Thiên Sứ

Khoa Học Và Giả Khoa Học

3 bài viết trong chủ đề này

Chúng tôi lập đề tài này để bàn về những gía trị đích thực của khái niệm khoa học, tđó mới xác định được thế nào là khoa học thật sự và thế nào là giả khoa học, cũng như thế nào là lừa đảo trong khoa học và thất bại trong nghiên cứu khoa học.

Hy vọng đề tài này sẽ được những nhà khoa học thực sự quan tâm.

Vấn đề được đặt ra , bắt đầu từ 2 bài viết dưới đây:

=========================

Hậu quả khi biến khoa học thành “một doanh nghiệp lớn”

Cập nhật lúc 14:21, 21/03/2013

(ĐVO)- Brian Martinson, nhà xã hội học trực tiếp thực hiện cuộc khảo sát đầu tiên ở quy mô lớn về những hành vi sai trái trong khoa học năm 2005 của Tổ chức HealthPartners Research Foundation cho biết, những giả mạo trong nghiên cứu do khoa học hiện nay đã có sự thay đổi lớn trong khả năng cạnh tranh dành tài trợ và áp lực thương mại hóa sản phẩm của các nhà khoa học.

Việc biến khoa học thành “một doanh nghiệp lớn” đã không lường trước được một số quy tắc trong khoa học không phù hợp với mô hình này.

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Đại học New South Wales (Úc), trong tháng 2/2013, có bài phân tích về chủ đề này đăng tải trên vnmed.net cho thấy, khoa học hiện đại hiện đang chịu sự chi phối bởi ‘hai thế lực đứng đằng sau’ là chính phủ và các công ty kĩ nghệ lớn. Cả hai cung cấp kinh phí cho hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học và là nguồn nuôi sống các nhà khoa học. Đáng lưu ý hiện có gần 80% các nghiên cứu lâm sàng y học do các công ty dược tài trợ. Phần lớn các nghiên cứu khoa học tiến hành trong bộ đôi quyền lực này lại có các tiêu chuẩn khoa học bị thay đổi liên tục, nhiều khi không theo những nguyên tắc ‘khoa học’ mà chỉ thích nghi với môi trường thực tế.

Posted Image

Nhà khoa học phải chịu hoàn toàn lỗi trong gian lận nghiên cứu?

Đồng quan điểm, Giáo sư Ferric Fang tại Khoa Y học, Đại học Washington cũng cho rằng, mức độ tài trợ cho khoa học ngày nay không đủ đã tạo ra một cuộc cạnh tranh cao. Nếu phát triển được nguồn lực tốt hỗ trợ các đơn vị khoa học thì sẽ không chỉ làm giảm các hành vi sai trái mà còn cải thiện cuộc sống của tất cả các nhà khoa học và cho phép họ dành nhiều thời gian vào giải quyết các vấn đề nghiên cứu thay vì việc phải xoay sở tìm các quỹ tài trợ.

Số kinh phí tài trợ hạn hẹp, cộng với cuộc sống mưu sinh, duy trì nghề nghiệp của nhà khoa học, lại cộng thêm những khiếm khuyết trong hệ thống bình duyệt đề tài nghiên cứu và bài báo khoa học.

Ở không ít nước, muốn nhận được tài trợ thì các nhà khoa học phải công bố được các công trình khoa học, cụ thể là các bài báo trên những tạp chí uy tín như Nature chẳng hạn.

Áp lực bài báo và kinh phí tài trợ sẽ khiến các tác giả dễ theo xu hướng chứng minh tính khả thi của giả thuyết đưa ra, thậm chí ngay cả khi có những bất ổn thực tế trong nghiên cứu. Theo một thống kê ước tính từ năm 1990 đến năm 2007, số báo cáo khoa học hỗ trợ giả thuyết nghiên cứu tăng cao lên đến 22%.

Khâu đánh giá đề tài để tài trợ cũng tồn tại sự không công bằng. Trong khi một bộ phận người làm khoa học trở nên giàu hơn thì phần còn lại không nhận được gì. Cứ cho là vậy thì vẫn còn khâu kiểm tra, bình duyệt các bài báo khoa học trước khi được đăng tải trên các tập san khoa học chuyên môn nữa.

Nhưng, cơ chế kiểm duyệt cũng tồn tại không ít khiếm khuyết. Hội đồng biên tập phải có chuyên môn sâu, mất nhiều thời gian để kiểm duyệt trong khi lại ít ưu đãi cho người biên tập.

Ngoài ra, hội đồng không phải ai cũng có trách nhiệm làm việc này, thậm chí còn có sự liên kết ‘ngầm’ trong xuất bản bài báo khoa học.

Đặc biệt, sự xuất hiện hàng loạt các tạp chí giả, hiện tượng mua bán bài báo, đứng tên để được nổi tiếng, thiếu cơ chế bảo vệ cho người tố giác những sai phạm…đã góp phần làm tăng sự dối trá trong khoa học.

Nếu sự suy đồi đạo đức trong nghiên cứu là trách nhiệm của nhà khoa học thì có thể nói hệ thống chính sách, bình duyệt trong khoa học cũng góp phần không nhỏ dẫn đến những sai trái đang diễn ra tràn lan hiện nay trong khoa học.

Quá trình vực lại niềm tin cho công chúng đối với khoa học đòi hỏi sự cải tổ của cả hai chiều cạnh: nhà khoa học và cơ chế.

Khánh Hưng (Theo Washingtonpost/Guardian/Vnmed.net)

=========================

Định nghĩa lại sai phạm trong khoa học

Daniele Fanelli

tiasang.com.vn

01:42-15/03/2013

Để giảm sai phạm trong khoa học, cần đảm bảo rằng nhà nghiên cứu không thể nói dối bằng cách cố tình cung cấp thiếu thông tin.

Posted Image

Tác giả bài viết Daniele Fanelli

Trước tình trạng những kết quả nghiên cứu sai sót, thiên lệch, và giả mạo, sự ứng phó của cộng đồng khoa học hiện nay còn rất yếu. Chỉ có những trường hợp nghiêm trọng quá mức là bị phát hiện và trừng trị, còn những trường hợp sai phạm ở mức độ nhẹ hơn hầu như lọt lưới, và cho đến nay hầu như chưa có một giải pháp nào chống lại những công bố thiên lệch. Vì vậy tại hội nghị toàn cầu lần thứ 3 về Đạo đức Nghiên cứu sẽ được tổ chức tại Montreal, Canada từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 5 năm 2013 tới đây, các đại biểu sẽ thảo luận về những giải pháp cho vấn đề này.

Trên tạp chí Nature và nhiều diễn đàn khoa học khác, người ta thường đưa ra những đề xuất như cải thiện công tác hướng dẫn và đào tạo, cho phép nhà nghiên cứu công bố những kết quả không hợp lý (negative result). Nhằm giảm thiểu những trường hợp các nhà nghiên cứu bóp méo thông tin để đạt được những kết quả có vẻ hợp lý, giảm nhẹ áp lực đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có công bố, yêu cầu đăng ký trước thông tin về các công trình nghiên cứu1, tập huấn về đạo đức, và đảm bảo những chế tài trừng phạt nghiêm khắc.

Tất cả những điều trên đều quan trọng, tuy nhiên dường như người ta đã quá đề cao lợi ích của việc tác động tới tâm trí của nhà nghiên cứu mà quên mất rằng những kiến thức khoa học là đáng tin cậy không phải vì các nhà khoa học thông minh, khách quan hay trung thực hơn những người khác, mà bởi những phát kiến của họ luôn được công khai đối diện với sự phê bình và các thử nghiệm độc lập tái hiện lại quy trình tiến hành nghiên cứu. Do đó chìa khóa chống lại sai phạm trong khoa học không phải chỉ chú tâm vào [kiểm soát/đánh giá] hành vi của các nhà khoa học, mà nên tập trung vào [kiểm soát/đánh giá] những sản phẩm thông tin mà họ cung cấp.

Với việc định nghĩa sự sai phạm trong khoa học căn cứ trên các hành vi của nhà nghiên cứu, như cách làm hiện nay ở mọi quốc gia, chúng ta buộc phải dựa vào những người đứng ra tố cáo để phát hiện ra sai phạm, trừ khi sự sai phạm ấy tự thân bộc lộ một cách hiển nhiên ngay trên những gì được tác giả công bố. Rất hiếm khi những trường hợp sai phạm có người đứng ra làm chứng; và nhiều cuộc điều tra cho thấy rằng khi người ta biết một hành vi sai trái của một đồng nghiệp, họ hiếm khi trình báo. Những người làm công tác thanh tra do đó đối mặt với một nhiệm vụ khó khăn là làm sao tái hiện được những gì mà một nhà khoa học đã làm, xác minh được rằng hành vi ấy là sai so với những quy chuẩn trong hoạt động nghiên cứu, và xác định liệu sự sai lệch ấy có nhằm mục đích lừa dối hay không. Khó khăn ấy khiến chỉ có một số ít những trường hợp rõ ràng nhất bị phơi bày.

Ví dụ như vụ bê bối của Diederik Stapel, nhà tâm lý học người Hà Lan từng có không ít tiếng tăm, tới năm ngoái bị người ta phát hiện đã ngụy tạo dữ liệu nghiên cứu trong gần 20 năm. Ông ta đã làm điều đó bằng cách nào? Thứ nhất, Stapel luôn luôn tự mình thu thập các dữ liệu, qua đó loại trừ hoàn toàn khả năng có nhân chứng. Thứ hai, các nhà nghiên cứu khác không có động cơ để thực hiện lại những thí nghiệm của ông ta, và nếu có làm thì họ cũng không đủ thông tin để lý giải sự khác biệt trong kết quả với những kết luận trong nghiên cứu của Stapel. Và thứ ba, quan trọng nhất, là Stapel hoàn toàn được phép không cung cấp trong công bố của mình những chi tiết cụ thể có khả năng bộc lộ những gian dối và sai sót trong thống kê.

Nhằm giải quyết vấn đề này, đầu tiên chúng ta cần tái định nghĩa sự sai phạm trong khoa học: “đó là tất cả những sự cung cấp thiếu hoặc gây hiểu nhầm các thông tin cần và đủ cho việc thẩm định tính chính xác và tầm quan trọng của nghiên cứu, ở mức độ phù hợp cần thiết với bối cảnh của nghiên cứu được công bố”.

Một số người sẽ cho rằng định nghĩa này quá rộng. Tuy nhiên, nó không hề rộng hơn so với định nghĩa về sự giả mạo được Văn phòng Chính sách Khoa học và Công nghệ Hoa Kỳ sử dụng: “Ngụy tạo các nguyên liệu, phương tiện hay quá trình nghiên cứu; hoặc thay đổi hay bỏ qua những dữ liệu, kết quả, khiến cho việc nghiên cứu không được phản ánh chính xác trong biên bản nghiên cứu”. Định nghĩa này chỉ ra một cách rõ ràng rằng khi nào có một sự khác nhau giữa những gì được báo cáo và những gì nhà nghiên cứu đã làm trong thực tế, thì đó là sai phạm trong khoa học.

Nhiệm vụ chính của các biên tập viên và các trọng tài là bảo đảm rằng các nhà nghiên cứu tuân theo những quy định về báo cáo thông tin. Họ phải hướng dẫn các nhà nghiên cứu làm theo những bản hướng dẫn thích hợp, thậm chí trước cả khi việc nghiên cứu được bắt đầu, và bảo đảm rằng mọi thông tin chi tiết cần thiết đều được cung cấp đầy đủ theo yêu cầu quy định trong bản hướng dẫn. Nếu tác giả từ chối hay không thể tuân theo, bài báo (hoặc đơn đăng ký tài trợ kinh phí) của họ sẽ bị từ chối. Mỗi công bố khoa học cần nêu rõ quá trình nghiên cứu tuân theo những bản hướng dẫn nào.

Bằng việc thống nhất các quy định báo cáo thông tin, sự công bằng được nâng cao, trong khi quyền tự chủ trong khoa học vẫn được đảm bảo. Ví dụ như nhà khoa học vẫn được toàn quyền quyết định liệu có cần dò tìm qua các phép thử nhằm đạt được ý nghĩa thống kê như mong muốn (“fishing” for statistical significance) hay không, nhưng bản hướng dẫn sẽ yêu cầu nhà khoa học phải cung cấp danh sách mọi phép thử được thực hiện, qua đó cho phép độc giả nhận biết được nguy cơ về những kết quả thống kê không khách quan.

Những bản hướng dẫn được biên soạn cẩn trọng có thể khiến việc ngụy tạo và đạo văn trở nên khó khăn hơn, bằng cách yêu cầu công bố những chi tiết có thể kiểm chứng. Những chi tiết ấy sẽ giúp phát hiện những dấu hiệu đáng nghi vấn như bỏ quên tên tác giả (ghost authorship: bỏ qua không ghi nhận công lao của người có cống hiến quan trọng cho nghiên cứu được công bố), lợi dụng các trợ lý, giả thuyết hậu nghiệm (post hoc hypotheses: đặt ra giả thuyết mang tính chữa cháy nhằm hợp lý hóa dữ liệu thu được), hoặc cố tình loại bỏ những dữ liệu thống kê ngoài mong muốn của tác giả.

Các bản hướng dẫn vừa là tài liệu học tập cho các nghiên cứu sinh, vừa giúp họ luyện tập bằng cách thực hiện lại các nghiên cứu đã được công bố. Nên có những quỹ đặc biệt dành riêng cho những người độc lập tiến hành tái thử nghiệm những kết quả nghiên cứu chưa được thẩm định lại.

Cách nỗ lực phòng chống các sai phạm trong khoa học hiện nay đang bị lạc mục tiêu: cộng đồng khoa học đang cố gắng kiểm soát hoạt động nghiên cứu theo cách giống như kiểm soát hoạt động ở những ngành nghề khác, trong khi nghiên cứu khoa học có đặc thù hoàn toàn khác. Độ tin cậy của các “sản phẩm” khoa học được đảm bảo không phải do hoạt động của từng cá nhân, mà phải thông qua một tiến trình đối thoại tập thể.

Hữu Quang dịch theo bài viết của Daniele Fanelli, Nature số 494, 149 (ngày 14 tháng Hai năm 2013)

http://www.nature.co...porting-1.12411

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tham khảo một trường hợp về khái niệm khoa học và nghiên cứu khoa học từ trường đại học Mỏ - Địa chất.

============================================================

Khái niệm Khoa Học và Nghiên cứu khoa học

KHOA HỌC

Là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết mới, … về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này, tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp. Thí dụ: Quan niệm thực vật là vật thể không có cảm giác được thay thế bằng quan niệm thực vật có cảm nhận.

Như vậy, khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội. Phân biệt ra 2 hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệmtri thức khoa học.

  • Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Quá trình nầy giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý thiên nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con người trong xã hội. Tri thức kinh nghiệm được con người không ngừng sử dụng và phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thật sự đi sâu vào bản chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ bên trong giữa sự vật và con người. Vì vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng tri thức kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.
  • Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt động NCKH, các họat động nầy có mục tiêu xác định và sử dụng phương pháp khoa học. Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học (discipline) như: triết học, sử học, kinh tế học, toán học, sinh học,…
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Là một họat động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt được từ các thí nghiệm NCKH để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Con người muốn làm NCKH phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rèn luyện cách làm việc tự lực, có phương pháp từ lúc ngồi trên ghế nhà trường.

nguồn: http://www.humg.edu.vn

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tham khảo một trường hợp về khái niệm khoa học và nghiên cứu khoa học từ trường đại học Mỏ - Địa chất.

============================================================

Khái niệm Khoa Học và Nghiên cứu khoa học

KHOA HỌC

Là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết mới, … về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này, tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp. Thí dụ: Quan niệm thực vật là vật thể không có cảm giác được thay thế bằng quan niệm thực vật có cảm nhận.

Như vậy, khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội. Phân biệt ra 2 hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệmtri thức khoa học.

  • Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Quá trình nầy giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý thiên nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con người trong xã hội. Tri thức kinh nghiệm được con người không ngừng sử dụng và phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thật sự đi sâu vào bản chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ bên trong giữa sự vật và con người. Vì vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng tri thức kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.
  • Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt động NCKH, các họat động nầy có mục tiêu xác định và sử dụng phương pháp khoa học. Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học (discipline) như: triết học, sử học, kinh tế học, toán học, sinh học,…
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Là một họat động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt được từ các thí nghiệm NCKH để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Con người muốn làm NCKH phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rèn luyện cách làm việc tự lực, có phương pháp từ lúc ngồi trên ghế nhà trường.

nguồn: http://www.humg.edu.vn

Là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết mới, … về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này, tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp.

Thế thì cái khoa học này bắt đầu từ bao giờ?

Hay nhỉ? Đưa ra khái niệm trên là dựa vào "cơ sở khoa học" nào?Đã được "khoa học công nhận" chưa"?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay