Lê Bá Trung

Những ngôi mộ bạc tỷ...

1 bài viết trong chủ đề này

Xin được gửi tới bạn đọc một chuyện mà theo chúng tôi là chuyện lạ đời hay là chuyện kỳ cục về ông.

Posted ImageÔng Nguyễn Công Đức và bộ bàn ghế làm từ một phần của gốc cây gù hương

Ông Nguyễn Công Đức có biệt danh Đức “gấu”, bởi không những ông từng là một lãng tử có tiếng ở Hà thành mà còn là người cung cấp mật gấu cho hàng trăm quán nhậu. Người dân ở Lương Sơn (Hòa Bình) biết đến ông, bởi ông có hai cái trang trại đẹp nhất và đắt nhất Hòa Bình. Thậm chí, giới nghiên cứu về gấu trên thế giới cũng biết tiếng ông vì ông nuôi được cả đàn gấu đẻ.

Nhưng, ít ai biết rằng, trong cái trang trại rộng 10 ha, được vây bọc bởi rừng rậm, núi cao cuối xã Lâm Sơn này, ông còn là người của những câu chuyện kỳ bí. Ông vỗ ngực tự hào: “Đời tôi giờ đây có 3 cái nhất: thứ nhất là có bộ bàn ghế, giường nằm, bàn thờ, bằng gỗ lũa gù hương; thứ hai là tôi đang tự xây cho mình ngôi mộ và thứ ba là tôi nuôi được nhiều gấu đẻ nhất Việt Nam”.

Lúc này, tôi mới để ý đến bộ bàn ghế bằng gỗ lũa của ông. Nó là một phần của gốc cây gù hương, tỏa mùi thơm thoang thoảng. Ông Đức kể về cái đận vớ đậm gốc cây này. Cách đây 5 năm, khi lang thang trên sườn một ngọn núi đá hùng vĩ vùng rừng Kim Bôi thì giẫm chân lên một “tảng đá” to như cái sân nhà, bề mặt “tảng đá” phẳng lỳ. Ông băn khoăn không hiểu thiên nhiên kiến tạo thế nào mà tài tình, kỳ lạ đến vậy. Mặt “tảng đá” rêu phong xanh rì, trơn chuồi chuội. Giữa lúc ấy, một ông già người Mường đi qua bảo: “Gốc cây gù hương đấy, nếu mày thích tao bán cho?”. Tận mắt thấy những cái rễ cây to như cột đình, chuồi ra ở khe núi ông mới tin đó là gốc cây thật. Ông băn khoăn: “Mang thế nào xuống núi được?”. “Cứ bỏ 25 triệu đây, tao cho người và trâu vần xuống chân núi cho”.

Posted ImageTường bao của khu mộ.

Hôm sau, ông Đức mang tiền và hơn tạ dây thừng đến, ông già người Mường gọi 20 thanh niên trong bản vác xẻng và xà beng lên núi. Tốp người này phải đào bới hì hụi suốt nửa tháng trời mới xong. Lúc gốc cây gù hương lộ ra, mọi người lấy thước đo, đường kính của gốc cây lên tới... 7m (gốc cây gù hương này có hình dẹt). Dây thừng buộc vào hệ thống rễ, 30 con trâu mộng được huy động trong bản kéo vẹo mông mới lật được gốc cây lên. Tuy nhiên, khi gốc cây đổ ập xuống thì vỡ làm ba mảnh. Ông Đức tiếc đứt ruột, giá như cả gốc cây với đường kính 7m còn nguyên vẹn thì có thể đây sẽ là bộ lũa lớn nhất Việt Nam. Giờ đây, một mảnh làm bàn, một mảnh làm giường nằm, một mảnh của nó làm bàn thờ. Bộ ghế 15 chiếc được cắt từ các đoạn rễ. Đồ dùng bằng gỗ đều được chế tác từ những đoạn rễ của gốc cây gù hương. Đến cả tượng nhà thơ Lý Bạch, đầu đội lá sen, tay nâng chén múc trăng dưới nước uống cũng được chạm bằng gỗ cây gù hương, tỏa mùi thoang thoảng, êm ái. Theo ông lão người Mường kể lại, vào đầu những năm 40 của thế kỷ trước, người Pháp đã khai thác cây gù hương này ròng rã trong suốt một tháng rồi đóng vào hàng chục côngtenơ chở về nước để ép dầu. Gốc cây chìm sâu trong lòng núi, khó đào nên họ bỏ lại. Mấy năm nay, những tay chơi gỗ lũa nghe tin ông Đức có bộ lũa gù hương khổng lồ mà thèm thuồng, thi thoảng họ lại kéo đến ngắm nghía cho thỏa lòng. Có bộ lũa này, dù đêm, dù ngày cũng chẳng có con muỗi nào bén mảng đến. Ngửi thấy mùi dầu gù hương tiết ra, tinh thần con người luôn phấn chấn, vui vẻ. Quý như vậy nên đã có đại gia mang 500 triệu đồng đến mặc cả, nhưng ông Đức chỉ lắc đầu quầy quậy.

Nói về cái chuyện tự xây mộ và ướp xác mình trên đỉnh núi thì đúng là có một không hai. Ông Đức “gấu” bảo, cả tháng, cả năm một mình vò võ trông đàn gấu giữa bốn bề núi hoang, rừng thẳm nên đã nghĩ ra đủ các chuyện trên trời dưới biển, trong đó, có một chuyện mà đến bản thân ông đôi lúc cũng cho là kỳ quặc, đó là lo hậu sự bằng cách tự xây mộ cho mình và cho vợ trên đỉnh núi, mặc dù ông mới ở tuổi 65, dáng dấp còn khỏe khoắn, đôi mắt tinh tường, bắp tay, bắp chân vạm vỡ và cuộc sống khá no đủ, thừa thãi.

Ông Đức đã mua rất nhiều sách, báo, tài liệu nói về kỹ thuật xây những ngôi mộ lớn, phức tạp để bảo quản xác khỏi phân hủy và chống lại sự tàn phá của thiên nhiên, con người. Ông đã lang thang trong Huế cả tháng trời để nghiên cứu các lăng tẩm những mong làm cho mình một ngôi mộ mà không sợ mang tiếng là “ăn cắp bản quyền”.

Nghiên cứu mãi mà vẫn không nghĩ ra một thiết kế ưng ý nên năm 2001, ông “vi hành” sang tận Côn Minh (Trung Quốc) để tham khảo mộ chí, lăng tẩm ở đây. Hồi ở Côn Minh, mỗi khi tham quan đền đài, mộ phần, lăng tẩm ông đều thuê riêng một hướng dẫn viên du lịch và hỏi cặn kẽ về kỹ thuật xây lăng mộ. Qua đây, ông nhận thấy rằng, đình chùa, miếu mạo, lăng tẩm ở Trung Quốc đều được đặt theo hướng nhất định, tuân theo thuật phong thủy mới bền vững với thời gian. Việc đầu tiên khi xây lăng mộ là phải xác định được hướng và thế đất, do đó cần phải có thầy địa lý giỏi xem hướng, trấn trạch các long mạch. Hiểu được vấn đề, ông liền dò hỏi tất cả các hướng dẫn viên du lịch về những ông thầy địa lý ở Trung Quốc. Một cô hướng dẫn viên đã cho ông địa chỉ của một thầy địa lý có tên Voòng A Sao.

Ngôi nhà của thầy địa lý này nằm sâu trong rừng, trên sườn một ngọn núi, phải trèo bộ suốt một ngày mới tới. Lạ ở chỗ, ông thầy địa lý Voòng A Sao lại nói trôi chảy tiếng Việt. Ông ta đã thuyết trình cặn kẽ về những bí quyết xây lăng mộ của các vua chúa thời phong kiến Trung Quốc ngày xưa. Nghe ông Đức tâm sự về nguyện vọng của mình là muốn xây mộ và bảo quản xác, thầy địa lý Voòng A Sao đã nhận lời sang tận Việt Nam để tư vấn giúp ông.

Một tháng sau thì ông thầy địa lý người Trung Quốc tìm sang Việt Nam thật. Sau khi sống ở trang trại của ông Đức một tuần và đi thực địa từng mét vuông đất, trèo lên từng vách đá, ông ta đã cắm cọc ở trên sườn ngọn núi đá vôi, nơi mà giờ đây ông Đức đã cho xây mộ của mình. Như vậy, ngôi mộ sẽ quay về hướng tây bắc, nơi có ánh mặt trời lặn xuống sau những dãy núi phía huyện Kỳ Sơn mỗi buổi chiều. Theo ông thầy địa lý người Trung Quốc, dãy núi trùng điệp phía huyện Kỳ Sơn có hình thù như một con rùa, và theo thuật phong thủy thì ngôi mộ chỉ nhìn về hướng này mới bền vững được. Mặc dù rất tin vào những điều mà ông thầy địa lý người Trung Quốc đã chỉ dẫn, song ông Đức vẫn cẩn thận thuê thêm hai ông thầy địa lý nữa, một ông tên là Cỏn ở Quảng Ninh và một ông tên là Ơm ở Yên Bái. Điều lạ là mặc dù ông Đức không nói gì về chuyện đã thuê ông thầy địa lý ở tận Trung Quốc, song hai ông thầy trong nước này sau vài ngày xem xét địa hình cũng cắm chiếc cọc đúng chỗ mà ông thầy Trung Quốc kia đã cắm.

Xác định được địa điểm rồi, ông Đức tiến hành xây mộ. Ông Đức đã thuê 10 nhân công, suốt ngày đêm khoan núi, nổ mìn tạo ra được một mặt bằng có diện tích khá rộng.

Để công việc xây mộ diễn ra thuận lợi, ông đã làm hàng trăm bậc thang bằng đá từ chỗ chân núi lên đến khu trung tâm. Ngôi mộ hiện đã được xây thô, gồm 3 phần: cảnh quan vòng ngoài, khu trung tâm và hầm mộ. Cảnh quan vòng ngoài là một chiếc sân rộng chừng 80m2, cùng các con đường nhỏ chạy quanh mộ. Giữa sân trồi lên những tảng đá rêu phong. Xung quanh hệ thống mộ, cả trên sườn núi, đỉnh núi đá vôi là những hàng cây lim, nghiến, sến, táu, thông... mà ông Đức mới trồng, cao trên dưới chục mét. Ngoài ra, còn có hệ thống cau vua và một số loại cây cảnh khác được tỉa tót rất đẹp mắt. Từ mảnh sân này, có 9 bậc đá dẫn qua cổng chính vào mảnh sân hình bán nguyệt. Từ sân hình bán nguyệt, lại có hai lối lên khu trung tâm mộ, mỗi lối gồm 14 bậc. Khu vực trung tâm mộ được bao bọc bởi hệ thống tường xây kiên cố bằng gạch hoặc đá. Cổng vào trung tâm mộ rộng 5m, cao 5m. Khu trung tâm mộ có chiều dài 12m, rộng 7,5m, đã đổ bêtông kín bề mặt, bằng phẳng.

Posted ImageVị trí 2 hầm mộ.

Giữa khu trung tâm là hai hầm mộ xây bằng gạch và ximăng chắc chắn nằm cạnh nhau, chiều dài mỗi hầm mộ là 2,4m, rộng 1,8m, đào sâu xuống lòng núi tới 4,2m. Kích thước này hoàn toàn khớp với phần lớn những ngôi mộ cổ, lăng tẩm ở bên Trung Quốc. Nắp hai hầm mộ này là phiến bêtông nặng 2,2 tấn. Theo ông Đức, sau này, khi đã đưa xác vào mộ, sẽ tiếp tục cẩu một phiến đá hình vòm nặng 3 tấn đè lên lớp bêtông để cố định chặt hầm mộ. Phiến đá này phải có độ bền cao, được đẽo gọt, chạm trổ hoa văn đẹp mắt. Ông đã đặt hàng làm hai phiến đá cho đám thợ ở mãi Ngũ Hành Sơn, tận trong Quảng Nam. Khi nào họ làm xong thì ông sẽ thuê ôtô chở ra.

Hiện tại, ngôi mộ mới xây xong phần thô nhưng cũng đã ngốn của ông gần tỉ đồng. Tất nhiên, để hoàn thiện ngôi mộ như ý ông còn phải tốn kém nhiều tiền của và công sức trong nhiều năm nữa. Theo tính toán của ông Đức, để hoàn thành cả ngoại thất và nội thất như ý muốn sẽ phải đầu tư vào ngôi mộ từ 1,6 đến 1,8 tỉ đồng nữa.

Việc xây mộ tuy tốn kém song lại không phức tạp bằng công đoạn ướp xác. Để bảo quản được xác mình và xác vợ vĩnh viễn với thời gian, ông đã đọc những cuốn sách, tài liệu nghiên cứu về kỹ thuật ướp xác của người xưa để tìm cho mình một phương án phù hợp. Hiện tại, ông đang nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp ướp xác kết hợp cả Đông lẫn Tây. Theo ông để bảo quản xác được tốt, dưới đáy mỗi hầm mộ, ông sẽ đổ 2 tấn than củi. Đây là than của gỗ trai. Gỗ này rắn chẳng khác gì đá, dao bổ vào quằn lưỡi. Gỗ trai được cho vào hầm kín để đốt cháy từ từ. Than gỗ trai hút ẩm rất tốt và được người Trung Quốc thời xưa dùng phổ biến để ướp xác. Hiện tại, ông Đức đã đổ 4 tấn than gỗ trai xuống đáy hai hầm mộ.

Tiếp đó, để giữ được xác khô, bền, thì trong quan tài phải được lót một lớp gạo nếp rang. Phía trên quan tài được phủ một lớp than nữa, trên cùng là lớp vôi bột. Nước từ xác chảy ra sẽ bị than, gạo rang, vôi bột hút sạch. Tất nhiên, để xác không bị phân hủy sẽ phải dùng một số loại hương liệu, hóa chất diệt trùng đặc biệt khác nữa. Ông thầy địa lý người Trung Quốc cũng đã hứa với ông Đức là sẽ cung ứng cho ông một loại lá cây rừng được phơi khô, tán nhỏ thành bột mà người Trung Quốc xưa kia thường dùng để ướp xác. Loại lá cây này không những là một loại hương liệu cao cấp mà còn có tác dụng hút ẩm, diệt khuẩn, khử mùi hôi rất hiệu quả.

Việc tìm gỗ làm quan tài cũng đã được ông Đức tính đến. Loại gỗ này phải vừa bền, vừa thơm, lại có chức năng diệt khuẩn. Để ngôi mộ của vợ chồng vững bền với thời gian, không những phải tuân theo thuật phong thủy mà còn phải dặn dò con cái không được chôn theo bất cứ một thứ tài sản gì có giá trị như vàng bạc, trang sức... Bởi vì, nếu chôn theo những thứ quý giá, bọn trộm sẽ không ngại ngần mà tìm cách phá mộ.

Tôi hỏi ông Nguyễn Công Đức: “Việc xây mộ và ướp xác của ông có phải là cách chơi ngông?”. Ông bảo, kỹ thuật ướp xác là một kỳ công của con người và đó cũng là một phần của văn minh nhân loại. Ông muốn nghiên cứu và thực hiện chỉ đơn giản thế thôi. Con người ông Đức thật lạ, thật đặc biệt. Không biết rồi xác ướp của vợ chồng ông Nguyễn Công Đức có nằm trong hầm mộ hay lại nằm một nơi nào đó trong hệ thống hang động phức tạp trong lòng những dãy đồi núi đá hùng vĩ này?

Trở lại Hà Nội, tôi cứ băn khoăn về chuyện ông Đức xây mộ, ướp xác ông và vợ. Việc xây mộ, ướp xác ở ta không cấm, nhưng xây mộ, ướp xác thế nào để người đời không hiểu lầm về mục đích, động cơ của người bỏ tiền ra xây, là điều cần cân nhắc cặn kẽ để bảo đảm tiết kiệm, tránh lãng phí và theo những phong tục tập quán của dân tộc

Một đại gia bỏ 15 tỷ đồng xây hầm mộ

Chuẩn bị nơi yên nghỉ sau khi về cõi vĩnh hằng, ông Vũ Kha ở Hải Phòng đầu tư hơn 15 tỷ đồng để xây hầm mộ dưới hồ. Dù đang lâm vào thế phá sản, song ước vọng biến khu mộ của ông thành công trình của trăm, nghìn năm sau, để con cháu được chiêm ngưỡng vẫn nung nấu.

Mộ phần của vợ chồng ông Vũ Kha nằm dưới hồ nước này. Ảnh: Công An Nhân Dân.

Ngay khi thu gom xong mảnh đất rộng 3.000 m2 giữa trung tâm một quận ngoại thành với giá 9 tỷ đồng, ông Vũ Kha khăn gói quả mướp vào tận khu vực Núi Nhồi ở Thanh Hóa để tự tay chọn những khối đá đẹp nhất, đắt nhất. Đá xanh, đá đen đủ tiêu chuẩn phải là nguyên khối, nguyên tảng, không có đường vân dù chỉ nhỏ bằng sợi tóc, không có màu sắc pha tạp. Những khối đá này phải được khai thác thủ công, tức là dùng sức người đục đẽo tách ra khỏi núi, sau đó vận chuyển nhẹ nhàng xuống chân núi.

Ông Kha không dùng đá khai thác bằng nổ mìn, bởi theo ông, những loại đá này sẽ om, sức bền không tốt. Chính việc chọn lựa, khai thác, tìm kiếm những loại đá đặc biệt này rất khó khăn nên giá cả của chúng rất đắt. Mỗi mét khối đá ông Kha mua ở khu vực núi Nhồi, tùy loại trắng, xanh, đen mà có giá từ 10 đến 30 triệu đồng. Đặc biệt, khối đá đen nặng 10 tấn làm tháp mộ, đối với ông Kha giờ đây là vô giá. Dù ai trả tiền tỷ cho khối đá này ông cũng lắc đầu.

Trên cùng tháp đá đặt tượng bán thân ông Kha. Bức tượng này được đẽo chạm từ một khối đá đen tuyệt đẹp. Ông Kha kể rằng, để tượng đá của mình linh thiêng, ngày nào ông cũng yểm tâm vào đó. Mặt trước tháp đá là những dòng chữ khắc nội dung kể về tài năng cũng như những đóng góp của ông cho xã hội.

Cách đây 5 năm, để mua được khối đá đen cực lớn, không có đường vân, không nứt nẻ, không pha tạp màu khác để làm tháp mộ này, ông phải bỏ ra 10 cây vàng, cộng với 15 cây vàng thuê mấy chục người cả tháng trời đục đẽo, trục khối đá ra khỏi núi rồi dùng xe tải hạng nặng chở từ Thanh Hóa ra Hải Phòng.

Mộ phần của vợ chồng ông Vũ Kha nằm dưới hồ nước này. Ảnh: Công An Nhân Dân.

Khối đá làm tháp mộ mà ông Kha đang sở hữu giá trị như vậy là vì loại đá đen chất lượng cao nhất chỉ có ở khu vực núi Nhồi, Thanh Hóa. Tuy nhiên, từ mấy năm nay chính quyền tỉnh Thanh Hóa đã cấm khai thác, nên các đại gia khác có tiền cũng không mua được.

Sau khi vận chuyển được mấy trăm khối đá xanh, đá đen, đá trắng về Hải Phòng, ông Kha lên Hà Nội tuyển mộ những họa sĩ tài ba, những chuyên gia chạm khắc, tốt nghiệp ĐH Mỹ thuật, trong đó có 3 anh em họa sĩ Trần Minh Tuấn về nhà ông ăn ở, ngày đêm kẻ vẽ, chạm khắc, mài giũa tỷ mẩn từng viên đá theo ý tưởng của ông.

Suốt 5 năm trời cần mẫn làm việc, khu trung tâm mộ mới hoàn thành. Đứng trong khuôn viên, nhìn lăng mộ không thấy sự hoành tráng, song ẩn sâu trong lòng đất là cả một sự kỳ công đầy nghệ thuật.

Khu trung tâm phần mộ rộng chừng 200 m2, lẩn khuất sau những hàng cau vua rợp bóng. Cổng vào giản dị là hai cột đá đen. Mái cổng cũng là một tấm đá đen bóng. Toàn bộ phần diện tích khuôn viên trung tâm phần mộ đều được xếp bằng những khối đá trắng lớn, được mài giũa rất khít. Hầm mộ nằm sâu trong lòng đất 4 m, được bao bọc bởi những khối đá khổng lồ, mỗi khối nặng 2,6 tấn. Hầm mộ gồm hai ngăn, nơi sau này sẽ đặt hài cốt của vợ chồng ông Kha.

Sau nhiều năm nghiên cứu các kỹ thuật ướp xác, bảo quản xương cốt, ông Kha nhận thấy rằng, nếu đem đốt xương cháy xém phần ngoài sẽ sinh cácbon. Mà cácbon là chất vĩnh cửu, do vậy sẽ có tác dụng bảo vệ xương rất tốt (chẳng hạn, những khúc củi cháy dở nằm trong lòng đất hàng vạn năm không phân hủy). Ông Kha là nhà khoa học nên hiểu biết rất kỹ về lĩnh vực này.

Khi nào vợ chồng ông tạ thế, đám con cháu sẽ đốt xác bố mẹ theo hướng dẫn của ông, sau đó sẽ đặt xương cốt xuống hầm mộ. Muốn đặt xương cốt xuống, phải rút hết nước trong hồ. Dưới đáy hồ lộ ra những phiến đá lớn. Nhấc những phiến đá này lên sẽ lộ ra nắp hầm mộ. Những phiến đá và nắp hầm mộ bằng đá xanh nguyên khối này được các chuyên gia mài giũa chi tiết đến nỗi khi đặt khít vào nhau, không cần chất kết dính gì, vậy mà bơm nước ngập vào mấy năm nay vẫn không thấm một giọt nước nào.

Vị đại gia này muốn xương cốt của mình nằm vĩnh hằng dưới một lớp nước để tạo sự kín đáo, yên tĩnh và cũng để con cháu đời sau được tự hào về khả năng của cha ông mình. Ông Kha khẳng định, ngôi mộ này là sáng tạo của ông, không “đụng hàng” bất cứ ngôi mộ nào trên thế giới.

Ngoài trung tâm mộ phần thì những thiết kế bằng đá trong quần thể lăng mộ cũng là những kiệt tác. Đáng kể nhất phải kể đến công trình mà ông gọi là “vườn treo Babylon”. “Vườn treo” gồm 3 bậc sàn bằng đá, 24 cột đá và một mái đá rất lớn. Tất cả được chạm khắc tinh tế, chi tiết, đầy tính nghệ thuật và mang tính cách điệu cao. “Vườn treo Babylon” là nơi nghỉ ngơi, thưởng trà, bàn luận sau khi du khách tham quan “Cụm văn hóa đồ đá” đặc biệt này. Ông Kha còn lấp lửng kể rằng dưới lòng đất có một hệ thống đường hầm dẫn đến hầm mộ. Tuy nhiên, đây là bí mật mà ông chưa muốn tiết lộ.

Theo ông Kha, toàn bộ đầu tư cho khu vực lăng mộ mà ông gọi là “Cụm văn hóa đồ đá” này, tính cả tiền mua đất, đã lên đến gần 1 triệu USD. Còn vô vàn những ý tưởng, những công trình ông ấp ủ, như xây dựng đôi rồng đá, mỗi con nặng chừng 10 tấn, đầu chầu cổng mộ phần, đuôi vẫy sau tháp mộ.

Ông Kha còn muốn xây dựng một tháp đá giống như tháp bút trước đền Ngọc Sơn (Hà Nội), một cổng đá như cổng di tích Ngọ Môn ở Huế. Tại ngôi tháp đá khổng lồ sẽ có một đầu rồng bằng đá được lắp môtơ để liên tục quay bên nọ, ngó bên kia, đuôi cũng phải vẫy vẫy và mắt rồng luôn chớp chớp trong bóng đêm.

Ông Kha là một nhà khoa học, từng sáng tạo nhiều công trình khoa học có giá trị trong lĩnh vực kỹ thuật nên việc đó đối với ông không có gì khó. Theo ông, để biến ngôi mộ thành “Cụm văn hóa đồ đá” hoàn chỉnh như ý muốn của ông, ước chừng ngốn thêm khoảng 5 tỷ đồng nữa.

Tuy nhiên, công việc đang triển khai thì công ty của ông lâm vào cảnh phá sản. Vì mặt hàng ông sản xuất không đấu lại được với hàng hóa Trung Quốc tràn vào Việt Nam. Hơn nữa toàn bộ trụ sở doanh nghiệp rộng mấy nghìn mét vuông giữa trung tâm thành phố bị thu hồi do nằm vào khu vực quy hoạch.

Mặc dù đang lâm vào cảnh khó khăn về kinh tế, song ước vọng biến khu mộ của ông thành công trình của trăm, nghìn năm sau, để con cháu được chiêm ngưỡng vẫn nung nấu và ông quyết tâm hoàn thành trước khi rời xa thế giới này. Ông cho biết, một người con là doanh nhân ở nước ngoài sẽ quyết tâm hỗ trợ tiền bạc để ông hoàn thành tâm nguyện cả đời của mình, đó là xây dựng lăng mộ với cái tên gọi “Cụm văn hóa đồ đá” độc đáo nhất Việt Nam.

Những ngôi mộ bạc tỷ

Mảnh đất rộng gần 50.000m2, có giá nhiều tỉ đồng, nằm giữa trung tâm làng Phương La (xã Thái Phương, Hưng Hà, Thái Bình), được đại gia Trần Văn Sen mua... để xây lăng mộ. Theo thiết kế, lăng mộ này cao 23,39m, gồm 3 tầng chính và một tầng áp mái, ngoài ra còn có tầng hầm sâu 4,2m.

Posted Image

Lăng mộ đang xây dở của họ Trần ở làng Phương La.

Làng Phương La, hay còn có tên làng Mẹo (xã Thái Phương, Hưng Hà, Thái Bình), nổi tiếng cả nước với nghề dệt đũi lâu đời. Dọc làng là những biệt thự xây đủ kiểu cách, màu sắc. Những nhà xưởng ngày đêm ầm ầm tiếng máy dệt, công nhân tấp nập đi về.

Ngôi mộ cụ Tổ họ Trần

Mảnh đất đẹp nhất, rộng gần bằng 7 lần mặt cỏ sân vận động tiêu chuẩn quốc tế, nằm giữa trung tâm làng, ngay cạnh chợ có giá nhiều tỉ đồng được đại gia Trần Văn Sen mua lại từ nhiều gia đình trong làng. Người dân thấy sự lạ thì đặt câu hỏi: Sao ông Sen không xây dựng công ty trong khu công nghiệp của làng, lại đi mua tới 50.000m2 đất giữa làng, tốn kém bao nhiêu tỉ bạc?

Nhưng rồi, tại khu đất rộng 50.000m2 đã mọc lên một công trình lăng mộ khổng lồ. Mặc dù công trình mới chỉ xây thô được một tầng, song những người được chứng kiến đều khẳng định: công trình lăng mộ này sẽ lớn nhất Việt Nam!

Tôi về làng Phương La vào lúc trưa nắng chang chang, thế nhưng, mấy chục thợ xây vẫn miệt mài làm việc để đạt tiến độ công trình mà dòng họ này giao. Trên các bức tường treo rất nhiều tấm biển lớn với những dòng chữ: “Xây dựng di tích phải tuyệt đối an toàn”; “Những cán bộ công nhân viên, ai có thành tích được khen thưởng, ai có lỗi phải xử lý nghiêm minh”; “Cán bộ công nhân viên xây dựng phải chấp hành nghiêm các quy trình quy phạm và an toàn lao động”... Rồi thì khẩu hiệu thường thấy ở những công trường xây dựng lớn: “An toàn là bạn, tai nạn là thù” treo khắp nơi.

Tôi không biết phải gọi công trình này là đền hay lăng mộ, bởi mỗi người dân nơi đây gọi một kiểu, nói một cách. Ngày xưa, tại địa điểm này có một ngôi đền nhỏ có tên Đền Nhà Ông thờ tổ họ Trần, giờ người trong dòng họ này phá đi xây lại nên vẫn tôn trọng gọi là Đền Nhà Ông.

Còn theo lý giải của người dân, trong công trình này sẽ chứa hài cốt của các bậc tổ tiên và những người trong dòng họ, mỗi ông tổ, người chết đều có một khu thờ tự riêng nên nó có hơi hướng giống một khu lăng mộ. Tóm lại, công trình này là sự kết hợp của cả hai thể loại đền và mộ nên gọi thế nào cũng được. Tác giả xin tạm gọi là lăng mộ.

Mặc dù lăng mộ mới xây thô được một tầng, song đã rất hoành tráng. Phần móng của lăng mộ ăn sâu xuống lòng đất 4,2m, được đổ bêtông kín đặc tạo thành tầng hầm rất rộng. Phần móng nổi lên mặt đất của lăng mộ cao 2,5m. Tiếp theo phần móng là đến thân lăng mộ thu hẹp lại một chút. Đứng từ dưới nhìn lên, thấy mái lăng mộ gồm ba lớp bêtông xếp chồng lên nhau, đua ra ngoài phủ thân lăng mộ. Lớp bêtông trên cùng dày 1m, hai lớp dưới mỗi lớp dày chừng 0,5m.

Đứng bên ngoài trông tưởng rằng mái của công trình lăng mộ này là để chống lại bom tấn, kỳ thực, mái bêtông đó được đổ rỗng ruột để giảm trọng lượng. Phía trước lăng mộ có hai lối lên, mỗi lối gồm 12 bậc thềm dẫn lên hiên mộ. Riêng phần hiên này có thể dùng làm sân khấu hoành tráng. Đường vào lăng mộ gồm 3 cửa chính rất lớn, theo cánh thợ xây, sẽ có những tấm cửa nặng nhiều tấn để bảo vệ công trình.

Toàn bộ công trình lăng mộ này là một khối bêtông sắt thép đồ sộ. Những phần xây gạch chỉ có tác dụng kết nối các mảng bêtông cốt thép dày cả mét.

Anh Trần Văn Thanh, người giám sát xây dựng dẫn tôi đi tham quan phía trong lăng mộ. Không gian tầng trệt lăng mộ rộng mênh mông. Để đỡ khối bêtông có lẽ đến gần ngàn tấn, tôi đếm có đến 6 dãy cột trụ bêtông, mỗi dãy gồm 7 cột. Tổng cộng có 42 cột to lừng lững. Trong phòng lại có 3 cầu thang dẫn lên tầng trên. Tại tầng trệt có hầm mộ lưu trữ hài cốt của cụ tổ dòng họ. Ngay trên hầm mộ đó sẽ là bàn thờ chính, còn hai bên hông của căn phòng được xây thành những ô nhỏ, mỗi ô rộng khoảng 6m2, xây chồng lên nhau từ đáy phòng lên tận áp mái. Mấy chục ô này sẽ là những bàn thờ, thờ những người đã khuất.

Tầng hầm lăng mộ như một lô cốt khổng lồ ẩn sâu trong lòng đất với 25 căn phòng, gồm 20 phòng thông nhau, 4 phòng xây kín và một phòng hội trường rộng mênh mông. Những kỹ sư, thợ xây và cả chị Trần Thị Lý, là người trong họ được phân công trông coi lăng mộ cũng không biết 20 phòng thông nhau để làm gì, chỉ biết 4 phòng kín là kho chứa vật dụng, tài sản, còn phòng lớn nhất để hội họp. Tổng diện tích sàn một của lăng mộ rộng tới 740m2. Theo câu chuyện vui của đám thợ xây, nếu có chiến tranh, bom rải thảm ở làng Phương La thì các cụ họ Trần vẫn đàng hoàng ngồi họp hành bàn việc họ!

Anh Thanh, người giám sát lăng mộ lôi hai tập hồ sơ thiết kế dày cả trăm trang khổ giấy Ao cho tôi xem. Theo anh, đây chỉ là hồ sơ tổng thể, còn hồ sơ chi tiết phải dày hơn ngàn trang.

Nói về việc ông chủ đầu tư của dòng họ này cất công đi tìm thiết kế cho công trình lăng mộ tâm huyết của mình cũng thật lắm gian nan. Đại gia Trần Văn Sen trong một chuyến đi tham quan các công trình kiến trúc lịch sử của Trung Quốc chợt nhận ra rằng, dòng họ Trần ở Trung Quốc làm đền thờ, lăng mộ to quá, vĩ đại quá, ông thấy tủi cho họ Trần của mình ở quê nhà chỉ có cái Đền Nhà Ông thờ tổ Trần Hoàng Nghị bé tẹo.

Đại gia này về nhà bàn bạc với dòng họ và cả họ đều sôi nổi khẳng định: “Có cụ tổ Nghị thì mới có cụ Trần Thủ Độ, mà cụ Độ là người sáng lập triều Trần, cụ có vai trò rất quan trọng trong việc lãnh đạo dân tộc đánh tan quân Nguyên - Mông lần thứ nhất. Công của cụ Nghị, cụ Độ với đất nước này to lắm, nên phải làm cho ra trò để con cháu trông vào tấm gương lớn mà noi theo”.

Cũng xin nói thêm rằng, lăng mộ đang xây dựng này là của con cháu họ Trần mà cụ tổ là Trần Hoàng Nghị. Theo sử cũ ghi lại, cụ Nghị có công lập ra làng Phương La, đem nghề dệt đũi về làng và sinh ra 3 người con là Trần An Bang, Trần An Quốc và Trần An Hạ. Cụ Bang chính là Thái sư Trần Thủ Độ, người có câu nói nổi tiếng: “Đầu thần chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo”, khi vua tôi nhà Trần lo lắng về sự xâm lược của quân Nguyên.

Việc con cháu họ Trần ở làng Phương La có đích xác là con cháu của cụ tổ Trần Hoàng Nghị, người sinh ra Thái sư Trần Thủ Độ hay không tác giả không dám khẳng định. Nhưng việc họ Trần đang xây lăng mộ để chứa hài cốt và thờ phụng cụ Nghị cùng tổ tiên họ Trần là rõ ràng.

Để dòng họ được rạng rỡ, con cháu đời sau không quên công lao của các cụ tổ, đại gia Trần Văn Sen đã bỏ công tham khảo rất nhiều công trình lăng mộ trên thế giới. Ông thuê chuyên gia nước ngoài thiết kế công trình lăng mộ của dòng họ cao tới 51m, gồm 6 tầng chính và một tầng hầm, một tầng áp mái, theo những hình thức, kiến trúc Trung Quốc và có cải tiến cho hợp với văn hóa Việt Nam. Tham vọng của ông và dòng họ là xây lăng mộ thật to, thật cao, để người đứng bên kia sông Hồng, thuộc đất Hà Nam và các xã xung quanh cũng phải nhìn thấy rõ mồn một

Bản thiết kế lăng mộ do các chuyên gia Pháp thiết kế

Công trình lăng mộ là những khối bêtông đồ sộ, rất nặng, hơn nữa nền đất ở khu vực này yếu nên mới chỉ xây được một tầng thì đã có biểu hiện lún. Ông Sen mời các chuyên gia của Pháp về tận nơi thực địa, nghiên cứu và khuyên chỉ nên làm 3 tầng cho hài hòa với cảnh vật xung quanh. Vả lại, việc xây dựng lăng mộ quá cao trên nền đất yếu sẽ không được bền vững lại rất nguy hiểm. Vậy là, việc thiết kế lại được giao cho các chuyên gia Pháp của Công ty Thiết kế kiến trúc và Thương mại Việt Pháp T - GROUP, trụ sở 34, Láng Hạ, Hà Nội.

Theo hồ sơ thiết kế của công ty này thì lăng mộ sẽ cao 23,39m, gồm 3 tầng chính và một tầng áp mái, trong đó tầng trệt cao 10,69m, tầng hai 5,5m, tầng ba cao 4,5m và tầng áp mái cao 2,7m, ngoài ra còn có tầng hầm sâu 4,2m. Qua hồ sơ thiết kế có thể hình dung được bề ngoài của lăng mộ.

Mái tầng một của lăng mộ sẽ có đôi rồng khổng lồ chầu vào chiếc “bánh xe lịch sử” ở trung tâm mặt trước lăng mộ. Những tầng trên, các mái dốc đều có rồng chầu mặt nguyệt. Hình thù rồng, mặt nguyệt cùng các hình vẽ, hình khắc đều được sự tư vấn của các nhà sử học để cho phù hợp với văn hóa đời Lý và đời Trần (vì cụ Nghị lập làng thời Lý, còn cụ Độ làm rạng danh dòng họ thời Trần). Bề mặt lăng mộ sẽ được ốp đá cẩm thạch tạo sự cổ kính, linh thiêng.

Hiện tại, không ai biết để hoàn thiện lăng mộ này sẽ tốn kém bao nhiêu tiền của. Ngay cả cụ Trần Văn Thoan, chú ruột của đại gia Trần Văn Sen, là người có vai vế nhất trong dòng họ, được phân công chỉ đạo công trình cũng không nắm được chi phí cho việc xây dựng lăng mộ này là bao nhiêu. Tất cả ximăng, sắt thép đều do đại gia Sen chỉ đạo mua ở tận đẩu tận đâu, rồi từng đoàn xe tải rầm rập chở về. Các kỹ sư, thợ xây cứ việc trộn vật liệu, ghép sắt thép vào mà đổ bêtông, mà xây như thiết kế, xây thật chắc chắn.

Công việc xây dựng cũng vô cùng kỳ công. Từ tháng 6/2002 công trình khởi công, vậy mà đến nay, đã 4 năm trôi qua, 40 công nhân, kỹ sư ăn ngủ trong 6 gian nhà tạm dựng lên gần đó, làm việc chăm chỉ mà mới chỉ xong được một tầng hầm và một tầng trệt xây thô. Không biết bao giờ mới xong 2 tầng còn lại, rồi hoàn thiện nội thất, ngoại thất, rồi còn quần thể các công trình xung quanh lăng mộ trên diện tích 50.000m2. Để hoàn thiện công trình đặc biệt này, chắc cũng phải tính thời gian bằng thập niên.

Tuy nhiên, theo anh Thanh, riêng tiền công trả cho thợ xây (mà xây mới xong phần thô của tầng hầm và tầng trệt) đã là 1 tỉ đồng. Cứ theo cách tính toán thông thường của những thợ xây nghiệp dư qua 1 tỉ đồng tiền công, thì tổng đầu tư bước đầu cho công trình lăng mộ này đã phải là nhiều tỉ đồng.

Theo chị Trần Thị Lý, ngoài lăng mộ chính thì trên diện tích 10.000m2 của tổng khu đất 50.000m2 sẽ xây dựng vô vàn công trình kiến trúc khác nữa, có thể là quần thể đền mộ nhỏ hơn của từng gia đình, công viên, các khu sinh hoạt văn hóa, các công trình kiến trúc mô tả đời sống thời Lý - Trần...

Cụ Trần Văn Thoan thì cho biết, việc mở rộng xây dựng quần thể lăng mộ ra diện tích 50.000m2 cũng đã bàn tới. Có thể sẽ đào một cái hồ lớn để tạo phong thủy cho quần thể lăng mộ. Những thông tin chính về quy hoạch cũng như đầu tư tài chính cho quần thể lăng mộ họ Trần thì đại gia Trần Văn Sen giấu kín, không ai được biết, kể cả người trong dòng họ.

Ngoài công trình đại lăng mộ này ra thì làng Phương La cũng đã có một số công trình cho người âm trị giá bạc tỉ. Khỏi phải nói đâu xa, cách lăng mộ họ Trần độ 100m, cũng giữa ngôi làng của những tỉ phú mà đất đắt như vàng, công trình lăng mộ hoành tráng của họ Lê cũng đang mọc lên. Cấu trúc của lăng mộ này cũng nhiều phần giống lăng mộ họ Trần, cũng có tầng hầm kín đáo, vững chãi sâu dưới lòng đất. Theo người dân, khi hoàn thiện nó cũng tốn cỡ 2,5 tỉ đồng. Việc đầu tư tài chính vào công trình lăng mộ đều từ các đại gia, cán bộ, quan chức đang công tác ở nơi khác, do vậy họ không muốn tiết lộ nên cũng chẳng ai biết, thậm chí, ông Trần Duy Đông, Chủ tịch xã Thái Phương cũng không nắm được bất cứ thông tin gì (ngoài việc nhìn thấy bằng mắt) về việc xây lăng mộ của họ, họ có tiền thì họ cứ làm, ông không bình luận.

Tôi đã chịu khó tìm hiểu về chuyện xây dựng lăng mộ của các tỉ phú, các đại gia và cho đến nay vẫn chưa được chứng kiến một công trình lăng mộ nào mà quy mô và mức độ tốn kém có thể so sánh với công trình lăng mộ của họ Trần ở làng Phương La. Ở Bình Dương, có ông Huỳnh Phi Dũng đang xây dựng một khu nhà thờ đặt tên là Đại Nam Quốc Tự quy mô còn lớn hơn nhiều. Nhưng đó không phải là lăng mộ.

Hai ngôi mộ dòng họ Vũ

Ngôi mộ tổ dòng họ Vũ ở Chí Linh, Hải Dương được xây toàn đá xanh, đá trắng nguyên khối. Các đại gia họ Vũ đặt mua những loại đá này tận trong Thanh Hóa, rồi thuê 37 thợ chạm Ninh Bình ngày đêm đục đẽo để biến những khối đá thành các hình khắc, hoặc vuông vức, xếp khít với nhau.

Posted Image

Toàn cảnh khuôn viên mộ cụ bà Nguyễn Thị Đức,

mộ tổ của dòng họ Vũ ở Chí Linh, Hải Dương

Một dòng họ cũng rất nổi tiếng trong việc xây mộ, đó là họ Vũ, mà thủy tổ ở đất Hải Dương. Người trong họ này xây dựng mộ không khoa trương, không tầng nọ, tầng kia, không lòe loẹt xanh đỏ, song nói về mức độ tốn kém thì cũng thuộc "tốp" những ngôi mộ tiền tỉ.

Nhắc đến cái tên Trần Văn Khá thì người dân khắp huyện Chí Linh, Hải Dương đều biết. Anh Khá nổi tiếng không phải giàu có, tài năng đặc biệt gì, mà vì đã phát hiện ra ngôi mộ tổ họ Vũ, rồi bị “ma” hành làm cho khốn khổ một thời gian dài. Giờ đây, anh lại càng nổi tiếng hơn vì là người trông coi ngôi mộ đắt tiền nhất tỉnh Hải Dương.

Người dân xung quanh thường tò mò tìm đến xem ngôi mộ, họ phải nhờ anh mở cổng, hỏi anh những câu chuyện xung quanh ngôi mộ này nên ai cũng biết đến anh.

Ngôi làng Kiệt Thượng (Văn An, huyện Chí Linh, Hải Dương) nằm ngay chân đê, với những ngôi nhà mái ngói lúp xúp, mái bằng thấp lè tè lẫn trong những rặng tre. Ngôi mộ tổ họ Vũ nằm ngay đầu làng, cạnh cánh đồng, không cao to lừng lững, nhưng sáng choang màu đá, rất sang trọng.

Anh Trần Văn Khá dáng người gầy còm, hay chuyện. Nhưng khi hỏi về chuyện đào thấy ngôi mộ tổ họ Vũ ra sao thì cứ chối đây đẩy, không muốn nhắc đến nữa. Theo anh, ngôi mộ là sự ám ảnh suốt đời anh và gia đình anh cũng như cả làng Kiệt Thượng. Nó làm anh nổi tiếng, song cũng làm anh khốn đốn suốt mấy năm trời.

Cha mẹ mất đi, chỉ để lại cho anh Trần Văn Khá túp lều tranh xơ xác bên cánh đồng. Lấy vợ, anh Khá tự đóng gạch, ước nguyện xây cho mình một ngôi nhà bằng bạn bằng bè. Tuy nhiên, 7 năm trời hì hục nhào đất đóng gạch, 7 lần dựng lò đốt gạch trên mảnh vườn nhà mình thì 7 lần giông bão, sấm chớp nổi lên đùng đùng, mưa như trút nước, làm sập lò, nát hết gạch.

Năm 1993, chán đốt gạch, anh Khá quyết tâm đào mảnh vườn đó làm ao thả cá. Bữa ấy, có 5 người nữa là anh em trong nhà tập trung đào hộ. Đang đào đất thì chạm phải vật cứng, màu trắng như phiến đá lớn. Thế nhưng, bổ ra thì thấy không phải đá mà là một loại hợp chất vôi và mật.

Nghĩ vớ được mộ cổ của người Trung Quốc, bên trong sẽ có nhiều vàng bạc nên mấy người bàn tính lấp lại, để đêm ra bới sau, chứ bới ngay lên, thấy nhiều vàng quá dân xúm lại đòi chia thì chẳng ăn thua gì.

12h đêm hôm đó, 6 người hì hục đào bới, phá lớp hợp chất vôi và mật, bẩy tung nắp hầm mộ. Tuy nhiên, một sự kiện lạ diễn ra, 6 người hì hục dùng xà beng bẩy, dùng dây thừng và đòn ráng sức khiêng, song chiếc quách vẫn không nhúc nhích, nặng như khối bêtông, chân tay ai cũng có cảm giác bủn rủn.

Sợ quá, anh Khá liền thắp hương khấn: “Cụ cho con đưa cụ về mả của làng để cụ được siêu thoát”. Không ngờ, khấn xong, mọi người xúm vào khiêng thấy không nặng như trước nữa. Bật nắp áo quan, thấy nước trong vắt, thi thể cụ bà vẫn nguyên vẹn, mùi hương lan tỏa, nhưng mò mẫm mãi chỉ thấy mấy đồng trinh bằng đồng, chiếc bát con và vài món đồ tùy táng không mấy giá trị. Sáng ra, anh Khá báo cáo chính quyền.

Từ bấy, nhà anh Khá lúc nào cũng đông như hội, người dân khắp nơi kéo đến xem ngôi mộ hợp chất. Các nhà khoa học từ các cơ quan chuyên môn trên Hà Nội cũng về tìm hiểu cặn kẽ ngôi mộ 1.200 năm tuổi này.

Anh Khá khẳng định, anh là người bạo dạn nhất làng, từ bé đã không biết sợ tối, sợ ma. Anh kể: Hồi thanh niên, đêm nào anh cũng úp cá, soi ếch ngoài đồng, trong nghĩa địa làng. Có lần, nửa đêm ngồi trên nóc ngôi mộ mới chôn xem mặt mũi con ma thế nào, nhưng tuyệt nhiên không gặp. Anh không tin trên đời lại có ma.

Thế nhưng, sau ngày đào phải ngôi mộ hợp chất, suốt 3 tháng 10 ngày, đêm nào cũng vậy, cứ rùng mình một cái, tỉnh dậy, lại thấy hình người mặc áo trắng đứng ở đầu giường. Tay chân nhìn rõ mồn một, nhưng khuôn mặt không nhìn thấy đâu. Từ rất xa văng vẳng vọng đến câu nói: “Mày phá nhà tao, mày trả lại nhà tao...”.

Lần nào anh Khá cũng kêu vợ cứu, nhưng chị vợ sợ "vãi linh hồn", cứ trùm chăn kín mít. Cô con gái và người chị gái cũng mấy lần sợ chết khiếp khi mơ thấy hình người mặc áo trắng lướt đi ngoài sân.

Câu chuyện này là anh Khá kể, tôi thì chẳng tin chuyện có ma, vì tôi chưa gặp ma bao giờ, chỉ biết rằng, sau đó anh Khá trở nên lơ nga lơ ngơ, không biết gì suốt mấy tháng trời. Cả ngày anh chỉ ngồi như một khúc gỗ, hiền như củ khoai, đôi mắt vô hồn, không tự ăn uống, không tự vệ sinh được. Chị vợ phải chăm sóc cho anh như một đứa trẻ.

Có thời gian anh Khá tỉnh táo, sợ quá bỏ vào Bình Dương sinh sống. Tuy nhiên, đêm nào anh cũng dựng tóc gáy vì... thấy "ma" (?!). Không trốn được “ma”, anh lại trở về, rồi nghe thầy cúng, thầy bói hướng dẫn, anh vay nóng 5 triệu đồng với lãi suất 5%/tháng để xây lại mộ, xây miếu cho bà cụ. Thế nhưng, xây xong rồi mà đêm vẫn gặp “ma”, thầy bói lại bảo phải đập ra xây lại, anh Khá tiếp tục làm theo.

Anh Khá kể, suốt 2 năm trời sau đó, ngày đêm anh thắp hương, cúng khấn ngoài mộ nên mới được yên thân. Tất cả tài sản của bà cụ, từ những tấm quách (mà có người trả 5 triệu anh Khá chưa bán vì chê rẻ, sau khi gặp “ma” thì không dám bán nữa), đến những đồng trinh, mẩu gỗ nhỏ xíu bằng ngón tay của bà cụ anh cũng đem ra mộ chôn tất.

Năm 2003, hai đại gia là Vũ H. và Võ Văn H. tìm về nhà anh Khá và bảo người dưới mộ là bà Nguyễn Thị Đức, thân mẫu của cụ Vũ Hồn, tổ nhà các anh, hiện đang thờ ở làng Mộ Trạch (Tân Hồng, Bình Giang, Hải Dương). Hai đại gia cũng đề nghị anh Khá ra giá mảnh đất 306m2, nơi có ngôi mộ của cụ Đức.

Anh Khá bảo, lúc đó đòi cả trăm triệu hai đại gia này cũng mua, nhưng nghĩ đến ngôi mộ anh đã lạnh sống lưng nên chỉ ra giá 25 triệu đồng. Tất nhiên, hai đại gia này đồng ý ngay, không một lời bớt xén.

Sau ngày hôm đó, anh Khá trở thành người giám sát việc xây mộ giúp hai đại gia, nấu nướng, phục vụ 37 thợ xây, thợ chạm khắc đá từ mãi Ninh Bình ra ăn ở, làm việc suốt 1 năm trời. Thỉnh thoảng cũng có từng đoàn người với xe lớn, xe bé sang trọng kéo về chật làng, song anh cũng chỉ biết họ là con cháu họ Vũ.

Ngôi mộ được xây bởi những chất liệu vĩnh cửu, gồm toàn đá xanh, đá trắng nguyên khối. Để có được loại đá đặc biệt này, các đại gia phải đặt mua tận trong Thanh Hóa, rồi từng đoàn xe trọng tải lớn rầm rập chở về Chí Linh. 37 thợ chạm khắc lành nghề ở Ninh Bình dựng lều, ngày đêm đục đẽo chan chát để biến những khối đá thành các hình khắc, hoặc vuông vức, xếp khít với nhau.

Công trình này được xây dựng chắc chắn, cẩn thận đến nỗi tường bao xung quanh cũng được đổ toàn bằng bêtông cốt thép. Riêng 4 bức tường đã ngốn hơn 1.000 bao ximăng cùng với hàng chục tấn sắt phi 16. Tuy nhiên, chi phí xây cả 4 bức tường đó cũng chỉ bằng cái lư hương bằng đá, hoặc một cái cột đá nguyên khối chạm trổ tinh tế nặng vài tấn.

Toàn bộ khu sinh phần là một khối đá khổng lồ, chôn xuống lòng đất 1,7m, bề mặt rộng 30m2. Để chống lún, người ta đã đào sâu xuống lòng đất, đầm nện chắc chắn, sau đó đổ một lớp bêtông rộng vài chục mét vuông, rất dày làm móng, sau đó mới xây khuôn đặt hài cốt và xếp các khối đá, mỗi khối nặng 1,3 tấn khít vào nhau.

Các khối đá được mài giũa kỳ công đến nỗi khi xếp vào khít chặt với nhau. Những khối đá này được phết chất kết dính là liền luôn thành một khối đá lớn. Cả khu sinh phần đã biến thành một khối đá khổng lồ nặng cả trăm tấn.

Đứng bên ngoài trông vào, thấy ngôi mộ cụ bà Nguyễn Thị Đức có vẻ giản dị, song anh Khá bảo, chỉ nhẩm tính đơn giản cũng thấy ngôi mộ này phải tốn hàng tỉ đồng. Con số chi phí xây dựng ngôi mộ này là bao nhiêu, hai tỉ phú Vũ H. và Võ Văn H. không tiết lộ, song theo ông Vũ Hồng Khánh (Hải Phòng), một người họ Vũ đã theo sát việc xây ngôi mộ tổ này thì riêng hai đại gia trên đây đã quyên góp 1,5 tỉ đồng, chưa kể nhiều người khác nữa, vì thế ngôi mộ phải tốn chừng 2 tỉ đồng (?!).

Việc xây dựng ngôi mộ hiện vẫn chưa dừng ở đó. Theo anh Trần Văn Khá, mấy cụ già họ Vũ đã nhiều lần về gặp anh để bàn bạc, thỏa thuận việc mua lại toàn bộ diện tích đất ở và đất ruộng xung quanh ngôi mộ tổ này, kể cả ngôi nhà anh đang ở, với tổng diện tích 3.000m2.

Theo mấy cụ già họ Vũ bàn bạc thì họ đang tính toán sẽ xây dựng tiếp miếu thờ, nhà khách, phòng họp cùng hàng loạt công trình nữa phía ngoài khuôn viên ngôi mộ, trên diện tích đất mua lại của anh Khá để trông nom, bảo quản và hương khói cho cụ tổ.

Việc bàn bạc còn chưa được ngã ngũ vì anh Khá muốn có khoản tiền đủ mua đất rồi xây nhà ra mặt đường hoặc thị trấn để buôn bán, còn những người trong họ Vũ thì muốn đập ngôi nhà khang trang anh vừa xây cạnh mộ ra để xây lại cho hài hòa hơn với cảnh vật xung quanh, rồi muốn gia đình anh tiếp tục sinh sống ở đây để trông nom mộ, vì họ chỉ tin tưởng anh.

Anh Khá không thích thế vì anh đã quá mệt mỏi với cảnh nơm nớp lo sợ kẻ trộm lẻn vào mộ đào mất cục đá, hay bê mất cái đầu rồng, cái lư hương thì đến là mệt, bởi mỗi cục đá ở đây cũng có giá cả triệu đồng. Hơn nữa, bán hết ruộng đất mà vẫn sống ở đây thì không biết lấy gì mà ăn.

Mộ tổ họ Vũ quả thực độc đáo và tốn kém khủng khiếp, song vẫn chưa thấm vào đâu so với ngôi mộ của một chút chít của tổ Vũ Hồn, đó là ngôi mộ của đại gia Vũ Kha, một đại tỉ phú nổi danh một thời của Hải Phòng.

Tôi quen biết với đại gia Kha từ mấy năm nay, song cũng phải bỏ công thuyết phục mãi đại gia này mới cho tận mắt nhìn thấy khu mộ mà ông đã xây sẵn cho mình. Theo ông Kha, tôi là người bạn duy nhất mà ông cho xem mộ, còn ngoài những người trong gia đình, kể cả đồng nghiệp, những người sống gần đó, những cán bộ quản lý văn hóa cũng không biết công trình mộ kỳ công, tốn kém gần triệu USD của ông.

Vòng vèo qua những con ngõ lớn vùng ngoại ô thành phố Hải Phòng, chiếc cổng sắt cực lớn, có hai tay cầm là chiếc vòng sắt, xỏ vào hai lỗ mũi sư tử hiện ra trước mắt ở cuối ngõ. Hai bên ngõ là hai bức tường dài, cao, bao quanh những dãy nhà quay mặt về hướng khác, do vậy, khu vực này là đường cụt, hoàn toàn yên tĩnh, không có bóng người qua lại.

Chiếc Ford cáu cạnh vừa lọt vào cổng, người giúp việc chạy ra đóng ngay lại và khóa chặt. Tôi không có cảm giác ớn lạnh như khi đi vào những khu mộ, nghĩa địa khác, ngược lại có cảm giác như đi vào một khu vực thanh tịnh với những công trình văn hóa hết sức đặc sắc, thể hiện một tâm hồn tài hoa, rất đặc biệt của gia chủ. Ông Kha không muốn gọi nơi đây là ngôi mộ, lăng mộ hay quần thể mộ mà ông muốn gọi là “Cụm văn hóa đồ đá”.

Theo lời giải thích của ông, nếu gọi là ngôi mộ thì trong tương lai không xa có thể người ta sẽ đập phá không thương tiếc vì một ngôi mộ của một cá nhân mà tốn kém đất đai, tiền bạc như thế là không cần thiết, vả lại nếu gọi là mộ sẽ tạo không khí nặng nề, u ám cho người sống xung quanh và cho người đến tham quan sau này. Nếu gọi là “Cụm văn hóa đồ đá” sẽ tạo sự gần gũi và có giá trị quần chúng, giá trị xã hội hơn.

Ước vọng của đại gia này là 100 năm sau, công trình lăng mộ của ông sẽ biến thành một công trình văn hóa đặc sắc được con cháu trong dòng họ, nhân dân địa phương bảo vệ, các nhà khoa học, các nhà văn hóa thường xuyên lui tới để khám phá, nghiên cứu, học hỏi. Tôi bảo: “Liệu xây mộ tốn kém quá mức như vậy có cần thiết không? Có lãng phí quá không?”, thì đại gia này lý luận: “Nếu các vị vua của Ai Cập không xây mộ cho mình thì con cháu ngàn đời sau sao có công trình Kim Tự Tháp kỳ vĩ mà ngắm”.

Cách đây chục năm, người dân Hải Phòng không ai không biết đến đại gia Vũ Kha. Ông không những là một nhà khoa học với hàng trăm công trình có giá trị mà còn là giám đốc một doanh nghiệp hàng đầu của Hải Phòng thời bấy giờ. Trong căn phòng làm việc rộng mênh mông của ông ở trung tâm thành phố, tôi thấy treo khắp nơi toàn là bằng khen, mười mấy cái huy chương vàng cho các loại sản phẩm mà ông sáng tạo, sản xuất cung ứng cho thị trường. Công việc thuận lợi, tiền nhiều không kể xiết, mà lại đã tuổi ngoài 60, không biết tiêu tiền thế nào cho hết, nên ông nghĩ ra chuyện xây lăng mộ cho hai vợ chồng yên nghỉ sau này.

Ông Kha đã xem khắp khu vực thành phố Hải Phòng suốt mấy năm trời mới chọn được mảnh đất này, vì theo ông, ngoài việc có phong thủy tốt, nó còn rất yên tĩnh. Năm 2003, ông gặp tất cả những hộ dân xung quanh mảnh đất thỏa thuận, ngã giá mua lại để mảnh đất được rộng rãi, vuông vức. Ông Kha cho các hộ dân ra giá và dù họ có đòi đắt cỡ nào, ông cũng vui vẻ mua. Mảnh đất rộng 3.000m2 nằm giữa một quận ngoại thành được tỉ phú Vũ Kha mua với giá 9 tỉ đồng.^:lol:^

Nguồn: bao cong an nhan dan

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay