nguyen doan

Thuốc Nam Dành Cho Người Việt !

6 bài viết trong chủ đề này

Trải qua hơn 4000 năm nhân dân lạc việt ta đã đúc rút ra nhiều kinh nghiệm về sử dụng cây thuốc có ở từng địa phương ,với những phương pháp phòng, chữa bệnh và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân ta từ xưa đến nay .

Mà những cây thuốc đó không xa lạ gì với chúng ta nó ở xung quanh ta nó vườn nhà .là nguyên liệu bản địa chứ không phải nhập khẩu . Đặc điểm là thuốc nam ko cần phải nhiều công đoạn như thuốc bắc .nguyên liệu dễ kiếm và công dụng tốt.Cách chế biến .đơn giản khồng cầu kỳ và rất tiện lợi,

Nay ND xin lập topic này để mong chia sẻ kinh nghiệm góp nhặt trong dân gian để giúp mọi người có thêm kinh nghiệm trong cuộc sống .Mong mọi người có kinh nghiệm về thuốc nam đóng góp để giúp các thành viên trong diễn đàn , có được sự mở rộng về thuốc nam mà hàng nghìn năm mà cha ông ta đã dùng, để thấy được cây thuốc nam ưu việt thế nào trước hàng loạt những thuốc đông y và tây y tràn lan trên thị trường hiện nay .

Mong rằng có thể giúp được những người bệnh có hiểu biết về bệnh và sử dụng thuốc cho thích hợp.

Hy vọng có thể giúp ích được cho mọi người . NĐ cũng mong muốn và thành tâm chia sẻ và thảo luận của tất cả các thành viên trên diễn đàn.

Cây tía tô :

Tía tô tên khoa học (Perilla cymoides) họ Hoa môi(Labiatae)

Mô tả:

Cây thảo, cao 0,5- 1m. Lá mọc đối, mép khía răng, mặt dưới tím tía, có khi hai mặt đều tía, nâu hay màu xanh lục có lông nhám. Hoa nhỏ màu trắng mọc thành xim co ở đầu cành, màu trắng hay tím, mọc đối, 4 tiểu nhị không thò ra ngoài hoa. Quả bế, hình cầu. Toàn cây có tinh dầu thơm và có lông. Loài tía tô mép lá quăn (Perilla ocymoides L. var. bicolorlaciniata) có giá trị sử dụng cao hơn.

Bộ phận cùng : cả cây trừ dễ , phơi ở chỗ mát

Tính vị quy kinh :cay ,ấm vào kinh phế tỳ

Tác dụng phát tán phong hàn , lý khí.

Ứng dụng lâm sàng :

chữa cảm mạo do lạnh : Khi bị cảm, có thể dùng 100g lá tía tô tươi, cùng với 3 củ hành tươi thái nhỏ cho vào cháo ăn lúc nóng.

Gải độc:chữa viêm tuyến vú , ngộ độc do ăn tôm cua cá dùng nước lá tía tô vắt uông

Chữa đau bụng đầy trướng, khó thở dã tía tô lấy 1 bát nước và cho thêm một chút muối uống

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính đề nghị ban quản trị diễn đàn đưa mục này lên trang thảo luận hàng ngày để tất cả mọi thành viên trên diễn đàn tham gia gửi các bài thuốc nam, và chia sẻ kinh nghiệm thuốc nam của người Việt nam, chữa bệnh cho người Việt Nam. Trân trọng cảm ơn!

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mùa hè và mùa xuân thường hay gặp bệnh ghẻ ,bệnh ghẻ do một loại ký sinh trùng có tên sarcoptes scabiei hominis gây ra ,bệnh thường xuất hiện ở những vùng đông dân cư, nhà chật hẹp , thiếu vệ sinh , thiếu nước sinh hoạt . Bệnh lây từ người này qua người khác do tiếp xúc trực tiếp hoặc qua quần áo , chăn màn...

Tổn thương chính của ghẻ là các mụn nước rải rác và khu trú ở các kẽ ngón tay,đường chỉ lòng bàn tay, sinh dục, mặt trong đùi, bụng hoặc ở các vùng da mỏng .Đối với trẻ nhỏ chưa biết đi có thể thấy mụn nước ở lòng bàn chân .

Triệu chứng chính của bệnh ghẻ là ngứa và chủ yếu ngứa về đêm

Nếu không được điều trị kịp thời bệnh ghẻ có thể gây biến chứng nguy hiểm như viêm cầu thận cấp, lichen hóa , bội nhiễm và chàm hóa .

Bệnh ghẻ có thể điều trị dứt điểm bằng nhiều phương pháp:

Trong dân gian những người có kinh nghiệm thường tìm luống ghẻ,khêu cái ghẻ ,diệt hết cái ghẻ . đây là một phương pháp khá hay và chính xác .

NĐ xin đưa ra một phương pháp điều trị bằng thuốc nam rất đơn giản, hiệu quả và NĐ đã từng áp dụng cho một số người quen.

Trước tiên ta phải kiếm vỏ cây và lá cây xà cừ.

Cách dùng đem khoảng 30 gam vở cây xà cừ và nắm lá tươi ta đun với khoảng 3-5 lít nước sạch, sau đó chắt lấy nước cốt.

Bệnh nhân trước tắm sạch sẽ bằng nước xà bông , sau đó lấy nước vừa chắt tắm lại dùng từ 5 đến 7 ngày bệnh sẽ khỏi .

Lưu ý :chỉ nên lấy nước cốt để tắm ,không nên pha loãng thuốc mất tác dụng.

NĐ hy vọng đây là một phương pháp giúp ích cho mọi người.Nếu ai đó có phương pháp hay xin chia sẻ với mọi người .

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Cây mỏ quạ

Tên khoa học: Cudrania tricuspidata (Carr.) Bur, họ Dâu tằm (Moraceae).

Mô tả: Cây nhỏ, thân mềm yếu, nhiều cành, tạo thành bụi, có khi mọc thành cây nhỡ, chịu khô hạn rất khỏe, có nhựa mủ trắng, rễ hình trụ có nhiều nhánh, mọc ngang, rất dài, nếu gặp đá có thể xuyên qua được (do đó có tên xuyên phá thạch có nghĩa là phá chui qua đá). Vỏ thân màu tro nâu, trên có nhiều bì khổng màu trắng, thân và cành có rất nhiều gai, gai già hơi cong xuống trông như mỏ con quạ (do đó có tên cây mỏ quạ). Lá mọc cách, hình trứng thuôn, hai đầu nhọn, mặt lá nhẵn, bóng, mép nguyên. Nhấm có vị tê tê ở lưỡi (đặc điểm). Cụm hoa hình cầu, đường kính 7-10mm, màu vàng nhạt, mọc thành đôi hay mọc đơn độc ở kẽ lá. Hoa đơn tính, đực cái khác gốc. Mùa hoa tại Hà Nội là tháng 4. Quả màu hồng họp thành quả kép. Mùa quả tháng 10-11.

Bộ phận dùng: Lá, rễ.

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây mỏ quạ mọc hoang và được trồng làm hàng rào ở những đồi hoang hay đất vườn. Cắt lấy những đoạn thân bánh tẻ đường kính 1-2cm, dài 15-25cm, cắm nghiêng, thường xuyên tưới nước cho tới khi bén rễ thì thôi.

Thường dùng lá tươi, có khi hái cả cành về nhà mới bứt lá riêng. Còn dùng rễ, đào về rửa sạch đất, cắt thành từng mẩu 30-50cm, phơi hay sấy khô. Vỏ ngoài màu vàng đất, vết cắt màu vàng nhạt, vị hơi tê tê.

Công dụng và liều dùng

Lá mỏ quạ tươi đã được dùng chữa vết thương phần mềm theo kinh nghiệm của cụ lang Long (Hải Dương) như sau: Chủ yếu dùng lá mỏ quạ tươi, rồi tùy theo vết thương, thêm một hai vị khác. Lá mỏ quạ tươi lấy về rửa sạch, bỏ cọng, giã nhỏ đắp vào vết thương. Nếu vết thương xuyên thủng thì phải đắp cả hai bên, băng lại. Mỗi ngày rửa và thay băng một lần. Thuốc rửa vết thương là lá trầu không nấu với nước (40g lá trầu, 2 lít nước, nấu sôi để nguội, thêm vào đó 8g phèn phi, hòa tan, lọc và dùng rửa vết thương). Sau 3-5 ngày đã đỡ, khi đó hai ngày mới cần rửa và thay băng một lần.

Trường hợp vết thương tiến triển tốt nhưng lâu đầy thịt thì thay thuốc sau: Lá mỏ quạ tươi và lá thòng bong, hai vị bằng nhau, giã lẫn cả hai thứ đắp lên vết thương, mỗi ngày rửa và thay băng một lần. 3-4 ngày sau lại thay thuốc sau: lá mỏ quạ tươi, lá thòng bong, lá hàn the (Desmodium heterophyllum DC.) ba thứ bằng nhau, cứ 3 ngày mới thay băng một lần để vết thương chóng lên da non.

Sau 2-3 lần thay băng bằng 3 vị trên thì rắc lên vết thương thuốc bột chế bằng phấn cây cau (sao khô) 20g, phấn cây chè (sao khô) 16g, ô long vĩ (bồ hóng) 8g, phèn phi 4g. Các vị tán mịn, trộn đều rắc lên vết thương rồi để yên cho vết thương đóng vẩy và róc thì thôi.

Rễ được dùng trong nhân dân ta và ở Trung Quốc (Quảng Tây) làm thuốc khứ phong, hoạt huyết phá ứ, chữa ứ tích lâu năm, bị đả thương, phụ nữ kinh bế. Ngày dùng 10-30g rễ dưới dạng thuốc sắc. Theo kinh nghiệm nhân dân, phụ nữ có thai không dùng được.

GS. ÐỖ TẤT LỢI

Edited by nguyen doan

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dùng vỏ quýt để trị ho

Sắc vỏ quýt với một ít bột gừng và mật ong để uống, lấy ít vỏ quýt tươi xắt nhỏ, cho thêm một ít đường cát trắng uống như trà hàng ngày giúp trị ho hiệu quả.

Xin chia sẻ với các bạn một số cách trị ho trong dân gian đơn giản như sau:

- Lấy khoảng 5 gr vỏ quýt sắc với 2 chén nước cho thêm ít bột gừng và mật ong dùng để uống khi còn nóng.

Quả quýt

- Lấy ít vỏ quýt tươi xắt nhỏ, cho thêm một ít đường cát trắng uống như trà hàng ngày giúp trị chứng ho có đàm.

- Riêng đối với trẻ nhỏ bị ho: Xắt vài lát củ cải mỏng đem ngâm trong nước đường vài ngày. Mỗi lần dùng lấy ra một muỗng hỗn hợp này hòa với nước nóng đợi đến khi nước còn ấm ấm thì cho trẻ uống.

- Cũng có thể dùng một muỗng vừng (mè) sao khô rồi say nhuyễn, 6 gr hạnh nhân, một lát gừng sống bỏ vào nồi cho thêm 2 ly nước sắc lên. Khi dùng thì lấy một muỗng hỗn hợp ra này pha với ít mật ong để uống.

Đối với trẻ khi bị ho thường bị mất ngủ nên lấy một miếng gừng sống xắt mỏng, sao hơi khô lên rồi thoa nhẹ xung quanh cổ và vai sẽ giúp trẻ ngủ ngon.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Công dụng của lá mơ

Lá mơ, còn có các tên khác như: ngưu bì đống, khau tất ma (Tày), co tốt ma (Thái), mơ tròn, dây mơ lông, mơ tam thể, mẫu cầu đằng, ngũ hương đằng, thanh phong đằng, mao hồ lô. Do loại cây này có mùi khó ngửi còn gọi là lá “rau “dấm chó”.

Mơ là loại dây leo bằng thân quấn, sống nhiều năm. Toàn cây có lông mềm, nhất là thân, cành và lá non. Lá vò nát, có mùi khó ngửi. Thân non hơi dẹt, sau tròn, màu lục hoặc tím đỏ. Mùa ra hoa quả từ tháng 8 đến tháng 10. Cómột loài cùng họ, cũng có công dụng tương tự, chỉ khác ở chỗ có quả hình cầu, lá có màu tím đỏ ở mặt sau, gọi là mơ tam thể. Còn người dân miền núilại hay dùng cây mơ rừng, cùng họ, cũng có công dụng như mơ lông. Mơ rừng có đặc trưng khác với những loài trên ở chỗ toàn thân hầu như nhẵn, lá có gốc hình tim rõ, hoa màu hồng.

Lá mơ lông vị hơi đắng, hơi mặn, mùi hôi, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt giải độc

làm săn, sát trùng

Ở Việt Nam có 5 loài, nhưng mơ lông là loài phổ biến nhất, cây có nguồn gốc từ Ấn Độ, Malaysia. Mơ lông có thể gặp hầu hết các tỉnh (trừ vùng núi cao, trên 1.600 m). Lá mơ thường được trồng ở những hàng rào, bờ vườn hoặc bờ nương rẫy. Có nơi được trồng để làm thuốc. Mơ lông có 2 loại: loại lá màu xanh và loại mơ tam thể. Lá mơ lông vị hơi đắng, hơi mặn, mùi hôi, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt giải độc làm săn, sát trùng.

Bài thuốc từ lá mơ lông

- Chữa kiết lỵ lâu ngày: rễ mơ lông, cỏ seo gà, mã đề, đem sao qua sắc uống. Hoặc lá mơ lông tươi, cỏ nhọ nồi tươi, mỗi vị 100 gr sắc đặc chia nhiều lần uống trong ngày.

- Chữa lỵ amip và lỵ trực khuẩn: lá mơ lông 80 gr, cỏ nhọ nồi tươi 150 gr, lá đại khanh 30 gr, hạt cau 16 gr, bách bộ 12 gr, vỏ đại 8 gr, sắc đặc uống làm nhiều lần trong ngày.

- Chữa lỵ: lá mơ lông, lá trâu cổ, mỗi vị 20 gr, lá lốt, nụ sim mỗi vị 10 gr sắc uống hoặc làm viên uống ngày một thang. Hoặc lá mơ lông 30 gr, cỏ sữa 25 gr, rau sam 20 gr, hạt cau khô, vỏ măng cụt mỗi vị 10 gr, thổ phục linh, bạch thược mỗi vị 5 gr sắc uống ngày 1 thang. Hoặc tán nhỏ mỗi lần uống 8 gr, ngày uống 3 lần.

- Chữa tiêu chảy ra máu: lá mơ tam thể, rau sam, cây cứt lợn (mỗi vị 6 gr), đọt cà ăn quả 15 gr, xuyên tâm liên 4 gr. Sắc uống mỗi ngày một thang.

- Chữa ho gà: lá mơ tam thể 150 gr, bách bộ, cỏ mần trầu, rễ chanh, cỏ nhọ nồi, rau má, mỗi vị 250 gr, cam thảo dây 150 gr, trần bì 100 gr, gừng 50 gr, đường kính vừa đủ. Cho vào 6 lít nước, trộn lẫn rồi đun sôi còn 1 lít. Chia ra ngày uống 2-3 lần.

- Một số người còn dùng loại lá xanh không lông để chữa men gan tăng trong các bệnh viêm gan. Mỗi lần dùng 20-25 gr lá tươi, đem rửa sạch, xay nghiền nát gạn lấy nước khoảng độ 250-300 ml, ngày uống 2 lần sáng và tối, thời gian uống từ 5-7 ngày liên tục.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay