cho 2 ông chức: chỉ huy xứ tả hữu tướng quân. Quân Thục đến xâm lược, hai ông cầm quân đánh thắng giặc trở về và tự hoá ngày 3 tháng 12 nhân dân Nghĩa trang Lưu Thượng, Lưu hạ đạo Hải Dương lập đền thờ phụng.

13. Thời Hùng Duệ Vương có ông Vũ Phục vợ là Quế Hoa ngày 18 tháng 3 giờ Tý năm Nhâm Dần sinh được người con trai đặt tên là Vũ Uy, năm 14 tổi cha mẹ cho Vũ uy học ở xã Đan Tràng tổng Đan Tràng huyện Cẩm Giàng phủ Bình Giang tỉnh Hải Dương, võ nghệ tinh thông, học một biết mười, quân Thục đến xâm lược, ông xin nhà vua cầm quân đánh giặc, chiến thắng ông trở về bản quán xã Đan Tràng và tự hoá được vua phong: “Thượng đẳng phúc thần”

14. Ông Nguyễn Lương vợ là Đinh Thị Tố ngày 10-8 năm Giáp thân sinh người con trai đặt tên là Hoằng, có nước da trắng ngần, mắt sáng như sao, sau lưng có 28 nốt ruồi, dười đùi có 7 cái lông. năm 12 tuổi ông kết bạn với Sơn Thánh và đến bái yết Hùng Duệ Vương được vua pong “Dũng lược tướng quân” hộ giá nhà vua. Ông có công đánh thắng quân Thục được vua gia phong: Hoằng tướng quân đại vương. Khi ôg hoá làng Cổ Viễn, Bình Lục, Hà Nam lập đền thờ phụng.

15. Ông bà Cao công ngày 2 tháng 2 năm Giáp thân sinh một bọc được 2 con trai đặt tên là Mang công, Mỹ công. năm 11 tuổi cha mẹ cho hai anh em đi ọc ở Vũ Ninh, học được 5 năm văn võ rất giỏi. Quân Thục xâm lược Hùng Duệ Vương triệu hai ông về triều, cử đi đánh giặc. Thắng giặc trở về hai ông tự hoá ngày 10-6 được vua truy phong: “Thượng đẳng phúc thần”. Làng Mão Cầu Phủ Lý Nhân Hà Nam lập đền thờ phụng.

16. Đời vua Hùng Vương thứ 18 có ông Nguyễn Tùng vợ là Lê Thị Diêu ngày 14 tháng giêng năm Nhâm Dần sinh được hai con trai mặt mũi khác thường đặt tên là Cao Sơn và Quý Minh – Năm lên 6 tuổi cha mẹ cho đi học ở Hồng Châu Hải Dương. Năm 16 tuổi cả hai anh em đều tinh thông võ nghệ. Vua hạ chiếu tìm người tài giỏi. Hai anh em đến bái yết nhà vua được vua phong cho hai người làm: Đô chỉ huy xứ tướng quân Cao sơn và Quý Minh là hai nhân vật từng được thờ rất nhiều với những lai lịch sự tích mỗi nơi một khác. Có nơi cho Cao Sơn và Quý Minh là Tản Viên, Cao Sơn và Quý Minh là Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng anh em con chú con bác với ản Viên. Cao Sơn và Quý Minh là anh em kết nghĩa với Tản Viên. Có người lại cho rằng Cao Sơn và Quý Minh là tước hiệu tránh viết tên huý..

17. Lý Công Hiển vợ là Đinh Thị Huyền ngày 10-2 năm Mởu Thân sinh được người con trai tay dài quá gối, chân có 7 cái lông dài, cha mẹ đặt tên là Chung công. một tổi Chung công đã biết nói, 7 tuổi đi học ở động Lăng Xương huyện Thanh Châu phủ Gia Hưng đạo Hưng Hoá xứ Sơn Tây. Mới học được mấy năm đã thông hiểu cả văn võ. Lớn lên cùng với Sơn Thánh cầm quân đánh Thục.

18. Đời Hùng Vương thứ 18 ở làng Lưu Xá huyện Thượng Hiền phủ Nghĩa Hưng đạo Sơn Nam có ông Trương Tùng vợ là Phùng Thị ích đene sngụ cư ở trang Trịnh Xá khu Nguyên Xá huyên Đông Ngàn phủ Từ Sơn đạo Kinh Bắc. Ngày 10/3 năm Quý Tỵ sinh được cậu con trai đặt tên là Nam Định. Lên 3 tuổi đọc thông sử sách, lại giỏi võ nghệ, đám học trò thời ấy thán phục và khen là thần đồng. Năm 21 tuổi, lúc này Hùng Duệ Vương xuống chiếu cầu hiền Nam Định ứng tuyển, trả lời các câu hỏi của vua đều lưu loát, vua khen và ban danh là Trung Định Công và giao cho chức chỉ huy xứ ở huyện Thượng Hiền đạo Sơn Nam.

Hùng Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử, 6 công chúa nhưng đều nối gót lên tiên cả, chỉ còn lại 2 công chúa. Con gái lớn là Tiên Dung đã gả cho Chử Đồng Tử còn công chúa Ngọc Hoa duyên đẹp thời lành chưa định. Vì vậy mà giao cho Trung Định công dựng lầu ở cửa Việt Trì gọi là “Tuyển tế đại hiền lau” – Lỗu đón người hiền, chọn rể, đề biển là: “Ngoan nguyệt cầu hiền” nghĩa là ngắm trăng cầu hiền - để nhà vua gả công chúa và truyền ngôi báu cho. Lúc bấy giờ chỏ có Sơn Thánh họ Nguyễn tên Tùng người Đạo Sơn Nam có nhiều phép lạ, vua cho rằng đó là người kỳ tài bậc nhất thiên hạ, vua đã gả công chúa và nhường ngôi báu.

Quân Thục đến xâm lược Trung Định công được vua phong: Tiền đạo đương lộ tướng quân, đi giết giặc. Thắng giặc trở về ông tự hoá ngày 15/7 nhân dân khu Nguyên xá tôn thờ làm thành hoàng.

19. Hùng Vương thứ 18 ở Châu Quỳnh Nhai có ông Cao Bảo và Cao Hình lấy vợ ở Thanh Ba làng Vũ Lao. Năm ĐInh Sử tháng 3 ngày 10 vợ ông anh sinh 2 con trai và một con gái. Ngày 10-8 năm ấy vợ ông em sinh một bọc 2 con giai. Thế là hai anh em sinh được 4 giai một gái. Bốn con giai thân thể lẫm liệt, cao to, môi rồng, mặt phượng, hàm én, mày hùm. Con gái thì phương phi, mặt như gương sáng, nhan sắc như tiên nữ. lên 3 tuổi người anh đặt tên cho con là Minh Công, Tín Công và con gái Dung nương. ông em đặt tên cho con là Cao công, Bạch công. năm lên 7 tuổi hết thảy đều thông minh, trí tuê, khí độ hơn người. Nam anh hùng, nữ tuấn tú. Lúc bấy giờ ở châu Quỳnh Nhai có người họ Đinh là nhà cự tộc gia thế, tìm cách giết chết 2 anh em giai và người vợ ông em. Bà vợ ông Cao Bảo đưa 3 con và 2 cháu đi chốn ở làng Thượng Nông huyện Tam Nông phủ Lâm Thao, ở nhà bà Ma Thị Chính và cho các con, các cháu học ông thầy ở làng Đào Xá Thanh Thuỷ. Học được 4 năm, tài chí của con trai và con gái khác thường. Bốn con trai giúp nhà vua đánh Thục còn Dung nương thì lấy vua làm thập tứ cung phi (cung phi thứ 14)

Với tư liệu sưu tầm được bước đầu chúng ta biết từ Hùng Huy Vương – Hùng Vương thứ 6 đến An Dương Vương có 19 thầy giáo dạy 18 trường ở kinh đô và địa phương, với số học trò được biết là 23 người. Học trò học ở các trường mà trong thần tích, thần phả không nêu tên thầy giáo là 17 trường với số học trò là 35 người. Như vậy có 19 thầy giáo và 35 trường học rải khắp các địa bàn trong cả nước và 58 học trò tiêu biểu. Ta khiêm tốn gọi đó là những dấu tích của nền giáo dục thời Hùng Vương. Ngoài ra tôi còn tim thấy thời Bắc thuộc lần thứ I từ năm 111TRCN đến năm 39 – thời Bà TRưng có 10 thầy giáo, 68 học trò và 36 trường ở các địa phương.

Nhân dân Việt Nam có truyền thống “Uống nứơc nhớ nguồi” “Tôn sư trọng đạo” vì thế những người có công với dân, với nước, nhân dân lập đền thời phụng đó là hiện thực. Song vì những thần phả, ngọc phả thường viết đi, viết lại nhiều lần, nên những ngôi từ, chức tước mang tính hiện đại, Không viết theo những ngôn từ, chức tước thời Hùng Vương. Mặc dù vậy những số liệu trên giúp chúng ta có thể khẳng định rằng thời Hùng Vương ở nước ta có thầy giáo, có trường học, đã có một nền giáo dục phát triển rộng khắp. Đây là cơ sở, là cái gốc để đào tạo những người hiền tài cho đất nước mà hiền tài là nguyên khí của quốc gia.

Chúng ta chưa có điều kiện nghiên cứu về hệ thống giáo dục, chương trình và nội dung giáo dục. Nhưng qua 19 thầy giáo 58 học trò và 35 trường học thì được biết dù các học trò học ở kinh đô, học ở châu phủ hay học ở làng xã đều có lòng yêu nước thiết tha, có đực độ cao cả và đều tài giỏi cả văn lẫn võ, đều là anh hùng, sống thì làm tướng, chết làm thần, âm phù linh thiêng nên phần lớn được nhân dân thờ làm thành hoàng hoặc lập đền thờ phung.

Chữ của thời Hùng Vương là loại chữ gì? chúng ta có thể khẳng định rằng: Không phải là chữ Hán, khác chữ Hán và có trước chữ Hán. Mặc dù kẻ thù đã tước đoạt, đã thiêu huỷ những tài liệu quý báu của tổ tiên chúng ta như Mã Viện đã tịch thu tất cả những trống đồng có khắc chữ trên đó để đúc ngựa dâng cho Hán Quang Vũ và đúc cột đồng trụ. Năm 207 sau công nguyên, Sỹ Nhiếp du nhập sang nước ta chữ Hán đồng thời ra lệnh thiêu huỷ sách vở và cấm nhân dân không được dùng thứ chữ viết của tổ tiên ta. Nhưng chữ Việt Cổ càng ngày càng phát lộ nhiều: Trên trống đồng, trên qua đồng, trên vách các hang động, bãi đá cổ ở Sapa, ở Pá Màng xã Liệp Tè Thuận Châu Sơn La, chữ Việt Cổ còn tồn tai vùng biên viễn Thập Châu. Thư viện Sơn La đã sưu dtầm được gần 1500 cuốn sách, Bảo Tàng Sơn La cũng sưu tầm được gần 1000 cuốn sách trong đó là chữ Thái hay chữ Việt Cổ mà chưa nghiên cứu vấn đề này. Nhất định chúng ta tìm thấy và giải mã được chữ Việt Cổ, chữ của tổ tiên để lại.

Tài Liệu do Ông Đỗ Văn Xuyền cung cấp

III - Một câu chuyện giáo dục thời Hùng Vương.

Posted Image

Tượng thầy trò Vũ Thê Lang được thờ trong Thiên Cổ Miếu

Theo ngọc phả và truyền thuyết dân gian, vào thời Hùng Vương thứ 18 có một thầy giáo họ Vũ, dòng dõi thi thư ở làng Mộ Trạch, Hải Dương. Ông cùng gia đình lên vùng Bạch Hạc, khi ấy là kinh đô của nước Văn Lang làm nghề dạy học. Ăn ở phúc đức, khi tuổi đã cao, hai ông bà sinh được một người con trai dung mạo tuấn tú, đặt tên là Vũ Thê Lang. Với tư chất thông minh, chăm học, lại được được cha mẹ dày công dạy dỗ, khi trưởng thành ông tài giỏi cả văn lẫn võ, nức tiếng gần xa.

Nối nghiệp cha, Vũ Thê Lang mở trường dạy học ở Tràng Đông, Tràng Nam (nay thuộc thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, Việt Trì, Phú Thọ), được học trò theo học rất đông. Mộ tiếng thầy, Vua Hùng Duệ Vương cho vời ông vào cung dạy học cho hai nàng công chúa là Tiên dung và Ngọc Hoa. Ông đã mang hết tâm huyết, sở học của mình ra dạy bảo hai công chúa thành tài. Nhớ ơn thầy, khi ông mất nhà vua cho dân và các học trò lập miếu thờ ông trên nền nhà cũ, miếu này có tên là "Thiên Cổ Miếu". Qua biết bao cuộc bể dâu, ngày nay miếu vẫn còn trên một quả đồi nhỏ ở thôn Hương Lan, dưới tán hai cây táu cổ thụ đã hơn ngàn tuổi. Trong lòng miếu còn có mộ của thầy giáo Vũ Thê Lang mà nhân dân trong vùng đã bí mật bảo vệ, hương khói suốt mấy nghìn năm qua.

Về hai nàng công chúa Tiên dung và Ngọc Hoa, nhờ công dạy bảo của thầy, cả hai đều tài sắc vẹn toàn. Khi trưởng thành Tiên Dung công chúa kết hôn với Chử Đồng Tử, còn Ngọc Hoa Công chúa kết hôn với Tản Viên Sơn Thánh Nguyễn Tuấn. Hai bà là người tài đức, có công dạy dân trồng dâu, chăn tằm, dệt lụa và làm nghề thuốc chữa khỏi bệnh cho nhiều người. Cảm công ơn ấy khi hai bà mất dân lập đền thờ hai bà dưới chân núi Hùng Lĩnh. Đền ấy có tên là đền Giếng, vì trong đền có một cái giếng cổ hình tròn. Nước giếng ấy trong như ngọc nên gọi là giếng Ngọc, tương truyền khi xưa hai công chúa thường đến đây soi mình, chải tóc.

Cả thầy và hai trò đều nêu gương sáng, có đức độ cao cả và đều tài giỏi, sống là anh hùng giúp dân, giúp nước, khi chết làm phúc thần được dân nước lập đền miếu để thờ, đời đời hương lửa, ngợi ca.

Thật đúng là:

Nam thiên chính khí soi Thiên Cổ

Hùng Lĩnh trung chi sáng nghiệp thầy.

Chúng ta chưa có điều kiện nghiên cứu về hệ thống giáo dục, chương trình giáo dục và nội dung giáo dục thời Hùng Vương, nhưng qua câu chuyện này thì vào thời Hùng Vương ở nước ta đã có thầy giáo, có trường học và đã có một nền giáo dục rộng khắp. Đây là cội nguồn đào tạo hiền tài cho đất nước, mà hiền tài là nguyên khí của Quốc gia. Đất nước có văn hiến, trường tồn vững mạnh phần nhiều do giáo dục mà nên.

Đỗ Quang - Theo Giáo dục Thủ đô

Website hodovietnam

Share this post


Link to post
Share on other sites

ĐI TÌM CHỮ VIỆT CỔ - Phần 1

Người Việt ta lập nước rất sớm, nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương đã có thầy giáo và học trò, điều đó chứng tỏ dân tộc ta đã có chữ, nhưng đó là thứ chữ gì ? Trong hơn một chục năm gần đây, vấn đề chữ viết của người Việt cổ đã được đặt ra trên tinh thần nghiêm túc và khoa học trong các hội nghị nghiên cứu thời kì các vua Hùng.Theo cổ sử Trung quốc “vào thời Vua Nghiêu ( năm 2357 trước công nguyên) có sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng một con thần qui, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau”. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông cũng ghi: “Nghiêu thế, Việt thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” nghĩa là thời vua Nghiêu nước Việt thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu.

Sang thế kỷ 20, nhờ khảo cổ học và các môn khoa học khác phát triển, cung cấp nhiều bằng chứng khoa học mới về sự tồn tại của chữ Việt cổ. Năm 1979 Giáo sư Hà Văn Tấn phát hiện trên một công cụ bằng đồng - mà các nhà khảo cổ học quen gọi là lưỡi cày hình cánh bướm, đặc trưng cho vùng sông Mã - có hai kí hiệu ở hai bên họng tra cán. Hai kí hiệu này do hai bên không đối xứng nhau, ít có khả năng là hoa văn trang trí, nhiều khả năng là chữ viết. Những chữ việt cổ còn được phát hiện trên nhiều hiện vật khảo cổ khác.

Posted Image

Trên bốn chiếc qua đồng Đông Sơn có chạm khắc 28 chữ. Đó là những chữ viết Việt cổ mà cho đến nay chưa giải mã được.

Ngược dòng thời gian, năm 1930 một hiện vật gốm quí hiếm được M- CoLan phát hiện dưới chân vách đá Lan Gan ở Hoà Bình. Ban đầu người ta chỉ coi chúng là vật trang sức, “không có công dụng thực tế, không rõ để làm gì ...”

Đây là những chữ cổ có tuổi khảo cổ học một vạn năm, thuộc nền văn hoá đồ đá giữa Hòa Bình, trong đó có chữ thứ 2 giống chữ sĩ của Hán tự ngày nay, phát hiện này trong thời gian dài đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu, vì nó có trước Chữ Giáp cốt Ân - Thương (1392 - 1122 - Tr. CN) khoảng 6000 năm. Lúc đó cả tộc danh Hoa Hạ và chủng Trung Mông -gô lô-ít đều chưa có trên trái đất này.

Có thể thấy Trình độ tạo chữ của Tổ tiên ta thời cổ đại đã khá cao đáng khâm phục tự hào: Chữ Sĩ có hình tượng đứng đắn ngay từ đầu.

Posted Image

Hai chiếc đĩa cổ bằng đất nung có chữ ở Lan Gan (Hòa Bình)

Sử cũ cho biết, sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị kẻ thù thi hành chính sách huỷ diệt và đồng hoá rất dã man. Bọn Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp sang ta bắt đốt hết sách của ta, nhà nào cất giữ thì bị giết hại. Cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, sau này cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15…, Với chính sách đó thì chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, tưởng rằng đã bị xoá sạch là điều dễ hiểu.

Trong tập: "Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ", do Viện Văn hoá in năm 1986, Giáo sư Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng: Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Như vậy, dân tôc Kinh- Việt lại không còn văn bản hay sao? Riêng ở Việt Nam, chữ khoa đẩu được dùng lâu hơn. Mãi đến đời Sĩ Nhiếp vẫn còn, bị Sĩ Nhiếp cấm đoán nhưng nhân dân ta vẫn dùng.

Nhiều nhà nghiên cứu, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Chữ việt cổ được phát hiện ngày một nhiều trên nhiều hiện vật khảo cổ, được khắc trên đá, trên xương thú, trên trên đồ đồng như vũ khí, trống đồng cổ và phân bố rộng khắp lưu vực có người Bách Việt sinh sống, từ phía nam sông Dương Tử đến bắc Việt Nam.

Gần đây Nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và giáo dục thời Hùng Vương, do nhà văn Khánh Hoài- Đỗ Văn Xuyền lãnh đạo đã có những khám phá rất quan trọng. Một trong những kết quả nghiên cứu của Nhóm là phát hiện ra một bộ chữ Việt cổ được lưu giữ ở vùng tây bắc Việt Nam. Các nhà khoa học cho rằng văn tự này có thể là một biến thể của thứ chữ “Khoa đẩu” hay “Hoả tự” đã ghi trong cổ sử. Thứ chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt- Mường, đã thoát được chính sách huỷ diệt của kẻ thù. Do phải lẩn trốn không được sử dụng, bộ chữ này bị đóng băng, không phát triển theo kịp những biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại. Đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa tràn vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây la tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Phát hiện quan trọng này chúng tôi sẽ có dịp trình bầy trong một bài viết khác.

Đỗ Quang

CÓ MỘT NGƯỜI HỌ ĐỖ DÀNH CẢ ĐỜI ĐI TÌM VÀ GIẢI MÃ CHỮ VIỆT CỔ

Cách đây 48 năm có một thanh niên 22 tuổi quê ở Thái Bình, từ trường đại học Sư phạm Hà Nội về nhận nhiệm vụ làm hiệu trưởng trường cấp II đầu tiên của khu công nghiệp Việt Trì. . Đó là nhà giáo trẻ Đỗ Văn Xuyền.

Việt Trì ngày ấy vẫn còn giữ được dáng vẻ nguyên sơ của một vùng đất cổ, kinh đô Văn Lang với những: Lầu Thượng, Lầu Hạ, Kẻ Lư, Thậm Thình, Mã Quàng... Những học sinh của anh đi lao động còn gánh về những dao, mác, trống đồng, minh khí... nhặt được ở công trường.

Một lần đi thăm học sinh qua đồi Giàm, anh thấy những người trồng sắn cuốc lên nhiều rìu, búa đá. Nhiều đến mức tưởng như nơi đây đã từng là một công trường chế tác đồ đá mới.

...Anh bắt đầu với việc tìm lại dấu tích người xưa. Đầu năm 1980 anh mới lại có dịp trở lại Việt Trì. Với cương vị Chủ tịch Hội văn nghệ. và trưởng ban Văn hoá xã hội của thành phố (lúc này anh đã là nhà văn với bút danh Khánh Hoài) đã có dịp đi sâu xuống thôn xóm để thực hiện ước mơ xưa.

Một lần đi qua quả đồi nhỏ ở thôn Hương Lan - trung tâm cố đô - anh thấy một ngôi miếu nhỏ đổ nát nằm dưới tán hai cây Táu cổ thụ đã hơn ngàn năm tuổi. Đọc ngọc phả, anh kinh ngạc khi biết đây là đền Thiên cổ, thờ một thầy giáo thời Vua Hùng thứ 18. Trong lòng miếu còn có mộ của thầy giáo mà nhân dân đã bí mật bảo vệ suốt mấy nghìn năm qua.

Từ ngôi miếu nhỏ ở cố đô, anh còn tìm ra rất nhiều nơi thờ các thầy giáo và học trò thời trước Hán (thời Hai Bà Trưng, thời An Dương Vương và đặc biệt là thời Hùng Vương...) ở rải rác khắp vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh. Năm 186 công nguyên, Sĩ Nhiếp mới đưa chữ Hán vào Việt Nam. Như vậy các thầy giáo thời Hùng Vương dạy thứ chữ gì? Phải chăng dân tộc ta đã có chữ viết riêng từ rất sớm.

Anh lại lao vào các thư viện, tìm đọc thư tịch trong và ngoài nước ở lĩnh vực này và anh đã gặp may, vì có rất nhiều nhà nghiên cứu tiền bối đã đi sâu vào vấn đề này: Từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng.

Một lần trên đường đi tìm kiếm anh đã dừng chân bên ngôi miếu nhỏ của một xóm núi, đọc được một bản Ngọc Phả từ thời Trần Thái Tông với những dòng chữ vang vọng tự hào: "Nghiêu thế, Việt thường Thị Kiến thiên tuế thần quy, Bối hữu khoa dấu".

Như vậy thời Hùng Vương, dân tộc ta đã có chữ, đó là điều khẳng định chắc chắn. Nhưng thứ chữ đó hình dạng ra sao? Cấu trúc thế nào? Anh lại lao vào cuộc tìm kiếm mới.

Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15, và cuộc đốt phá hết thư khố quốc gia và thư khố của các bộ (sau cuộc tấn công vào đồn Mang Cá) của Pháp năm 1875, liệu có còn sót lại những gì?

Anh đã tìm đến những nơi đồn là có chữ Việt cổ. Nhưng đôi khi thất vọng: Chữ khắc trên viên gạch ở Hoàng thành Thăng Long chỉ là chữ Chăm và những trang sách trên lá buông ở đỉnh Trường Sơn và ở Thư viện Nghệ An chỉ là chữ Lào cổ. Nhưng anh vẫn tim vào sự cất giấu lưu giữ của tổ tiên về chữ Việt cổ (như khi đi tìm dấu vết của các thầy giáo thời trước Hán).

Anh đến Sa Pa, trên tảng đá vùng Hầu Thảo, sau khi cạo hết lớp rêu phủ, anh đã tìm được những chữ giống như chữ cái của Vương Duy Trinh.

Nhớ tới câu nói của Vương Duy Trinh: "Vì thập Châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy", anh hướng tìm tòi lên vùng Tây Bắc, Việt Bắc, vùng khu 4 cũ, rồi lăn lộn lên cả Đông và Tây dãy Trường Sơn.

Để đi được dài ngày và đi xa, với số tiền lương hưu ít ỏi, anh đã phải tính đến việc ăn ngủ giản tiện nhất, đó là: một chiếc võng bạt, một bi đông đựng nước, một ít bánh mì sấy khô và dăm gói mì tôm. Thế là anh có thể "cầm cự" được hàng chục ngày để đi đến các vùng sâu vùng xa, quyết tìm cho ra chữ Việt cổ của anh.

Trong các tài liệu sưu tầm được, anh đặc biệt chú ý đến một bộ chữ lạ. Rất tiếc là những trang sách này đã bị nguỵ trang và khoá mã, mặc dù vậy nó đã tồn tại hàng mấy trăm năm mà không ai chú ý tới. Linh cảm như mách bảo, anh đã thức nhiều đêm trắng để mày mò giải mã. Kiến thức tổng hợp và vốn ngoại ngữ đã giúp anh rất nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu chữ Việt cổ. Cho tới một ngày anh đã khu biệt được loại ký tự này với các loại văn tự xung quanh, đã tìm ra được hình dạng, chức năng của từng chữ cái và cách cấu trúc của một loại ký tự mà người ta đã nhầm là chữ Mường, chữ Thái...

Qua công trình nghiên cứu về ngôn ngữ người Việt cổ HauĐricourt, anh khẳng định được bộ ký tự này có từ trước công nguyên (loại ký tự bắt nguồn từ chữ Khoa đầu tượng hình chuyển sang chữ cái có ghép vần). Căn cứ vào ý kiến của giáo sư Lê Trọng Khanh: "Các dân tộc Bách Việt dùng thứ chữ này".

Khi đã đọc thông viết thạo chữ Việt cổ, anh lại tìm đến các vùng người Thái, người Mường. Loại văn tự này có thể ghi được tiếng Thái, tiếng Mường nhưng không đầy đủ. Anh lại tìm đến các vùng quê Thái Bình, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thanh Nghệ Tĩnh... để lắng nghe những người già phát âm.

Thứ ký tự này đã giúp anh ghi lại đầy đủ giọng nói, âm vực của họ, đã giúp anh giải thích được tiếng nói khác nhau của từng vùng - gần như nó đã ghi lại nguyên tiếng nói người Việt cổ. Nó đã giúp anh giải thích được nhiều vấn đề còn thắc mắc. Ví dụ: Vì sao trong tờ Le Paria và tờ L'Humanité từ những năm 20 của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc. Chữ Nguyễn ái Quốc được viết là Nguyễn ái Quấc. Và trong cuốn sách sổ sáng của Filíp Bỉnh viết ở Bồ Đào Nha năm 1822, chữ huyên được viết là huên, chữ dòng được viết là dào.

Cũng như vậy anh có thể chứng minh được một nền văn tự có trước Hán và khác Hán, của giáo sư Hà Văn Tấn qua việc giải thích sự tồn ghi trong cuộc khai quật của bà Cô La Ni ở Lam Giận Hoà Bình năm 1923. Tháng 9/2004, giáo sư Hà Văn Tấn đã mời anh về Hà Nội nghe anh kể lại quá trình đi tìm chữ Việt cổ và khi được anh tặng bản Hịch của Hai Bà Trưng mà anh đã chuyển sang chữ Việt cổ, giáo sư đã cảm động nghẹn ngào: "Vấn đề lớn lắm. Chúng ta phải sớm báo cáo lên nhà nước".

Nhân dịp Quốc khánh 2005 trong chuyến về công tác ở Việt Trì - Phú Thọ, nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tìm gặp anh và gửi thêm tài liệu cho anh. Khi thấy anh còn băn khoăn, Chủ tịch đã động viên: "Anh Xuyền cứ tiếp tục công việc, sẽ có ngày sử dụng đến kết quả này". Ngày ấy, anh đoán chắc còn xa lắm... (1)

Dịp hè năm nay, nghe tin tỉnh Sơn La tìm được hàng nghìn cuốn sách cổ có chữ lạ. Nhóm chúng tôi đã tìm đến và phôtô được một số trang đưa về cho anh. Anh cầm lên, đọc mà nước mắt ràn rụa. Như vậy điều dự đoán của các nhà khoa học trước đây đã được chứng minh: Thứ ký tự đặc biệt để ghi âm tiếng nói của người Việt cổ (thứ chữ dân tộc ta đã có từ thì đại Hùng Vương) đã được các dân tộc sử dụng chung và còn được lưu giữ bảo tồn ở vùng Tây Bắc cho đến ngày nay.

Hoàng Đạo Lý - Thông tin việc họ Đỗ Việt Nam số 24

(1) Mới gần đây gần đây ông Đỗ Văn Xuyền lại có dịp báo cáo công trình của mình lên Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân.

Posted ImageThis image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1502x1126.Posted Image

Buổi trao đổi khoa học về đề tài chữ viết cổ của người Việt tại Trung tâm Văn hoá người cao tuổi

Từ trái sang phải: ông Đỗ Văn Xuyền ( nhà văn khánh Hoài), giáo sư Lê trọng Khánh, phó giáo sư Đỗ Tòng- nguyên trưởng Ban liên lạc HĐVN, ông Lê Văn Ánh- Chủ nhiệm Trung tâm Văn hóa người cao tuổi, trưởng BLL họ Lê VN.

Share this post


Link to post
Share on other sites

ĐI TÌM CHỮ VIỆT CỔ - Phần 2

Chữ của thời Hùng Vương là loại chữ gì ? chắc chắn không phải chữ Hán và có trước chữ Hán. Trong thời phong kiến, mặc dù Nho học đã chiếm vị trí độc tôn, chữ Nho đã trở thành văn tự chính thức của Quốc gia, nhưng nhiều trí thức dân tộc vẫn không ngừng tìm kiếm một thứ chữ cổ của cha ông.

Gần đây, trong tập: Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ, do Viện Văn hoá in năm 1986, tác giả Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Như vậy, dân tôc Kinh- Việt lại không còn văn bản hay sao? Đúng là tài liệu của ta vừa bị giặc nước huỷ diệt, vừa bị ta không biết cách bảo tồn, thí dụ một tài liệu về chữ Việt cổ của gia đình cụ Lê Huy Nghiệm cũng mới bị mất sau cách mạng Tháng Tám.

Vào năm 1903 Tổng đốc Thanh Hóa lúc ấy là Vương Duy Trinh công bố việc tìm ra một văn bản viết bằng thứ chữ lạ, trông như những ngọn lửa vờn cháy mà Ông gọi là chữ Hỏa tự. Dựa vào những chữ hán ghi chú bên cạnh ông dịch được nội dung, thì ra đây là một bài thơ có tựa đề "Mời trầu" có nội dung ca ngợi tình yêu.

Vương Duy Trinh cho rằng, đây chắc chắn là chữ của tổ tiên ta từ thời các vua Hùng. Do âm mưu đồng hóa của kẻ thù, chúng tìm cách triệt phá, không để lại dấu tích của thứ văn tự cũ, nay vẫn còn truyền lại và lưu hành trong một bộ phận nhỏ xã hội. Theo nghiên cứu của Ông thì:" Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thư chữ này"

Cách đây hơn một thế kỷ, Phạm Thận Duật, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, trong thời gian làm Tri châu ở Tây bắc (khoảng năm 1855) đã phát hiện nhiều bộ chữ mà Ông cho là chữ Thái thổ tự , trong đó có một bộ chữ cái có kèm ghi chú chữ Hán. Theo mô tả của Ông, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần chắc. Còn ở Châu Mai Sơn, Châu Minh Biên có bộ chữ gồm 17 thể chữ cái theo vần bằng, 15 thể chữ cái theo vần chắc. Ngoài ra còn 11 chữ và nét phụ ở 04 bên mà Ông gọi là "tứ bàng phụ họa, sử dụng 03 thể chữ cái đảo lên, lộn xuống, ghép lại với nhau thành từ, thì đều có thể thông với văn tự Trung châu" (tức là có thể chuyển ngữ cho chữ Hán).

Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, Đỗ Văn Xuyền sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là:

- Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không ?

- Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của kí tự đó không ?

- Có giải quyết được các "nghi án" về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm)

Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ la tinh của phương tây, nên rất dễ học. Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn thay đổi vị trí (Tứ bàng phụ hoạ). Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông Xuyền mới tìm ra qui luật - Qui luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ trời nguyên âm đặt phía trên, từ đất nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau). Để thuộc bảng chữ cái và nắm được qui luật ghép vần , người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày. Nhóm nghiên cứu đang đang tập trung nghiên cứu để một ngày gần đây chứng minh giả thiết cho rằng, Những nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ. Nhóm nghiên cứu rất cần sự ủng hộ của các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu khoa học của nhà nước để hoàn thiện công trình khoa học này.

Buổi thuyết trình của ông Đỗ Văn Xuyền về " Báo cáo quá trình sưu tầm tư liệu và kết quả nghiên cứu các thầy giáo thời Hùng Vương và chữ Việt cổ" trước tết Nguyên đán, tại Trung tâm Văn hóa người cao tuổi đã nhận được sự chú ý và quan tâm của nhiều nhà khoa học.

Quang Hòa

Posted ImageThis image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 709x489.Posted Image

Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi cả nước khởi nghĩa giành độc lập, mùa xuân, năm 40, được ông Đỗ Văn Xuyền viết bằng chữ Việt cổ .

Thầy, trò thời Hùng Vương dạy học bằng chữ gì

Trước Tết Mậu Tý, thầy giáo đã nghỉ hưu Đỗ Văn Xuyền bước đầu công bố công trình “giải mã chữ Việt cổ” tại Trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam, gây được sự chú ý của giới khoa học.

Posted Image

Posted Image

Thầy giáo Đỗ Văn Xuyền nói về các ký tự cổ

Từ câu chuyện về Thiên Cổ miếu...

Gần ba mươi năm dạy học, thầy giáo Xuyền luôn gắn bó với vùng đất thiêng được bồi đắp bởi phù sa của cả ba con sông Hồng, sông Lô và sông Đà. Nhưng ông không phải người gốc ở đây, chỉ là chàng rể của cố đô xưa nhất nước Việt.

Đầu đường vào làng Hương Lan có ngôi miếu nhỏ. Trước cửa miếu sừng sững hai cây táu đại thụ hơn ngàn tuổi, gốc năm sáu vòng tay người ôm không xuể. Thầy giáo Xuyền nghe ông từ kể: “Miếu đây có tên Thiên Cổ, thờ hai vợ chồng thầy giáo thời Hùng Vương, dạy học ở làng này”.

Ngọc phả của miếu ghi rõ: Thiên Cổ miếu thờ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, ông quê Hải Dương, bà quê Bắc Ninh, đến kinh đô Văn Lang mở trường dạy học thời Hùng Vương thứ 18.

Thầy giáo Lang tài đức vẹn toàn, đông người làng và quanh vùng theo học, danh tiếng vang xa. Vua Hùng nghe tin, gửi hai con gái đến thụ giáo, đấy là công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa.

Về sau cả ông và bà cùng mất một ngày, ngôi miếu nhỏ chính là nơi song táng hai vợ chồng thầy giáo của làng...

Posted Image

Posted Image

Thiên Cổ miếu

Câu chuyện về thầy giáo Vũ Thê Lang thời Hùng Vương, chứng tích còn đó những ngôi miếu và phong tục thờ cúng, đã có sức cuốn hút đặc biệt với thầy giáo Xuyền.

Phải chăng trước khi chìm đắm vào đêm dài Bắc thuộc, nước Văn Lang đã có một nền văn hiến rực rỡ?

Không chỉ để lại cho hôm nay những chiếc trống đồng Đông Sơn tuyệt hảo, cha ông ta còn để lại (đâu đó, trong những di tích như Thiên Cổ miếu) bằng chứng về một nền giáo dục, một thể chế kén chọn người tài phát triển ngay từ thời dựng nước?

Nhiều năm ròng rã, thầy Xuyền dày công sưu tầm trong các thư viện Hán - Nôm, trong ngọc phả đình miếu, và các câu chuyện dân gian, về sự học sự thi thời kỳ trước khi chữ Hán thâm nhập vào nước ta - gọi tắt là thời trước Hán.

Công sức bỏ ra dần cho kết quả hết sức đáng tự hào: Hầu khắp các tỉnh lưu vực sông Đà, sông Lô, sông Hồng, xa hơn nữa mạn Thanh Hóa, Nghệ An, đều có các bằng chứng về các thầy giáo danh tiếng và các học trò giỏi thời Hai Bà Trưng, An Dương Vương, Hùng Vương!

Thầy Xuyền bước đầu sưu tầm được 18 thầy giáo, và một con số nhiều hơn các học trò giỏi, còn ghi danh qua truyền thuyết và ngọc phả các đền miếu ngàn đời nay vẫn được nhân dân hương khói thờ phụng.

Những sưu tầm còn cho thấy từ thời Hùng Vương, việc kén tìm người giúp nước trị dân thường được tuyển chọn trong những học trò giỏi, hoặc qua việc thi cử mà khẳng định, hoặc lập được chiến công chống ngoại xâm.

Qua những kết quả trên, một câu hỏi logic lại thôi thúc thầy giáo Xuyền phải tìm câu trả lời: Thầy, trò thời Hùng Vương dạy và học bằng thứ chữ gì? Cha ông ta đã có chữ viết của riêng mình, từ thời trước Hán?

Thế là thầy giáo Xuyền lại tiếp tục dấn thân vào một đề tài mà nhiều nhà nghiên cứu đi trước đã tốn bao công sức, song kết quả chưa được như mong muốn...

Đến huyền thoại hay sự thật?

Sách Tân Lĩnh Nam Chích quái của Vũ Quỳnh (đời Lê, thế kỷ 15) viết đại ý: Thời Lạc Long Quân có người hái củi, bắt được con rùa, lưng rộng khoảng ba thước, trên mai có khắc chữ như con nòng nọc gọi là chữ Khoa Đẩu. Hùng Quốc vương đã cử phái đoàn đem rùa thần đó cống cho vua Nghiêu.

Về việc này, sách Thông Giám Cương Mục do Chu Hy đời Tống viết: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 trước Công nguyên) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”.

Sách Thông Chí của Trịnh Tiểu cũng đời Tống nói rõ hơn: “Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”.

Chữ Khoa Đẩu được nói tới trong các tài liệu trên là thứ chữ như thế nào? Vì sao đến nay không còn dấu tích gì về nó nữa?

Vương Duy Trinh - Hiệp biện Đại học sỹ, Tổng đốc Thanh Hóa - trong cuốn Thanh Hóa quan phong viết năm 1903, đã giới thiệu một số chữ lạ mà ông sưu tập được, khẳng định đó là chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương, và đưa ra nhận xét: “Vì Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Trung Quốc”.

Giáo sư Hà Văn Tấn đã công bố công trình nghiên cứu “Về một nền văn tự trước Hán và khác Hán”, Giáo sư Lê Trọng Khánh thì khẳng định “Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa Đẩu thời tiền sử để ghi tiếng dân tộc mình”.

Giải mã bộ “chữ Thái (thổ tự)”

Hướng đi đầu tiên của thầy Xuyền là tìm kiếm dấu tích của chữ Việt cổ.

Năm này qua năm khác, nghe đâu có ký tự lạ lưu giữ qua các cổ vật, hang động, vách đá, thầy Xuyền bất chấp đường xa, không ngại tốn kém, lập tức tìm đến. Nhưng tất cả chỉ là những ký hiệu chưa giải mã được

Mươi năm gần đây, thầy Xuyền chuyển hướng đi mới - nghiên cứu những ký hiệu đã mang hình hài của ký tự, được phát hiện rải rác từ Hà Giang, qua Bắc Ninh, Hòa Bình, vào tới Thanh Nghệ Tĩnh...

Tập trung lên hướng Tây Bắc - vùng ổn định nhất của người Lạc Việt suốt nhiều nghìn năm - thầy Xuyền đã phát hiện ra suốt một vùng dọc theo triền sông Đà, nhân dân ta còn lưu giữ được nhiều văn bản mang trên mình loại ký tự mà mọi người vẫn nhầm là chữ Thái.

Trong những tài liệu ấy, thầy Xuyền đặc biệt chú ý đến tài liệu do Thượng thư Phạm Thận Duật, một nhà trí thức uyên bác (Tri châu Điện Biên những năm 1855-1856) công bố.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu về phong tục, tập quán, Phạm Thận Duật đã có một số trang ghi lại một loại ký tự mà ông cho là “chữ Thái (thổ tự)” (CTTT - chữ Thái chỉ của một vùng người Thái). Những trang ghi chép này không được chú ý vì nội dung của nó mang nhiều điều vô lý.

Sau một thời gian dài đi sâu vào sự “vô lý” ấy, thầy Xuyền đã phá bỏ lớp vỏ ngụy trang, dần dần giải mã được bộ ký tự này. Thầy Xuyền cũng khu biệt được bộ chữ mới được giải mã, từ đó rút ra kết luận: Bộ chữ này cũng không phải của hai dân tộc anh em Mường và Thái.

Do nhiều lý do, các dân tộc anh em đã sử dụng chung bộ ký tự này (có chỉnh sửa đi chút ít), đúng như nhận định của Vương Duy Trinh “Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy”!

Tiền thân của chữ Quốc Ngữ?!

Chữ Quốc ngữ xuất hiện ở nước ta từ năm 1651. Nhiều cuốn sách cổ được in từ buổi đầu chữ Quốc ngữ xuất hiện, đến nay hầu như không ai đọc được.

Khi đem bộ chữ Việt cổ đã được giải mã thử đọc một số cuốn sách cổ, như cuốn “Từ điển Việt Bồ La” của Alexandre de Rodes, hay cuốn “Sách sổ sang” của Philip Bỉnh (Giám mục người Việt, ở Thủ đô Bồ Đào Nha những năm 1790 - 1820), thầy giáo Xuyền đã rất thú vị khi dễ dàng đọc được những từ khó mà lâu nay nhiều người không đọc cũng không giải thích được.

Chính từ việc này, thầy Xuyền đã đưa ra một giả thuyết: Chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là một công trình hoàn toàn mới của Alexandre de Rodes".

Nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ?!

Giả thuyết của thầy Xuyền không phải không có căn cứ. Bởi chữ Quốc ngữ và chữ Việt cổ do thầy Xuyền giải mã có cùng cấu trúc ghép vần tương tự nhau, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi!

Chính trong cuốn “Từ điển Việt Bồ La”, Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, nó đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo thầy Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ!

Đinh Anh Tuấn- Báo Tiền Phong

Share this post


Link to post
Share on other sites

Người tìm chữ cổ

11:02' 04/03/2008 (GMT+7)

Posted Image - Không phải là nhà khoa học, không hưởng lương chuyên môn nhưng 50 năm qua, dù thế chấp mất sổ hưu để vay tiền, dù quỹ thời gian ngày một ngắn và dù mang trong mình nhiều thứ bệnh tuổi tác nhưng ông sẵn sàng lên đường bất cứ lúc nào vì chữ Việt cổ…

"Học sinh" thời… vua Hùng

Một người bạn đưa tôi đến con phố nhỏ ở phường Tân Dân, thành phố Việt Trì và gõ cửa một ngôi nhà giản dị. Gia chủ là người đàn ông khá cao lớn, mặt vuông, miệng rộng, vẻ quắc thước pha chút phong trần. Bên cạnh bàn nước là một tủ sách chia ngăn đơn giản, nhưng điều lạ là mỗi ngăn tủ đều được ghi dấu bên ngoài bằng những hình vẽ tôi chưa thấy bao giờ. Phía trong là những cuốn sổ, sách, tài liệu cũng viết ngoài bìa thứ hình uốn éo vươn dài như vậy.

Posted Image

Ông Xuyền và những con chữ ông khảo cứu

Chủ nhà được giới thiệu là nhà giáo Đỗ Văn Xuyền, trong văn chương thì bút danh là Khánh Hoài. Câu chuyện bắt đầu và xuyên suốt của ông cũng chính là những hình vẽ lạ mắt kia. Ông nói đó là chữ và ông có thể đọc được. Chỉ tay vào những ký hiệu ngoài ngăn tủ ông đọc: “Lịch sử, tài liệu từ hiện vật, tài liệu thư tịch, sắc phong, ngọc phả… Còn những cuốn sách này là hồ sơ về đền Mẫu, lịch sử Thiên cổ miếu… Tất cả những thứ gì của riêng tôi mà cần ghi bằng chữ thì tôi đều dùng chữ của tổ tiên”.

Ông đưa ra những cuốn sổ tay, lịch ghi chép và cả những phong thư… của ông cũng đều ghi bằng “chữ Việt cổ có từ thời vua Hùng”, ông khẳng định. “Buổi lập nước, triều đại vua Hùng, chúng ta có một nền giáo dục rực rỡ. Chúng ta đã có chữ viết trước Hán”.

Ông chứng minh bằng tấm bản đồ Việt Nam tự tay ông vẽ với những ký hiệu đánh dấu sơ đồ các ngôi đền thờ thầy giáo, học sinh và địa điểm trường lớp qua các thời vua Hùng, An Dương Vương - Triệu Đà và Hai Bà Trưng. Tấm bản đồ đánh dấu cả những ký hiệu về dấu tích chữ Việt cổ còn sót mà ông tìm thấy trên bãi đá cổ, trên hiện vật và tài liệu cũ.

Tất cả hơn 60 địa điểm trải dài từ Hà Tĩnh trở ra miền Bắc. Bản đồ được vẽ tay rất tỉ mỉ… “Vì anh là người Việt Nam làm những công việc liên quan đến chữ nghĩa nên tôi tặng anh thứ này”, ông giáo già mở tủ, trao khách một quyển sổ nhỏ bằng bàn tay, bìa và ruột cùng một thứ giấy. Nhan đề cuốn sổ: “Giải mã chữ Việt cổ (tóm tắt sơ lược)”.

Bên trong là hai hàng ký tự La-tinh và Việt cổ viết song song. Chữ “i” la tinh viết thế này thì tương ứng đọc là “i” chữ Việt cổ viết thế kia. Sách có tổng số 16 trang ghi các phần nguyên âm đơn, nguyên âm ghép, các phụ âm và một số thí dụ ứng dụng ghi các từ, ngữ Việt Nam bằng chữ Việt cổ. Có lẽ sợ có sự nhầm lẫn dạng chữ này với một số ký tự tương tự nên cuốn sách nhỏ còn dành phần phân biệt chữ Việt cổ với chữ Thái đen, Thái trắng, đông bắc Thái Lan, Khăn tì Ấn Độ, Khoen Myanma, Lào xổng và Lự mới Vân Nam.

Toàn cuốn sổ đều được viết tay, đánh số trang, đóng gáy và photo làm nhiều bản. Bất cứ ai là con cháu Lạc Hồng có chút tâm linh với nguồn cội, ông đều tặng không cuốn sổ như một sự “phổ cập chữ Việt cổ” tự nguyện và kỳ vọng.

Những người thầy ngày dựng nước

Hơn 50 năm trước, về với đất tổ với cặp giáo án và hộp phấn, ông là một anh giáo tuổi 20. Biết rằng mình đang sống ở nơi cắt rốn, chôn rau của dân tộc ngàn năm linh khí. Thế nhưng lịch sử huyền bí, giặc dã, biến thiên cũng đã ngàn lần chôn lấp. Cho đến một hôm tham gia cùng đám học trò lao động ngoại khoá, ông giật mình thấy các em đào lên hàng rổ những rìu, dao, búa… đá.

Posted Image

Thiên cổ Miếu, thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, TP Việt Trì,

nơi thờ hai vợ chồng thày giáo Vũ Thê Lang, thời vua Hùng.

Ông bắt đầu để ý và thấy những đám ma, những người đào giếng, xây nhà… đưa lên những cổ vật mà nhìn vào nó như thấy hình bóng tổ tiên từ huyền sử. Ông bắt đầu lục tìm những tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước về các di tích khảo cổ nơi này. Năm 1989, khi đến xóm Quế thôn Hương Lan xã Trưng Vương, Việt Trì, ông thấy một ngôi miếu đổ nát. Cửa miếu có hai cây táu lớn đã rất lâu đời. Một cây nở hoa vàng và một cây nở hoa màu bạc. Miếu có tên Thiên cổ miếu. Tìm hiểu ông biết dân làng còn đào được ở đây một thanh kiếm đồng, một cái bát đồng có ghi thứ chữ lạ.

Đồi Giàm gần đó cũng được tìm thấy nhiều đồ đá, trong đó có cây rìu cũng chạm kiểu chữ này. Tìm ngọc phả soạn từ thế kỷ XVI nói: Miếu thời thầy giáo Vũ Thê Lang quê ở Mộ Trạch, Hải Dương và vợ là Nguyễn Thị Thục quê ở Đông Ngàn Kinh Bắc lên đây dạy học thời vua Hùng thứ XVIII. Hai người cùng mất ngày 2/2 năm 288 trước công nguyên, táng trong lòng miếu. Tìm sử sách Tây, Tàu, ta và ghép nối những câu chuyện cổ tích, dân gian; đến tận nơi nghi vấn tìm hiểu, ông đã “gặp” được nhiều thầy giáo khác của thời Vua Hùng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng.

Đó là thầy Nguyễn Cầm Công và Nguyễn Công Ứng từ chùa Hương về Việt Trì dạy học. Làng Bồng Lai, huyện Từ Liêm có Hoàng Trụ, con công chúa Mỵ Châu Hoa theo học thầy Lỗ Công… Thời Hai Bà Trưng các tướng tá đều được học hành chu đáo như Lê Ả Lan, Lê Anh Tuấn ở Đường Lâm, Sơn Tây; tả tướng Phật Nguyệt, nữ tướng Lê Chân, nữ tướng Thiều Hoa… đều được sử chép là học chữ rất tài. Hai bà Trưng còn được mẹ là bà Man Thiện đón vợ chồng thầy Đỗ Năng Tế và Tạ Cẩn Nương về dạy chữ tại nhà…

Có thầy, có trò thì phải có chữ. Chữ Hán chỉ vào VN từ năm 186 do Sĩ Nhiếp đưa sang. Vậy trước đó, người Việt học chữ gì? Ông cho rằng, thời đó chúng ta đã có chữ viết nhưng khi người Hán đô hộ, họ đã xoá đi. Hàng ngàn năm dài, chữ Việt cổ chỉ có thể còn những mảnh vỡ, rơi rớt trong lời ăn tiếng nói, trong những vật phẩm ngàn năm chôn vùi dưới đất và thấp thoáng trong những công trình, tư liệu của nước ngoài.

Chữ của cha ông

Ông tìm thấy bộ chữ 17 ký tự gọi là hoả tự (nhìn giống ngọn lửa cháy) của Vương Duy Trinh viết trong “Thanh Hoá quan phong” in năm 1903 đã cho rằng đây là chữ Việt cổ còn sót lại ở Tây Bắc. Vương Duy Trinh viết: “Vì thập châu (vùng Tây Bắc) là nơi biên viễn (biên giới xa) nên dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học Hán tự”. Ông tìm thấy bộ chữ Thái thổ tự của Phạm Thận Duật phát hiện năm 1855 cũng ở vùng Tây Bắc.

Posted Image

Đây là loại chữ ông Xuyền cho là chữ Việt cổ

Ông nhận ra những sự ghi chép, suy luận đầy vô lý khi học giả này gọi đó là chữ của người Thái. Ví dụ: Chữ người Thái nhưng lại không ghi được những từ về gia đình, nhân luân của họ… Như vậy đây không phải chữ Thái. Ông Xuyền cho rằng, dân tộc ta nhiều đời bị đô hộ, chữ viết luôn bị xoá bỏ, dân ta đã lưu giữ truyền đời bằng những tín hiệu bí mật, nguỵ trang.

Và Phạm Thận Duật đã dùng cách nói khéo đó để gửi gắm, cất giấu tinh hoa tiên tổ. Ông tìm đến sách Thông giám cương mục của Chu Hi đời Tống nói: “Đời Đường Nghiêu thứ 5 (2352 trước công nguyên) người Nam Di Việt đến chầu, hiến con rùa lớn…”.

Sách Thông chí thời này nói tiếp: Lưng rùa rộng ba thước có chép chữ khoa đẩu (con nòng nọc), ghi chép việc từ khai thiên lập địa đến nay… Sách Lĩnh Nam Chích Quái của ta cũng ghi rõ điều này. Nhà nghiên cứu Lê Trọng Khánh cũng nhắc đến chữ khoa đẩu thời tiền sử của dân ta. Ông lại dựa thêm vào kết quả khai quật của nhà nghiên cứu người Pháp Côlani năm 1923 khi tìm hiểu nền văn hoá Hoà Bình đã tìm thấy hai chiếc đĩa gốm nhỏ ở chân núi Lam Gan khắc hai chữ dáng như chữ Sĩ, chữ Thượng của Trung Quốc nhưng lại có tuổi 8000 năm trước công nguyên, khi chưa có chữ Hán.

Ông tìm lời tựa cuốn tự điển Việt Bồ La xuất bản năm 1651 ở Rôma mà tác giả đã nói rằng: Người dạy tôi là một thiếu niên bản xứ trong 3 tuần đã đọc được các thanh và từ… để suy đoán rằng thứ chữ được dạy đó chính là chữ Việt cổ. Rồi bắt đầu ông đi đến rất nhiều miền quê ghi lại lời nói của dân bản xứ, liệt kê, đối chiếu so sánh và ghi chép suy luận, lý giải bằng chữ cổ…

Posted Image

Những trang viết trong cuốn “song ngữ” La Tinh- Việt cổ do ông Xuyền biên soạn.

Ông luôn bị ám ảnh một lời trong sử sách Trung Quốc và của nhà nghiên cứu Lê Trọng Khánh rằng xưa VN ta từng có chữ khoa đẩu (chữ có hình con nòng nọc). Đến một đêm, đang ngồi làm việc với những dòng chữ tiền sử thì bị mất điện, thắp ngọn nến đặt trước bàn, ông thảng thốt và giàn giụa nước mắt khi thấy trên trang giấy hình ảnh những con nòng nọc đang vươn mình bơi lội. Ông cho rằng tổ tiên đã phù trợ cho ông sức mạnh về với cội nguồn. Ông đã tìm đến nhà riêng giáo sư Hà Văn Tấn một trong những nhà sử học lớn nhất lúc đó.

Giáo sư ốm đã không thể làm việc từ lâu, nhưng khi nghe ông trình bày, giáo sư đã rơi nước mắt và ôm chặt vai ông động viên hãy tiếp tục thực hiện công trình mà giáo sư chưa thể hoàn thành ở đời này. Chủ tịch nước khi đó là đồng chí Trần Đức Lương đã lên tận Phú Thọ và dành một buổi dài trao đổi với ông về chữ viết của cha ông. Chủ tịch động viên, gửi gắm nhiều hi vọng và dặn dò các lãnh đạo tỉnh hỗ trợ ông…

Trong một lần đi tìm hiểu, ông đến ngôi miếu nhỏ ở huyện Lập Thạch thờ 4 người con của Lạc Long Quân, ông tìm thấy bản ngọc phả thời Trần Thái Tông, vào loại cổ nhất hiện còn. Ngọc phả viết: “… Nghiêu thế, Việt thường thị hiến thiên tuế thần quy, bối hữu khoa đẩu…” (thời vua Nghiêu, người Việt hiến rùa thần, trên lưng có chữ khoa đẩu). Ông cho rằng, đời này còn sống ngày nào ông còn đi tìm con chữ của tổ tiên ngày đó.

Những hành trình tìm chữ

Năm 2003, một buổi chiều trời mưa như trút nước, bão giật cấp 9, nhưng nghe tin ở Sa Pa, phát hiện một bãi đá cổ hàng ngàn năm tuổi, trên đá có những con chữ lạ, thế là ông già lập tức ba lô, cơm nắm, bánh mì khô, bi đông nước, máy ảnh… bắt xe đò lên đường. Mò vào rừng, nước lũ xoắn xiết réo gào, ông già dò dẫm lặn lội 2 ngày trời thì tới được bãi đá cổ. Bàn tay già nua run run bóc từng lớp rêu. Những con chữ vừa lạ vừa quen hiện ra trước mắt. Giữa sấm chớp mưa giông, ông già đã khóc một mình giữa rừng núi đại ngàn và những nét vạch nguệch ngoạc trên phiến đá rêu. Sau chuyến đó ông nằm liệt giường 4 tháng.

Posted Image

Bản đồ do ông Xuyền vẽ ghi dấu những đền thờ thày giáo, học sinh thời vua Hùng đến Hai Bà Trưng

Đó là chuyến đi kinh hoàng nhất, nhưng đau đớn nhất là câu chuyện trước đó 1 năm. Đang ở Hà Nội, 4 giờ chiều nghe điện thoại báo: Ở Việt Trì có người đào được phiến đá có chữ lạ. Ông lập tức lên đường. Tới nơi, đó là một khối chất cứng giống như tảng đá lớn có nhiều hoa văn lạ nhưng người ta có thể tách mỏng ra từng miếng một. Miếng thì có hình bản đồ, miếng thì có hai bàn chân con gái rất đẹp.

Tiếc thay, hiện vật vừa đưa lên khỏi mặt đất lập tức mủn tan ra thành đất vụn. Ông lên đỉnh Trường Sơn, gặp đồng bào Cọi tìm những trang sách bằng lá cây. Vào Nghệ An tìm thấy chữ Lào và qua miền Trung thấy những viên gạch đỏ khắc ngang dọc của chữ Chăm… Đều không phải là chữ Việt. Đó là những chuyến đi thất vọng.

Ông ghé Hà Tây, Ninh Bình. Ông về Thái Bình, Thanh Hoá. Ông ngược lên Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu… Ông đã dồn tất cả những đồng lương ít ỏi, những khoản tiền thơm thảo của con cháu và những đồng nhuận bút tượng trưng của mình cho những chuyến đi. Ông thế chấp sổ lương hưu để vay tiền ngân hàng tiếp sức cho cuộc hành trình bất tận về cội nguồn. Và, mức vay đã quá lớn để đến năm 2004 ông không thể còn đồng lương nào nữa.

Trước khi rời đất tổ, ông giáo già mời tôi chén rượu. Bà vợ ông nói: Mấy năm nay chồng tôi mới có một cuộc vui thế này, tôi không nỡ ngăn, dù ông ấy đang mang trong mình tới 4 thứ bệnh. Ông ngẩng lên, ánh mắt dù cười nhưng cũng đã đục mờ. Với ông phía trước không còn dài. Câu chuyện con chữ thì đã đằng đẵng thiên thu rồi. Nhiều triều đại, nhiều nhà nghiên cứu, nhiều người con Lạc Hồng từng đi qua và vẫn đang dang dở. Ông hỏi tôi: “Còn anh, anh có thể làm gì với mấy ngày bên con chữ của tổ tiên?”

Đạo Lý - Tự Trọng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một số bài thơ được thầy Xuyền dịch bằng chữ Việt cổ :

Posted Image

Posted Image

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Posted Image

:lol:

Share this post


Link to post
Share on other sites

cả cuộc đời nghiên cứu chỉ bằng cái tâm với dân tộc, cuối cùng công sức của thầy Xuyền cũng được đền đáp xứng đáng. Thầy nghiên cứu không vì danh tiếng, địa vị, bằng cấp, "lương hưu" mà chỉ bằng tấm lòng với dân tộc nên mới có kết quả ngày hôm nay, còn những người làm việc vì mảnh bằng, vì sổ lương hưu thì chẳng bao giờ có được kết quả đáng khâm phục như vậy.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi thật mong mỏi những kết quả nghiên cứu của thầy Xuyền được công bố rông rãi, được nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết tiếp sức, được xử dụng để đọc các văn bản Khoa đẩu của cha ông tạo thành luồng sáng mạnh mẽ soi rọi vào quá khứ huyền vĩ của dân tộc!

Nhưng sao lâu quá!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trước kia, tôi rất phục Alexandre de Rodes. Chẳng hiểu bằng cách nào ông ta có thể nghĩ ra được chữ Việt như ngày nay khi ký âm những 6 thanh và ngữ pháp thì đặc biệt phức tạp. Nếu bây giờ có ai ký âm lại cũng không phải là chuyện dễ. Có ngôn ngữ nào nhiều thanh như thế đâu. Chắc chắn ông ta không có tiền lệ khi làm điều này. Nghe nói ông này cũng không ở Việt Nam nhiều lắm, mà chủ yếu ở Ma Cao. Khi đọc giả thuyết của thầy Xuyền thì tôi rất tin tưởng vì nó lý giải rốt ráo băn khoăn này của tôi. Đúng, có lẽ Alexandre de Rodes chỉ La tinh hoá chữ Việt cổ thôi chứ còn nguyên tắc ký âm thì ông ta đã học được từ cách viết thứ chữ đó vốn có từ trước.

Thú thực, tôi không hiểu, tại sao đột phá ý tưởng thì thầy Xuyền đã làm, mà hoàn thiện nó chỉ là vấn đề kỹ thuật mà sao lâu thế! phải huy động nhiều người làm chứ.

Nếu chữ Khoa đẩu được phục hồi, chắc chắn mở ra ch nhiều lĩnh vực một kỷ nguyên mới!

Share this post


Link to post
Share on other sites