Posted 30 Tháng 4, 2008 Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch Phần I Thứ ba, 6/11/2007, 07:00 GMT+7 Khi tiến hành bài nghiên cứu này, Kate Jellema đang học tiến sĩ tại khoa nhân loại học và lịch sử trường Đại học Michigan. Bài nghiên cứu đầy đủ và cũng là luận văn của bà là “sự tưởng nhớ, lịch sử và đạo đức trong thời Đổi mới ở Việt Nam”. Để hoàn thành nó, bà phải mất hơn hai năm tiến hành nghiên cứu ở miền Bắc Việt Nam, bao gồm sáu tháng sống với một gia đình thuộc làng Đình Bảng, tỉnh Bắc Ninh. Hiện tại, Kate đang sống ở Bắc Vermont, Hoa Kỳ, nơi bà đang là giảng viên khoa Nhân loại học và Nghiên cứu về các nước Asean - trường Đại Học Marlboro. Những đóa hoa là thứ không thể thiếu trong mâm lễ thờ cúng... Dâng hương cũng là hành động cơ bản nhất, thường được xem là một trong những việc làm ý nghĩa đối với việc thờ cúng của người Việt Nam. Cụm từ “với tấm lòng thành kính, tôi xin dâng nén hương này …” từ lâu đã trở thành một nhân tố tự nhiên trong đời sống tôn giáo Việt Nam, tác giả của “Dâng hương”, vốn là tín đồ Phật giáo, viết: “Mặc dù đơn giản nhưng cụm từ ngắn này chứa đựng tất cả những ý nghĩa văn hóa và đạo đức giúp chúng ta trở thành một con người có đạo đức ở Việt Nam”. Mỗi ngày, khói hương được dâng cho Đức Phật, Thánh Mẫu, Bà Chúa Kho và Vua Hùng thơm ngát thoảng đưa trong những ngôi chùa cho thấy sự phục hưng tôn giáo của thời kỳ “đổi mới” ở Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ, không những trên những bàn thờ của các gia đình mà còn ở các nhà thờ họ. Khoa học và chính quyền cũng đã nỗ lực rất nhiều để phân loại “việc thờ cúng tổ tiên” ở Việt Nam. Đó là một tôn giáo, một tín ngưỡng, sự mê tín hay là một đạo lý? Trong bài này, tôi đi sâu khám phá việc thờ cúng tổ tiên của những người dân sống ở vùng châu thổ sông Hồng. Đây cũng là một bài nghiên cứu có ý nghĩa về đạo đức, xã hội và tôn giáo. Tôi đã tiếp xúc và mô tả chi tiết hai trường hợp được xem là điển hình của việc “thờ cúng tổ tiên”, hay “nhớ ơn ông bà”. Tôi quen với hai trường hợp này trong suốt thời gian làm luận án tiến sĩ ở khu làng giàu truyền thống có tên làng Đình Bảng (thuộc Bắc Ninh). Tại đây, tôi sống với một gia đình dòng họ Nguyễn Thạc suốt sáu tháng trong năm 2001. Và khi sống tại ngôi làng này, tôi có dịp chứng kiến những hành động thể hiện việc “thờ cúng tổ tiên” - một phần trong đời sống hàng ngày của người địa phương. Những người làng Đình Bảng xem việc thờ cúng tổ tiên là một “truyền thống” và nhấn mạnh mối liên hệ với “ngày xưa”. Họ công nhận truyền thống không bao giờ giữ nguyên hoàn toàn mà luôn có sự đổi mới, thậm chí được tái tạo bởi các thế hệ kế tục nó. “Những người lớn tuổi ủng hộ thế hệ trẻ phát huy truyền thống ông cha để lưu giữ truyền thống ấy đến muôn đời. Trong phần thứ hai của bản nghiên cứu này, sau khi tôi mô tả về việc thờ cúng tổ tiên ở làng Đình Bảng ngày nay thì tôi sẽ quay lại, đặt nó vào hoàn cảnh lịch sử, phân tích chiến tranh, cách mạng và công cuộc cải cách đã tạo nên cách nhớ ơn tổ tiên còn tồn tại đến ngày nay qua các thế hệ ở làng Đình Bảng như thế nào. Tôi đã chọn hai trường hợp, trong cùng một ngôi làng để nghiên cứu những thói quen trong việc thờ cúng tổ tiên của người dân. Sự thành tâm và tận tụy của một người đàn bà cô đơn trong chính ngôi nhà mình là một ví dụ cho thấy sự công phu của một tôn giáo tập trung chủ yếu vào sự tu dưỡng đạo đức, sự tưởng nhớ người đã khuất và những mối liên hệ riêng tư, thân thiết của một cá nhân với thế giới tâm linh. Ngược lại, sự tập hợp lại các cá nhân của dòng họ Nguyễn Thạc và một vài dòng họ khác cho thấy các tổ chức xã hội đang đóng một vai trò tích cực trong đời sống cộng đồng. Thường các buổi lễ có liên quan đến cả dòng họ thì tất cả những người cùng dòng họ này đều tập trung ở nhà thờ họ, còn nếu những buổi lễ chỉ thuộc phạm vi của một gia tộc thì sẽ tiến hành dưới hình thức những đám giỗ, tại các gia đình. Thờ cúng tổ tiên và sự thành tâm của từng cá nhân Mỗi buổi sáng, người phụ nữ tên Thúy thắp 3 nén hương, đứng trước bàn thờ đặt trên một cái tủ gỗ cao, được xem là bàn thờ tổ tiên. Người đàn bà khoẻ mạnh, tóc hoa râm này cắm hương vào bát hương bằng gốm màu trắng với những hoa văn xanh và đặt hoa quả vào một cái đĩa nhựa. Bao giờ bà cũng hài lòng với sự sắp xếp của mình. Bà lùi lại, chắp tay trước ngực, nhắm mắt và cúi đầu. Bà chậm rãi vái ba lần trước bàn thờ, rồi đứng im vài phút với đôi mắt khép, tay vẫn chắp trước ngực và khấn thầm những điều mình cầu xin. Thông thường, mỗi ngày bà Thúy thường tiến hành những việc này đều đặn một mình. Nhưng một buổi sáng tôi đến thăm bà sớm, và bà nói rằng bà không để ý đến việc tôi có chứng kiến những việc bà đã làm hay không. Bà im lặng chờ đợi trong khi những cây hương cháy. Đây là khoảng thời gian được xem là lúc tổ tiên thưởng thức đồ thờ cúng. Một vài người phụ nữ, như bà Hoàng, bà chủ nhà của tôi ở làng Đình Bảng, một người luôn luôn bận rộn và mệt mỏi, rời bàn thờ trong suốt thời gian chờ đợi để trở về làm nốt một vài việc nhà, và bà chỉ quay trở lại khi biết hương đã tàn. Nhưng bà Thúy lại thích ngồi gần đó, như một sự hiện diện với cha mẹ mình. Hương cháy từ trên xuống dưới, những nén hương tỏa thơm ngát, khói hương cuộn thành vòng tròn cho đến khi chúng cháy hết và tàn rơi xuống đống tro màu xám trong bát hương. Khi hương đã hoàn toàn tắt, bà Thúy quay lại đứng trước bàn thờ, chân khép lại, lưng thẳng, đầu hơi cúi, khuỷu tay nâng lên và hai tay chắp trước ngực, bà từ từ nhắm mắt lại và khuôn mặt lúc này ánh lên sự điềm tĩnh tự bên trong. Bà Thúy vái trước bàn thờ 3 vái, sau đó yên lặng một lát trước khi mở mắt và thả tay xuống. Đồ cúng bây giờ có thể được chuyển từ bàn thờ xuống và chia cho mọi người. Mùa về trên Đình Bảng Bà Thúy sinh ra năm 1941 ở Đình Bảng. Trước cách mạng, cha bà phục vụ cho Pháp, nhưng những gì ông kiếm được không đủ để bảo đảm cuộc sống gia đình trong thời điểm lộn xộn đó. Cuộc sống của họ trở nên gieo neo trong suốt thời kỳ đói kém giữa những năm 1940, sau đó càng trở nên túng bấn trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954), khi quân đội Pháp đóng quân ở Đình Bảng để chiếm lợi thế gần Hà Nội. Quân đội Pháp đã san bằng ngôi làng bằng xe ủi và đóng quân ở các vùng lân cận, bắt dân địa phương nhập vào những ngôi nhà còn sót lại. Bà Thúy vẫn còn nhớ cha bà đã tham gia phong trào chống thực dân như thế nào, ông dành thời gian cho các buổi họp chính trị và phiên họp chiến lược, trong khi bà ở nhà và giúp mẹ chăm sóc những người ở cùng trong ngôi nhà chật hẹp, ngôi nhà đã nuôi ba đứa em trai và hai em gái của bà. Mặc dù mẹ bà rất ít khi được gần chồng trong những năm ấy nhưng bà vẫn luôn nghĩ đến ông, và trìu mến gọi ông mỗi buổi tối khi ông trở về nhà ăn cơm, và khi ấy bà sẽ chuẩn bị những món ăn ông thích. Khi chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đã chuyển sang cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, bà Thúy đã hoàn thành một khóa học sư phạm và rốt cuộc đã chuyển sang làng khác cách nhà khoảng 20km để dạy học. Bà đem lòng yêu một thầy giáo trẻ trong trường, và họ phải kết hôn nhanh chóng trước khi ông gia nhập quân đội. Buồn thay, ông đã bị giết trong năm đầu tiên sau khi gia nhập quân ngũ. Đau buồn nhưng quyết tâm đấu tranh vì độc lập tự do, bà Thúy đã kết hợp công việc ở trường với sự ủng hộ cho cuộc kháng chiến từ địa phương và giúp đỡ mẹ mình chăm sóc người cha đã rất ốm yếu. Vào các buổi tối, bà thường đi xe đạp 20km về làng Đình Bảng, và quay lại trường khi bình minh lên. Một lần, một quả bom của một máy bay Mỹ rơi xuống gần bà đến nỗi bà bị bật tung khỏi chiếc xe đạp và bay xuống hào, thoát chết. Trong suốt những năm đó, mệt mỏi liên tục và không đủ thức ăn để ăn, bà trở nên hốc hác và mệt mỏi. “Tôi đã từng là một đứa con gái đầy đặn và cuốn hút với đôi má hồng hào”, bà nói với tôi như vậy, “nhưng sau đó trong chiến tranh tôi đã đánh mất đi vẻ đẹp của mình. Tôi trở nên quá gầy gò! Cuộc sống lúc đó hết sức khó khăn. Và khi chiến tranh kết thúc thì tôi đã quá già”. Sau chiến tranh, bà Thúy không bao giờ kết hôn nữa và cũng không có con. Bà dành thời gian cho việc dạy học ở trường và cho ngôi nhà của mình, tiếp tục chăm sóc mẹ già cho đến khi bà mất năm 1993. Khi tôi gặp bà Thúy, thì bà đã bước vào một thời kỳ mới, hạnh phúc hơn, và đã tìm thấy rất nhiều cách không để cho mình rơi vào cảm giác cô độc. Bà nghỉ hưu và trở thành một thành viên tích cực tham gia vào các hoạt động tôn giáo và xã hội của làng. Bà giúp họ tổ chức các buổi lễ đặc biệt, bà dạy các bài học thể dục cho những người già và một năm bà tiến hành một kỳ nghỉ với một nhóm bạn bè phụ nữ. Trước khi mẹ bà mất, bà và anh chị em ruột của mình góp tiền để xây cho mẹ một ngôi nhà mới trong làng. Bây giờ bà Thúy sống trong một ngôi nhà nhỏ, hai tầng rất thoải mái, sống một mình nhưng luôn có sự hiện diện của bố mẹ bà trên bàn thờ. Bây giờ và mai sau bà vẫn có những người bạn luôn “quấy nhiễu”, đó là các cháu trai và cháu gái của mình. Việt Nam có một hệ thống quan hệ họ hàng đối ngẫu. Hình mẫu phụ hệ (theo họ cha) hay “trọng nam” cùng tồn tại song song với hình mẫu “nam nữ bình quyền”, là hình mẫu trong đó người phụ nữ có được sự tôn trọng từ xã hội và có quyền đưa ra những quyết định quan trọng như nam giới. Việc thờ cúng tổ tiên, đặc biệt khi nó diễn ra ở nhà thờ họ, thường gắn với hình mẫu “trọng nam” và đánh dấu sự phục tùng của đứa con trai đối với cha và của cá nhân người đàn ông với dòng họ. Ở phương diện này, người phụ nữ phải “xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Chúng ta có thể hiểu sự cống hiến cho tổ tiên của những người đàn bà như bà Thúy và những người phụ nữ ở độ tuổi của bà, cả có chồng và không chồng ở làng này như thế nào? Đối với nhiều người, họ làm thế để thể hiện đạo làm con và lòng yêu thương của mình với các bậc cha mẹ, những người đi trước và mong muốn để duy trì mối quan hệ với cha mẹ mình thậm chí khi họ đã chết. Đối với bà Thúy, việc thờ cúng ở bàn thờ mỗi buổi sáng là một mối quan hệ không tương ứng nhưng hết sức thân mật. Từ thời điểm bố mẹ bà bắt đầu sinh ra bà, chịu đựng nỗi đau thai nghén, sinh đẻ, nuôi dưỡng, giáo dục bà, họ đã ban cho bà một món quà vô giá, đó là “ơn sinh thành”, nuôi dưỡng và giáo dục. Suốt cuộc đời, bà Thúy biết ơn cha mẹ, bà yêu kính và đền đáp công ơn bằng sự quan tâm, chăm sóc của bà đối với cha mẹ mình khi họ ốm đau và thậm chí khi hai người đã sang thế giới bên kia. Mặc dù thời nay, đồ cúng đã bị thay đổi đi nhiều nhưng những người làng đã nói với tôi rằng nội dung của đồ cúng không quan trọng lắm, cái quan trọng nhất là “tấm lòng thành” nhớ ơn tổ tiên. Nhiều người làng cũng cho tôi biết thắp hương chỉ là một trong những hành động thể hiện việc “nhớ ơn tổ tiên”. Bà Thúy giải thích với tôi: “Nếu bạn nghèo, thì bạn có thể chỉ thắp hương. Trái cây, xôi, cơm và tất cả những thứ đồ cúng khác là những đồ được thêm vào”. Những người khác cũng nói, nếu một gia đình quá nghèo, một cốc nước và một nén hương là đã đủ để tưởng nhớ những người đã mất... Còn tiếp... Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 4, 2008 Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch Phần II "Việc thờ cúng tổ tiên có phải để biểu hiện lòng hiếu thảo của đạo làm con hay chỉ là một niềm tin vào “năng lực huyền bí” của người chết? Tất cả những người tin đều cho rằng việc thờ cúng tổ tiên là một hệ thống đạo đức, và 2/3 trong số đó nói rằng họ cũng tin ông bà có khả năng siêu nhiên để tác động vào cuộc sống thường ngày, đi theo, bảo vệ con cháu, những người thân yêu của họ..." Ông bà luôn luôn đi theo và bảo vệ con cháu... Nguồn ảnh: Viettribune Khi tôi hỏi bà Thúy về mối quan hệ của người sống và người chết, bà Thuý giải thích rằng khi ông bà còn sống, họ sống khôn; Sau khi chết, họ trở nên thiêng, “sống khôn chết thiêng”: Ông bà luôn ủng hộ cho con cháu mình và khi con cháu thỉnh cầu một điều gì đó thì tất nhiên ông bà sẽ giúp đỡ. Bà Thúy tin rằng ông bà có thể bảo vệ được con cháu tại những thời điểm họ gặp nguy hiểm. Trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, không lâu sau khi bố bà Thúy mất, một trong những người anh trai của bà đã nhập ngũ và sau đó mất liên lạc với gia đình. Bà Thúy nói rằng đó là khoảng thời gian khó khăn nhất, nhưng bố bà đã đóng một vai trò chủ chốt, không chỉ bảo vệ người anh đã nhập ngũ mà còn là cầu nối cho các thành viên của gia đình có thể liên lạc với nhau. Bà Thúy nhìn tôi với một cái nhìn sâu sắc và nhắc lại câu nói mà trước đây tôi đã từng được nghe: “Dù con cái có đi đến bất cứ nơi nào thì bố mẹ luôn theo đến đấy”. Bà gật gù: “Đúng, ông bà luôn luôn đi theo, bảo vệ và giám sát con cháu mình. Họ luôn che chở cho con cháu mình”. Bà Thúy nói với tôi rằng bà thường nói chuyện với bố mẹ ở ngoài mộ và ngay trên chính bàn thờ trong nhà mình. Bà thường kể cho họ nghe những sự kiện của gia đình và xin họ những lời khuyên. Vậy, việc thờ cúng tổ tiên có phải để biểu hiện lòng hiếu thảo của đạo làm con hay chỉ là một niềm tin vào “năng lực huyền bí” của người chết? Tất cả những người tin đều cho rằng việc thờ cúng tổ tiên là một hệ thống đạo đức, và 2/3 trong số đó nói rằng họ cũng tin ông bà có khả năng siêu nhiên để tác động vào cuộc sống thường ngày, đi theo, bảo vệ con cháu, những người thân yêu của họ. Khi tôi đến làng Đình Bảng, bà Thúy và các anh em mình đã góp tiền để xây cho cha mẹ một ngôi mộ đẹp và rất khang trang. Khi đã khá thân nhau, bà rủ tôi đi thăm mộ và cho phép tôi chụp ảnh. Chúng tôi đi xe đạp đến khu nghĩa trang, một vùng đất có rất nhiều ngôi mộ được xây bằng xi măng ở cạnh những cánh đồng lúa, được sắp xếp theo logic của môn bói đất (bói bằng những hình vẽ trên mặt đất). Mặc dù có nhiều ngôi mộ mới được tu sửa, nhưng ngôi mộ của bố mẹ bà Thúy là một công trình xây dựng lớn nhất, đẹp nhất ở khu nghĩa trang. Sự giản dị, kiểu kiến trúc có sự kết hợp đá cẩm thạch đen giống với lăng chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội. Bà Thúy nói với tôi: Ngôi mộ màu đen vì đó là màu của sự tang tóc, chết chóc và thương tiếc. Nếu dùng màu khác sẽ không đẹp và không phù hợp. Để chuẩn bị chụp ảnh, bà Thúy bỏ dép và leo lên trên ngôi mộ, đánh xi cho đến khi bề mặt nền đá hoa sáng lên, tiếp theo, bà dọn sạch cỏ dại mọc xung quanh, sắp xếp lại mọi thứ gọn gàng, ngăn nắp. Sau đó bà búi lại tóc, đứng thẳng người, thắp hương và bảo tôi chụp ảnh khi bà đang cúi đầu khấn.Ngay sau khi lấy ảnh về, bà Thúy chọn một cái, phóng to, treo trong phòng khách với mục đích cho khách khứa hoặc cho bố mẹ mỗi buổi sáng đến thăm bàn thờ, qua khói hương sẽ nhìn thấy bức ảnh ngôi mộ rộng rãi của mình và để họ biết rằng họ có một đứa con gái vẫn luôn quan tâm đến họ. “Rất nhiều người tự hào vì “nó” là ngôi mộ đẹp nhất làng”, bà Thúy nói. Và ngôi mộ của bố mẹ bà Thúy còn chứa đựng một vài thông điệp: Đầu tiên, nó cho thấy sự mẫu mực, trách nhiệm của một người con đối với bố mẹ mình, đó là bản chất tốt đẹp của con người. Thứ hai, để xây dựng ngôi mộ này bà đã phải bỏ ra một số tiền không ít, chứng tỏ sự thành công về kinh tế và bản chất hiếu thảo quên mình vì người khác của bà. Thứ ba, cứ cho rằng hiện tại bà chỉ sống với một số tiền trợ cấp hàng tháng của chính phủ và một số công việc lặt vặt thì ngôi mộ lớn kia cũng chứng tỏ với mọi người rằng bà có một mối quan hệ xã hội rất tốt, một gia đình sống có tình nghĩa và hào phóng. Cuối cùng, ngôi mộ cũng cho thấy bà có một mối quan hệ tốt đẹp với những người đã khuất. Ngôi mộ chính là nơi trao đổi tình yêu giữa bố mẹ và bà. Gần cả cuộc đời bố mẹ bà Thúy đã phải sống trong nghèo đói và chiến tranh, đặc biệt bố bà chết trẻ và xa rời thế giới mà không một lần được nhìn thấy cuộc sống hòa bình. Bây giờ các anh em bà đều có cuộc sống khá sung túc, bà Thúy có một ngôi nhà mới, khang trang, ăn no, mặc đẹp và hàng năm còn tổ chức đi nghỉ mát cùng bạn bè. Bà cũng như những người sống sót sau cuộc cách mạng nhận thức được rằng, nền hòa bình mà họ đang được hưởng là nền hòa bình được xây dựng trên nước mắt và xương máu của cha mẹ, của những người đi trước. Do vậy, bà tìm mọi cách để bù đắp cho bố mẹ bằng cách cố gắng “nâng cao cuộc sống của họ dưới suối vàng”, bà chắc chắn rằng đời sống vật chất của bố mẹ không lạc hậu hơn so với đời sống trên dương thế của bà. Sau buổi thăm mộ hai ngày, tôi ngồi với bà Thúy trong phòng khách để hỏi bà về những nghề truyền thống tổ tiên để lại trong làng. Bà Thúy làm thêm cho một công ty sản xuất thuốc lá địa phương để bổ sung vào số tiền trợ cấp ít ỏi của chính phủ. Trên nền nhà lát đá hoa bóng loáng, bà trải một cái chiếu để ngồi, trên chiếu đặt một cái giỏ đầy những mẩu thuốc lá đã dùng còn sót lại. Bà vừa làm việc vừa nói chuyện với tôi. Tôi hỏi bà, liệu có quy định gì khi xây mộ cho người Việt không? “Cái đó phụ thuộc vào khả năng của mỗi người”, bà bắt đầu: Nếu nhà bạn giàu, thì làm mộ đẹp và to. Nếu nghèo thì làm nhỏ. Nếu gia đình nhiều con và có điều kiện góp nhiều tiền thì làm mộ to, nếu ít con, và chỉ có thể góp ít thì làm nhỏ. Không có luật nào quy định về cái này. Nếu một người rất nghèo và chỉ có thể xây dựng một ngôi mộ rất đơn giản thì liệu mọi người có buộc tội người đó bất hiếu? – tôi hỏi. Không, đó không phải là bất hiếu. Đó là do hoàn cảnh kinh tế. Ngày nay có rất nhiều người có cuộc sống khó khăn, không đủ ăn, thậm chí họ không thể xây cho bố mẹ mình một ngôi mộ bằng xi măng nhưng cũng không ai gọi họ là bất hiếu. Chỉ có những người có của ăn của để, sống một cách thoải mái nhưng mộ của bố mẹ lại quá tồi tàn thì sẽ bị coi là bất hiếu. Ngôi mộ chính là một ngôi nhà cho người chết, và quả thật không tốt nếu một ai đó xây một ngôi nhà mới khang trang để ở trước khi xây một nơi an nghỉ thoải mái cho bố mẹ, ông bà. Với sự phát triển kinh tế, sự giàu lên của các tầng lớp xã hội và sự phát triển của công nghệ đã giúp cho con cháu có điều kiện “chăm sóc” những người thân đã mất của mình hơn. Những người nông dân nghèo ở các làng quê ngày xưa sau khi chết được con cháu “cúng” cho những bộ quần áo xa xỉ của các quan chức thời phong kiến. Công nghệ xử lý ảnh cho phép làm lại những tấm ảnh chân dung đã trở nên rất phổ biến: Hình ảnh người đàn ông mặc những bộ quần áo lộng lẫy, đầy uy quyền, giống với vua chúa, quan lại ngày xưa. Những người phụ nữ giàu có, mặc những bộ quần áo lụa rộng và ngồi trên những cái ngai gỗ được chạm trổ tinh vi, hoặc người phụ nữ trẻ, yểu điệu trong trang phục áo dài thướt tha … đã không còn xa lạ nữa. Bàn thờ của nhà bà Thúy có hai bức ảnh chân dung. Bên trái là tấm ảnh màu của mẹ bà, được chụp không lâu trước khi mất. Bên phải, một bức ảnh đen trắng có vết ố là bố bà, ông đứng một mình, dáng đầy tự hào và lịch lãm trong bộ áo dài bằng lụa đen của quan và các chức sắc ngày xưa. Một lần, khi tôi đến, bà Thúy lấy cho tôi xem bức ảnh gốc của bố bà. Và tôi đã rất ngạc nhiên thấy rằng nó hơi khác so với bức ảnh bà treo trên bàn thờ. Bức ảnh gốc là ảnh đen trắng, chụp cả gia đình bà đứng thành một nhóm và được chú thích phía sau là “Bố, mẹ và chị Thúy, 1951”. Bố bà, đứng thoải mái nhưng không phải mặc đồ lụa mà là một bộ đồ nông dân bằng vải thô. Bà Thúy giải thích rằng bà đã thuê một kĩ thuật viên máy tính ở Hà Nội để tạo ra một bức ảnh mới, họ cắt mặt ông từ bức ảnh gốc của gia đình và dùng công nghệ để xử lý và tạo ra bức ảnh người đàn ông mặc áo lụa đang có trên bàn thờ. Hạ Anh (lược dịch) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 4, 2008 Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch Phần III Thứ sáu, 9/11/2007, 07:00 GMT+7 Vào ngày 20 tháng 3 âm lịch năm 2001, tại nhà của ông Nguyễn Thạc Sung, nằm trên đường đi vào nhà bà Thúy, rất đông người. Ông Sung là một thầy giáo dạy toán đã về hưu, thuộc chi cao nhất trong dòng họ Nguyễn Thạc, còn gọi là trưởng họ. Đó là vị trí mà ông sẽ nắm giữ cho đến lúc chết, sau đó con trai lớn của ông sẽ kế tục. Ông mặc một cái áo vét màu xám, quỳ trên một cái chiếu trước bàn thờ và cầu khấn. Những người họ hàng nam đến từ tỉnh Nghệ An đứng xung quanh mép chiếu, im lặng với vẻ tôn kính, và muốn tìm hiểu những nghi thức hoàn toàn xa lạ với họ. Ngày 20 tháng 3 âm lịch là ngày giỗ tổ của dòng họ Nguyễn Thạc và hôm nay là có một sự kiện lớn lôi cuốn hơn 200 khách, đó là khôi phục dòng họ... Sau khi ông Sung hoàn thành các lễ nghi đầu tiên, ba người đàn ông trong bộ áo thêu bước vào giữa chiếu. Họ dường như rất xấu hổ và ngập ngừng với vai trò của mình. Một người cầm một mảnh giấy được xé ra từ quyển vở học sinh, và đọc lầm bầm những gì đã được chuẩn bị trong đó. Những người đàn ông hội ý với nhau và thỉnh thoảng liếc qua ông Sung, bây giờ đang ở ngoài chiếu, để kiếm tìm một sự tán đồng. Mỗi lần có một hành động sơ suất, thì ông Sung từ đám đông hô to “không được”, một cuộc hội ý nhanh chóng lại diễn ra để giải quyết vấn đề và các nghi thức lại tiếp tục. Ngay sau khi công việc của ba người đàn ông kết thúc thì những nghi lễ cũng kết thúc và tâm trạng ai nấy đều nhẹ đi chút ít. Ngoài sân, một đám đông tụ tập xung quanh một người đàn ông mảnh khảnh nắm trong tay một bản copy là bản gia phả mới nhất của gia phả dòng họ. Bản gia phả đầu tiên của dòng họ Nguyễn Thạc được viết bằng chữ Hán từ năm 1733. Nó được cập nhật định kì và có sự bổ sung trong những năm 1905, 1933 và 1998 thế kỉ 20. Năm 1999, nó được Viện Hán Nôm dịch sang tiếng Việt Cuối cùng những người tham dự buổi thờ cúng bắt đầu ngồi vào các mâm cỗ. Bữa cỗ thịnh soạn có thịt và rượu trắng. Ông Sung cầm cái micro và nói một vài lời, nói đến tổ tiên trước, rồi đến Thành hoàng làng, sau đó đến những người bà con đang sống. Tiếp theo, ông giới thiệu ba người đàn ông đã thực hiện những thủ tục nghi lễ buổi sáng, bây giờ mặc quần áo bình thường, giải thích rằng họ là những người đến từ Nghệ An, đã đi 5 tiếng đồng hồ bằng ô tô đến đây xin được gia nhập lại vào dòng họ. Chuyện kể rằng năm 1750, một thành viên của dòng họ Nguyễn Thạc đã được phong một chức quan trong đội quân cẩm vệ và đóng ở làng Sơn Lâm thuộc tỉnh Nghệ An. Vị quan này đã cưới một người con gái địa phương làm vợ và họ ở lại Nghệ An, sinh con đẻ cái, hầu hết đều là những người nông dân nghèo nhưng trung thực. Cuối cùng, họ mất liên lạc với quê gốc là làng Đình Bảng. Cho mãi đến khi thời kì đổi mới bắt đầu những người mang họ Nguyễn Thạc ở Sơn Lâm mới biết rằng họ còn có những người anh em xa ở tỉnh Bắc Ninh. Ông Ngà, một trong những người khách đến từ Nghệ An kể với mọi người: Qua các thế hệ, dòng họ Nguyễn Thạc ở Sơn Lâm là dòng họ có uy quyền nhất, luôn giữ gìn nề nếp gia đình và phong tục của ông bà. Nhưng nhờ giới truyền thông và các phương tiện hiện đại mà dòng họ Nguyễn Thạc chúng tôi ở Sơn Lâm biết rằng vẫn có một dòng họ Nguyễn Thạc khác ở làng Đình Bảng, đấy là dòng họ gốc, lớn hơn ở Sơn Lâm chúng tôi nhiều. Cũng cần nói thêm, dòng họ Nguyễn Thạc ở làng Đình Bảng có xấp xỉ 1000 thành viên, chiếm 1/10 tổng số dân trong làng. Năm 1990, một nhóm người từ Sơn Lâm đến Đình Bảng và nhận họ. Đến năm 1997, dòng họ Nguyễn Thạc đã tổ chức một cuộc họp ở Hà Nội với sự tham gia của nhiều chi khác nữa, và năm 1999, một nhóm người dòng họ này từ Đình Bảng đến Sơn Lâm. Cuối cùng, vào ngày 20 tháng 3 âm lịch năm 2001, những người già thuộc 3 trong 4 chi của dòng họ Nguyễn Thạc ở Sơn Lâm gặp nhau ở Đình Bảng để tham gia một buổi lễ tưởng nhớ tổ tiên gốc gác của mình. Ông Ngà nói với các vị khách: “Cuối cùng hôm nay, chúng ta cũng có cơ hội gặp nhau, trao đổi ý kiến và làm cho mối quan hệ trong dòng họ thêm thân thiết”. Ông cũng nói lên niềm hi vọng vào thế hệ tương lai của con cháu ở cả hai nơi sẽ cùng gìn giữ và phát huy truyền thống của ông cha để lại. Theo bản gia phả gốc của dòng họ Nguyễn Thạc được viết năm 1733 thì người sáng lập ra dòng họ là một người đàn ông thanh liêm chính trực, giàu tình cảm, Nguyễn Thạc Bác. Ông có hai người con, một con gái tên là Nguyễn Thị Ngọc Long và một con trai tên là Nguyễn Thạc Căn. Người con gái trở thành vợ lẽ của chúa Trịnh Kiểm và người con trai trở thành quận công phục vụ cho chúa Trịnh, và họ là những công thần trong triều Lê cai trị miền Bắc Việt Nam thế kỉ 16. Kể từ sau đó, trong dòng họ có rất nhiều người đỗ đạt cao và được nắm giữ các chức vụ quan trong triều, được thăng tiến và họ được xem là những người ngay thẳng và chính trực. Nguyễn Thạc Bác là tổ tiên của dòng họ Nguyễn Thạc nhưng ông lại chỉ là một hình ảnh không quan trọng trong việc phát triển dòng họ. Trái lại, con gái ông, vương phi Ngọc Long mới là người đóng vai trò chủ đạo trong sự lớn mạnh của gia đình. Trong câu chuyện đầu tiên mà trưởng họ Nguyễn Thạc Sung kể với tôi về gia đình ông là câu chuyện về vương phi Ngọc Long. Chuyện kể rằng vào năm 1559, khi Trịnh Kiểm, lúc đó là một vị quan có quyền lực nhất trong triều đình nhà Lê đi qua khu vực đồng bằng sông Hồng với đoàn tùy tùng của mình thì bất chợt gặp một cô gái đang cắt cỏ, vừa làm vừa hát Trịnh Kiềm nhìn thấy một cảnh tượng rất lạ: Bất kể cô gái đi đến đâu thì những đám mây cũng đi theo trên đầu cô. Thấy những điều kì lạ như vậy, chúa Trịnh Kiểm đã gọi cô gái lại. Lúc này ông mới thấy gương mặt người con gái rất đẹp và cô đối đáp hết sức thông minh, do vậy ông đã đặt cô lên ngựa và mang về kinh đô Thăng Long. Trong lúc ấy, người em trai của cô đang cày bừa ngoài đồng, nghe dân làng nói rằng có một đoàn quân binh đã đến bắtchị gái mình! Ngay lập tức anh vác cày đuổi theo. Chúa Trịnh Kiểm thấy người thanh niên này thật dũng cảm, và phong cho anh một chức quan trong quân đội. Càng ngày người thanh niên càng bộc lộ mình là một người thông minh, tài giỏi. Ông được thăng chứcquận công và trở thành người có quyền lực lớn thứ hai trong triều. Một buổi tối hội làng, trước ngày diễn ra cuộc họp của dòng họ Nguyễn Thạc 20 tháng 3 âm lịch một ngày, bà chủ nhà nắm lấy tay tôi và kéo ra cửa: “Chúng ta đến đền vương phi đi!”. Khi tôi hỏi tại sao, bà chỉ trả lời “Đây là dịp để các con gái và con dâu dòng họ Nguyễn Thạc gặp nhau!” rồi bà đưa cho tôi cầm một túi nho đầy. Buổi tối hơi lạnh và ẩm ướt, những người phụ nữ quấn khăn quàng cổ, áo cộc tay sẫm màu đứng đầy sân đền. Bên trong, một vài người đàn ông lớn tuổi ngồi bên cạnh bàn, uống trà và nhận tiền “công đức” từ những người hảo tâm rồi lại ghi chép vào sổ. Ánh sáng ấm áp của các cây nến tràn ngập cả 3 bàn thờ, trên mỗi bàn có một bức tượng vương phi quét sơn bóng. Hoa quả đủ màu sắc, những nắm cơm được bọc trong giấy đỏ, những gói bánh quy dừa, đồ cúng được sắp xếp đầy xung quanh bàn thờ. Khi tôi quan sát mọi thứ thì bà Hoàng, chủ nhà tôi sắp nho lên bàn thờ và thắp hương. Sau đó, chúng tôi ra ngoài sân gia nhập với nhóm những người phụ nữ khác và một nhóm đàn ông đang ngồi trên chiếu, tham gia vào những chuyện tầm phào cho đến khi hương tàn và đồ cúng của ai người nấy lại nhận về như lộc của tổ tiên. Các nghi lễ buổi tối là để tưởng nhớ công ơn của những người phụ nữ trong dòng họ. “Tối nay, con gái và con dâu dòng họ Nguyễn Thạc đều phải làm đồ cúng ở đây”, một người đàn ông lớn tuổi nói với tôi như vậy. Khi tôi hỏi tại sao, ông nói “vì con gái và những người vợ của dòng họ Nguyễn Thạc có rất nhiều công lao với dòng họ”. Ông Sung giải thích thêm: “Tổ tiên cho rằng đàn ông và phụ nữ trong dòng họ phải bình đẳng do vậy, con gái và con dâu cũng phải bình đẳng”. Vương phi Ngọc Long là người góp phần làm nên sự thành công trên đường công danh của em trai bà, và đây cũng chính là mốc son đầu tiên đánh dấu sự phát triển của dòng họ. “Vương phi đã đưa anh vào triều nên anh mới có thể phát triển tài năng và trở thành quận công. Cho dù anh ta có tài và may mắn đến đâu đi chăng nữa nhưng nếu không có vương phi thì anh ta cũng không thể có cơ hội được phong quận công”, ông Sung lập luận. Và những người phụ nữ trong dòng họ tiếp tục đóng góp công lao làm nên danh tiếng của dòng họ ngày nay. Cho đến bây giờ, ai cũng phải thừa nhận rằng con gái của dòng họ Nguyễn Thạc thật thông minh và khéo léo. Rất nhiều các biệt thự cao tầng ở đây đều thuộc quyền sở hữu của những người phụ nữ mang dòng họ Nguyễn Thạc. Cũng nhờ những câu chuyện mà mọi người kể tối hôm đó tôi được biết vương phi Ngọc Long đã xây dựng ngôi đền này, dân làng vẫn gọi là đền" vương phi” để tưởng nhớ bố mẹ và ông bà của bà. Hạ Anh (VieTimes dịch) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 4, 2008 Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch Phần IV Thứ ba, 13/11/2007, 07:00 GMT+7 Nếu người con gái được yêu quý nhất của dòng họ Nguyễn Thạc - là vương phi Ngọc Long thì người con dâu được yêu quý nhất là một người phụ nữ tên là Nguyễn Thị Nguyên. Chuyện kể rằng ông Nguyễn Thạc Lượng, thế hệ cuối cùng trong 7 thế hệ có người làm quan của dòng họ Nguyễn Thạc đã vượt qua kỳ thi tuyển chọn nhân tài và được ban cho một chức quan trong triều dưới thời của chúa Trịnh Kiểm; Gia phả của dòng họ Nguyễn Thạc ghi lại rằng ông “không những đỗ đạt cao mà còn giàu có”. Một lần đang làm quan ở tỉnh Thanh Hóa, ông Lượng đã gặp và kết hôn với một người con gái địa phương tên là Nguyễn Thị Nguyên. Theo ông Sung kể, cô dâu đã tự nguyện rời bỏ quê hương và tài sản hiện có để theo chồng đến bất cứ nơi nào mà ông phải thuyên chuyển đến. Tuy nhiên, bà không để ông Lượng quên gốc gác tổ tiên của mình. “Bà có một điều ước là cùng chồng quay trở lại quê hương ông nên sẽ xây dựng ở quê nhà một ngôi nhà thờ họ. Để thực hiện được mơ ước này, bà đã phải tìm những cây cột bằng gỗ lim, mỗi cây dài sáu mét và đường kính hơn nửa mét ở Thanh Hóa và vận chuyển về Đình Bảng. Khó khăn nhất là khi những con ngựa phải kéo những khúc gỗ ngược dòng sông đến quê hương Đình Bảng”, ông Sung kể. Đình BảngĐược bắt đầu xây dựng năm 1700 và hoàn thành năm 1736, ngôi nhà thờ của dòng họ Nguyễn Thạc được công nhận là kiểu kiến trúc cổ của quốc gia, một trong những ngôi nhà cổ kính nhất đất Kinh Bắc. Khi hoàn thành, ngôi nhà trở thành tài sản của dòng họ, được sử dụng để thờ cúng, làm nơi ăn chốn ở. Ngôi nhà đã cuốn hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu thuộc địa; học giả người Pháp Pierre Gourou đã dành một vài trang trong bài nghiên cứu địa lý xã hội đồng bằng Sông Hồng để phác thảo những bản vẽ, tấm ảnh, mô tả ngắn gọn về ngôi nhà và khen ngợi kiểu kiến trúc đơn giản mà tao nhã của nó.Ông Sung nhớ lại, khi ông còn là một cậu bé, “người Việt cũng như người Trung Quốc cho rằng một ngôi nhà có bốn thế hệ cùng sinh sống (tứ đại đồng đường) thì rất hạnh phúc. Ngôi nhà thờ họ lúc đó là một ngôi nhà như thế. Các cụ của tôi, ông bà tôi, bố mẹ tôi và tôi, tất cả đều sống ở đây, vì vậy trong ngôi nhà này có bốn thế hệ cùng sinh sống”. Ông nhớ lại, gian nhà chính lúc đó là gian nhà đặt bài vị tổ tiên. Đối với cậu bé Sung lúc ấy, gian thờ là một nơi “lạnh lẽo và đáng sợ”, một khoảng không gian thiêng liêng, hạn chế trẻ con và những người không thuộc dòng họ bước chân vào. Xung quanh ngôi nhà còn có một sân rộng, một bể nước và một hồ cá. Bắt đầu từ năm 1932, mẹ ông phát triển nghề nhuộm quần áo tại và công việc ngày càng phát triển, bà phải thuê thêm hơn 20 công nhân và bán quần áo nhuộm ở những nơi xa như Sài Gòn. Nhưng mọi thứ đã thay đổi khi cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất nổ ra, thực dân Pháp chiếm đóng làng Đình Bảng và chiếm luôn ngôi nhà thờ họ này từ năm 1949 đến 1954. Đầu tiên, gia đình ông Sung tản cư lên vùng kháng chiến ở Thái Bình và sau đó về Hà Nội khi cuộc chiến kết thúc. Ông Sung xem sự tồn tại của ngôi nhà thờ là một điều kì diệu, một phần do sự bảo vệ của tổ tiên, một phần do sự uy nghiêm, linh thiêng của nó. “Có lẽ công trình xây dựng này có một tính chất đặc biệt, đó là lý do tại sao quân Pháp đã không phá hủy nó, mặc dù họ phá hủy toàn bộ các ngôi nhà quanh đấy. Có lẽ điều này là một sự may mắn quá lớn đối với chúng tôi, và có thể cũng vì người Pháp cảm nhận được vẻ đẹp kiến trúc và sự linh thiêng của ngôi nhà thờ nên họ không dám phá huỷ nó. Khi chúng tôi từ vùng kháng chiến trở về thì tất cả các phòng vẫn nguyên vẹn như trạng thái ban đầu, chỉ một vài viên đá lát nhà bị cạy mất”, ông Sung nói. Trong suốt thời kì cải cách ruộng đất 1957-1958, gia đình ông Sung và dòng họ Nguyễn Thạc rơi vào hoàn cảnh khó khăn và mất đi một vài người chủ chốt. Bố mẹ của ông Sung do buôn bán thuận lợi nên đã trở nên phát đạt. Họ tiếp tục sống trong ngôi nhà nhưng có một thời gian họ cho một công ty dệt của những người ngoài dòng họ đến ở và sản xuất. Cho đến khi bố ông cảm thấy không chịu nổi những tiếng ồn ào của những chiếc máy dệt, ông Sung đã quyết định không cho công ty này thuê nữa. Thời chiến, các nghi lễ tại ngôi đình được tiến hành không thường xuyên và nếu có thì chỉ ở làm rất đơn giản, do ông trưởng họ chủ trì. Trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, thỉnh thoảng thực dân Pháp cho phép bố của ông Sung về để quản lý và kiểm soát việc thờ cúng vào những ngày giỗ chính. Ông Sung ngờ rằng, Pháp ban cho bố ông đặc quyền đó là vì mẹ ông đã khéo léo mang cho lính Pháp những mặt hàng mà họ ưa thích. Sau khi Pháp rút, từ năm 1954 đến chiến tranh Đông Dương lần thứ hai xảy ra và cả sau khi hòa bình được lập lại, mọi thứ đều công hữu hóa, dòng họ không có điều kiện làm những cuộc giỗ tết chung như trước đây.. Đình làng Đình BảngCuối những năm 1980, thời kì Đổi Mới bắt đầu, người ta được phép khôi phục lại các lễ hội và các phong tục cũ, đồng thời tôn tạo lại đình chùa và các ngôi nhà thờ họ. Giữa những năm 1990, không lâu sau thời điểm bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt - Nhật, Nhật Bản bắt đầu cấp kinh phí cho việc bảo tồn văn hóa của Việt Nam. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản từ trường Đại Học Showa, Tokyo đã điều tra 676 căn nhà truyền thống ở Bắc Ninh và cho rằng căn nhà của dòng họ Nguyễn Thạc là nơi cần được khôi phục nhất. Và họ đã tiến hành khôi phục lại ngôi nhà với số tiền đầu tư lên đến một triệu đôla, do Hội hợp tác quốc tế Nhật Bản tài trợ. Ngôi nhà của dòng họ Nguyễn Thạc được chọn không chỉ vì giá trị lịch sử và sự tinh xảo của lối kiến trúc dân tộc mà còn vì những bức vẽ tỉ mỉ của Gourou từ những năm 1930. Những người đứng đầu dòng họ Nguyễn Thạc, Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), nhóm nghiên cứu Nhật Bản và những người thợ thủ công lành nghề đã cùng nhau góp công sức để tôn tạo lại ngôi đền giữa năm 2001 và nó đã được UNESCO công nhận là một trong sáu ngôi nhà cổ của Việt Nam. Song song với việc tiến hành những cải cách chính trị, kinh tế, luật pháp và ngoại giao có ảnh hưởng sâu rộng trong thời kì đổi mới, thì với nguồn động viên của chính phủ, người Việt Nam đang dần khôi phục lại các yếu tố tôn giáo truyền thống và các lễ hội làng. Và tất nhiên, các giá trị văn hóa và các phong tục này vẫn sẽ tiếp tục phát triển trên nền tảng của những thay đổi của xã hội mới. Mọi người dân Việt Nam xem việc thờ cúng tổ tiên là một “truyền thống dân tộc”, có lịch sử lâu đời và được truyền từ đời này đến đời khác trên khắp đất nước. Tuy nhiên, trong suốt những năm trước cách mạng, việc thờ cúng tổ tiên được xem là công việc của từng cá nhân vì ba lý do chính. Thứ nhất, mọi nguồn lực phải huy động vào việc chiến đấu giành độc lập và xây dựng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước không khuyến khích các lễ hội tốn kém và mang nặng tính chất tôn giáo vì đất nước còn quá nghèo ,đồng thời kẻ địch có thể lợi dụng tôn giáo để làm lung lay ý chí của người dân. Thứ hai, như đã đề cập ở trên, Đảng đã tiến hành các chính sách và các cuộc vận động nhằm bại trừ nạn “mê tín dị đoan”, xoá bỏ các hủ tục như lên đồng và hoá vàng. Thứ ba, trong thời chiến, các gia đình ở phân tán và đời sống khó khăn, khó có cơ hội tập trung cả một dòng họ rất đông người để tổ chức chung các buổi lễ tưởng nhớ tổ tiên.Hình thức phổ biến nhất của những người Việt theo tục lệ thờ cúng tổ tiên là tìm những nơi kín đáo, để bày tỏ lòng biết ơn, tưởng nhớ những người đã khuất bằng những buổi cúng lễ đơn giản nhất trong phạm vi gia đình nhỏ của mình. Sau khi chiến tranh kết thúc, cùng với cả nước, làng Đình Bảng bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vào những năm 1990, khi chính phủ không còn quá khắt khe đối với các hoạt động tôn giáo thì các dòng họ trong nước bắt đầu tổ chức lại hoạt động chung của cả một đại gia đình. Nguyễn Thạc là một trong những dòng họ như vậy. Điều này chứng tỏ rằng đây là một dòng họ có sức tồn tại vững vàng qua các thập kỉ và sẽ tiếp tục trường tồn. Chính vì vậy mà nó đã lôi cuốn các nhà nghiên cứu Nhật Bản tìm kiếm và đầu tư để khôi phục. Nhờ nguồn vốn của Nhật Bản cùng với kiến thức của các nhà khoa học, những bức vẽ của người Pháp và kiến trúc của Việt Nam, hay nói đúng hơn là của dòng họ, đã được phục hồi. Làng Đình Bảng đã chỉ ra bốn đặc điểm mà sự phát triển kinh tế xã hội đã ảnh hưởng đến tôn giáo nói chung và việc thờ cũng tổ tiên nói riêng. Thứ nhất, quần chúng được tăng thu nhập, mức sống ngày càng cao, các chính sách văn hoá xã hội thoải mái đã tạo ra những điều kiện thuận lợi trong việc phục hồi các phong tục tôn giáo. Thứ hai, như đã đề cập ở trên trong trường hợp của bà Thuý về sự chênh lệch của đời sống vật chất thời hiện tại với cuộc sống nghèo túng mà cha mẹ bà trước đây đã phải trải qua, nên trong thời kinh tế thị trường con cháu có điều kiện để tỏ lòng biết ơn tổ tiên bằng các nghi lễ truyền thống như các ngày giỗ để tưởng nhớ họ. Thứ ba, xã hội phát triển không làm cho đời sống của người dân xao lãng chuyện thờ cúng tổ tiên, đại bộ phận có xu hướng “khuếch đại mối quan hệ họ hàng”, nối lại mối quan hệ đã một thời lỏng lẻo, bằng cách tổ chức những buổi làm giỗ, và các buổi thờ cúng tại các nhà thờ họ. Cuối cùng, với những cách tiếp cận thông tin trong thời hiện đại và sự hòa nhập của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế, mạng lưới tôn giáo xã hội trong thời Đổi Mới đang mở rộng thành các lĩnh vực tôn giáo trên toàn quốc, thậm chí phát triển trên toàn cầu. Một ví dụ điển hình ở đây là sự liên kết giữa hai chi khác nhau của dòng họ Nguyễn Thạc ở Bắc Ninh và Nghệ An và sự phối hợp của dòng họ với những chuyên gia nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Hạ Anh (Vietimes dịch) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 4, 2008 Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch Phần V Thứ tư, 14/11/2007, 07:00 GMT+7 Khi tôi tiến hành nghiên cứu này thì hoàn cảnh xã hội ở Việt Nam đã phức tạp hơn những năm 1980 rất nhiều. Việc thờ cúng tổ tiên cũng đã phát triển rộng và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của người Việt. Các nghi thức này không những nhằm chuyển tải những thông điệp mà còn để tỏ lòng biết ơn của những người sống đối với những người đã khuất. Ở Việt Nam bây giờ, người ta bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ bằng nhiều cách, không chỉ bằng việc thờ cúng mà còn bằng các hành động khác nữa. Hầu hết mọi người dân làng Đình Bảng ngày nay quan niệm rằng tổ tiên sống ở một thế giới khác gọi là thế giới tâm linh. Những người như bà Thuý tin vào sự linh thiêng của tổ tiên, cho rằng họ có thể thấu hiểu, bảo vệ và phù hộ cho con cháu mình. Bà Thúy quả quyết, tổ tiên đã phù hộ bà rất nhiều từ việc bảo vệ bà khỏi bị tai nạn giao thông ở trên quốc lộ 1 đến việc làm cho mối quan hệ anh em trong gia đình bà hòa thuận trở lại, từ việc giúp cháu trai bà vượt qua kì thi đến việc làm vết thương trên cổ bà mau lành. Bà Thúy tin đây là kết quả của sự quan tâm và lòng thanh kính của mình đối với tổ tiên. Những gì bà đã làm là một sự kết nối, duy trì mối quan hệ của bà đối với những người đã mất. Ông bà có thể phù hộ con cháu họ là một trong những lý do khiến mọi người coi trọng việc thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra, vẫn còn có một lý do khác buộc những người còn sống phải quan tâm đối với những người đã mất, đó là các quan niệm thuộc nền tảng đạo đức, đạo lý làm người. Đạo làm con phải “uống nước nhớ nguồn”. Không ai tự nhiên được sinh ra, không ai tự nhiên lớn lên, tất cả đều phải chịu ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và những người đi trước, “có tổ tiên mà mới có mình”. Sự biết ơn và tưởng nhớ công lao của tổ tiên chính là để thể hiện “đạo lý làm người”, một đạo lý tốt đẹp của người Việt Nam. Tưng bừng ngày hội tưởng nhớ tổ tiên của người ViệtCách thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên liên quan hệ chặt chẽ với hoàn cảnh kinh tế xã hội. Ví dụ, ngôi mộ mà gia đình bà Thúy xây dựng cho cha mẹ chứng tỏ bà có hoàn cảnh kinh tế khá giả, và bà rất tự hào vì “mọi người cho rằng nó là ngôi mộ đẹp nhất làng”. Chính điều này nhiều khi cũng gây ra không ít những sự ganh đua trong làng. Vì thế, trong nghĩa trang ngày càng mọc lên nhiều ngôi mộ rất lớn và đẹp. Tuy nhiên, giá trị thực sự của một ngôi mộ chính là ở sự thành tâm của đạo làm con. Vẻ đẹp của ngôi mộ không chỉ chứng tỏ sự thành công về mặt tài chính mà còn thể hiện sự tận tụy và tính nhân văn của một gia đình có nền tảng đạo đức tốt đẹp. Cùng với việc thờ cúng, sự quan tâm đến mồ mả cha ông của bà Thuý càng làm nổi bật lên nhân cách tốt đẹp của cá nhân bà nói riêng và gia đình bà nói chung. Bà muốn thực hiện đúng bổn phận làm con cả khi bố mẹ còn sống và khi họ đã mất. Việc thờ cúng, sự quan tâm đến mồ mả cha ông là thực hiện đúng bổn phận làm con cả khi bố mẹ còn sống và khi họ đã mất.Trong các dịp giỗ tổ của dòng họ Nguyễn Thạc, những người con còn sống đã nhấn mạnh công lao của các cha ông, từ công lao của vương phi Ngọc Long, người được xem là có công lớn trong việc tạo dựng nên bảy thế hệ có người làm quan của dòng họ đến những thành viên gần đây, những người có công phục vụ tổ quốc trong các cuộc chiến tranh giành độc lập. Tất cả tên tuổi của họ đều được ghi tại “bảng ghi công”.Công lao mang lại sự vẻ vang và danh tiếng không chỉ cho những cá nhân có liên quan mà còn cho toàn thể đại gia đình. Theo gia phả của dòng họ Nguyễn Thạc, ông Nguyễn Thạc Lượng đã có công mang lại danh tiếng cho tất cả các thế hệ ông bà đi trước và để lại phúc đức cho tất cả các thế hệ con cháu sau này. Nhà thờ họ hay ngôi đình làng Đình Bảng như chúng ta biết ngày nay được xây dựng và đã làm rạng danh trước hết là vợ chồng ông, sau đó đến dòng họ Nguyễn Thạc và đến những người trong làng. Gia phả còn ghi lời nói của ông, đại ý là những công trình do ông xây dựng bao gồm cả nhà thờ họ là di sản để lại cho cả làng chứ không phải cho một cá nhân nào cả. “Ông không màng danh lợi”, ông Sung nói và nhấn mạnh không ai có thể tìm kiếm được bất kì một dấu vết nào chứng tỏ là ông Lượng đã xây ngôi nhà này. “Không giống như ngày nay, mọi người thường khắc tên mình vào các cây cột để được ghi nhớ đến muôn đời”, ông nói với vẻ mặt nghiêm nghị, ám chỉ đến hành động mà những người “tài trợ” thường làm khi góp công khôi phục một công trình kiến trúc. Nhìn chung người làng Đình Bảng nói riêng và người Việt Nam nói chung thực sự tự hào về việc thờ cúng tổ tiên, hay nói khác hơn là việc này tạo cho họ cơ hội giao tiếp, phát triển mối quan hệ họ hàng, chia sẻ vui buồn và hợp tác với nhau vì lợi ích của cả cộng đồng. Còn nhớ buổi tối “nhận họ” của những người khách từ Nghệ An ra và những người thuộc dòng họ Nguyễn Thạc ở Bắc Ninh, một bữa ăn chung ấm cúng đã khiến họ có điều kiện nói chuyện, trao đổi ý kiến để củng cố thêm tình thân thiết họ hàng. Có thể nói, tổ tiên ông bà và những người đã mất đóng một vai trò hết sức ý nghĩa trong đời sống người Việt Nam hiện nay. Tổ tiên ông bà và những người đã mất đóng một vai trò hết sức ý nghĩa trong đời sống người Việt Nam hiện nay. Trong bài nghiên cứu này tôi đã tìm hiểu việc thờ cúng tổ tiên thời hiện đại ở Việt Nam thông qua hai con người sống cách nhau chưa đến 1km trong làng Đình Bảng, đó là bà Thúy và ông Sung.Họ đều được sinh ra trong thời loạn lạc, đều lớn lên trong thời Pháp thuộc và chiến tranh, họ đều là những thầy cô giáo. Họ là hai nhân vật điển hình trong phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt. Tuy nhiên, họ có những cách khác nhau: Bà Thúy thì tập trung củng cố mối quan hệ của mình với những người đã mất còn ông Sung thì bắt tay vào khôi phục lại một dòng họ sao cho gắn bó hơn. Tóm lại, cả hai trường hợp đều làm cho chúng ta thấy được sự ảnh hưởng của tín ngưỡng địa phương, đặc biệt là tục thờ cúng đối với cuộc sống từng gia đình. Việc thờ cúng tổ tiên trong xã hội Việt Nam hiện đại có rất nhiều hình thức khác nhau nhưng bây giờ và mãi mãi về sau nó vẫn sẽ là một truyền thống có ý nghĩa trường tồn và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống con người. Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng, một đạo lý, một truyền thống của đất nước hay chỉ là mê tín? Các cuộc tranh luận có thể đã cho chúng ta hiểu một phần nào về bản chất của nó nhưng để hiểu được thờ cúng tổ tiên có ý nghĩa như thế nào đối với đời sống con người thì chúng ta cần phải theo những vạt khói hương để quay trở lại các bàn thờ ... Hạ Anh (Vietimes) dịch Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 5, 2011 Mấy hình ảnh của bài này bị mất hết rồi, ngay cả bài Tục thờ cúng tổ tiên ngoài trang chủ cũng thế, không biết cô wild đã sưu tầm bài này từ đâu và có thể phục hồi lại hình ảnh không? Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 5, 2011 On 5/11/2011 at 14:09, 'BabyWolf' said: Mấy hình ảnh của bài này bị mất hết rồi, ngay cả bài Tục thờ cúng tổ tiên ngoài trang chủ cũng thế, không biết cô wild đã sưu tầm bài này từ đâu và có thể phục hồi lại hình ảnh không?Cần khôi phục lại bài này ngoài trang chủ. Hình ảnh của bài này chỉ mang tính minh họa. Anh chị mẹ có thể sưu tầm ảnh có nội dung tương tự và đưa vào. Nhớ ghi rõ nguồn. Thâm chí có thể bổ sung một số hình ảnh cho bài viết sinh động. Thí dụ như hình dưới đây, có thể chú thích:file:///C:/Users/THIENSU/AppData/Local/Temp/moz-screenshot-2.png Một ban thờ tổ tiên trong gia đình Việt Nam Ảnh: chuyen-do-day.blogspot.com Share this post Link to post Share on other sites