Lãn Miên

Nôm Là Văn Lang

21 bài viết trong chủ đề này

HOA NGỮ TỪ ĐÂU ĐẾN?

Tác Giả: Phan Châu Hồng nguồn http://phanchauhong.com/lich-su/nguon-goc-hoa-ngu/

Ghi chú: Bài viết này nguyên là một phần tách ra từ bài viết “Tiêng Việt và Hoa ngữ có xuât xứ khác nhau” để độc giả dễ đọc và dể phân biệt hơn.

Theo nghiên cứu của Stephen Oppenheimer viết trong sách Eden in the East của ông, thì hiện nay nhiều nhà ngôn ngữ học đã đồng thuận: Trong vùng Viễn Đông có đến 3 ngữ hệ lớn, là Hoa-Tạng (Sino-Tibetan), Nam Á (Austro-Asiatic) và Nam Đảo (Austronesian); ngoài ra, còn có một ngữ hệ thứ tư là Austro-Tai, tức nhóm Tai-Kadai, nhưng mối quan hệ lai lịch chưa rõ ràng lắm.[1]

Còn theo nghiên cứu của Roger Blench viết trong luận đề “Stratification in the peopling of China: how far does the linguistic evidence match genetics and archaeology?” mà ông đã đọc tại diễn đàn Human migrations in continental East Asia and Taiwan: genetic, linguistic and archaeological evidence ở Geneva ngày 10-13/6/2004, thì chỉ riêng trên đất nước Trung Hoa cũng đã có đến 8 ngữ hệ khác nhau. Đó là các ngữ hệ: Hoa-Tạng (Sino-Tibetan) hay Tạng-Miến (Tibeto-Burman), Mèo-Dao (Hmong-Mien), Altaic (như tiếng Turkic, Mongolic, Tungusic), Daic, tức Tai-Kadai hay Kradai, Nam Á (Austroasiatic), Nam Đảo (Austronesian), Indo-European (như tiếng Wakhi, Tajik, Russian…), và Triều Tiên (Korean), Riêng tiếng “Waxianghua” chưa được phân loại.[2]

Hoa ngữ với mối quan hệ Hoa-Tạng

Cũng theo nghiên cứu của Oppenheimer, thì ngữ hệ Hoa-Tạng (Sino-Tibetan phylum) gồm hơn 300 ngôn ngữ, được hơn một tỉ người nói, chỉ đứng hạng nhì sau ngữ hệ Ấn-Âu (Indo-European), và chia thành hai phân hệ chính yếu: phân hệ Hoa Hán (Sinitic subphylum) và phân hệ Tạng-Miến (Tibeto-Burmese subphylum).

Phân hệ Hoa Hán gồm 14 phương ngữ lớn. Trong đó, tiếng Quan Thoại được xem là ngôn ngữ quốc gia chính thức và phổ biến nhất, mà nguồn gốc của nó xuất phát từ phía Bắc sông Hoàng Hà. Tuy nhiên, 14 phương ngữ của phân hệ Hoa Hán này đã không thể hiểu nhau, nên phải dùng duy nhất chữ Hán để biết ý nghĩa của nhau. Tất cả đều ĐƠN ÂM (monosyllabic) và ĐA THANH (tonal), và KHÁC với các thứ tiếng của những hệ ngôn ngữ khác trên thế giới, như Ấn-Âu và Nam Đảo đều ĐA ÂM (polysyllabic) và ĐƠN THANH (monotonal or atonal).

Riêng nhóm phương ngữ ở miền Nam Trung Quốc, gồm cả tiếng Quảng Đông hoặc còn gọi là Việt ngữ, được nói lan rộng xuyên suốt các vùng dọc bờ biển Thái Bình, từ Korea xuống đến tận Việt Nam, và chiếm một diện tích hơn nửa lãnh thổ Trung Quốc.

Còn phân hệ Tạng-Miến có quê quán xuất phát từ Tây Tạng, Tây Tứ Xuyên, Vân Nam, và vùng đầu nguồn của các con sông lớn Brahmaputra, Irrawaddy, Cửu Long và Dương Tử, và cũng được nói rộng khắp từ các vùng Tây Tạng, Đông-Bắc Ấn Độ, đến các vùng Miến Điện và Tây-Nam Trung Quốc.

Nghiên cứu còn cho biết, mặc dù hai phân hệ Hoa Hán và Tạng-Miến được đa số các nhà ngôn ngữ học đồng thuận gộp chung thành “họ hàng” với nhau; nhưng không phải vì thế mà những cư dân nói các phân hệ này đều có chung nguồn gốc. Vì xét về mặt di truyền thể lẫn diện mạo bề ngoài, họ xuất phát từ nhiều nguồn gốc khác nhau.

Chẳng hạn, di truyền thể của người miền Nam Trung Quốc và người miền Nam Tây Tạng GẦN GŨI VỚI CÁC CƯ DÂN NÓI NGÔN NGỮ NAM Á và TAI-KADAI hơn, so với các cư dân Bắc Hán nói tiếng Quan Thoại. Còn sọ não của các cư dân phía Nam Tây Tạng và vùng thung lủng đầu nguồn của các con sông lớn đều có khuynh hướng hình dạng tròn (brachycephalic), giống với người Nam Á và Đông Á. Trong khi ấy sọ não của các cư dân sống du mục thảo nguyên ở phía Bắc Tây Tạng và các gia đình quí phái ở Lhasa lại có hình dạng dài (dolichocephalic), giống với người Thổ Nhĩ Kì và châu Ấu. (Oppenheimer, sđd, tr. 126- .

Cũng cần nói thêm ở đây, các kết quả khảo sát “DNA” do nhà di truyền học Bing Su và các đồng nghiệp của ông thực hiện gần đây cũng cho biết nhiễm sắc thể Y của tộc người Tây Tạng có nhiều nguồn gốc xuất phát từ Trung Á và Đông Á (Su, Bing, et al., 2000).[7]

Hoa ngữ không phát sinh khởi thủy ở Trung Quốc

Gần đây, đã có nhiều nhà ngôn ngữ học bắt đầu nghi ngờ về mối liên hệ gia phả của ngữ hệ Hoa-Tạng. Theo nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học George Van Driem, Hoa ngữ tuy được kể thuộc họ hàng với các ngôn ngữ Tạng-Miến, nhưng là ngôn ngữ không phát sinh ở giai đoạn khởi thủy: vì nó tỏ ra KÉM PHÂN HÓA ĐA DẠNG so với các ngôn ngữ khác của nhóm Tạng-Miến. Do đó, qua gợi ý của các nhà ngôn ngữ học khác, như Benedict, Shafer, Burling, và Bradley, George Van Driem đã đồng tình đề nghị THAY TÊN NGỮ HỆ HOA-TẠNG THÀNH NGỮ HỆ TẠNG-MIẾN.[8]

Còn Roger Blench, cũng trong bài tham luận của ông vừa đề cập ở trên, đã đặt nghi vấn về mối liên hệ gia phả Hoa-Tạng và đã nhận xét: “chính sự phân loại bên trong của ngữ hệ Hoa-Tạng còn nhiều điều mâu thuẫn tranh cãi [...]. Lí do là vì Hoa ngữ KHÔNG CÓ TÍNH ĐA DẠNG NHIỀU so với các ngôn ngữ còn lại của ngữ hệ Hoa-Tạng, và đó có thể là do sự bành trướng của Hoa ngữ chỉ mới xảy ra gần đây mà thôi.”

Thật vậy, cũng theo Roger Blench, “Những gì chúng ta biết về Hoa ngữ cho thấy sự bành trướng của Hoa tộc chỉ mới xảy ra gần đây mà thôi; cho nên, gần như không có một văn hóa khảo cổ học xa xưa nào trước thời điểm này chứng tỏ có mối quan hệ với các cư dân nói Hoa ngữ hiện nay.”

Rồi ông giải thích tiếp, “cho dù lai lịch Hoa ngữ bắt nguồn từ đâu trong hệ Hoa-Tạng; nhưng có một sự công nhận rộng rãi, đó là sự bành trướng của Hán ngữ đi dần từ Bắc xuống Nam, từ khu vực trồng lúa kê đến khu vực trồng lúa nước, và đã trấn áp đồng hóa các thành phần cư dân bản địa rất đa dạng. Tuy nhiên, Hoa Hán VẪN KHÔNG THỂ ĐỒNG HÓA CĂN CƯỚC của những cư dân thuộc các khu vực cộng đồng cổ xưa nhất ở miền Bắc Trung Quốc (từ 6.500 năm trước).”

Để dẫn chứng điều này, Tiến sĩ Roger Blench còn cho biết thêm: “Nghiên cứu khảo cổ học của Nhật Bản gần đây về các thành phố cổ xưa ở Trung Quốc, như Pengtoushan (khoảng 6500-5800 TCN), cho thấy chúng KHÔNG THUỘC DI SẢN HOA HÁN, nhưng thuộc di sản của người Mèo-Dao.”

Cùng một quan điểm như thế, nhà khảo cổ học Hoa Kì Bellwood cũng tin tưởng rằng những di tích trồng lúa nước có tính cách đại trà ở Hemudu (Hà Mẫu Độ ), gần khu vực cửa sông Dương Tử, đã xảy ra giữa 7.000 và 5.600 năm trước, CÓ NGUỒN GỐC VĂN HÓA NAM ĐẢO (Oppenheimer, sđd, tr. 69).

Hoặc như nghiên cứu của Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II, Giáo sư nhân chủng học Đại học Hawaii, thì cả văn hóa Ngưỡng Thiều ở mền Bắc lẫn văn hóa Long Sơn ở miền Nam Trung Quốc đều phát triển từ những căn bản VĂN HÓA HÒA BÌNH.[9]

Như vậy, qua các dẫn chứng và lập luận trên, chúng ta nhận thấy: Hoa ngữ KHÔNG LÀ NGÔN NGỮ BẢN ĐỊA TIÊN KHỞI ở Trung Quốc, nhưng là do đồng hóa căn cước với những nhóm ngôn ngữ bản địa khác, như Việt, Mèo, Dao, Thái, v.v…, để dần dà biến thái và “khai sinh” thuộc nhóm ngôn ngữ Hoa-Tạng – với sự bảo lưu cấu trúc của cách nói Hoa Hán, mà ngày nay chúng ta được biết với tên gọi là Quan Thoại.

Nói khác đi, Hoa Hán ngữ không hoàn toàn là tiếng mẹ đẻ của Hoa Hán tộc, nhưng là tổng hợp vay mượn của nhiều ngôn ngữ của các tộc người bản địa KHÁC HOA TỘC đã “hiện diện trên đất nước Trung Hoa trước người Trung Hoa”.

Và có thể đã là lí do khiến John DeFrancis, tác giả sách The Chinese Language: Fact and Fantasy, đã phải thốt ra những lời nhận xét chua cay nhưng xác thực: “Không có tiếng Trung Hoa, chỉ có một nhóm những tiếng nói quan hệ với nhau, mà một số người này gọi là những tiếng nói địa phương hay còn gọi là phương ngữ, còn người khác lại xem như những ngôn ngữ riêng biệt.”[10]

Tóm lại và kết luận

Như vậy, qua những nghiên cứu trên, chúng ta nhận thấy Hoa ngữ không là ngôn ngữ phát sinh khởi thủy ở Trung Quốc, nhưng chỉ là một ngôn ngữ “sinh sau đẻ muộn” so với nhiều ngôn ngữ địa phương khác. Tuy nhiên, nhờ ưu thế chính trị và nhất là nhờ khả năng vay mượn và đồng hóa với các ngôn ngữ của các tộc người địa khác, mà Hoa ngữ đã dần dà chiếm ưu thế và “thay hình đổi dạng” để chính thức biến thành tiếng nói quốc gia, gọi là Hoa Hán ngữ hay còn gọi là tiếng Quan Thoại.

Ngoài ra, cũng qua những khái quát ngôn ngữ học ở trên, chúng ta đã KHÔNG HỀ THẤY MỐI LIÊN HỆ HUYẾT TỘC NÀO giữa tiếng Việt và tiếng Trung Hoa, vì những lí do chủ yếu mà chúng tôi xin lặp lại sau đây:

Điểm 1, Hoa ngữ tuy xưa nay được xem như ở trong ngữ hệ Hoa-Tạng và cũng được xem như đứng đầu của hệ này, nhưng mối quan hệ này gần đây đã bị nghi ngờ. Lí do là vì không có mối quan hệ huyết tộc, mà chỉ có mối quan hệ chính trị lịch sử (do chủ trương đồng hóa) mà thôi.

Điểm 2, trong khi tiếng Việt Nam đã được nhìn nhận, chẳng những có MỐI LIÊN HỆ DI TRUYỀN THỂ gần gũi với nhóm Việt ngữ bên Trung Quốc, mà còn có nguồn gốc di truyền thể với cả hai ngữ hệ Nam Á và Nam Đảo. Đây là điều đã phản ảnh trong các truyền thuyết “con Rồng cháu Tiên” hoặc Phục Hi và Nữ Oa hoặc Âu Cơ và Lạc Long Quân, để nói lên một quá trình kết hợp và lai chủng giữa hai nền văn hóa sông biển và núi rừng của khối dân tộc Việt.

Và điểm 3, cho đến nay các phương ngữ ở Hoa Nam vẫn còn mang “khai sinh” Việt ngữ, tức đã có nguồn gốc xuất phát KHÁC với Hoa ngữ Quan Thoại. Trong lúc ấy, tiếng Việt Nam vẫn một mình một chợ ở tận phía Nam bên này biên giới Trung Quốc, nhưng lại có họ hàng với các phương ngữ ấy – mặc dù đã xa nhau cả về không gian lẫn thời gian.

Lãn Miên Trả lời bài trên:

Nôm chính là Văn Lang

Qua bài “Chữ Nôm có trước chữ Hán” của Đỗ Thành blog Nhạn Nam Phi viết về chữ Gươm khắc trên chuôi gươm của Việt Vương Câu Tiễn, qua ký tự biểu ý khắc trên xẻng đá khai quật ở Quảng Tây của người Âu Việt có niên đại cách nay 7000 năm, và qua tồn tại của chữ Nôm Tày, Nôm Dao, Nôm Việt Đông thì rõ thêm là chữ Nôm có trước khi hình thành chính thức chữ Hán. Các tộc dùng chữ Nôm đều viết bản thân cái từ Nôm là Nôm 口南. Theo biến âm bằng QT Lướt thì “Nam Gồm”=Nôm, vậy Nôm có nghĩa là chữ viết của gồm nhiều tộc người Việt phương Nam. Theo biểu ý thì chữ Nôm là Vuông口 Nam南 tức Văn Lang: Vuông 口 (phát âm của người Triều Châu, xưa thuộc đất Việt Mân) = Văn 文 (viết lệch đi của chữ Vuông 口, theo như giải thích của Thuyết Văn Giải Tự cách nay 2000 năm ) = Vẹn (vì vuông có bốn ven, “Ven Ven”=Vèn, 0+0=1; “Vèn Vèn”=Vẹn, 1+1=0) = Vạnh (thành ngữ “Tròn Trặn Vuông Vắn, nói kết cấu xen là “Tròn Vành Vạnh, Vuông Chằn Chặn”; như Cu Tí Lâu Viễn nói xen thành Cu Lâu Tí Viễn, “Cu Lâu”=Câu, “Tí Viễn”=Tiễn, họ của Việt Vương Câu Tiễn có thuyết cho là hậu duệ của Đại Vũ, nước Việt hậu duệ dân tộc Bách Việt này tồn tại 8 đời vua là hết, giống Lý bát đế sau này,con số thật huyền bí) = Manh = Mảnh (tiếng Việt Đông). Nam = Lam (tên của sông Cả, tức sông Cha, thành ngữ “Núi Hồng sông Lam”, ngọc phả Hùng Vương viết “Kinh Dương Vương quê ở Ngàn Hống” tức dãy núi Hồng Lĩnh) = Lâm (tiếng Đài Loan đọc chữ Nam南) = Lang. Vậy rõ ràng NÔM là Văn Lang. Thành ngữ “Nôm Na là cha mach qué”, Tám Quẻ và Quẻ Dịch là hai loại quẻ, “Quẻ Quẻ”=Que, 1+1=0, hai loại que để bói ( “Biết do Coi”=Bói) nên “Que Que”=Qué ). Nôm Na nghĩa là Văn Lang Nói, cũng như Thoòng Và là Thường Van, tức tụi Việt Thường nó Nói. Cũng giống như người Nhật nói “Ni Hôn Gô” tức Nhật Bản Gọi, người Đài Loan nói “Tai Wan Gí” tức Đài Loan Gọi. Na=Nói=Gọi=”Gọi Lời”=Gợi=Ới. Tiếng Nhật Ha-Na-Xư nghĩa là Nói. Ới=Gọi, “Có gì mày Ới cho tao một tiếng nhá”. Gọi nhiều thì “Ới Ới”=ƠI, 1+1=0. Em không gọi “Trai ơi !” thì em gọi “Chài ơi !” (tiếng Tày-Thái), gọi “Chàng ơi !”, gọi “Choòng ơi !”(tiếng Quảng Nôm), gọi “Boòng ơi !” (tiếng Khơ Me). Từ Điển Tiếng Việt giải thích “Ơi là từ dùng để kêu, đặt sau vị ngữ”. Xạo. Muốn dịch câu “Bạn ơi” ra tiếng nước ngoài phải dịch chính xác là “Bạn à, tôi muốn gọi bạn nhiều lắm đấy” . Ới mới là Gọi, Ơi nghĩa là muốn gọi nhiều. “Làm gì mà ơi ới ở ngoài ấy thế ?” nghĩa là “Làm gì mà muốn gọi nhiều và đang gọi ở ngoài ấy thế?”. Hò=Hô=Gọi, hò đò là gọi đò. “Hô Ới”=Hỡi, sắc thái thống thiết hơn là Ơi. Sông Lam là sông Cả. Cả=Cha=Ta=Tía=Tia. Người Hoa gọi Cha là Tia, gọi mẹ là Néng. “Lẹo Néng”=Léng, “Phụ lẹo Néng”=Phéng. Léng Phéng là chỉ sự giao hợp ngoại tình.”Quan hệ gì thì quan hệ, đừng có mà léng phéng đấy nhé!”.

Share this post


Link to post
Share on other sites

HOA NGỮ TỪ ĐÂU ĐẾN?

Tác Giả: Phan Châu Hồng nguồn http://phanchauhong.com/lich-su/nguon-goc-hoa-ngu/

Ghi chú: Bài viết này nguyên là một phần tách ra từ bài viết “Tiêng Việt và Hoa ngữ có xuât xứ khác nhau” để độc giả dễ đọc và dể phân biệt hơn.

Theo nghiên cứu của Stephen Oppenheimer viết trong sách Eden in the East của ông, thì hiện nay nhiều nhà ngôn ngữ học đã đồng thuận: Trong vùng Viễn Đông có đến 3 ngữ hệ lớn, là Hoa-Tạng (Sino-Tibetan), Nam Á (Austro-Asiatic) và Nam Đảo (Austronesian); ngoài ra, còn có một ngữ hệ thứ tư là Austro-Tai, tức nhóm Tai-Kadai, nhưng mối quan hệ lai lịch chưa rõ ràng lắm.[1]

Còn theo nghiên cứu của Roger Blench viết trong luận đề “Stratification in the peopling of China: how far does the linguistic evidence match genetics and archaeology?” mà ông đã đọc tại diễn đàn Human migrations in continental East Asia and Taiwan: genetic, linguistic and archaeological evidence ở Geneva ngày 10-13/6/2004, thì chỉ riêng trên đất nước Trung Hoa cũng đã có đến 8 ngữ hệ khác nhau. Đó là các ngữ hệ: Hoa-Tạng (Sino-Tibetan) hay Tạng-Miến (Tibeto-Burman), Mèo-Dao (Hmong-Mien), Altaic (như tiếng Turkic, Mongolic, Tungusic), Daic, tức Tai-Kadai hay Kradai, Nam Á (Austroasiatic), Nam Đảo (Austronesian), Indo-European (như tiếng Wakhi, Tajik, Russian…), và Triều Tiên (Korean), Riêng tiếng “Waxianghua” chưa được phân loại.[2]

Hoa ngữ với mối quan hệ Hoa-Tạng

Cũng theo nghiên cứu của Oppenheimer, thì ngữ hệ Hoa-Tạng (Sino-Tibetan phylum) gồm hơn 300 ngôn ngữ, được hơn một tỉ người nói, chỉ đứng hạng nhì sau ngữ hệ Ấn-Âu (Indo-European), và chia thành hai phân hệ chính yếu: phân hệ Hoa Hán (Sinitic subphylum) và phân hệ Tạng-Miến (Tibeto-Burmese subphylum).

Phân hệ Hoa Hán gồm 14 phương ngữ lớn. Trong đó, tiếng Quan Thoại được xem là ngôn ngữ quốc gia chính thức và phổ biến nhất, mà nguồn gốc của nó xuất phát từ phía Bắc sông Hoàng Hà. Tuy nhiên, 14 phương ngữ của phân hệ Hoa Hán này đã không thể hiểu nhau, nên phải dùng duy nhất chữ Hán để biết ý nghĩa của nhau. Tất cả đều ĐƠN ÂM (monosyllabic) và ĐA THANH (tonal), và KHÁC với các thứ tiếng của những hệ ngôn ngữ khác trên thế giới, như Ấn-Âu và Nam Đảo đều ĐA ÂM (polysyllabic) và ĐƠN THANH (monotonal or atonal).

Riêng nhóm phương ngữ ở miền Nam Trung Quốc, gồm cả tiếng Quảng Đông hoặc còn gọi là Việt ngữ, được nói lan rộng xuyên suốt các vùng dọc bờ biển Thái Bình, từ Korea xuống đến tận Việt Nam, và chiếm một diện tích hơn nửa lãnh thổ Trung Quốc.

Còn phân hệ Tạng-Miến có quê quán xuất phát từ Tây Tạng, Tây Tứ Xuyên, Vân Nam, và vùng đầu nguồn của các con sông lớn Brahmaputra, Irrawaddy, Cửu Long và Dương Tử, và cũng được nói rộng khắp từ các vùng Tây Tạng, Đông-Bắc Ấn Độ, đến các vùng Miến Điện và Tây-Nam Trung Quốc.

Nghiên cứu còn cho biết, mặc dù hai phân hệ Hoa Hán và Tạng-Miến được đa số các nhà ngôn ngữ học đồng thuận gộp chung thành “họ hàng” với nhau; nhưng không phải vì thế mà những cư dân nói các phân hệ này đều có chung nguồn gốc. Vì xét về mặt di truyền thể lẫn diện mạo bề ngoài, họ xuất phát từ nhiều nguồn gốc khác nhau.

Chẳng hạn, di truyền thể của người miền Nam Trung Quốc và người miền Nam Tây Tạng GẦN GŨI VỚI CÁC CƯ DÂN NÓI NGÔN NGỮ NAM Á và TAI-KADAI hơn, so với các cư dân Bắc Hán nói tiếng Quan Thoại. Còn sọ não của các cư dân phía Nam Tây Tạng và vùng thung lủng đầu nguồn của các con sông lớn đều có khuynh hướng hình dạng tròn (brachycephalic), giống với người Nam Á và Đông Á. Trong khi ấy sọ não của các cư dân sống du mục thảo nguyên ở phía Bắc Tây Tạng và các gia đình quí phái ở Lhasa lại có hình dạng dài (dolichocephalic), giống với người Thổ Nhĩ Kì và châu Ấu. (Oppenheimer, sđd, tr. 126- .

Cũng cần nói thêm ở đây, các kết quả khảo sát “DNA” do nhà di truyền học Bing Su và các đồng nghiệp của ông thực hiện gần đây cũng cho biết nhiễm sắc thể Y của tộc người Tây Tạng có nhiều nguồn gốc xuất phát từ Trung Á và Đông Á (Su, Bing, et al., 2000).[7]

Hoa ngữ không phát sinh khởi thủy ở Trung Quốc

Gần đây, đã có nhiều nhà ngôn ngữ học bắt đầu nghi ngờ về mối liên hệ gia phả của ngữ hệ Hoa-Tạng. Theo nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học George Van Driem, Hoa ngữ tuy được kể thuộc họ hàng với các ngôn ngữ Tạng-Miến, nhưng là ngôn ngữ không phát sinh ở giai đoạn khởi thủy: vì nó tỏ ra KÉM PHÂN HÓA ĐA DẠNG so với các ngôn ngữ khác của nhóm Tạng-Miến. Do đó, qua gợi ý của các nhà ngôn ngữ học khác, như Benedict, Shafer, Burling, và Bradley, George Van Driem đã đồng tình đề nghị THAY TÊN NGỮ HỆ HOA-TẠNG THÀNH NGỮ HỆ TẠNG-MIẾN.[8]

Còn Roger Blench, cũng trong bài tham luận của ông vừa đề cập ở trên, đã đặt nghi vấn về mối liên hệ gia phả Hoa-Tạng và đã nhận xét: “chính sự phân loại bên trong của ngữ hệ Hoa-Tạng còn nhiều điều mâu thuẫn tranh cãi [...]. Lí do là vì Hoa ngữ KHÔNG CÓ TÍNH ĐA DẠNG NHIỀU so với các ngôn ngữ còn lại của ngữ hệ Hoa-Tạng, và đó có thể là do sự bành trướng của Hoa ngữ chỉ mới xảy ra gần đây mà thôi.”

Thật vậy, cũng theo Roger Blench, “Những gì chúng ta biết về Hoa ngữ cho thấy sự bành trướng của Hoa tộc chỉ mới xảy ra gần đây mà thôi; cho nên, gần như không có một văn hóa khảo cổ học xa xưa nào trước thời điểm này chứng tỏ có mối quan hệ với các cư dân nói Hoa ngữ hiện nay.”

Rồi ông giải thích tiếp, “cho dù lai lịch Hoa ngữ bắt nguồn từ đâu trong hệ Hoa-Tạng; nhưng có một sự công nhận rộng rãi, đó là sự bành trướng của Hán ngữ đi dần từ Bắc xuống Nam, từ khu vực trồng lúa kê đến khu vực trồng lúa nước, và đã trấn áp đồng hóa các thành phần cư dân bản địa rất đa dạng. Tuy nhiên, Hoa Hán VẪN KHÔNG THỂ ĐỒNG HÓA CĂN CƯỚC của những cư dân thuộc các khu vực cộng đồng cổ xưa nhất ở miền Bắc Trung Quốc (từ 6.500 năm trước).”

Để dẫn chứng điều này, Tiến sĩ Roger Blench còn cho biết thêm: “Nghiên cứu khảo cổ học của Nhật Bản gần đây về các thành phố cổ xưa ở Trung Quốc, như Pengtoushan (khoảng 6500-5800 TCN), cho thấy chúng KHÔNG THUỘC DI SẢN HOA HÁN, nhưng thuộc di sản của người Mèo-Dao.”

Cùng một quan điểm như thế, nhà khảo cổ học Hoa Kì Bellwood cũng tin tưởng rằng những di tích trồng lúa nước có tính cách đại trà ở Hemudu (Hà Mẫu Độ ), gần khu vực cửa sông Dương Tử, đã xảy ra giữa 7.000 và 5.600 năm trước, CÓ NGUỒN GỐC VĂN HÓA NAM ĐẢO (Oppenheimer, sđd, tr. 69).

Hoặc như nghiên cứu của Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II, Giáo sư nhân chủng học Đại học Hawaii, thì cả văn hóa Ngưỡng Thiều ở mền Bắc lẫn văn hóa Long Sơn ở miền Nam Trung Quốc đều phát triển từ những căn bản VĂN HÓA HÒA BÌNH.[9]

Như vậy, qua các dẫn chứng và lập luận trên, chúng ta nhận thấy: Hoa ngữ KHÔNG LÀ NGÔN NGỮ BẢN ĐỊA TIÊN KHỞI ở Trung Quốc, nhưng là do đồng hóa căn cước với những nhóm ngôn ngữ bản địa khác, như Việt, Mèo, Dao, Thái, v.v…, để dần dà biến thái và “khai sinh” thuộc nhóm ngôn ngữ Hoa-Tạng – với sự bảo lưu cấu trúc của cách nói Hoa Hán, mà ngày nay chúng ta được biết với tên gọi là Quan Thoại.

Nói khác đi, Hoa Hán ngữ không hoàn toàn là tiếng mẹ đẻ của Hoa Hán tộc, nhưng là tổng hợp vay mượn của nhiều ngôn ngữ của các tộc người bản địa KHÁC HOA TỘC đã “hiện diện trên đất nước Trung Hoa trước người Trung Hoa”.

Và có thể đã là lí do khiến John DeFrancis, tác giả sách The Chinese Language: Fact and Fantasy, đã phải thốt ra những lời nhận xét chua cay nhưng xác thực: “Không có tiếng Trung Hoa, chỉ có một nhóm những tiếng nói quan hệ với nhau, mà một số người này gọi là những tiếng nói địa phương hay còn gọi là phương ngữ, còn người khác lại xem như những ngôn ngữ riêng biệt.”[10]

Tóm lại và kết luận

Như vậy, qua những nghiên cứu trên, chúng ta nhận thấy Hoa ngữ không là ngôn ngữ phát sinh khởi thủy ở Trung Quốc, nhưng chỉ là một ngôn ngữ “sinh sau đẻ muộn” so với nhiều ngôn ngữ địa phương khác. Tuy nhiên, nhờ ưu thế chính trị và nhất là nhờ khả năng vay mượn và đồng hóa với các ngôn ngữ của các tộc người địa khác, mà Hoa ngữ đã dần dà chiếm ưu thế và “thay hình đổi dạng” để chính thức biến thành tiếng nói quốc gia, gọi là Hoa Hán ngữ hay còn gọi là tiếng Quan Thoại.

Ngoài ra, cũng qua những khái quát ngôn ngữ học ở trên, chúng ta đã KHÔNG HỀ THẤY MỐI LIÊN HỆ HUYẾT TỘC NÀO giữa tiếng Việt và tiếng Trung Hoa, vì những lí do chủ yếu mà chúng tôi xin lặp lại sau đây:

Điểm 1, Hoa ngữ tuy xưa nay được xem như ở trong ngữ hệ Hoa-Tạng và cũng được xem như đứng đầu của hệ này, nhưng mối quan hệ này gần đây đã bị nghi ngờ. Lí do là vì không có mối quan hệ huyết tộc, mà chỉ có mối quan hệ chính trị lịch sử (do chủ trương đồng hóa) mà thôi.

Điểm 2, trong khi tiếng Việt Nam đã được nhìn nhận, chẳng những có MỐI LIÊN HỆ DI TRUYỀN THỂ gần gũi với nhóm Việt ngữ bên Trung Quốc, mà còn có nguồn gốc di truyền thể với cả hai ngữ hệ Nam Á và Nam Đảo. Đây là điều đã phản ảnh trong các truyền thuyết “con Rồng cháu Tiên” hoặc Phục Hi và Nữ Oa hoặc Âu Cơ và Lạc Long Quân, để nói lên một quá trình kết hợp và lai chủng giữa hai nền văn hóa sông biển và núi rừng của khối dân tộc Việt.

Và điểm 3, cho đến nay các phương ngữ ở Hoa Nam vẫn còn mang “khai sinh” Việt ngữ, tức đã có nguồn gốc xuất phát KHÁC với Hoa ngữ Quan Thoại. Trong lúc ấy, tiếng Việt Nam vẫn một mình một chợ ở tận phía Nam bên này biên giới Trung Quốc, nhưng lại có họ hàng với các phương ngữ ấy – mặc dù đã xa nhau cả về không gian lẫn thời gian.

Lãn Miên Trả lời bài trên:

Nôm chính là Văn Lang

Qua bài “Chữ Nôm có trước chữ Hán” của Đỗ Thành blog Nhạn Nam Phi viết về chữ Gươm khắc trên chuôi gươm của Việt Vương Câu Tiễn, qua ký tự biểu ý khắc trên xẻng đá khai quật ở Quảng Tây của người Âu Việt có niên đại cách nay 7000 năm, và qua tồn tại của chữ Nôm Tày, Nôm Dao, Nôm Việt Đông thì rõ thêm là chữ Nôm có trước khi hình thành chính thức chữ Hán. Các tộc dùng chữ Nôm đều viết bản thân cái từ Nôm là Nôm 口南. Theo biến âm bằng QT Lướt thì “Nam Gồm”=Nôm, vậy Nôm có nghĩa là chữ viết của gồm nhiều tộc người Việt phương Nam. Theo biểu ý thì chữ Nôm là Vuông口 Nam南 tức Văn Lang: Vuông 口 (phát âm của người Triều Châu, xưa thuộc đất Việt Mân) = Văn 文 (viết lệch đi của chữ Vuông 口, theo như giải thích của Thuyết Văn Giải Tự cách nay 2000 năm ) = Vẹn (vì vuông có bốn ven, “Ven Ven”=Vèn, 0+0=1; “Vèn Vèn”=Vẹn, 1+1=0) = Vạnh (thành ngữ “Tròn Trặn Vuông Vắn, nói kết cấu xen là “Tròn Vành Vạnh, Vuông Chằn Chặn”; như Cu Tí Lâu Viễn nói xen thành Cu Lâu Tí Viễn, “Cu Lâu”=Câu, “Tí Viễn”=Tiễn, họ của Việt Vương Câu Tiễn có thuyết cho là hậu duệ của Đại Vũ, nước Việt hậu duệ dân tộc Bách Việt này tồn tại 8 đời vua là hết, giống Lý bát đế sau này,con số thật huyền bí) = Manh = Mảnh (tiếng Việt Đông). Nam = Lam (tên của sông Cả, tức sông Cha, thành ngữ “Núi Hồng sông Lam”, ngọc phả Hùng Vương viết “Kinh Dương Vương quê ở Ngàn Hống” tức dãy núi Hồng Lĩnh) = Lâm (tiếng Đài Loan đọc chữ Nam南) = Lang. Vậy rõ ràng NÔM là Văn Lang. Thành ngữ “Nôm Na là cha mach qué”, Tám Quẻ và Quẻ Dịch là hai loại quẻ, “Quẻ Quẻ”=Que, 1+1=0, hai loại que để bói ( “Biết do Coi”=Bói) nên “Que Que”=Qué ). Nôm Na nghĩa là Văn Lang Nói, cũng như Thoòng Và là Thường Van, tức tụi Việt Thường nó Nói. Cũng giống như người Nhật nói “Ni Hôn Gô” tức Nhật Bản Gọi, người Đài Loan nói “Tai Wan Gí” tức Đài Loan Gọi. Na=Nói=Gọi=”Gọi Lời”=Gợi=Ới. Tiếng Nhật Ha-Na-Xư nghĩa là Nói. Ới=Gọi, “Có gì mày Ới cho tao một tiếng nhá”. Gọi nhiều thì “Ới Ới”=ƠI, 1+1=0. Em không gọi “Trai ơi !” thì em gọi “Chài ơi !” (tiếng Tày-Thái), gọi “Chàng ơi !”, gọi “Choòng ơi !”(tiếng Quảng Nôm), gọi “Boòng ơi !” (tiếng Khơ Me). Từ Điển Tiếng Việt giải thích “Ơi là từ dùng để kêu, đặt sau vị ngữ”. Xạo. Muốn dịch câu “Bạn ơi” ra tiếng nước ngoài phải dịch chính xác là “Bạn à, tôi muốn gọi bạn nhiều lắm đấy” . Ới mới là Gọi, Ơi nghĩa là muốn gọi nhiều. “Làm gì mà ơi ới ở ngoài ấy thế ?” nghĩa là “Làm gì mà muốn gọi nhiều và đang gọi ở ngoài ấy thế?”. Hò=Hô=Gọi, hò đò là gọi đò. “Hô Ới”=Hỡi, sắc thái thống thiết hơn là Ơi. Sông Lam là sông Cả. Cả=Cha=Ta=Tía=Tia. Người Hoa gọi Cha là Tia, gọi mẹ là Néng. “Lẹo Néng”=Léng, “Phụ lẹo Néng”=Phéng. Léng Phéng là chỉ sự giao hợp ngoại tình.”Quan hệ gì thì quan hệ, đừng có mà léng phéng đấy nhé!”.

Trời=Tròn=Hòn=Hoàn丸=Woàn=Wờn=Viên 圓(Hòn bi = Viên bi, Hoàn tễ = =Viên tễ. Trái=Trời=Trăng=Tròn là nói các thiên thể có hình cầu. Khi nói Tròn là kết quả cảm nhận nhìn theo một mặt phẳng. Soi mặt xuống nước thấy gì không? Thấy hình bóng Mình. Có Mình mới có Hình, Mình=Hình. Hình 形là một. từ thuần Việt do từ Mình, vì “Một Kinh”=Mình là cách tự xưng của người Kinh . Nhưng Việt nho viết biểu ý là hai cái Minh, Minh dương (chữ Nhật日, nghĩa là ánh sáng của thiên thể Trời ) và Minh âm (chữ Nguyệt月 nghĩa là ánh sáng của thiên thể Trăng. Ánh sáng có là do “Ngày Trời”=Ngời, Ngời=Nguyệt=Nhiệt=Nhật đều là chỉ ánh sáng. Còn Đêm=Đắm= Tăm, mà “Tăm Trời”=Tối, không còn ánh sáng nữa) , hai Minh thì mới tạo nên được Một Mình.Vì “Minh Minh”=Mình, 0+0=1, và “Mình Mình”=Minh, 1+1=0, đúng thuật toán nhị phân. “Ta với mình tuy hai mà một. Mình với ta tuy một mà hai”, cho nên “Mình Mình”=Minh明, 1=+1=0, nghĩa là càng sáng, hợp vợ chồng là sáng. “Thuận vợ thuận chồng biển Đông tát cạn”. Chẳng có ngôn ngữ nào như tiếng Việt, vợ gọi chồng “Mình ơi !”, chồng gọi lại vợ “Mình ơi !”. Quan thoại không có từ Mình, tiếng Việt gọi xuôi Hình Mình thì Quan thoại gọi ngược là Thân Ảnh. Lướt “Hình vật nhìn theo mọi mặt cắt qua tâm đều thấy Tròn”= “Hình… Tròn”=Hòn, vật ấy gọi là Hòn. Lướt “Cái hòn là cái mà nhìn theo mọi phía đều thấy giống quả Bầu”= “Cái.. .Bầu”=Cầu, vật ấy gọi là quả Cầu. Đó là trò chơi đá Cầu của người Việt. Lướt “Cầu thì đương nhiên nhìn nó Tròn”= =“Cầu…Tròn”=Còn, vật ấy gọi là quả Còn. Đó là trò chơi tung Còn của người Việt. Ba thiên thể Trời, Trăng, Trái là mắt cảm nhận thấy nó gần nhất. Thiên thể Sao là vì cảm nhận thấy nó ở Sâu xa trong Bao la nên “Sâu trong Bao”=Sao. Bao la thì nó đúng nghĩa là Bao/La vì nó kết cấu là Âm/Dương như Mô/Một, Không/Một, Đóng/ Mở, Nấp/Đi, đều là do cái miệng Việt phát âm bằng động tác Ngậm và Toang cặp môi, đối nghịch nhau ( Quan thoại gọi Âm/ Dương là Yin/Yáng, cặp môi đều mở toang, không có tính đối nghịch phù hợp động tác). Trong tiếng Việt thì mới tìm ra được cái “NÔI khái niệm”, là cái quả cầu tổ chửa để sinh ra mọi khái niệm ngôn ngữ ( “To Ổ”=Tổ ). Nó là cái Ổ (chữ Ô ở giữa) , có hai thành phần cấu tạo là thành phần N - ngẫu nhiên trùng Negative=Âm , và thành phần I – ngẫu nhiên trùng Innegative=Dương. Hình dung nhỏ thì NÔI như là cái hòn nguyên tử của điện, tức nó có NÔI=Nội lực, nó NÔI=Nóng, nó có tiềm năng để NÔI=Nổ, hễ nổ thì nó ắt NÔI=Nở tung tóe ra. Lướt “Tung tóe ra khắp các chỗ Khác”=Tạc, tức nó sẽ “Trào Ra”=Tra, giống như tra cồn sát trùng vào vết thương phải “Trải Ra”=Tra rộng ra xung quanh (khi gieo vãi thóc giống ra khắp cánh đồng, người ta gọi đó là một “Tra Tra”=Trà, 0+0=1, Trà lúa, cùng sạ một loại hạt cùng một lúc gọi là trồng đại trà). Quan thoại mượn âm “Tra” (pinyin: “zha”) để đọc chữ Tạc của nho, để chỉ cái ý là Nổ, âm Tạc và Tra chỉ là hệ quả của Nổ do NÔI. NÔI là cái hòn Nổ, cho nên trời nổ thì xưa dùng từ “Lơi Nôi”=Lôi. Quẻ Lôi Địa Dự sẽ còn Nổ ra khối thứ. (Cổ xưa từ tiếng Mường:Blơi=Lơi=Lời=Trời=Giời, là một Giới, gọi là Thượng Giới ( Trời=Trên=Lên=Then=Thiên= Thượng ). Từ cổ Côi Lời = Trên Trời, Cấp Trên= Cấp Côi, vì Trời=Trồi=Côi. Lôi bản thân chứa nhiều nguyên tử điện nên nó là Lắm=Lẫm=Sấm (Lẫm là cái kho đựng nhiều hạt thóc). Sấm=Đấm=Đẩn=Chấn là cái Nôi khái niệm công năng của Lôi, tức của Sấm. Người ta bị sấm đánh thì vừa bị đốt nóng vừa bị sức ép, do Sấm=Đấm=Đẩn=Đánh=Đá=Đả=Tả=Tẩn (Quan thoại chỉ dùng một chữ Tả), lúc đó người ngã ngửa ra mà chết, không chết cũng bị Chấn thương. Quẻ Chấn trong bát quái là từ cái nôi nào mà ra đấy? Dòng giống là do “NÔI Lòi”=Nòi. Vật dụng gần gũi của giống nòi Việt là cái “NÔI Tròn”=Nón, cái “NÔI đun nước Sôi”=Nồi, cái “NÔI đựng con mới đẻ của Tôi”=Nôi. Đứa trẻ nằm trong cái Nôi ấy, nghe lời ru của mẹ mà cái “Mồm biết nói Tiếng”=Miệng của nó mới Nổ ra biết bao lời Nói. (Lớn lên đi làm quan nó còn hay Nổ người ta, gọi là “chém gió”). Tiếng=Thiêng=Thanh=Danh. Thanh Danh nghĩa là tự khoe mình, như con đom đóm khoe sáng, Đom Đóm=Điểm=Tiệm=Tên (cửa hàng, công ty chú ý mà đặt tên cho đúng Âm Dương Ngũ Hành). “Chửi cha không bằng pha tiếng”. Tiếng (ngôn ngữ) là cái thiêng liêng nhất để giữ gìn văn hóa dân tộc. “To Gốc”=Tộc; To=Có=Họ=Hữu; mẫu hệ “Theo họ Mị”=Thị. Mẹ=Mệ=Mế=Mị, Mệ Nàng = Mị Nương (tộc mẫu hệ chạy ra đảo Sumatra thời Hai Bà Trưng là tộc Minangcabau=Mệ Nàng Cả Bào). Các vua nước Kinh Sở đều là họ Mi, lên làm vua mới xưng là Hữu Hùng Thị, ý là hậu duệ của họ Hùng xưa, thời còn là mẫu hệ, đời vua nào cũng xưng là Hùng nọ Hùng kia, truyền 18 đời thì hết, con số cũng huyền bí). Cái NÔI Lạc Việt đã phát triển thành nền văn minh Văng Lang, rực rỡ 5000 năm trước ở nam Dương Tử . Dương Tử = Dòng Cả, đặt tên vậy vì vẫn còn nhớ Sông Cả xưa. Krông=Sông=Kông=Khoỏng=Dòng=Dõng (tiếng Phiên Ngung)=Giang=Kang (tiếng Triều Châu)=Kênh=Kinh. Kênh Lạch = Kinh Lạc, có từ kỷ Thần Nông. Vật từ NÔI còn có NÔI=Nan (cái nan tre)=Đan=Đan Lát ( đan bằng lạt dang)=Làn. Cái Nôi đan bằng nan tre, Quan thoại gọi là cái Làn Lắc (dao làn, pinyin:”yáolán”) nên cụm từ Cái Nôi Cách Mạng thì quan thoại dịch là Cái Làn Lắc Cách Mạng. NÔI thì nó mới Nổ được để Nở ra khắp nơi chứ “làn lắc” thì làm sao mà Nổ được để mà Nở. NÔI Lạc Việt đã phát triển hàng vạn năm nền văn minh lúa nước để thời tiền sử là nền văn minh Văn Lang rực rỡ 5000 năm trước ở nam Dương Tử.NÔI=Nền văn minh ấy đã Nổ, Nổ ắt biến mất, nhưng các mảnh vỡ của nền văn minh ấy Nở tung tóe (Tạc) đã tạc dấu ấn dày đặc ở ĐNÁ, và rải rác xa hơn khắp thế giới. Nhìn Khi thấy, hay thấy Khi nhìn?Có thấy mới nhìn được chứ mù làm sao nhìn?. Từ “Khi” tiếng Nhật là “Ki”, viết bằng chữ nho Thì 時. Thấy khi nhìn và nhìn thì thấy được. Không chịu nhìn nhận sự thật lịch sử thì như mù. Lời Phật: Pháp Luân Tự Địa, Vật Đảo Như Nguyên 法 論 似 地,物 倒 如 原 (câu này tôi vừa được một cụ nông dân không biết chữ Hán dạy cho tại núi rừng Trường Sơn, hôm đi lang thang gọi là Du Xuân, Đi=Di=Dịch=Du=Do=Đo=Đi, nên tôi không biết trích nguồn của sách nào hay của tiến sĩ “từ Hán Việt” nào). Pháp của Phật mà còn lăn như quả địa cầu, tức luôn thay đổi vị trí góc nhìn mới thấy được toàn thể, như nhà nhiếp ảnh chụp một vật với mọi chỗ đứng góc nhìn thay đổi mới lấy được hết cái đẹp của vật. Chứ không phải đứng xơ cứng một vị trí, gọi là “dựa trên nền tảng…” mà luận văn tốt nghiệp nào của hàng bao thế hệ sinh viên đều có lặp lại câu đó y như thầy đã dạy, có vậy nghe mới Nổ, và được thêm điểm cao hơn của ai lỡ quên đưa câu ấy vào vì sẽ bị đánh giá là mất lập trường. Vật Đảo Như Nguyên thì như câu sau này của bài Từ trong lời Tựa cuốn sách Tam Quốc Diễn Nghĩa là “Thị Phi Thành Bại Chuyển Đầu Không”. Tâm của Phật là Không, không Thiện, không Ác, mới thấy được hết. Cái vòng tổng quát ấy là như cái NÔI, như bà Vanga nói: “Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay lại với nhân loại”.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lịch sử Văn Lang trong truyền thuyết đang bị kẹt tại: phía Nam giáp Hồ Tôn. Hồ Tôn được cho là nước Chiêm Thành, tuy nhiên chưa học giả nào chứng minh được.

Kính nhờ Bác chiết tự chữ "Hán" giùm: Hồ Tôn không biết là??? - có lẽ là bước đầu tìm hiểu ý nghĩa.

Trân trọng cảm ơn!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lịch sử Văn Lang trong truyền thuyết đang bị kẹt tại: phía Nam giáp Hồ Tôn. Hồ Tôn được cho là nước Chiêm Thành, tuy nhiên chưa học giả nào chứng minh được.

Kính nhờ Bác chiết tự chữ "Hán" giùm: Hồ Tôn không biết là??? - có lẽ là bước đầu tìm hiểu ý nghĩa.

Trân trọng cảm ơn!

Tôi nghĩ phải gọi Chiêm Thành là Hồ Tôn mới đúng. Hồ Tôn có trước Chiêm Thành cả nửa thiên niên kỷ.

Theo tôi chữ Hồ Tôn rất rõ:

- Hồ là người Hồ, người Hời. Chuyện Lý Ông Trọng gọi là người ... Hung Nô (thiết Hồ).

- Tôn là chỉ phía Nam (Tâng, Tân).

Hồ Tôn là người Hồ ở phía Nam nước Văn Lang.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hàng 5000 năm năm về trước và 5000 năm về sau, vật đổi, sao rời. Nước trước đây là Hồ Tôn, nhưng sau gọi là gì và lãnh thổ đến đâu không có văn bản lịch sử ghi lai, rất khó thẩm định.

Share this post


Link to post
Share on other sites

ề nước Hồ Tôn Tinh, Lĩnh Nam chích quái viết: Xưa kia bên ngoài lãnh thổ Âu Lạc có một vương quốc mang tên Diệu Nghiêm¹. Vị vua của vương quốc này là Tràng Minh, hiệu Quỷ Vương (Dasanana) có mười đầu. Phía bắc vương quốc này có một vương quốc khác tên Hồ Tôn Tinh² do vua Dasaratha cai trị. Hoàng tử Chung Tư (Rama), người kế vị vua Dasaratha, có một người vợ là công chúa Bạch Tinh (Sita). Công chúa Bạch Tinh có một sắc đẹp tuyệt trần không giống người phàm. Quỷ Vương, mê hồn trước sắc đẹp của Bạch Tinh, mang binh sang đánh nước Hồ Tôn Tinh và cướp công chúa về nước. Hoàng tử Chung Tư, quá căm giận, dẫn đầu một đoàn hầu binh xẻ núi băng biển tiến vào vương quốc Diệu Nghiêm, giết chết Quỷ Vương, đưa công chúa Bạch Tinh về. Theo nhận xét của Huber trong La Légende du Ramayana en Annam, Etudes indochinoises thì Hồ Tôn Tinh có thể là vương quốc Chăm Pa cổ. Những quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ thời đó đều có sự tích giống nhau, tại Indonesia trong các đền thờ đạo Bà-la-môn lớn đều khắc truyện thần thoại này trên tường đá. Chuyện Quỷ Vương có mười đầu có lẽ chỉ là cách miêu tả thô thiển ngai vàng của các vị vua trong thần thoại Ấn ĐộPhù Nam thường có hình rắn hổ mang (naja) mười đầu.

Như vậy: chúng ta chú ý, có thể Lĩnh Nam Chích Quái lấy cốt truyện của đạo Bà La Môn, đặc biệt Phật Hoàng Trần Nhân Tông có "du hý" ở Chiêm Thành đến 6 tháng.

[

Nguyễn Lục Gia: Từ Hồ Tôn quốc đến Tiểu vương quốc Aryaru

Posted on 31.10.2012 by Sara (Trường THPT Trần Quốc Tuấn – Phú Hòa – Phú Yên)

Posted Image* Majoan (Nguyễn Lục Gia) & Inrasara trình diễn thơ - Đồi Thơm – Tuy Hòa, 4-2012

[Từ khi bước vào thời kỳ chính sử (qua nguồn thư tịch Trung Hoa), vị trí của Hồ Tôn quốc đã bị lu mờ so với tiến trình dồn dập lên phía Bắc của vương quốc Lâm Ấp. Thế kỷ VIII, khi trung tâm dịch chuyển về phía Nam trong vùng đồng bằng Panduranga, Aryaru đã không được chú ý so với xứ Kauthara giàu có kế bên. Đến lúc lập đô tại Indrapura và từ năm 1000 ở Vijaya, Aryaru lần nữa bị phủ bóng bởi chức năng hàng đầu của kinh thành bên cạnh. Cuối cùng, nó được xem như là đất nằm giữa các thế lực tranh chấp cho đến khi trở thành một đơn vị hành chính cấp phủ của Đàng trong năm 1611.

Tuy nhiên, với đặc trưng chính trị tản quyền, vai trò tự chủ của các tiểu vương quốc Campapura nói chung rất lớn. Lịch sử của đa số các tiểu vương quốc này trên dưới 15 thế kỷ, tuy không biết đến một cách tường tận, song vẫn được nhận diện dựa theo một vài mảnh sử liệu sót lại. Nếu như những cái tên Sinhapura, Indrapura, Amaravati, Vijaya hay Kauthara, Panduranga có vẻ quen thuộc trong các công trình khảo cứu của người Pháp thì Hồ Tôn hay Aryaru cơ chừng lạ lẫm, bởi như lời của nhà Dân tộc học Nguyễn Văn Huy, sự hiện diện của tiểu vương quốc này trong lịch sử Champa không rõ ràng. Làm sáng tỏ vấn đề Hồ Tôn - Aryaru như thế nào để trả nó về với lịch sử Champa một cách xứng đáng?].

Đặc trưng địa – chính trị tiểu vùng Aryaru.

Nhà nước Champa (Campapura) hợp nhất theo hình thức liên bang từ các tiểu vương quốc khác nhau chạy dọc dài phía Nam dãy Hoành Sơn đến Bình Thuận trong thời kỳ cực thịnh về mặt lãnh thổ, có thể kể ra: Indrapura (Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Quảng Ngãi và Bình Định), Aryaru (Phú Yên), Kauthara (Khánh Hòa), Panduranga (Ninh Thuận và Bình Thuận), chưa tính vùng thượng nguyên rộng lớn nằm ẩn sau các dãy núi xa về phía Tây. Mỗi tiểu vương quốc ứng với một số lượng cư dân nhất định, sinh hoạt độc lập và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, mà trong đó có thể còn có sự phân quyền nhỏ hơn nữa giữa các lãnh chúa địa phương. Vương quyền trung ương Champa chỉ đóng vai trò thần quyền, gìn giữ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, kêu gọi sự đóng góp về mặt nhân tài – vật lực để xây cất đền đài và thành lũy, chuẩn bị chiến tranh hay triều cống các thế lực hùng mạnh kề bên. Nói cách khác, thể chế chính trị của nhà nước Champa được tổ chức trên nguyên tắc tản quyền.

Tiểu vương quốc Aryaru nằm trong vùng thung lũng sông Ba và sông Cái, được chắn ở hai đầu theo hướng Bắc – Nam là hai dãy núi cao hiểm trở Cù Mông và Đại Lĩnh. Vào thời kỳ lập quốc của dân tộc Champa, có lẽ biển còn ăn sâu vào tận chân các dãy núi thấp choài ra của sườn Đông dải Wou Wen (Trường Sơn), do đó miền đồng bằng duyên hải Aryaru có giới hạn nhỏ hẹp hơn rất nhiều so với tầm nhìn thoáng đãng sau này. Đất đai trồng trọt của cư dân tiểu vương quốc tập trung xung quanh các triền đồi nối tiếp nhau sát biển và các rìa thung lũng rải rác ẩn sâu vào bình nguyên phía trong. Nhược điểm về mặt diện tích canh tác được bù lại bởi chất đất màu tươi xốp có nguồn gốc từ nham thạch núi lửa vào những thời kỳ cổ xưa pha lẫn với lớp phù sa mới không ngơi được đắp bồi theo từng mùa nước lớn. Dòng sông Ba chảy dài hơn 360 cây số từ thượng nguồn ra cửa biển đã chuyển tải một lượng khoáng chất dồi dào liên tục bồi bổ cho vành đai cây trồng nhiệt đới những nơi mà nó đi qua. Sông Ba cũng là biểu tượng kỳ vĩ của mối liên kết giữa cộng đồng cư dân Chàm cận biển với các bộ tộc ở phía Tây, bởi “Campa [Champa], trong nagara Campa – tên do chính người dân đặt cho vương quốc của họ – lại ám chỉ một liên minh bao gồm người Chàm và người cao nguyên” [1]. Đây chính là cánh cửa để đi vào tìm hiểu tính Thiêng của vùng đất này ngay từ thời kỳ lịch sử đầu tiên xác lập vương quốc Champa.

Hồ Tôn: nhà nước sơ khai thời tiền Champa.

Champa thường được biết đến rằng đã mở đầu thời đại của mình với cái tên Lâm Ấp ghi chép trong sử sách Trung Hoa, tuy nhiên truyền thuyết vốn hàm chứa nhiều điều bí ẩn của lai lịch một dân tộc đã cung cấp những thông tin sinh động hơn hẳn thế. Cổ tích Champa trong truyện Dạ Thoa vương (vua Mặt Qủy) trực tiếp kể về họ như sau: “Thời thượng cổ, ở ngoài nước Âu Lạc có nước Diệu Nghiêm, chúa nước ấy hiệu là Dạ Thoa vương, còn gọi là Trường Minh vương hay Thập Đầu vương (vua Mười Đầu). Nước này phía Bắc giáp Hồ Tôn Tinh quốc. Nước Hồ Tôn Tinh có vua là Thập Xa vương [vua Mười Xe], có thái tử là Vi Bà. Vợ Vi Bà là Bạch Tĩnh chiếu nương dung mạo rất đẹp đẽ. Dạ Thoa nghe nói rất thích, bèn đánh Hồ Tôn để cướp vợ Vi Bà. Vi Bà tức giận bèn đem loài vượn di hầu phá núi, lấp bể thành đường phẳng để công phá nước Diệu Nghiêm, giết Dạ Thoa vương, cướp vợ y mà trở về. (Loài tinh Hồ Tôn tức là tinh di hầu, chính là nước Chiêm Thành [Champa] ngày nay vậy) [2]. Đây không phải là “thể cải biên Ramayana” như lời của tác giả cuốn Le royaume de Champa suy đoán, mà theo sử gia Huber nhận định thì “Người chép sử Việt Nam cho rằng truyền thuyết đó ở Chiêm Thành, và đó là lý do để tin rằng không nên tìm nguồn gốc truyền thuyết đó trong một những Dacarathajataka của kinh điển Phật học, mà nó chỉ là tiếng vang xa xôi của sử thi Chàm ngày đã mất”; tuy vậy, “không còn nghi ngờ gì nữa là Hồ Tôn với Chiêm Thành là một” [3]. Như vậy, trước khi lưu truyền trong triều đình Trung Hoa bằng danh xưng Hán tự Lâm Ấp, người Chàm thời sơ sử đã có tên nước của họ là Hồ Tôn, được người Việt sử hóa khi định vị cương thổ của nhà nước Văn Lang thời Hùng vương: “Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn…” [4]. Hồ Tôn tiếp tục được duyên cách trong bộ quốc sử Nguyễn triều với phần biên thổ “Hồ Tôn… bây giờ là đất Bình Định” [5], bao quát hoặc chỉ nói riêng phần đất Phú Yên lúc này đang là một đơn vị hành chính cấp đạo, trực thuộc tỉnh Bình Định [6]. Rõ ràng Hồ Tôn là tên gọi thể chế nhà nước sơ khai của người Chàm chứ không phải kiểu gọi ngạo mạn rợ Hồ, rợ Nhung, rợ Man di… xuất phát từ triều đình Trung Hoa.

Nhà nước sơ khai Hồ Tôn tồn tại cùng đồng thời với Diệu Nghiêm ở phía Nam và Lạc Việt ở phía Bắc mà Hồ Vương thành hay thành Hồ có thể là trung tâm, với niên đại ở vào khoảng thiên niên kỷ I tr.CN. Những tranh chấp với nhà nước Lạc Việt phía Bắc không được nhắc đến như một bằng chứng đảm bảo nền hòa bình tương đối của Hồ Tôn, trong khi mặt Nam thường xuyên bị đe dọa bởi sự cướp bóc, tàn phá của những người mặt quỷ (Dạ Thoa). Do đó, với tính chất là đô thành của một nước, thành Hồ đã được xây dựng quy mô trong điều kiện có thể và trấn giữ trên bờ tả ngạn sông Ba, lấy lợi thế thiên nhiên của dòng sông ở mặt Nam để tăng cường thêm khả năng phòng thủ. Đây là lý do giải thích thỏa đáng vị trí bờ Bắc trên một dòng sông lớn, nơi mà tòa thành tọa lạc, trường hợp duy nhất trong toàn bộ lịch sử xây cất thành lũy Champa từ đó về sau, bởi theo kết quả khảo sát, tất cả các thành lũy Champa từ Bình Định trở ra Quảng Bình đều phân bố ở bờ Nam các con sông chính [7]. Tục danh Hồ Vương thành, tức đô thành của vua [8] chỉ ra đích thị vị thế hàng đầu của nhà nước tiền Champa hay Hồ Tôn và là thủ phủ của tiểu vương quốc Aryaru dưới thời Champa hợp nhất. Thành Hồ sau rất nhiều lần sửa chữa, trùng tu qua quãng thời gian dài trên hơn 15 thế kỷ tồn tại của các vương triều Champa đã khác xa so với kiểu kiến trúc ban đầu. Điều bí mật này đã vĩnh viễn chôn sâu trong lòng quá khứ sau biết bao biến cố của lịch sử mà không một công trình nghiên cứu hay khảo tả nào có thể phục dựng nổi. Hiển nhiên nó cũng bác bỏ luôn cách giải thích mù mờ rằng sở dĩ gọi tên thành Hồ là do trong thành có dấu tích ba hồ nước lớn(!), bởi vì không chỉ đối với kiến trúc thành lũy mà hầu như tất cả các công trình xây cất trong khu vực đều tuân theo thuật phong thủy, nghĩa là phải có hồ nước bao phủ bởi hoa sen, bất kể chịu ảnh hưởng kiến trúc của Ấn Độ hay Trung Hoa.

Thuyết phục hơn, cách Hồ Vương thành không xa, hai danh xưng có lịch đại lâu đời khác cũng tự chứng tỏ ấn tượng Hồ Tôn quốc khắc sâu trên đất này: Hồ Biển và Hồ Sơn Tự. Hồ Biển “ở chân núi Thạch Bi… có nhiều cá sấu, tính hiền lành, người chài cá chở thuyền nan đi lại, có khi thuyền cỡi trên lưng cá sấu, mà cá vẫn không làm hại” [6]; còn khu vực chùa Hồ Sơn nằm trên một mỏm đồi kề biển, được xác định là một quần thể đền tháp cổ Champa không muộn hơn niên đại thế kỷ VII và mang đậm dấu ấn Ấn Độ giáo bởi được trang hoàng bằng các pho tượng Phật mà đường nét “gần với những đặc trưng của tượng Phật thời Gupta của Ấn Độ (thế kỷ IV – VI) [9].

Như vậy, Hồ Tôn quốc tồn tại như một thiết chế nhà nước sơ khai tiền Champa từ trước đó cho đến thế kỷ II. Tuy nhiên, Tần Thủy Hoàng lại đặt đây thuộc quận Nhật Nam trên bản đồ đế quốc Đại Tần rộng lớn với lời khoe khoang: “Quận này ở phía Nam mặt trời, vì thế, ở đó người ta mở cửa về phía Bắc, theo hướng của mặt trời, cũng như là ở phía Bắc, các cửa đều quay về phía Nam”; trong khi các tài liệu Trung Hoa hoặc sao chép lại của Trung Hoa khác thì cho rằng “Quận này là đất đai của một vương quốc cũ gọi là Việt Thường, mà thực ra, chúng ta chỉ biết có tên thôi” [3]. Theo đó, đến thời Hán, Nhật Nam chia làm 5 huyện mà Tượng Lâm là huyện cực Nam, chữ Trung Quốc là Siang Lin, để rồi sau đó đi vào sử sách của người Trung Quốc như một trong những xứ bất trị, rằng “cư dân ở đây rất ngỗ nghịch (turbulents). Mùa xuân năm 100 s.CN, với số lượng hơn 2.000 người, họ xâm nhập vào các huyện khác của quận, triệt hạ các làng, giết chết những quan lại Trung Quốc, và khi họ được tin quân đội tới đánh dẹp họ, thì họ mới rút lui” [3].

Năm 137, cũng theo các tài liệu Trung Quốc ghi chép, “có 1.000 người Khu Liên, một dân tộc dã man ở bên ngoài biên thùy Tượng Lâm của Nhật Nam, đánh phá huyện lỵ Tượng Lâm, đốt hết thành quách và giết huyện lệnh. Phàn Diễn, Thứ sử Châu Giao lấy một vạn quân trong hai quận Cửu Chân và Giao Chỉ để đem đi chinh phạt, nhưng những quân lính này, kể cả các tướng tá nữa, không muốn đi đánh ở một nơi quá xa như vậy, đã nổi dậy đánh phá trụ sở của hai quận; phải khó nhọc lắm mới dẹp yên được cuộc nổi loạn đó. Những người Khu Liên không bị trừng phạt, lại càng làm già, mở rộng phạm vi bóc lột [cướp bóc], đánh bại tướng Giả Xương đem quân các châu quận đến đánh, đuổi Giả Xương bao vây thành mà Giả Xương trốn trong đó” [3]. Lúc này Thượng thư Lý Cố mới hiến kế bằng một chính sách ngoại giao mềm mỏng hơn là chiến tranh xâm lược, với một cuộc điều đình trực tiếp giữa Thái thú Chúc Lương với đại diện những người Khu Liên. Cuối cùng, người Khu Liên đã rút lui vào năm 138.

Những người Khu Liên này thuộc về dân tộc nào? Các nhà viết sử về dân tộc Chàm lý giải: “Trong tất cả những sự việc trên đây, không phải là vấn đề Lâm Ấp, tức là Chiêm Thành, đó là điều làm ta phải giả định rằng vương quốc này chưa được hình thành và người Chàm vào thời gian đó lại phân chia ra làm hai tiểu quốc hay quân khu mà tiểu quốc ở cực Nam có thể gọi là Khu Liên” [3]. Tuy nhiên, những người gọi là Khu Liên đó không thể có phạm vi cư trú chệch ra ngoài lãnh thổ Hồ Tôn, bởi vùng đất phía Nam dãy Đại Lĩnh gần cùng thời điểm này thuộc vương quốc Phù Nam, chứng cứ là tấm bi ký Võ Cạnh có mặt tại vùng Nha Trang vào thế kỷ III sau đó có nguồn gốc từ một hậu duệ của nhà vua Phù Nam, “dòng dõi của Cri Mara = Phạm Sư Man”, hoặc vị quốc chủ của “một nước chư hầu của Phù Nam” [10], chứ không phải đất của người Chàm, tức là người Khu Liên.

Aryaru trong thời kỳ Lâm Ấp.

Từ đó, theo diễn tiến sự kiện, lợi dụng sự suy tàn của nhà Hán, năm 192 con trai một Công tào huyện Tượng Lâm, họ là Khu, tên là Liên (K’iu-lien, còn gọi là Đạt hoặc Qùy, khác với đại từ Khu Liên chỉ chung người Man di trên đây) giết huyện lệnh, tự xưng làm vua, lập ra nước Lâm Ấp hay cũng có thể gọi là Vương quốc Champa cổ. Tiếp tục, “Những con cháu của Khu Liên, mà từ nay người ta có thể coi là những nhà vua của Champa” [10] lợi dụng tình hình phân rã của Trung Hoa để mở rộng lãnh thổ lên phía Bắc, cho đến năm 248 quân đội Lâm Ấp đã đánh úp các thành trì thuộc hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Thứ sử Giao Chỉ quận Lục Dẫn buộc “điều đình với họ và đã làm cho họ phải rút lui, nhưng Khu Túc và đất đai của nó , tức là vùng Huế ngày nay, vẫn ở trong tay họ” [3]. Năm 270, vua Lâm Ấp Phạm Hùng (Fan Hiong) liên kết với vua Phù Nam Phạm Tầm mở lại những cuộc tấn công, song cuối cùng cũng bị đẩy lùi về biên giới cũ. Đào Hoàng, viên tướng Trung Hoa chỉ huy những cuộc phản công kéo dài hàng chục năm trời, ghi lại: “Vương quốc của Phạm Hùng về phía Nam tiếp giáp với Phù Nam. Vương quốc đó có nhiều bộ lạc; những bộ lạc bạn sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau; ỷ vào địa thế hiểm trở, họ không thần phục Trung Quốc” [3]. Từ lúc lập nước, trung tâm mới của Lâm Ấp, theo nghĩa là kinh đô của Tượng Lâm [11], dời từ Hồ Vương thành của Hồ Tôn ra thành Tượng Lâm, nơi mà “người Hán nhân họ đóng ở thành Tượng Lâm mà gọi là nước Lâm Ấp” và “kinh đô Lâm Ấp là ở Trà Kiệu” [12], tức Sinhapura.

Phạm Dật (Fan Yi) và sau đó là Phạm Văn (Fan Wen), với những kiến thức mới về nền văn minh vật chất Trung Hoa và cả Ấn Độ, đã cho tiến hành xây dựng một loạt các thành lũy quân sự kiên cố, chấn chỉnh lại quân đội và tiến thêm một bước về mặt ngoại giao. Năm 340 “Văn đưa cống vua Tấn voi thuần dưỡng kèm theo một bức thư… Có lẽ trong bức thư đó, lần đầu tiên Văn xin được chuẩn nhận cho lấy Hoành Sơn làm biên giới chung” [3]. Thực tế, Phạm Văn đã phải dùng đến hành động quân sự để đạt tới mục đích nới rộng lãnh thổ như sự ghi nhận: “Đến đời Phạm Văn thì bờ cõi nước Lâm Ấp đã vươn ra đến Hoành Sơn” mà “trung tâm điểm của nước vẫn là miền Quảng Nam” [12]. Việc ổn định về mặt hành chính trên lãnh thổ Lâm Ấp đã được tiến hành một cách căn bản với sự ra đời các khu vực cai trị và quản lý lớn hơn, sau khi tiếp tục sáp nhập hàng loạt các bộ tộc ở mạn phía Tây, gồm Đại Kỳ Giới, Tiểu Kỳ Giới, Thức Bộc, Từ Lang, Khuất Đô, Càn Lỗ, Phù Đan… [3]. Tên gọi Aryaru với tính cách một khu vực chính trị tự quản, nghĩa là một tiểu vương quốc độc lập, có lẽ xuất hiện trong thời điểm này.

Con Phạm Văn là Phạm Phật (Fan Fo) tiếp tục chính sách truyền thống mở rộng lên phía Bắc, được biết đến như một nhà vua Lâm Ấp đầu tiên gắn với tên thật của mình nhờ những bi ký dạng tự sanskrit lưu lại trong vùng Amaravati và Aryaru, mà theo đó vua Bhadravarman chính là tiếng Phạn của tên Phạm Phật. Ông vua này là “người sáng lập nên ngôi điện đầu tiên được xây dựng ở vòng cung Mỹ Sơn để thờ thần Bhadrecvara mà tên gọi, theo một tập quán mà người ta thường thấy sau đó, đã gọi lên tên của người sáng lập” [10] và kinh đô vẫn đóng tại Trà Kiệu, ở về hướng Đông khu thánh địa Mỹ Sơn. Trong các thời kỳ sau, vị thần Bhadrecvara được thể hiện tượng trưng bằng một linga (sinh thực khí nam), hình thức Civa giáo về vương quyền với vai trò của người bảo hộ đất nước. Sự kiện vị vua đầu tiên sáng lập khu đền thiêng ở Mỹ Sơn có bi ký cổ xưa nhất để lại tại chân núi Nhạn, nơi có ngôi tháp Po Nagar được dựng lên về sau cho thấy một mối liên hệ sâu xa bí ẩn giữa nơi phát tích với vùng đất trung tâm của vương quốc Lâm Ấp hiện thời.

Những cuộc chinh phục quân sự lên hướng Bắc vẫn được nhà nước Lâm Ấp ráo riết thực hiện như một áp lực gia tăng dân cư từ bên trong cũng như sự khao khát về những miền đất đai trù phú ở phần còn lại của quận Nhật Nam lẫn cả bên kia dãy Hoành Sơn. Mạnh bạo hơn, năm 433 vua Phạm Dương Mại II (Fan Yang Mah) đề nghị triều đình Trung Hoa cho cai trị đất Giao Châu, song đã bị từ chối. Tình hình giằng co dai dẳng cho đến khi xảy ra một biến cố trọng đại bên trong Lâm Ấp có nguyên do trực tiếp từ vương quốc Phù Nam. Một thần dân của nhà vua Jayavarman nước Phù Nam là Cựu Thù La (Kieou-tch’eou-lo) chạy sang Lâm Ấp, lợi dụng đang lúc hoàng gia rối loạn về việc tranh ngôi, tự xưng làm vua với vương hiệu Phạm Đường Căn Thuần (Fan T’ang-ken-tch’ouen). Vua Lâm Ấp không những đã tổ chức đánh cướp hàng hóa trên các thuyền buôn của triều đình Phù Nam mua về từ Quảng Châu mà còn cho quân đội xâm lấn sâu vào lãnh thổ miền biên thùy phía Nam. Lời cầu cứu Thiên tử Trung Hoa trừng phạt Lâm Ấp của Jayavarman không được chuẩn y; ngược lại, hàng cống phẩm hậu hĩ của sứ thần Lâm Ấp còn tranh thủ được sự ủng hộ của Thiên triều với tính hợp pháp quyền vương của Căn Thuần qua tước phong “Đô đốc lục hải chư quân sự An Nam tướng quân, Lâm Ấp vương” [3]. Ngờ rằng sự huy hoàng của triều đại Jayavarman “được phản ánh trong việc kính nể của hoàng đế Trung Hoa thể hiện đối với đất nước này” [10] qua một lệnh sắc gửi cho sứ đoàn Phù Nam năm 503 chỉ mang tính chất ngoại giao giả tạo, bởi vương quốc Lâm Ấp đang trong thời kỳ trỗi dậy thực sự chứ không chỉ là hành động liều lĩnh chống đối như những lời chỉ trích gay gắt nhưng tỏ ra bất lực của Jayavarman đối với Phạm Đường Căn Thuần trước triều đình Trung Hoa: “Hạ thần có một tên nô lệ là Cửu Thuần La [Cựu Thù La], tên này trốn đi, đến ở một nơi và tự xưng làm vua. Nó không hề tỏ ra có lễ độ; nó quên ơn và vi phạm nguyên tắc của công lý. Tội phản nghịch đối với chủ nó, trời cũng không thể dung… Nhưng nay Cửu Thuần La vẫn giữ tư cách đồi trụy của kẻ nô lệ, phạm tất cả các sự tàn bạo. Hơn nữa Lâm Ấp và Phù Nam là hai nước cùng chung biên giới; chính nó là một tên nô lệ của thiên tử, thế mà nó đã nổi loạn…” [3]. Rõ ràng, những lợi ích cao nhất của Phù Nam khiến Jayavarman tức tối vì bị Lâm Ấp xâm phạm, ngoại trừ hàng hóa – của cải ra, chỉ có thể là đất đai – lãnh thổ.

Với phần đất đai phía Nam vừa mới sáp nhập vào lãnh thổ vương quốc ngay trong thời điểm bức thiết này, giải tỏa áp lực xung đột tiến lên hướng Bắc không đạt được mục đích, nhà vua Lâm Ấp đã tổ chức lại các đơn vị cai trị trên toàn bộ xứ sở sau lần ổn định đầu tiên dưới thời vua Phạm Văn đối với khu vực chiếm cứ ở phía Bắc và phía Tây. Ít nhất có hai tiểu vương quốc mới ra đời, liền kề với Aryaru: Kauthara và Panduranga. Điều này cho phép khẳng định vai trò bàn đạp của Aryaru nói chung, Hồ thành nói riêng mà lúc này chiếm lĩnh vượt trội chức năng một tiền đồn quân sự xung yếu bảo vệ và mở rộng vương quốc Lâm Ấp ở hai mặt Đông – Nam. Sự kiện cũng đánh dấu sự suy sụp của đế chế Phù Nam dưới triều đại Jayavarman, để sau đó Rudravarman trở thành nhà vua cuối cùng kết thúc vào năm 540 sau 5 thế kỷ tồn tại, trong khi Lâm Ấp đang xu thế vận động mạnh mẽ vươn lên.

Tuy vậy, tổn thất nặng nề cả về người lẫn của không thể tránh khỏi trong những cuộc tranh chấp đã buộc Lâm Ấp phải huy động tối đa nguồn cung ứng từ các địa phương. Tiểu quốc Aryaru dù chiến sự không trực tiếp xảy ra, song cũng bị cuốn vào cơn lốc chinh phục và chiến bại. Năm 446, trả đũa các đợt tấn công dồn dập của Lâm Ấp, Trung Hoa đã phát động một chiến dịch chưa từng có dưới quyền chỉ huy của Đàn Hòa Chi (T’an Ho-tche), “đánh cho Dương Mại một trận đại bại chưa từng thấy” với một chiến trường đầy rẫy xác chết và chiến lợi phẩm thu về gồm vô số “vật lạ lùng và hiếm có, dĩ chí người ta không gọi đó là vật quý nữa… các đền bị tàn phá và các tượng bị nấu chảy thành những khối: đúc được 100.000 cân (livres) vàng nguyên chất” [3]. Tùy đế Dương Kiên (Yang Kien) gần một trăm năm mươi năm sau cũng bị kích thích bởi “một xứ lạ lùng có nhiều vàng và đồ quý hay lạ đến nỗi không biết dùng làm gì”, lợi dụng lúc vua Phạm Phàn Chí (Fan Fan-tche) tỏ vẻ muốn thoát khỏi quan hệ chư hầu, vào năm 604-605 đã cử Lưu Phương (Lieou Fang) tiến đánh Lâm Ấp, tàn phá kinh thành, bắt hết dân cư và cướp lấy 18 tấm bài vị bằng vàng của 18 đời vua đã trị vì cùng các kho báu… Những biến cố trên chứng tỏ tinh thần bất khuất cùng nỗ lực tự thân của một dân tộc biết chịu đựng lẫn khả năng kiến thiết và sáng tạo không ngừng trước sự bất lợi của điều kiện lịch sử và tự nhiên, bởi các triều đại cường thịnh vẫn nối tiếp làm chủ toàn bộ lãnh thổ trong nhiều thế kỷ kế theo.

Aryaru trong thời kỳ Hoàn Vương.

Nếu cho rằng trên phương diện huyết thống, Champa là sự hợp nhất của nhiều thị tộc khác nhau, trong đó hai thị tộc Dừa và Cau lớn nhất thay nhau trị vì thì từ giữa thế kỷ VIII, trung tâm của vương quốc đã chuyển từ Sinhapura (Trà Kiệu) thuộc vùng Amaravati vào Virapura (Phan Rang) xứ Panduranga, thái ấp của thị tộc Cau và là nơi có nhiều đại gia đình tiểu vương khuếch trương thế lực. Quốc hiệu lúc này được gọi mới là Hoàn Vương mà các vị quốc vương bắt đầu được truy tôn thụy hiệu. Hai biến cố đi liền với thảm họa của vương triều Hoàn Vương xảy ra vào các năm 774 và 787 tại Po Nagar Nha Trang và kinh thành Virapura do sự tấn công của người Java đã làm mất nhiều công sức đóng góp để phục dựng lại các trung tâm thần quyền lẫn vương quyền này. Cùng với việc đề cao vị nữ thần bảo hộ đất đai Po Nagar theo tín ngưỡng Hindu, các ngôi đền cùng tên đã được xây mới ở nhiều nơi trên “Toàn cõi campa” [3], nhất là trong địa phận thị tộc Cau, từ Aryaru đến Panduranga. Truyền thuyết lưu lại rằng bà Po Inư Nagar sản sinh ra các dòng họ trị vì đất nước, “Bà đầu tiên giáng xuống hạt Brama (Tuy Hòa), lập ra một làng lấy tên là Pallai Sarioanoa (tức xóm Bà Lài), sau đó lập đền ở xóm Pa Chucmaraasan ở Panduranga (Phan Rang), ít lâu sau bà cho ra đời Chơcalâu (Diên Khánh)” [9]. Có thể tại núi Nhạn và một số ngọn núi, gò đồi lân cận như gò Chùa, núi Bà, hòn Chùa, hòn Tháp… đã từng xuất hiện các ngôi đền Po Nagar đa dạng các kích cỡ ngay trong thời kỳ sùng kính Hindu giáo này, song đã không ngừng bị hủy hoại và phải dựng lại nhiều lần về sau. Những cuộc trấn dẹp kẻ thù làm dày thêm chiến tích của nhà vua Harivarman I (802-817) trải dài từ “vùng Chadra, vùng Đông Bắc, vùng Indra, vùng phía Đông, vùng Agni, vùng Đông Nam, vùng Yama, vùng phía Nam, vùng của Yaksha” [3] cho thấy một kết cục đổ nát không thể tránh khỏi cho dù quốc vương là người chiến thắng. Một Aryaru từng là đất phát tích của vương quốc Lâm Ấp, đất thang mộc của vương triều Khu Liên, vùng đất theo truyền thuyết là “nơi nữ thần Po Nagar giáng trần đầu tiên” [13], có tấm bia vinh danh vị quốc vương trước nhất với tên gọi chính thức Cri Bhadravarman, do đó Aryaru phải được tôn tạo về cơ sở thần quyền và được cúng dâng hậu hĩ phẩm vật cho các thần bảo trợ tối cao. Chắc chắn ngôi đền Po Nagar có niên đại thế kỷ X – XII trên đỉnh núi Nhạn là sự tái hiện một trong những Po Nagar hoặc một thực thể vương – thần quyền nào đó có từ trước đã bị phá hủy vì một nguyên nhân không được biết rõ. Như vậy, chí ít tiểu quốc Aryaru đóng vai trò dấu gạch nối về sự chuyển hóa quyền lực của các vương triều Champa trong một giai đoạn lịch sử mà ngay cả trung tâm quyền lực Đông phương là triều đình Trung Hoa cũng không thể đưa ra lời giải thích rõ ràng.

Aryaru trong thời kỳ Champa.

Vương triều Indrapura nối tiếp sự trị vì vương quốc bởi quốc hiệu mới Chiêm Thành (Tchan-tch’eng), nghĩa là thành của xứ Chiêm (Champapura), trung tâm lại dịch chuyển ra phía Bắc: vùng Amaravati, nhưng không phải Sinhapura như trước mà là Indrapura (Đồng Dương). Tiểu quốc Aryaru nằm ở giữa giữ vai trò hậu phương chiến lược, cung ứng lương thực và các đội quân tinh luyện để cùng tác chiến bên cạnh lực lượng liên hợp dưới quyền thống lĩnh tối cao của nhà vua, nhất là trong các trận đụng độ với quân đội Khmer ở Panduranga, Kauthara và có thể ngay tại các cửa biển Đà Lãng, Bà Đài. Bên cạnh sự quan tâm đặc biệt đến Po Nagar Kauthara với tư cách trung tâm thánh đường Hindu giáo ở phía Nam qua việc tu sửa, xây mới, dựng bia và dâng cúng phẩm vật, các vị quốc vương nơi kinh thành Indrapura không quên dành cho địa phận Aryaru vốn có mối quan hệ thần tích và thị tộc những ưu ái về hoạt động tôn giáo.

Với một kinh thành đã trở nên quá trống trải trước những cuộc đọ sức với đối phương, các nhà vua kế tục của vương quốc Champa quyết định dịch chuyển trung tâm lùi về phía Nam, lập ra vương triều Vijaya tại thành Chà Bàn vào năm 1000. Thành Hồ nằm bên bờ Bắc trong vùng thung lũng sông Ba thuộc tiểu quốc Aryaru được các triều vua Vijaya ra sức gia cố và tăng cường binh lực như một tuyến phòng thủ từ xa bảo vệ vững chắc kinh thành trước những cuộc xâm lấn của Khmer, Xiêm La, Java cũng như những mưu toan nổi loạn của các thế lực lãnh chúa xuất phát từ xứ Panduranga mà họ có thể dẫn quân ra phía Bắc uy hiếp Vijaya, những kẻ “xấu xa, bất lương, luôn luôn nổi loạn chống lại vua của họ” [10] dưới thời Paramecvaravarman I vào năm 1050 hay thời Paramabodhisattva năm 1086.

Dù rằng lãnh thổ ngày càng bị thu hẹp từ hướng Bắc, triều đại Vijaya vẫn không dám liên minh một cách thực sự với vương quốc Khmer trong những chiến dịch quân sự công phá Đại Việt, do đó Vijaya lại trở thành nạn nhân của mọi thất bại từ phía Khmer dưới thời vua Suryavarman II mệnh danh “nhà chinh phục lớn”[10], mở đầu những thời kỳ bị truy bức và xung đột mới đến từ phương Nam. Quãng thời gian 1145 – 1149 kinh thànhVijaya nằm dưới ách xâm lược của Khmer đã đặt khu vực Aryaru trong tình trạng chiến tranh khẩn cấp, nơi tập trung binh lực để tập kích và chuẩn bị tổng phản công phủ đầu quân Khmer xuất phát trên cao điểm dãy Cù Mông. Thực tế là từ năm 1148, sau hai lần phản công thắng lợi đối với lực lượng hỗn hợp Khmer – Chàm dưới quyền chỉ huy của tướng quân Cankara tại Panduranga, vua Champa mới lên ngôi tại đây là Jaya Harivarman I đã tiến quân về phía Bắc, phối hợp với các lực lượng đã được tập hợp từ trước trong vùng Kauthara và Aryaru, chia làm nhiều cánh đánh mạnh vào trung tâm Vijaya “giết chết Harideva [vua do người Khmer dựng lên], tiêu diệt vua này cùng với tất cả các senapati [tướng lĩnh] Chàm và Khmer cùng quân đội Chàm và Khmer… Ông giết tất cả” [3], chấm dứt sự chiếm đóng của Khmer. Với lực lượng tiên phong thiện chiến tuyển mộ từ các tiểu quốc phía Nam này, Jaya Harivarman I còn làm được nhiều hơn thế: trấn dẹp sự chống đối của các bộ tộc miền núi gồm “Radê, Mada và các rợ khác (Mlecch’a)”, đánh tan cuộc phản loạn của người em rể Vamcaraja được “nhiều tướng lĩnh Yavana [người Việt] cùng những đội quân Yavana rất thiện chiến, con số lên đến 10 vạn người…” [10] vào năm 1150.

Với thực lực tích tụ mới, sau khi tìm cách loại bỏ sự can thiệp của Trung Hoa và Đại Việt thông qua những sứ đoàn ngoại giao và cống phẩm hậu hĩ, năm 1177 nhà vua Jaya Indravarman IV tấn công Khmer bằng đường biển, “ngược dòng lên tận kinh đô của người Khmer, chiếm lấy rồi cướp phá, sau đó rút lui, mang về một khối chiến lợi phẩm đồ sộ” [3]. Hành động quân sự mang đầy tham vọng cướp bóc này đã đẩy triều đình Vijaya đi sâu vào con đường phiêu lưu, bất cẩn và bị trả giá đắt hơn mười năm sau đó. Năm 1190, trong một cuộc đột nhập khác vào lãnh thổ Khmer, quân đội Champa bất ngờ bị chặn đánh tan tác. Thừa thắng, các lực lượng hùng hậu được chuẩn bị lâu nay của Khmer do một viên tướng Chàm tài giỏi chỉ huy đã tràn vào kinh thành Vijaya, quản chiếm toàn bộ lãnh thổ Champa. Cục diện chia tách được áp dụng đối với một vương quốc có lịch sử thống nhất lâu dài này: vương quốc Vijaya ở phía Bắc mà vua là một vị hoàng thân Cao Miên và vương quốc Panran ở phía Nam do chính viên tướng Chàm chiến thắng cai quản, với vương hiệu Cri Suryavarmandeva. Tiểu quốc Aryaru có lẽ thuộc về vương quốc phía Nam với mối liên hệ thị tộc sâu xa. Do sự thúc đẩy mạnh mẽ của một chuỗi biến cố chính trị xảy ra ngay sau đó, Surryavarman đã thâu tóm hai quyền hành làm một, trị vì trên toàn bộ vương quốc vào năm 1192. Tuy nhiên, các cuộc trả đũa liên tiếp của nhà vua Khmer cuối cùng đã sáp nhập Champa thành một tỉnh trong đế quốc rộng lớn dưới triều vua Jayavarman VII từ năm 1203.

Đến năm 1220, tình thế mới đã khiến Khmer tự nguyện rút lui khỏi Champa, trao quyền cai quản toàn bộ lãnh thổ cho một hoàng thái tử Chàm được nuôi dưỡng trong triều đình Khmer từ nhiều năm trước, lên ngôi năm 1226 với vương hiệu Jaya Paramecvaravarman II như một sự “lấy được ngôi vua của cha ông là công việc thông thường sau khi những cuộc đại chiến kết thúc” [3]. Paramecvaravarman cho xây lại cung điện, tu bổ đền đài, cung cấp lại những báu vật đã bị quân Khmer cướp đem đi, phục hồi nền sản xuất bị tàn phá kéo dài, quy phục các tiểu quốc chống đối; đồng thời “Ông khôi phục lại tất cả những pho linga tại miền nam như ở Yang Pu Nagar (Po Nagar thuộc Nha Trang) và những linga tại miền Bắc như ở Cricanabhadrecvara (Mỹ Sơn)” [10]. Vùng Aryaru kề cận kinh thành Vijaya hoành tráng trong giai đoạn phục hưng đầy khí thế sau khi giành được quyền tự chủ và hòa bình đã chiếm một vị trí đáng kể trong chính sách hoạch định kinh tế cùng các hạng mục tôn tạo văn hóa – tín ngưỡng trên quy mô toàn quốc.

Thảm họa đối với các dân tộc Á – Âu nói chung đến từ quân đội du mục Mông Cổ đã đặt Champa trước tình thế sống còn vào nửa sau thế kỷ XIII. Nhà vua già Indravarman V liên tục bị các điều kiện quá cỡ của đối phương dồn ép, song vẫn ngoan cường không chịu khuất phục, chống trả quyết liệt những đòn tấn công của kẻ địch do tướng Toa Đô chỉ huy trực diện vào Vijaya, sau đó lùi sâu về phía thượng nguyên cầm cự lâu dài với sự giúp sức tháo vát và thông minh của thái tử Harijit. Trong thời điểm phải đối phó với kế hoạch bao vây phong tỏa của kẻ thù vô cùng cam khổ gay go này (1283-1285), sự phối hợp về mặt quân sự của các lực lượng miền Nam qua vùng Aryaru giáp ranh mặt trận chính diện cùng với những hỗ trợ vật chất cần thiết lên vùng thượng nguyên ngược theo tuyến sông Ba thực sự đóng vai trò chiến lược trọng yếu. Những nỗ lực vượt bậc đó đã đạt mục đích, khi quân dân Đại Việt ở phía Bắc lần lượt tiêu diệt các cánh quân Nguyên – Mông, tạo điều kiện cho Champa thu phục lại kinh đô Vijaya và các phần đất bị kẻ thù chiếm đóng. Thái tử kế ngôi với vương hiệu Jaya Simhavarman III, người Việt gọi là Chế Mân sau đó đã thiết lập mối quan hệ đặc biệt với Đại Việt bằng cuộc hôn nhân của chính ông và công chúa Trần Huyền Trân nổi tiếng trong lịch sử giao hảo hai vương quốc, nhưng ngược lại ông là vị quốc vương đã kiên quyết cự tuyệt việc xin đổ bộ của binh đoàn thuyền chiến Mông Cổ lên vùng bể Champa trên đường chinh phạt Java vào năm 1292.

Nỗ lực nhằm đưa vương quốc trở lại thời cường thịnh như trước dưới vương triều Chế Bồng Nga (Ngo-ta ngo-tcho) mà gọi theo truyền thuyết dân tộc Chàm là Binasuor, đã vắt kiệt sự đóng góp các nguồn nhân vật lực ở các tiểu quốc miền Nam để mở rộng chiến tranh và chiếm đóng lên tận các tỉnh giáp ranh thuộc Đại Việt là Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An đồng thời quấy rối liên tục Thanh Hóa, vùng trung châu Bắc Kỳ và cả kinh thành Thăng Long của nhà hậu Trần. Cái chết bất ngờ trong trận thủy chiến trên vùng biển Đại Việt của nhà vua Chế Bồng Nga năm 1390 và sự tiếm ngôi của một tướng lĩnh tên là La Khải với vương hiệu Jaya Simhavarman V đã tiếp tục thu hẹp lãnh thổ Champa chỉ còn lại từ phía Nam miền Indrapura trở vào thời trị vì của con ông sau đó. Từ năm 1407, nhà Minh xâm chiếm Đại Việt đã tạo cơ hội Champa thu phục khu vực này, đồng thời rảnh tay quay sang đánh chiếm Khmer, vinh danh chiến công trên miền đất giáp ranh Biên Hòa năm 1421.

Tuy nhiên, vương triều Indravarman VI khá lâu dài và ổn định qua hơn 40 năm kết thúc năm 1441 đã nhanh chóng lâm vào suy thoái trong đoạn còn lại của lịch sử Vijaya. Năm 1446, kinh thành bị Đại Việt đánh chiếm mà cùng với vô số chiến lợi phẩm khi trở về của đối phương còn có cả quốc vương Maha Vijaya. Cuộc đại chiến đầu năm 1471 chấm dứt vĩnh viễn Vijaya với những tổn thất cực kỳ to lớn: 600.000 người chết cùng 300.000 tù binh, trong đó có nhà vua Bàn La Trà Toàn và toàn bộ hoàng gia. Thủy quân Champa sau khi ngăn chặn không hiệu quả đoàn chiến thuyền hùng hậu gồm 15 vạn thủy binh của hoàng đế Lê Thánh Tông ở cửa bể Cri Vini (Thi Nại), một bộ phận đã lùi về các cửa biển Aryaru để chuẩn bị tập kích nếu thủy binh Đại Việt bị đánh bật khỏi vùng vịnh, tuy nhiên điều dự tính đó đã không xảy ra. Một bộ phận binh lính khác sau khi thành Vijaya thất thủ, do tướng Bô Trì Trì chỉ huy đã mở cửa thành đánh cảm tử mở đường rút chạy về phía Nam. Cửa Đà Lãng và thành Hồ của Aryaru là nơi dừng chân tập kết đầu tiên của các lực lượng Champa sống sót này cùng với quân đội yểm trợ của các tiểu quốc miền Nam. Khi những tin tức cuối cùng về Vijaya được biết một cách tuyệt vọng, cắt đặt một lực lượng bộ binh và thủy quân thiết yếu để trấn giữ Aryaru, tướng Bô Trì Trì đem toàn bộ binh lực còn lại lui về Panduranga. Aryaru trở thành vùng biên giáp ranh với vương quốc Đại Việt mà Việt sử gọi là Hoa Anh quốc, trong thế kiềm chế lẫn nhau giữa Champa với Hoa Anh và Nam Bàn [14].

Hoa Anh dù là một tiểu quốc thần thuộc Đại Việt, song về mặt lãnh thổ, huyết tộc và văn hóa có mối quan hệ thống nhất với Champa. Trên thực tế, lãnh thổ Hoa Anh là một bộ phận không tách rời với Champa tại Thạch Bi Sơn mà theo truyền thuyết của người Việt, nơi đó là biên giới. Từ sau năm 1471 đến trước biến cố thành Hồ năm 1578, triều đình Champa tại Panduranga quan tâm đặc biệt đến Aryaru trong vai trò chiến lược mà nó đảm trách. Đèo Cù Mông hiểm trở ở phía Bắc được xem là địa giới thiên nhiên khó vượt đối với người Việt. Thành Hồ có từ thời tiền Champa tiếp tục được củng cố vững chắc để phòng thủ không chỉ đối với mặt Nam mà bảo vệ luôn cả vùng thượng nguyên rộng lớn phía Tây trong mối liên minh truyền thống lâu đời. Ba cửa biển lớn Đà Lãng, Bà Đài, Cù Mông với sự đóng giữ của các đội chiến thuyền vừa làm nhiệm vụ tiễu trừ đám hải tặc Nhật Bản, Trung Hoa, Mã Lai, Java vừa tiến hành buôn bán với thương nhân khu vực, có cả người Ấn Độ, Ả Rập lẫn người Bồ Đào Nha đến từ phương Tây. Đặc sản của núi rừng nhiệt đới từ phía Tây dọc dãy Wou Wen (Trường Sơn) theo tuyến sông Ba hoặc trao đổi qua các nguồn Thạch Thành, Hà Duy, Đá Bạc, Suối Gạo như tên gọi người Việt về sau đã hấp dẫn đông đảo giới thương nhân ngoại quốc. Đặc biệt, nhiều chuyến hàng chở trầm hương và gỗ quý tổ chức theo định kỳ hướng đến các bến cảng của Malacca, Java, Ấn Độ, Trung Hoa vốn là những bạn hàng truyền thống. Cuộc tiếp xúc chính thức đầu tiên của Champa với thương nhân phương Tây là người Bồ Đào Nha vào năm 1523 sau khi họ chiếm cứ Malacca năm 1511 và về sau ở Ma Cao năm 1550 đã mở ra cơ hội giao thương giữa hai vương quốc mà vũ khí là hạng mục hàng hóa mua về ưu tiên số một đối với hoàng gia Champa.

Quân đội được trang bị bằng một số loại vũ khí hạng nặng như đại bác và thuốc nổ, con đẻ của nền kỹ thuật mới phương Tây giai đoạn hậu kỳ trung đại chuyển qua cận đại, nhà vua Po At của Champa nhận thấy không thể trì hoãn việc mở cuộc tấn công lên phía Bắc núi Cù Mông để thu hồi một bộ phận đất đai mất về tay người Việt. Cuộc tấn công triển khai vào năm 1578, đã nhanh chóng bị đẩy lùi bởi quân Nguyễn đang trong thời kỳ tích hợp thực lực nhằm đoạn tuyệt với họ Trịnh ở Đàng ngoài, lợi thế không chỉ số đông mà vũ khí trang bị cũng hiện đại không kém nhờ tận dụng những cơ hội thương mại tuyệt vời được họ Nguyễn cổ vũ theo chính gương vương quốc Champa [1]. Thừa thắng, danh tướng Lương Văn Chánh “tiến quân đến sông Đà Diễn, đánh lấy được Hồ thành” [15], “thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử vương quốc Chiêm Thành” mà vua Po At với niên giám 1553 – 1579 “có lẽ đã bị chết trong thời điểm này” [16].

Năm 1597, theo lệnh của Tổng trấn Nguyễn Hoàng mà sử biên niên của họ Nguyễn về sau gọi là chúa Tiên, dù lúc này còn đang phụng sự vua Lê tại Đông Đô nhưng vẫn theo dõi sát sao tình hình miền Nam trong phạm vi cai quản của mình, Lương Văn Chánh tổ chức di dân người Việt, khẩn hoang lập làng suốt từ Cù Mông, Bà Đài đến Đà Diễn, Đà Nông trên vùng đất Hoa Anh. Vương quốc Champa sau hơn ba mươi năm gây dựng lực lượng từ lúc thất thủ tại thành Hồ, đến thời vua Po Nit đã tiếp tục cuộc tấn công tái chiếm Hoa Anh vào năm 1611, song những nổ lực cuối cùng này đã bị hoàn toàn thất bại bởi cuộc chinh phạt lần thứ hai của quân Nguyễn do chính một viên tướng Chàm thống lĩnh: Văn Phong. Nhằm dứt điểm về mặt chủ quyền, Nguyễn Hoàng lấy đất tiểu quốc Aryaru – Hoa Anh lập thành phủ Phú Yên với hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa [17]. Biên giới vương quốc Champa vĩnh viễn bị đẩy lùi vào phía Nam dãy Đại Lĩnh, mà chỉ có thể bắt đầu từ thời điểm này nó mới được gọi tên Thạch Bi Sơn với ý nghĩa là nơi có núi đá bia phân định ranh giới giữa hai vương quốc.

Tài liệu chú dẫn:

[1] Li Tana (1999), Xứ Đàng trong: lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 23, 116.

[2] Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1960), Lĩnh Nam chích quái, NXB Văn hóa, Hà Nội, tr. 102.

[3] G. Maspéro (1928), Vương quốc Chàm, NXB G. Văng Oet, Pari và Bruyxen, Bản đánh máy phô tô tại Thư viện Hải Phú (Phú Yên), tr. 57, 58, 59, 61, 62, 73, 75, 84, 85, 98, 113, 115, 177, 180, 182.

[4] Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, NXB Khoa học Xã hội, tr. 133.

[5] Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 75.

[6] Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, tập III, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 9, 70-71.

[7] Trần Quốc Vượng (2001), “Những phát hiện mới của khảo cổ học ở Phú Yên”, tạp chí Xưa và nay (số 106), tr. 21-22.

[8] Đào Duy Anh (1992), Hán – Việt từ điển, quyển Thượng, NXB Khoa học Xã hội, tr. 568.

[9] UBND tỉnh Phú Yên (2003), Địa chí Phú Yên, NXB Chính trị Quốc gia, tr. 602, 205-606.

[10] G. Coedès (2008), Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông, NXB Thế giới, tr. 89-94, 101, 252, 287, 295-296, 325.

[11] L. Aurousseau, BEFEO, XIV, 9, tr. 27. Dẫn theo G. Coedès (2008), “Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông”, NXB Thế giới, tr. 93.

[12] Đào Duy Anh (2003), Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Khoa học Xã hội, HN, tr. 854, 857.

[13] UBND tỉnh Phú Yên (2009), Lịch sử Phú Yên từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 35.

[14] Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB Khoa học Xã hội, tr. 450.

[15] Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, tập 1, NXB Thuận Hoá, Huế, tr. 89.

[16] Lương Ninh (2006), Vương quốc Champa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 213.

[17] Quốc sử quán triều Nguyễn (1962), Đại Nam thực lục tiền biên, tập I, NXB Sử học, Hà Nội, tr. 43-44.

Tóm tắt: Khi một tôn giáo mới mẻ được du nhập vào một quốc gia thì ít nhiều sẽ phát sinh xung đột với một tôn giáo bản địa. Đó là trường hợp của Phật giáo trong giai đoạn bản địa hoá (localization) tại Trung Quốc. Tây Thăng Kinh Hoá Hồ Kinh là hai tác phẩm của Đạo giáo Trung Quốc nhằm tự đề cao tôn giáo mình, cho rằng Lão Tử sau khi truyền bộ Đạo Đức Kinh cho quan lệnh Doãn Hỉ trấn giữ Hàm Cốc quan thì ngài đã cỡi trâu đi sang hướng Tây để hoá độ người Hồ (tức người Ấn Độ) và đã truyền đạo cho Phật Thích Ca và 28 thiền tổ Ấn Độ. Bên Phật giáo cũng soạn sách phản bác lại. Hoá Hồ Kinh từ lâu đã bị xem là nguỵ thư và bị đốt bỏ từ đời Đường. Tuy vậy, sau khi Phật giáo đã được bản địa hoá (thậm chí Phật giáo còn vay mượn thuật ngữ của Đạo giáo trong việc phiên dịch kinh Phật sang Hán văn), vào đời Minh và đời Thanh đã nổi lên tinh thần «Tam giáo (Nho-Thích-Đạo) hợp nhất», chủ trương «Tam giáo đồng nguyên» (Tam giáo cùng nguồn gốc). Bài viết này nằm giở lại trang sử cũ, đọc lại một sự kiện trong lịch sử tôn giáo: một cuộc đại tranh luận non 1000 năm giữa Phật giáo và Đạo giáo trong quá trình phát triển của Phật giáo Trung Quốc kể từ khi du nhập, tức là từ đời Hán cho đến nay.

Share this post


Link to post
Share on other sites

VNPGSL I - Chương 02 : Hai Thế Kỷ Đầu

LÃO TỬ THÀNH PHẬT Ở ÐẤT HỒ

Phật Giáo tuy gặp trở lực ở Giao Chỉ nhưng những trở lực ấy so với những trở lực gặp ở đất Hán thì vẫn nhẹ hơn nhiều. Lý do căn bản là ở Giao Chỉ, Phật Giáo đã chinh phục giới quần chúng bình dị trước. Trong khi đó tại đất Hán, Phật Giáo phải đương đầu trước hết với giới trí thức Khổng Lão.

Vào thời đại Ðông Hán, Lão Giáo chưa có nhiều sắc thái tâm linh triết học mà chỉ thịnh hành như một tôn giáo thần tiên bất tử. Một số người thờ phụng Hoàng Lão thấy Phật có vai vế ở Giao Châu và thấy một số trí thức nhà Hán hâm mộ, bèn dựng ra một thuyết gọi là thuyết Hóa Hồ. Tức là giáo hóa người Hồ; theo thuyết này, Lão Tử sau khi biệt tăm tại miền Tây đã đi qua đất Hồ (Ấn Ðộ). Nơi đây ngài đã giáo hóa chinh phục người Hồ và sau dó trở thành Phật Thích Ca. Phật Thích Ca do đó cũng là Lão Tử, và vì vậy theo Phật cũng như theo Lão. Nhờ cánh cửa này mà đạo Phật đi sâu vào nội địa nhà Hán, và ta nghe câu chuyện Hán Hoàn Ðế thờ Phật và Hoàng Lão chung trên một bàn thờ. Thuyết Hóa Hồ được phát sinh ở miền hạ lưu sông Dương Tử, nơi đây Sở Vương Anh đã tin theo cả Phật Giáo và Lão Giáo. Hóa Hồ Kinh tục truyền do Vương Phù chế tác trong thời đại tây Tấn (265-316). Không phải Vương phù snags chế thuyết Hóa Hồ; ông chỉ thu lượm thần thoại liên hệ đế Lão Tử mà ghi chép ra thôi.

Ở Giao Chỉ, sự truyền bá đạo Phật đã không cần nhờ vào thuyết Hóa Hồ, bởi quần chúng không phải là những người theo đạo Lão và không có mặc cảm tự tôn về văn hóa. Ðối với trí thức ay mê Hoàng Lão, phương pháp hòa đồng và diẽn đạt tư tưởng bằng ngôn ngữ Khổng Lão cũng đủ để đưa tới thành công.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vào thời đại Ðông Hán, Lão Giáo chưa có nhiều sắc thái tâm linh triết học mà chỉ thịnh hành như một tôn giáo thần tiên bất tử. Một số người thờ phụng Hoàng Lão thấy Phật có vai vế ở Giao Châu và thấy một số trí thức nhà Hán hâm mộ, bèn dựng ra một thuyết gọi là thuyết Hóa Hồ. Tức là giáo hóa người Hồ; theo thuyết này, Lão Tử sau khi biệt tăm tại miền Tây đã đi qua đất Hồ (Ấn Ðộ). Nơi đây ngài đã giáo hóa chinh phục người Hồ và sau dó trở thành Phật Thích Ca. Phật Thích Ca do đó cũng là Lão Tử, và vì vậy theo Phật cũng như theo Lão. Nhờ cánh cửa này mà đạo Phật đi sâu vào nội địa nhà Hán, và ta nghe câu chuyện Hán Hoàn Ðế thờ Phật và Hoàng Lão chung trên một bàn thờ. Thuyết Hóa Hồ được phát sinh ở miền hạ lưu sông Dương Tử, nơi đây Sở Vương Anh đã tin theo cả Phật Giáo và Lão Giáo. Hóa Hồ Kinh tục truyền do Vương Phù chế tác trong thời đại tây Tấn (265-316). Không phải Vương phù snags chế thuyết Hóa Hồ; ông chỉ thu lượm thần thoại liên hệ đế Lão Tử mà ghi chép ra thôi.

Ý này không đúng với sử rồi. Gán ghép hoặc mang thư.

Nhân vật lịch sử Thích-ca Mâu-ni sinh năm 563 TCN nhưng cũng có thuyết nói sinh năm 624 TCN

Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông (Lão Tử) sống ở thế kỉ 6 TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỉ 4 TCN

Tên: Lão Tử () Sinh: 604 TCN, Nhà Chu Mất: Nhà Chu Trường phái: Người sáng lập Lão giáo

Nếu Lão tử sinh 604 thì sau ông Phật Thích Ca 20 năm

Nếu Phật thích ca sinh năm 563, thì ông Lão Tử chỉ sống được chừng 41-42 tuổi rồi chết để đầu thai làm Thái tử Tất Đạt Đa.

Tóm lại tài liệu này đáng nghi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

* [quote name='hoangnt' date='28 Tháng ba 2013 - 02:50 PM' timestamp='1364457002' post='209241]

VNPGSL I - Chương 02 : Hai Thế Kỷ Đầu

LÃO TỬ THÀNH PHẬT Ở ÐẤT HỒ

Phật Giáo tuy gặp trở lực ở Giao Chỉ nhưng những trở lực ấy so với những trở lực gặp ở đất Hán thì vẫn nhẹ hơn nhiều. Lý do căn bản là ở Giao Chỉ, Phật Giáo đã chinh phục giới quần chúng bình dị trước. Trong khi đó tại đất Hán, Phật Giáo phải đương đầu trước hết với giới trí thức Khổng Lão.

Vào thời đại Ðông Hán, Lão Giáo chưa có nhiều sắc thái tâm linh triết học mà chỉ thịnh hành như một tôn giáo thần tiên bất tử. Một số người thờ phụng Hoàng Lão thấy Phật có vai vế ở Giao Châu và thấy một số trí thức nhà Hán hâm mộ, bèn dựng ra một thuyết gọi là thuyết Hóa Hồ. Tức là giáo hóa người Hồ; theo thuyết này, Lão Tử sau khi biệt tăm tại miền Tây đã đi qua đất Hồ (Ấn Ðộ). Nơi đây ngài đã giáo hóa chinh phục người Hồ và sau dó trở thành Phật Thích Ca. Phật Thích Ca do đó cũng là Lão Tử, và vì vậy theo Phật cũng như theo Lão. Nhờ cánh cửa này mà đạo Phật đi sâu vào nội địa nhà Hán, và ta nghe câu chuyện Hán Hoàn Ðế thờ Phật và Hoàng Lão chung trên một bàn thờ. Thuyết Hóa Hồ được phát sinh ở miền hạ lưu sông Dương Tử, nơi đây Sở Vương Anh đã tin theo cả Phật Giáo và Lão Giáo. Hóa Hồ Kinh tục truyền do Vương Phù chế tác trong thời đại tây Tấn (265-316). Không phải Vương phù snags chế thuyết Hóa Hồ; ông chỉ thu lượm thần thoại liên hệ đế Lão Tử mà ghi chép ra thôi.

Ở Giao Chỉ, sự truyền bá đạo Phật đã không cần nhờ vào thuyết Hóa Hồ, bởi quần chúng không phải là những người theo đạo Lão và không có mặc cảm tự tôn về văn hóa. Ðối với trí thức ay mê Hoàng Lão, phương pháp hòa đồng và diẽn đạt tư tưởng bằng ngôn ngữ Khổng Lão cũng đủ để đưa tới thành công.

Tài liệu này - Việt Nam Phât giáo sử lược - VNPGSL mà Hoangnt trích dẫn, ai là tác giả vậy? Một luận điểm chẳng có căn cứ gì cả, trích dẫn làm gì cho nó ảnh hương tính học thuật và nghiên cứu của diễn đàn.

Nhân vật Lão tử có thật chỉ vì căn cứ vào di sản mà Ngài để lại, còn bản thân tiểu sử của Ngài thì ngay cả người Hán - vốn tự nhận Lão Tử thuộc về nền văn minh của họ - vẫn chưa xác định được.

Tác giả của đoạn trích dẫn này viết lung tung theo cảm quan, không có tính hợp lý tối thiểu. Mà bản thân tính hợp lý cũng mới chỉ là một thành tố trong hệ thống tiêu chí khoa học cho một giả thiết được coi là đúng.

*

Ý này không đúng với sử rồi. Gán ghép hoặc mang thư.

Thiên Đồng "mang thư" đi đâu vậy? Lần này là thứ 1111 gọi chẵn là 1000 lần , bỏ con số lẻ - Tôi nhắc Thiên Đồng về lỗi chính tả khi viết.

Nội dung phản biện thì sâu sắc. Bực mình nhất cái lỗi chính tả.

Lưu ý anh em PTLV là: Khi một tác giả đang viết chưa hết ý. Muốn đặt vấn đề phản biện cần lập một topíc khác. Không chen ngang như vậy, dễ làm mất cảm hứng của người viết.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mở đầu Đại Việt sử ký toàn thư Ngô sĩ Liên viết:

Xét: Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt. Vua Nghiêu sai Hy thị đến ở Nam Giao để định đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu thì Bách Việt thuộc phần đất châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Từ đời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị , tên Việt bắt đầu có từ đấy. ..

Ngay từ dòng mở đầu đã có nhiều điểm phải xem xét lại :

Xét Thời Hoàng Đế dựng muôn nước …không có tư liệu nào nói Hoàng đế hay đế Hoàng vua thủy tổ của Trung hoa dựng muôn nước , sử liệu chỉ ghi Hoàng đế là vua Hữu Hùng quốc , cả ông và Viêm đế cùng là con của Hùng quốc quân , quân là trưởng như người chồng trong nhà gọi là phu quân tức chủ gia đình , xét ra đời Thiếu Điển cha của Hoàng đế thì cộng đồng Hùng chưa phải là 1 nước nên người đứng đầu chỉ gọi là ‘quân’ , từ quốc ở đây có thể nói đến 1 cộng đồng người thời tiền lập quốc tức chỉ là 1 liên minh thị tộc mà thôi , phải đến đời Hoàng đế thì từ ‘đế’ mới xuất hiện xác định sự kiện cộng đồng ‘Hùng’ chuyển mình từ liên minh thị tộc thành 1 quốc gia do ‘đế’ cai trị . Như thế Hoàng đế chỉ lập 1 nước gọi là Hữu Hùng quốc không hề lập …muôn nước như Đại Việt sử ký toàn thư viết .

Trong quốc hiệu ‘Hữu Hùng quốc’ thì từ Hữu được cho là 1 trợ từ vô nghĩa , nhưng đặc biệt từ này xuất hiện rất nhiều trong cổ sử Trung Hoa như …hữu Hùng , hữu Ngu , hữu Hổ , hữu Cùng , hữu Nhưng .v.v. .Nếu dựa vào cụm từ dân giã ‘họ hàng hang hốc’ thì nghiệm ra ‘hữu’ không phải là trợ từ vô nghĩa mà là biến âm của từ ‘họ’ Việt ngữ , từ nguồn cơn lịch sử tận thời lấy ‘hang hốc’ làm nơi cư trú tức ý nói đến những người có quan hệ thân thiết thường là máu mủ xa gần cùng nhau sống chung trong 1 cái hang , mỗi hốc là 1 gia đình nhỏ về sau …hang hốc biến thành họ hàng rồi hàng ↔hương ; họ ↔ hữu ,. Xét như thế thì hữu Hùng chính là họ Hùng , hữu Ngu là họ Ngu .v.v. , hữu Hùng quốc là nước của người họ Hùng , có nước họ Hùng tất phải có Hùng vương , đế Hoàng hay đế màu vàng cũng chỉ là 1 đời Hùng vương trong chiều dài lịch sử của Hùng quốc mà thôi .

Dòng đầu đã sai dòng kế tiếp thì hết sức tối nghĩa và cũng sai nốt …

….lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt…

Đoạn này xác định vị trí đất Giao chỉ nằm ở góc tây nam lãnh thổ của ‘muôn nước’ tức Thiên hạ và cách xa đất của cộng đồng Bách Việt . Thời Hoàng đế chỉ có 1 nước duy nhất thì làm gì có nước Giao chỉ hay đất Giao chỉ ở phía Tây – nam ?.

Nền địa lý cổ Trung hoa quan niệm lãnh thổ là 1mảnh đất hình vuông chính giữa là giao điểm của 2 đường kẻ Nam – Bắc và Tây – Đông …và vùng trung tâm ấy gọi là đất Giao chỉ ; xét như thế đất Giao chỉ không ở chính giữa thiên hạ tức Trung nguyên Trung thổ thì còn đất nào khác ?.

Dưới ánh sáng Dịch học thì đế Hoàng có nghĩa là vua vùng ‘chính giữa’; vàng là sắc trung tâm của Ngũ sắc và chính bản thân tên gọi ‘Giao chỉ’ cũng chỉ ra … đấy là vùng chính giữa Thiên hạ…vậy đế Hoàng vua nước họ Hùng và lãnh thổ nước họ Hùng chính là đất Giao chỉ …về lý lẽ có sự nhất qúan không thể nào nói khác được .

…đoạn … lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam … là đoạn thông tin sai hoàn toàn vì khi đã là Giao chỉ hay chỗ giữa rồi thì không thể nào lại còn là đất tây nam được… ; tới những chữ kế tiếp … xa ngoài đất Bách Việt…còn sai hơn nữa , thời Hoàng đế lập quốc thì làm gì có đất Bách Việt để mà xa ngoài cõi ?. Bách Việt là từ mà người Hán dùng để gọi chung các tộc phi Hán sống ở miền nam Trung Quốc từ thời Xuân thu – Chiến quốc (Từ Bách Việt lần đầu tiên thấy chép trong Sử Ký , Ngô Khởi Truyện của Tư Mã Thiên) sau đế Hoàng vài ba ngàn năm …, Tệ hơn nữa đoạn trên thì như thế đoạn dưới thì … “Vua Vũ chia 9 châu thì Bách Việt thuộc phần đất châu Dương , Giao Chỉ thuộc về đấy”… ý nghĩa hoàn toàn rõ ràng nói Giao chỉ nằm trong đất Bách Việt …như thế là làm sao ?, mới dòng trên thì Giao chỉ xa cõi Bách Việt …xuống đoạn dưới thì ….Giao chỉ thuộc về đấy … thực đành bó tay không hiểu nổi ; châu Dương theo sử học là vùng Đông nam Trung Hoa vậy …Giao chỉ nằm ở tây nam như dòng trên hay đông nam thiên hạ như chép ở dòng dưới …?.

… Vua Nghiêu sai Hy thị đến ở Nam Giao để định đất Giao Chỉ ở phương Nam…; hiểu Nam Giao là đất Giao chỉ ở phương Nam chỉ là sự cố tình cưỡng hiếp ngôn ngữ để sau cùng đẻ ra cái quái thai … nước của Hán tộc là Trung tâm thiên hạ tức Trung quốc ; từ thời Tây Hán (?) Khổng An Quốc chú giải Kinh Thư thì cho Nam Giao chỉ nghĩa là phương Nam chung chung mà thôi , và ngầm hiểu phương nam tức ở phía nam so với Trung quốc của Hán tộc , đến thời Đường Tư Mã Trinh sợ có sự hiểu chung chung chưa đủ rõ mới gán cho ‘Nam Giao’ nghĩa dứt khoát là … Giao Chỉ ở phương Nam (Trung quốc) ,như thế là … thông tin trong văn bản lịch sử cổ nhất đã xác định chắc như đinh đóng cột… Trung quốc ở bờ Hoàng hà và đất Nam Giao của Kinh Thư … mãi tận xa về phía Nam . Nói thực vào thời Đường Nghiêu với khoảng cách địa lý xa xôi như vậy mà người ‘Trung quốc mơ hồ chung chung’ đã biết rõ về vùng đất có danh xưng ‘Giao chỉ chữ nghĩa rõ ràng’ xa về phía Nam …chỉ là chuyện tưởng tượng …tự thân họ cũng thấy …không thể như thế được nên cả đống ‘học gỉa học thật’ Trung quốc hiện đang gân cổ lên lý giải …. ‘Giao chỉ’ là khái niệm văn hóa chứ không phải khái niệm địa lý nhưng …vô lý vẫn hoàn vô lý vì suy cho cùng văn hóa cũng chỉ là thành tựu của con người , mà đã là con người thì buộc phải sống ở 1 mảnh đất nào đấy …văn hoá Giao chỉ phải sinh ra và đứng chân trên đất Giao chỉ không thể hoá ra chim mà bay lên trời …nên cho dù có là khái niệm văn hóa thì cũng không thể hoá giải vấn đề khoảng cách vạn dặm giữa Trung quốc và Giao chỉ …vô lý vẫn hoàn vô lý .

Xưa đến nay người ta vẫn cố tình nhập nhèm Giao chỉ và Nam Giao là một , thực ra đấy là 2 vùng đất khác nhau , Giao chỉ là đất chính giữa hay trung tâm còn Nam Giao hay ‘Nam Giao …chỉ’ là miền đất ở phía nam đất Trung tâm , chỉ khi rạch ròi như thế mới có thể nhận ra ý nghĩa thực của những dòng đầu sách Đại Việt sử ký toàn thư ; đế Nghiêu đang ở đất Giao chỉ tức đất trung tâm sai Hy Thúc đi về hướng Nam để định đất Nam Giao tức vùng đất ở về phía Nam Giao …chỉ và dĩ nhiên đấy là 2 miền đất liền kề .

Chính từ thông tin … lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây – Nam …đã cho ra đời quốc hiệu đầu tiên của người Việt: nước Xích – Qủy .

Đại Việt sử ký toàn thư...những dòng đầu . - dòng HÙNG - VIỆT

Posted Image

Xích màu đỏ chỉ hướng Xích đạo , Dịch học gọi là phương Bắc – Bức nay lộn ngược thành phương Nam – Nước .

Qủy là biến âm của Cửu số 9 chỉ phương Tây theo Dịch học .

Kinh Dịch có câu :

Cao tông phạt Qủy phương , tam niên nãi khắc chi , qủy phương nghĩa là nước ở về phía tây lãnh thổ nhà Thương Ân .

Xét như thế thì chỉ có quốc hiệu : Xích – Cửu nghĩa là nước ở về phía Tây – Nam thiên hạ như đã chép trong Đại Việt sử ký toàn thư , không hề có nước Xích qủy hay Qủy đỏ nghe đến rợn người , trò cố ý sai này đã thể hiện bản chất đểu cáng của đám sử ‘gia hỏi giả’ chuyên viết sử bằng bút lông đuôi ngựa …, chính cái nước ‘qủy đỏ’ này …khiến người ta phải cảnh giác trước mọi thông tin lịch sử …made in China .

Tư liệu lịch sử hiện có đã chỉ ra 1 cách rõ ràng đích xác không cần bàn cãi nữa : Giao chỉ là đất Bắc Trung và Bắc Việt ngày nay , vậy… không lẽ Nam Giao là đất Chiêm thành ?, sự việc chỉ có thể lý giải theo như Sử thuyết Hùng Việt là trục Bắc – Nam nay đã bị lộn ngược ; Nam Giao chính là vùng Quảng Tây và đông Vân nam ngày nay , vùng đất này trước đây gọi là đất ‘Lâm’ biến âm của Lam – Nam .

Đoạn … Từ đời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị , tên Việt bắt đầu có từ đấy. ..Mốc thời gian này hoàn toàn khác với sử thuyết Hùng Việt ; đời Hùng vương thứ 8 là Hùng Việt vương – Tuấn lang tức thánh Tản viên cũng là Đại Vũ tổ nhà Hạ như thế từ Việt nghĩa là vượt lên đã có từ hơn 2000 năm trước công nguyên lúc vượt nước lũ do Thủy tinh làm ra chứ không phải đến khoảng 1000 năm trước năm số o như chép trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô sĩ Liên .

Độ dày thời gian rất quan trọng đối với 1 dân tộc trong khía cạnh văn hóa – văn minh khi so sánh với những nền văn minh khác trên qủa đất , nhân loại dù muốn hay không cũng sẽ tiến đến nền văn minh toàn cầu , dựa trên nền gía trị phổ quát bộ máy chọn lọc tự nhiên sẽ tuyển chọn và giữ lại những gì ưu việt , mà tiêu chí quan trọng hàng đầu lượng giá tính ưu việt là sự trường tồn trong dòng thời gian …, với hơn 4000 năm thử thách rất có thể nền văn minh Việt dựa trên nền tảng Dịch học sẽ là cốt lõi của nền văn minh toàn cầu sau này .

Đọc những dòng chữ đầu trong Đại Việt sử ký toàn thư không thể hiểu khác là cụ Ngô sĩ Liên quan niệm phần đất Giao chỉ và dân tộc sống trên đất Giao chỉ đã khai mở lịch sử từ thời Hoàng đế hay đế Hoàng , nói khác đi tiền nhân người Việt Nam cũng nằm chung trong dòng chảy lịch sử …dựng muôn nước của Hoàng đế thủy tổ Trung hoa , với truyền thuyết …đế Minh cháu 3 đời của Thần nông Viêm đế thì không thể nghĩ khác được ….người Việt cũng là ‘Viêm – Hoàng tử tôn’ y như người Trung hoa .

Xét bề ngoài thì ‘sử quan’ của Sử thuyết Hùng Việt cũng y như thế nhưng trong bề sâu thì khác hoàn toàn ….

Giao chỉ là vùng Chính giữa thiên hạ chứ không phải ở về phía Tây – Nam tức Giao chỉ chính là đất khởi nguyên của dòng giống Trung hoa mà ngày sửa ngày xưa gọi là người họ Hùng sau này có thời gọi là Bách Việt .

Hoàng đế nghĩa là vua vùng trung tâm màu vàng chính là đế Minh cháu 3 đời của tổ phụ Viêm đế Thần nông trong truyền thuyết lịch sử Việt . Trung hoa là đất nước của tiền nhân cả người Hoa và người Việt ngày nay , Hán ký âm của Hãn là danh xưng của tộc người đã chiếm đóng và soán đoạt lịch sử cũng như văn minh Trung hoa , có thể khẳng định Trung hoa của Hoàng đế không phải là quốc gia tiền thân của Trung quốc ngày nay , Trung quốc là đất nước của tộc người gốc gác ở phía bắc Hoàng hà như chính lịch sử Hán quốc hiện nay viết không liên quan gì đến đất Giao chỉ và việc Hoàng đế dựng muôn nước trong cổ sử …

Đoạn trích về Lão Tử dĩ nhiên đã sai bét, nhưng chúng ta chỉ chú ý về thông tin "người Hồ" tức người Tây Trúc - Ấn Độ thôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nam Triệu và Nam Chiếu

Wednesday, January 23, 2013 11:38:15 PM

Nguồn cội

Trong Lĩnh Nam chích quái có một câu chuyện rất thật, không có chút huyền thoại hay “chích quái” nào nhưng lại khó hiểu nhất vì chẳng hề ăn khớp tí gì với chính sử. Đó là Truyện Nam Chiếu. Nay xin “đọc lại” câu chuyện này, không cần phải “giải mã” gì, chỉ cần đối chiếu với những gì đã và đang biết về lịch sử bị lãng quên của miền Tây và Nam nước ta.

Câu đầu tiên của Truyện Nam Chiếu khẳng định: “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”. Câu khẳng định này đúng là đánh đố người đọc ngày nay. Nam Chiếu được coi là quốc gia của người Di Bạch vùng Vân Nam, sao lại là con cháu Triệu Đà được? Nhưng đích thực, câu mở đầu này đã xác định nước “Nam Chiếu” thực chất là ở đâu.

Triệu Vũ Đế dựng nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung – Quảng Đông. Thành phần dân tộc chính vùng này là nhóm người Tày Thái. Nam Chiếu là con cháu Triệu Đà, tức là một quốc gia người Thái. Lịch sử Nam Chiếu cho biết quốc gia người Thái này đã từng trải rộng trên đất Tây Bắc Việt Nam, Lào và Bắc Thái Lan.

Nước Nam Chiếu ở trong truyện không phải mới bắt đầu vào thời Đường như nước Nam Chiếu theo chính sử ở Vân Nam, mà có gốc gác từ thời Tây Hán. Khi Lộ Bác Đức tấn công Nam Việt thì “Con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn, là những xứ vắng vẻ không người. Khi bộ hạ đông đúc họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bể đột nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu”.

Đất Hoành Sơn mà ở gần cửa Thần Phù thì là đèo Ngang giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, chứ không phải Hoành Sơn ở Quảng Bình. Con cháu họ Triệu như vậy trở về vùng Ái Châu tụ tập.

Đoạn ghi chép trên rất giống với chuyện… Man vương Mạnh Hoạch chống lại các vị quan họ Chu của nhà Đông Hán trong thần tích làng Hương Ngải - Sơn Tây. Mạnh Hoạch hoạt động cả một dải từ Hưng Hóa tới Ái Châu, làm quan cai trị ở Giao Châu lúc đó phải lao đao… Nam Triệu như vậy là tên gọi nước của Mạnh Hoạch từ thời Đông Hán, là vùng đất phía Tây Giao Chỉ.

Tiếp theo, “Đến đời Ngô, Tôn Quyền sai Đái Lương, Lữ Đại làm thú mục để đánh dẹp. Quân Nam Chiếu ở cả một vùng từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở, không có một vết chân người. Quân Nam Chiếu ở đấy thường lấy việc cướp bóc để sinh sống, đánh giết thú mục, không thể ngăn cản nổi.

Đây cũng là thành tích của Mạnh Hoạch khi phần đất phía Đông Giao Chỉ được Sĩ Nhiếp Ngạn Uy dâng cho Ngô Tôn Quyền. Đoạn trên cho biết một loạt các địa danh “từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi”. Các địa danh này hẳn nằm ở Tây Bắc và Tây Thanh Nghệ ngày nay, là đất Nam Triệu của Mạnh Hoạch.

Mạnh Hoạch hay Mãnh Hoàng, có thể chỉ là cách gọi vị vua của người Mường Mán. Mãnh Hoàng là con cháu họ Triệu, sau khi kinh đô Phiên Ngung của Nam Việt thất thủ đã rời về Tây Giao Chỉ và hùng cứ một vùng, liên tục chống lại các quan lại nhà Hán rồi tới nhà Ngô. Tiếp theo thì như đã biết, Vũ Hầu Gia Cát, thừa tướng của nhà Thục đã vượt Lô Giang, tiến vào Tây Bắc bình định, thu phục Mãnh Hoàng. Mãnh Hoàng tiếp tục cai quản khu vực Nam Triệu này dưới hình thức tự trị, độc lập.

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là Triệu Ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều nể phục, cùng hợp lại với quân Nam Chiếu, được hơn hai vạn người, lại đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ, xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển.

Nếu đối chiếu với tộc phả họ Phạm:

"Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân - Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) - tức là Nam Trung bộ ngày nay.

Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trước CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm Ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).”

Có thể thấy Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà, là họ Lý, bắt đầu từ Lý Thân (Lý Ông Trọng). Vùng đất Tây Giao Chỉ là vùng Lâm Thao, nơi Lý Ông Trọng trấn giữ người Hồ dưới thời Tần.

Đặc biệt truyền phả họ Nguyễn còn chép rằng Triệu Đà chính là Lý Ông Trọng. Chuyện này tuy còn nhiều nghi vấn, nhưng có thể có phần nào là sự thật khi con cháu Triệu Đà cũng là con cháu của Lý Thân, chiếm vùng đất Tây Giao Chỉ dưới thời Hán.

Vùng Tây Giao Chỉ là đất của Mãnh Hoàng (Mạnh Hoạch), còn gọi là Nam Triệu, thời Tam quốc đã hàng phục nước Thục nhờ công của Vũ Hầu Gia Cát. Khi nhà Tấn diệt Thục, Tấn chỉ chiếm được vùng Xuyên Thục phía Bắc của nước này. Phần phía Nam vẫn do Mãnh Hoàng tự trị kiểm soát. Theo Truyện Nam Chiếu thì lúc này Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà – Lý Thân, đã lên nắm quyền cai quản ở đây. Triệu Ông Lý chống lại nhà Tấn, “cùng hợp với quân Nam Chiếu”, tức là hợp với quân của họ Phạm ở phía Nam vùng ven biển Trung Bộ theo như tộc phả họ Phạm chép.

Truyên Nam Chiếu chép: “Khi ấy, nước Tây Bà Dạ chia đều đất ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Già La, trên từ Cầm Châu xuống tới Hoan Châu gọi là lộ Lâm An giao cho Nam Chiếu và Triệu Ông Lý thống lĩnh. Sau đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá, đất Diễn Châu, đông giáp với biển, tây tới nước Bà Dạ, nam tới Hoành Sơn, tự xưng làm chúa.”

Có thể thấy nước Nam Chiếu trong truyện ở thời kỳ nhà Tấn chính là xứ Lâm Ấp hay Nam Hà trong tộc phả họ Phạm. Xứ này bao gồm 2 phần:

- Phần lộ trên từ Quý Châu tới Diễn Châu do Triệu Ông Lý cai quản. Lộ này có tên Như Hoàn, hay Già La, sách khác gọi là Như La, Gia Viễn. Đây là phần đất liền không giáp biển, là Tây Giao Chỉ, gồm cả đất Lào ngày nay. Tên gọi Già La hay Như La cho thấy vùng này chính là nước Lỗ (La) của thời Chiến Quốc. Đây cũng là đất Lâm Thao thời Tần, trước do Lý Ông Trọng cai quản, sau đó giao cho con cháu Lý Thân.

- Lộ dưới từ Cầm Châu tới Hoan Châu gọi là Lâm An, do con cháu họ Phạm quản lý. Đây là phần giáp biển, ven biển miền Trung ngày nay. Tên lộ Lâm An cho thấy đây là đất Yên (An) thời Chiến Quốc, đã được nhà Tần giao cho Phạm Duy Hinh, con của tướng Phạm Duy Minh ở Đằng Châu cai quản.

Posted ImageBản đồ trên ước vẽ 2 phần đất Già La và Lâm An từ thời Tấn. Đây là phạm vi nước Lâm Ấp vẫn được mô tả trong sử sách, có phía Đông giáp biển, Tây đến Vân Nam …

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Nhà Đông Tấn sai tướng là Tào Khả đem quân sang đánh, Ông Lý mai phục ở rừng núi hiểm trở nơi đầu nguồn sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở núi Liên Vị, địch tới thì mình đi, địch đi thì mình tới, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5 năm trời, không hề đối đầu. Quân Tấn không chịu nổi lam chướng, chết hơn quá nửa, bèn rút quân về.

Nhà Tấn sau khi diệt Thục và Ngô, tấn công xuống phương Nam. Nhưng gặp sự kháng cự của Mãnh Hoàng, rồi Triệu Ông Lý ở vùng Nam Triệu này, không tiến nổi. Vùng đất này như vậy vẫn giữ độc lập từ thời Tấn.

Lý Ông Nam Triệu tương đương với … Lý Nam Đế (Triệu = Chúa), trong sử Việt được gọi là triều Hậu Lý Nam Đế. Tới thời Tùy Cao Tổ năm 602 tướng Lưu Phương đã dụ hàng con cháu của Nam Triệu, đưa vùng đất La – Lỗ nhập vào đất Tùy. Năm 605 Lưu Phương cũng tấn công xuống phía Nam thắng lợi, đuổi họ Phạm chạy ra ngoài hải đảo, sát nhập nốt đất An – Yên vào nhà Tùy. Nước “Nam Triệu” của Triệu Ông Lý chấm dứt ở đây sau 600 năm tồn tại. Nhưng sau đó, một nước Nam Chiếu mới lại nổi lên…

Tộc phả họ Phạm viết: "Đến đời vua họ Phạm thứ 19 là Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa, vơ vét của cải , châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua họ Phạm, khiến Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh về cùng Mai Thúc Loan và cha con Phùng Hưng, Phùng An , diệt được quan quân nhà Đường và lập Mai Thúc Loan làm Bố Cái Đại vương, tức Mai Hắc đế (766)."

Còn Truyện Nam Chiếu chép: “Quân Nam Chiếu tới cướp các xứ Nam thành, Đông thành, Trường An, quan lệnh không thể dẹp nổi. Tới khi nhà Đường thịnh lên, vua Ý Tông sai Cao Biền đem quân sang dẹp, không đánh nổi phải bỏ về.

Đoạn này nói tới cuộc khởi nghĩa thời Mai Thúc Loan - Phùng Hưng, tấn công chiếm thành Tống Bình (Trường An?). Phải tới Cao Vương Biền mới đuổi được quân Nam Chiếu của họ Phùng ra khỏi Đông Giao Chỉ, và đặt vùng này làm Tĩnh Hải quân. Nhưng phía Tây Giao Chỉ vẫn do Nam Chiếu chiếm giữ. Thậm chí còn mở rộng ra thành 6-7 “chiếu” theo như truyền thuyết về Khun Borom ở Lào.

Posted Image Đoạn cuối cùng của Truyện Nam Chiếu: “Tới đời Ngũ Đại vua Tấn là Thạch Kính Đường sai tướng tư mã là Lý Tiến đem 30 vạn quân đánh Đồ Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về biên giới Ai Lao, gọi là nước Đầu Mô, nay là đất Bồn Man”.

Thời Thạch Kính Đường thì Hoa Nam đã chia năm xẻ bảy, còn hơi sức đâu mà nhà Hậu Tấn đánh dẹp Nam Chiếu. Lúc này trên đất Tĩnh Hải là triều đại của Nam Hán Lưu Cung. Đoạn sử trên có thể nói tới sự kiện Cao Biền đánh Nam Chiếu từ thời Đường Ý Tông, hoặc chuyện Đoàn Tư Bình diệt Nam Chiếu, lập nước Đại Lý. Có điều sử Tàu đã biến chuyện Nam Chiếu bị diệt thành chuyện Nam Hán Lưu Cung cử Lý Tiến đánh Khúc Thừa Mỹ. Có thể Lý Tiến là tướng của Lưu Cung quãng năm 936 – 940 (thời Hậu Tấn) đã tấn công Nam Chiếu ở Tây Giao Chỉ, chứ không phải đánh Khúc Thừa Mỹ.

Phải nói Truyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái là một ghi chép rất đầy đủ và chân xác về lịch sử vùng Tây Giao Chỉ trong suốt một thời kỳ dài từ Đông Hán tới tận thời Ngũ Đại. 1000 năm lịch sử của miền Tây đã bị lãng quên, may mắn còn được lưu lại trong truyện. 600 năm Nam Triệu và 400 năm Nam Chiếu, kiên cường chống lại phương Bắc, huy hoàng mở các quốc gia người Thái khắp Đông Nam Á.

Share this post


Link to post
Share on other sites

*Chiên-đàn: 栴檀; Phiên âm chữ candana từ tiếng Phạn và Pāli, dịch sang Anh ngữ là sandal¬wood, chỉ một số loài cây có hương thơm, tên khoa học Santalum spp. Gỗ những loài cây này nặng, màu vàng và có thớ mịn; đặc biệt hơn hẳn các loài cây hương liệu khác ở điểm mùi hương của nó được giữ rất lâu.

Chính đặc điểm ưu việt đó chiên đàn được dùng làm nhang hay đồ thờ cúng (gọi là Pháp khí). Thời xưa ở Ấn Độ là loại gỗ thiêng liêng được các giáo phái Bà-la-môn dành cho việc xây dựng đền thờ, tạo tượng thờ, nghiền thành bột nhão, phơi khô và đốt trong các nghi lễ thờ cúng . Về sau Phật giáo tiếp nhận chiên đàn, coi đó là phẩm vật thiêng liêng như hoa sen. Hương bột chiên đàn khi đốt lên trở thành thứ trợ thủ khi tu sĩ Phật giáo thiền định và nhang chiên đàn trở thành phẩm vật dâng Phật.

Phật giáo rất coi trọng loài cây này, chúng ta dễ dàng thấy nó có nêu lên trong kinh sách. Hương thơm loài cây này cũng được dùng như ở Bà-la-môn giáo: đốt, làm tượng và dựng già lam. Như trong Kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng viết: “Bấy giờ Thế Tôn đang nhập chánh định tam muội trong lâu đài Chiên đàn, biến hiện thần thông hóa ra vô số hoa sen ngàn cánh, lớn như vành xe, sắc hương đầy đủ, nhưng chưa nở hẳn”. Hay làm hương liệu đốt: “Lư hương vừa bén chiên đàn, Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương” [Một bài lễ tụng]. Tuy là báu mộc nhưng tinh thần pháp bảo mới đáng quý hơn‎, nên bài kệ 55 kinh Pháp Cú viết: “Hoa chiên đàn, già la; Hoa sen, hoa vũ quý. Giữa những hương hoa ấy; Giới hương là vô thượng”.

Có một vài truyền thuyết ngoài Phật giáo gắn với loài cây này. Ở Việt Nam có chuyện Mộc Tinh trong Lĩnh Nam Chích Quái. Tuy nhiên cây chiên đàn gắn với các truyền thuyết có đúng cây chiên đàn của Phật giáo hay không là điều chưa rõ. Có thể chỉ trùng tên mà thôi vì hiện nay những loài nói ở trên không thấy ở Việt Nam.

栴檀樹

Chiên đàn thụ

Cây chiên đàn (Người dịch: Nguyễn Sĩ Đại)

絕好栴檀樹

繁香迥不群

恨渠天性別

只在逆風聞

Tuyệt hảo chiên đàn thụ

Phồn hương quýnh bất quần

Hận cừ thiên tính biệt

Chỉ tại nghịch phong văn.

Cây chiên đàn tốt tuyệt

Hương sâu vượt bọn bầy

Tinh đặc thù, đáng tiếc

Ngược gió thì mới hay!

Đặng Tiến

CỌP, TỪ MỘC TINH ĐẾN ÔNG BA MƯƠI

Posted Image

Tranh dân gian - Hắc hổ

Tiếng Việt có nhiều cách gọi tên cọp : hổ, hùm, khái ; có khi vì kiêng dè hay tôn xưng, người ta còn gọi ông kễnh, ông ngài, ông thầy, ông cả. Lại còn tên ông Ba Mươi, gây thắc mắc.

Lối giải thích của chúng tôi, tên này là do tục lệ tế thần Xương Cuồng hằng năm, vào ngày Ba Mươi Tết, có từ thời Văn Lang, theo sách Lĩnh Nam Chích Quái, trong truyện Mộc Tinh. Người Văn Lang gọi Mộc Tinh, thần Cây Cối, là Xương Cuồng, như một ẩn dụ, ám chỉ loài thú dữ là cọp.

Đây là giả thuyết, chúng tôi coi như một phát hiện, đưa ra để được trao đổi.

Lĩnh Nam Chích Quái là sưu tập những truyền thuyết dân gian có từ thời Lý Trần được Vũ Quỳnh và Kiều Phú san định vào thời Hồng Đức, cốt lõi gồm 23 truyện. Trong bốn truyện cơ bản gắn liền với nguồn gốc dân tộc, có truyện Mộc Tinh. Vũ Quỳnh, trong bài tựa viết 1492, minh định Xương Cuồng là thần cây chiên đàn.

Posted Image

Tranh Lapicque, sơn dầu 1961

Chiên đàn trong tiếng Hán Việt là một loài gỗ thơm. Theo điển tích, chiên đàn trồng nơi trường học, tượng trưng ông thầy giảng học, như trong truyện Phan Trần : « chiên đàn còn thoảng mùi hương lạ đời ».

Theo Lĩnh Nam Chích Quái, thì lại là một cây vĩ đại, « trải qua hằng mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường thay đổi dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật, (…) biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người ».

Lời mô tả gợi ý : Mộc Tinh có thể là thú dữ, chủ yếu là Hổ. « Dân phải lập đền thờ, hàng năm đến ngày 30 tháng chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, mới được yên ổn. Dân thường gọi là thần Xương Cuồng ». Người dịch chú thích : Xương Cuồng có nghĩa là hành động một cách bạo ngược, tàn ác, không thể trấn áp được [1]. « Kịp tới khi Tần Thủy Hoàng bổ Nhâm Hiêu (còn gọi là Nhâm Ngao) làm huyện lệnh, muốn bỏ tệ ấy đi. Thần Xương Cuồng tức giận vật chết Hiêu, vì thế về sau lại phải phụng thờ cẩn thận ».

Đến đời Đinh Tiên Hoàng mới có pháp sư diệt được yêu quái.

Nhưng có nơi vẫn còn giữ cổ tục, như Phạm đình Hổ kể lại trong bài Thần Hổ « Làng Ngọc Cục ở huyện ta (Đường An, Hải Dương, ĐT ghi ) khi xưa truyền rằng vẫn thờ yêu hổ phải bắt người làm việc hy sinh để cúng (…) Đó cũng như cái tục Nhâm Ngao tế thần Xương Cuồng vậy. Từ năm Canh Thân 1800 trở về sau thói ấy mới bỏ » [2].

Nhân cái tên lạ, ông Ba Mươi để gọi cọp, khi so sánh hai văn bản, ta có cơ sở để đặt giả thuyết : Xương Cuồng là Thần Hổ ; và Mộc Tinh là hình ảnh cọp, tai họa của rừng núi, cũng như Ngư Tinh là tai họa của sông biển, và Hồ Tinh (chồn cáo) là tai họa của đồng bằng.

Đây là một cách « đọc » truyền thuyết, cũng như ngày nay chúng ta hiểu truyện Sơn Tinh Thủy Tinh không phải là việc cưới hỏi, mà là việc chống nạn lũ lụt hằng năm, và xa hơn nữa việc trị thủy nói chung.

Việc đồng hóa cọp với cây cối cũng dễ hiểu : cọp là hình ảnh bí hiểm của rừng núi, hòa mình với cỏ cây, xuất hiện bất thường về đêm, có nhiều linh khiếu, khiến con người đồng hóa rừng thiêng với hùm thiêng. Mộc Tinh là ẩn dụ một thiên nhiên chưa đươc chế ngự.

Và vào thời Hồng Bàng người Văn Lang đã biết tránh cọp bằng cách dựng nhà sàn, « bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói » (LNCQ, chuyện Họ Hồng Bàng, sđd. tr. 24).

Một số di chỉ thời Đông Sơn, những lưỡi giáo tìm thấy ở núi Voi hay Sơn Tây có khắc hình cọp. Hay những tượng nhỏ bằng đồng thau tạc hình hổ sinh động.

Posted Image

Tigre, lame, Đong Son, Son Tay

Posted Image

Tigre, lame, Đong Son, Nui Voi

Posted Image

Tigre, Trong dong, Đong Son

Bên cạnh truyện Mộc Tinh là cổ tích cơ bản, tiếp theo người đời sau, cuối đời Lê, còn thêm truyện Trành Quỷ Hiển Linh, là chuyện Ma Trành : linh hồn người bị hổ ăn thịt biến thành tinh của hổ, thường dẫn đường cho hổ đi bắt người, khi có dịp lại hiện ra thành hình người (sđd. tr.125). Chuyện Ma Trành sẽ gợi ý cho người đời sau viết những tiểu thuyết đường rừng như Thần Hổ, 1937, Ai hát giữa rừng khuya, 1942, của Tchya hay Truyện Đường Rừng, 1940, của Lan Khai.

Lĩnh Nam Chích Quái thuật chuyện Nhâm Ngao bị thần Xương Cuồng tức giận vật chết. So với chính sử, Đại Việt sử ký Toàn Thư, phần ngoại kỷ, kỷ nhà Thục, kể lại rằng Nhâm Ngao - tướng nhà Tần - cùng với Triệu Đà đem quân tấn công nước Âu Lạc của An Dương Vương. Năm 210 trước Tây Lịch, Triệu Đà xâm lấn bằng đường bộ, bị thua. Nhâm Ngao đem thủy quân đóng ở sông Tiểu Giang, tức sông Thiên Đức (sông Đuống) « phạm thổ thần, bị bệnh phải rút về », hai năm sau bệnh nặng, giao quyền lại cho Triệu Đà và khuyên Đà tự lập, rồi chết.

Toàn thư cho rằng Nhâm Ngao phạm thổ thần còn Lĩnh Nam Chích Quái cho rằng bị thần Xương Cuồng tức giận vật chết. Lời lẽ xê xích, nhưng nội dung chính yểu thì giống nhau.

Dĩ nhiên đây là chuyện người xưa mê tín theo con mắt ngày nay. Điều cần ghi nhận là người xưa tin rằng thần Xương Cuồng là thổ thần có nhiều quyền năng, có thể vật chết người, kể cả một ông đại tướng nguyên soái. Và chúng ta có lý do để đặt câu hỏi : thần Xương Cuồng ấy phải chăng là Thần Hổ mà người Văn Lang sợ hãi và trọng vọng, làm lễ tế hằng năm vào ngày Ba Mươi Tết ?

Rồi phải chăng từ phong tục cổ sơ này, đã có vào thời các vua Hùng, mà con hổ, con cọp được gọi là Ông Ba Mươi cho đến ngày nay?

Đặng Tiến

Paris, 15.01.2010

<br clear="all"> [1] Lĩnh Nam Chích Quái, tr.39-41, nxb Văn Hóa, 1960.

[2] Vũ Trung Tùy Bút, tr.146, nxb Văn Học, 1972.

Tích kể xưa ở đất Phong Châu có cây chiên đàn khổng lồ, cành lá xum xuê tỏa bóng ra cả ngàn dặm. Chim hạc hay bay đến làm tổ trên cây nên đất ấy được gọi là Bạch Hạc. Qua mấy ngàn năm, cây khô héo chết đi thì hóa thành loài quỷ quái, dũng mãnh vô cùng, thường sát hại nhân dân. Vua Kinh Dương Vương giao tranh với nó mấy bận không phá được, sau phải khua nhạc khí để xua đuổi nó. Xương Cuồng chạy về phía Tây Nam, vẫn thường bắt dân cúng tế người.

Đời Hán thái thú là Nhâm Ngao muốn bỏ lệ cúng tế người, Xương Cuồng tức giận mà giết chết.

Kết cục

Thời Đinh có đạo sĩ phương Bắc là Văn Du Tường cải trang thành gánh tạp kỹ, diễn trò để dụ Xương Cuồng tới rồi nhân lúc y mất phòng bị mà chém chết.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted Image

Câu đối ở đình Giang, thuộc xã Viên Nội, huyện Ứng Hòa, Hà Nội, nơi thờ Lý Bí:

Nam diện ung dung, thác thủy tương truyền Lâm Ấp địa

Giang đình nghiễm nhã, cận quang trường chúc Vạn Xuân thiên.

Dịch:

Phương Nam ung dung, khởi đầu truyền đó đất Lâm Ấp

Đình Giang nghiêm nhã, rực sáng mãi còn trời Vạn Xuân.

Đình Giang được xây dựng bởi một quan lớn triều Nguyễn, người làng này. Đình xây kiểu cung đình, do thợ ở Huế về dựng. Câu đối trên như vậy làm khoảng vào thời nhà Nguyễn.

Chỗ “lạ” của câu đối này là ở vế đầu. Lý Bí, còn gọi là Lý Nam Đế. Nói Lý Nam Đế “phương Nam ung dung” thì dễ hiểu, nhưng “thác thủy tương truyền Lâm Ấp địa” thì không biết phải giải thích thế nào. Làm sao mà Lý Nam Đế lại khởi lập đất Lâm Ấp được?

Câu đối này gợi nhớ tới câu ở đền Sĩ Nhiếp (Tam Á – Thuận Thành – Bắc Ninh):

Khởi trung nghĩa công thần tâm kỳ, bỉ hà thì thử hà thì, an đắc dục bách tải di dung năng nhiếp Lâm Ấp

Thị sự nghiệp văn khoa cử tích, trị diệc tiến loạn diệc tiến, tối củ tứ thập niên chính sách chửng biểu Giao Châu.

Dịch:

Với tấm lòng trung nghĩa công thần kia, lúc này cũng như lúc khác, sáu trăm năm đức khoan dung để lại giúp dựng cơ đồ Lâm Ấp.

Nhờ sự nghiệp văn hóa khoa cử cũ, thời bình cũng như thời loạn, bốn mươi thu qui củ chính sách làm rạng tỏ Giao Châu.

Nếu chỉ hiểu Lâm Ấp là vùng đất tiền thân của Chiêm Thành ở Nam Trung Bộ ngày nay như chính sử đang chép thì không thể hiểu Lý Bí và Sĩ Nhiếp, hai nhân vật ở miền Bắc Việt thì liên quan gì đến việc trị quốc Lâm Ấp tận miền Trung?

Có thể thấy, tới tận thời Nguyễn, người ta hiểu từ “Lâm Ấp” hoàn toàn khác so với các sử gia thời Tây ngày nay. Lâm Ấp được dùng như một từ tương đương với “Nam bang”, như trong câu đối trên:

Nam diện ung dung, thác thủy tương truyền Lâm Ấp địa

“Nam diện” ở đây là “Lâm Ấp địa”. Lý Nam đế khởi thủy nước Nam – Lâm Ấp, hoàn toàn hợp lý.

Posted Image

Đình Giang ở Viên Nội - Ứng Hòa - Hà Nội

Thiên Nam ngữ lục chép về sự khởi đầu của Lâm Ấp khi Khu Liên (Khu Linh) khởi nghĩa:

Khu Linh người nước Nam ta

Bình sinh tập dụng can qua một mình

“Nước Nam ta” của Khu Linh là Lâm Ấp. Như vậy Lý Bí ở đình Giang cũng chính là Khu Linh/Khu Liên, người lập ra nước Lâm Ấp. Thông tin này một lần nữa xác nhận Khu Liên họ Lý, như tộc phả họ Phạm chép là Lý Khu Kiên (Lý Kiên thiết Liên).

Sử Việt thời Tiền Lý như vậy đã chép lẫn 2 sự kiện. Lý Bôn gọi là Lý Nam Đế vì đã lập nước Nam Việt của nhà Triệu. Hậu Lý Nam Đế thứ nhất là triều Hiếu (Tây Hán) đã đánh Triệu Việt Vương. Lý Bí cũng gọi là Lý Nam Đế vì lập nước Nam - Lâm Ấp. Hậu Lý Nam Đế thứ hai là phần Lâm Ấp ở phía Tây Giao Chỉ đã hàng Tuỳ thời Tuỳ Văn Đế.

Lâm Ấp là tên chỉ chung nước Nam ta, còn được dùng tới thời Nguyễn. Nước Đại Nam của nhà Nguyễn khi Minh Mạng đặt tên kỳ thực cũng tương đương với Lâm Ấp thời Lý Bí, bao gồm những phần của Lâm Ấp xưa như phần Đông Giao Chỉ (Bắc Việt), Tây Giao Chỉ (Tây Bắc và Lào), Trung Bộ (Chiêm Thành). Phần đất Vân Nam, Quí Châu của Lý Bí – Lưu Bị cũ được bù lại bởi phần đất Trấn Ninh (Căm-pu-chia) và Nam Bộ.

Văn Nhân góp ý :

....Nếu chỉ hiểu Lâm Ấp là vùng đất tiền thân của Chiêm Thành ở Nam Trung Bộ ngày nay như chính sử đang chép thì không thể hiểu Lý Bí và Sĩ Nhiếp, hai nhân vật ở miền Bắc Việt thì liên quan gì đến việc trị quốc Lâm Ấp tận miền Trung?...

Câu hỏi của Bách Việt Trùng cửu vẫn không lạ lắm đâu nếu so với chuyện ...Triệu Đà ...

Cả Đại Việt sử ký toàn thư và khâm định Việt sử thông giám cương Mục cùng viết :

....Vua ...Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung (nay ở tỉnh Quảng Đông).

Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 TCN], (Tần Nhị Thế năm thứ 3). Vua chiếm lấy đất Lâm Ấp và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vương.

Như vậy điạ danh Lâm ấp đã có từ thời Tần ?

. Liệu việc này có liên quan gì đến điều Sử ký Tư mã Thiên chép ...đất

đai về hướng Nam của nhà Tần khi Triệu Chính lên ngôi là miền ‘Bắc hộ’ tức vùng Quảng Nam ở Trung Việt ngày nay ?

Liệu nước Âu Lạc có nằm trong Lâm Ấp và Tượng Quận mà Triệu Đà chiếm năm 207TCN ?.

Cũng chính Đại Việt sử ký toàn thư viết :

….Quý Mão, năm thứ 10 [198 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 9). Vua (Triệu Đà) sai hai sứ coi giữ hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân….(lãnh thổ Âu Lạc cũ)

Xem ra ...Âu Lạc không thể nằm trong vùng ‘Lâm ấp – Tượng quận’ vì mãi 10 năm sau khi chiếm đất này để lập nước Nam Việt Triệu Đà mới cắt cử quan cai trị Giao Chỉ và Cửu chân tức chiếm được nước Âu Lạc ??? .

Vậy Lâm ấp và Tượng quận ở đâu trên bản đồ thế giới hiện tại ?, qua vài dòng Đại Việt sử ký toàn thư dẫn trên thì miền bắc Việt ngày nay

không thể nào là Tượng quận của Tần xưa như đa phần các nhà Sử học Trung quốc nói .

Sử ơi là sử ...Càng nhiều dấu hỏi ...càng mù tịt , càng đọc sách sử và tư liệu hiện có ...càng không rõ ‘nước Việt ta’ ra sao ???.

Điểm "hơi khó" chính là nước Hồ Tôn cứ được các sử gia xem là Lâm Ấp - Chiêm Thành: do vậy phải tìm ra các mối quan hệ vượt ra khỏi biên giới Lâm Ấp.

Khải ngả Nam Giao

Saturday, March 30, 2013 3:32:36 AM

Nguồn cội

Xem phần mở đầu Đại Việt sử ký toàn thư:

Xét: Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt. Vua Nghiêu sai Hy thị đến ở Nam Giao để định đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu thì Bách Việt thuộc phần đất châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Từ đời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị , tên Việt bắt đầu có từ đấy.

Kỷ Hồng Bàng Thị

Kinh Dương Vương

Tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông.

Nhâm Tuất, năm thứ 1. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dương Vương]. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ.

Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân…

Các sử gia Việt xưa một mặt chép chuyện của Hoàng Đế - Đế Nghiêu -Hy Thị - Đại Vũ ở đầu sử Việt, một mặt xuống dưới lại kể ngay chuyện Đế Minh - Đế Nghi - Lộc Tục - Kinh Dương Vương. Rõ ràng phần trên là chép theo Hoa sử (sách người Hoa), phần dưới là chép theo huyền sử Việt.

Theo Tư trị thông giám của Tư Mã Quang đời nhà Tống và phần bổ Tam Hoàng bản kỷ cho Sử ký Tư Mã Thiên của Tư Mã Trinh thời Đường thì dòng Thần Nông truyền từ Đế Minh – Đế Nghi – Đế Lai tới Du Võng thì xảy ra cuộc chiến giữa Hiên Viên và Xuy Vưu. Còn theo Truyện họ Hồng Bàng thì Lạc Long Quân đã lấy Âu Cơ là con của Đế Lai, nghĩa là cùng lúc với sự xuất hiện của Hiên Viên trong các sách của người Hoa.

Có thể thấy thời mở sử thì trong Hoa sử có huyền sử Việt (chuyện Đế Minh, Đế Nghi, Đế Lai), còn trong Việt sử có Hoa sử (chuyện Xuy Vưu, Hiên Viên). Các sử gia Hoa, Việt không phân định được nên đã chép thông tin từ cả 2 dòng sử. Có khác là sử gia Đường Tống nhấn mạnh vai trò của Hiên Viên và từ đó chép tiếp Hoa sử. Còn sử gia Đại Việt thì nhấn mạnh chuyện Lạc Long Quân, lấy đó chép tiếp Việt sử.

Thực ra 2 cách chép mở sử này đều là một chuyện vì Hoa chính là Việt, chỉ có 1 lịch sử mở nước Hoa Việt. So sánh 2 đoạn sử Hoa và Việt ở đầu Đại Việt sử lý toàn thư sẽ thấy rõ:

- Hoàng Đế mở muôn nước = Đế Minh, cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông.

- Đế Nghiêu = Đế Nghi cai quản phương Bắc.

- Hy Thị định Nam Giao (chính là Đế Thuấn) = Lộc Tục làm vua phương Nam

- Đại Vũ chia 9 châu (trị thủy) = Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình.

Các sử gia thời Đường thời Tống có quan niệm Hiên Viên là tổ người Hoa Hạ, còn người Việt thì quan niệm Lạc Long Quân là tổ. Từ đó dẫn đến 2 cách chép khác nhau. Chuyện Hiên Viên đánh tây dẹp bắc lập nước Hữu Hùng trong Hoa sử đã dùng để thay cho chuyện Lạc Long Quân đánh Thục trong Việt sử.

Hiên Viên Hoàng Đế lập nước Hữu Hùng, vậy phải là … vua Hùng dựng nước của người Việt. Trong sự tích của Hiên Viên không hề có chữ Hoa hay chữ Hạ nào để xác định Hiên Viên bắt đầu Hoa Hạ.

Chuyện Lạc Long Quân thì ngược lại, Vĩnh Công Bát Hải Động Đình mở Hoa Đào Trang chính là bắt đầu Hoa Hạ. Lạc Long Quân mới là người mở đầu nhà Hạ của Hoa sử.

Posted ImageCổng lên đền Hùng ở Phú Thọ

Câu đối ở đền Hùng:

Khải ngả Nam Giao, Hồng Lạc thiên thu tôn đế quốc

Hiển vu Tây thổ, Tản Lô nhất đái thọ tân từ.

Dịch:

Bắt đầu ở ngả Nam Giao, nghìn năm Hồng Lạc xưng đế quốc

Sáng lên nơi Tây Thổ, một dải Tản Lô mãi lưu đền.

Câu đối trên đã khái quát đầy đủ phần mở đầu của sử Việt. Người họ Hùng đã phát triển theo 2 hướng. Đầu tiên nước mở ở Nam Giao do công của Nghiêu Thuấn hay Lộc Tục Kinh Dương Vương. Lập nên “đế quốc Hồng Lạc” là Lạc Long Quân. Hồng Lạc là tên khác của Hoa Hạ mà thôi. 50 người con theo cha Lạc Long đã xây dựng nhà Hạ, phát triển theo hướng Đông (Động Đình) và Nam (Nam Giao). Hướng Nam xưa là hướng Lạc = Nác = Nước, là hướng Bắc ngày nay.

Hướng thứ hai là hướng Tây trong vế đối dưới. Đây là hướng của Tản Viên, của Âu Cơ dẫn 50 người con lên núi, lập nước Văn Lang ở Phong Châu trên vùng đất Tam Giang (Đà, Lô, Thao).

Cuộc phân ly Lạc Long – Âu Cơ là hình ảnh của cuộc chiến Hùng – Thục trong thần tích Việt hay cuộc chiến tranh dành vương vị giữa Hạ Khải và Bá Ích trong Hoa sử. Dù phân tách nhưng cả hai vẫn đều là con cháu Đế Minh – Hiên Viên từ Hữu Hùng hay Họ Hùng ban đầu. Con cháu họ Hùng hai dòng Đông – Tây đã lại hòa hợp khi Thục Phán lập nước Âu - Lạc, thống nhất 2 vùng đất của cha Lạc Long, mẹ Âu Cơ.

Truyền thuyết Lạc Long – Âu Cơ đã xác định 2 hướng phát triển của người Bách Việt (trăm trứng sinh trăm trai) thời mở sử. Điều này hoàn toàn đúng với các phân tích di truyền nhân chủng học ngày nay. Thuyết “Nhất nguyên nhị phân” từ nghiên cứu ADN người Bách Việt đã cho thấy rõ 2 hướng lan rộng sang Đông Bắc và Tây của người Bách Việt. Cái gốc “nhất nguyên” của Bách Việt nằm ở vùng Nam Giao là Bắc Việt và Lưỡng Quảng ngày nay.

Vĩnh Công Bát Hải Động Đình mở Hoa Đào Trang chính là bắt đầu Hoa Hạ???

Đào Hoa Trang có lẽ chính là vùng Hà Tĩnh, Ngọc phả Hùng Vương ghi nhận, chính là truyền thuyết Phật Bà Quan Âm với chùa Hương - Hoa Mai lại nở về sân Diêu Trì.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đúng là có 2 Hoa Đào trang:

- Một ở Hà Tĩnh là vùng đất gốc của Hiên Viên Hoàng Đế Hữu Hùng. Là đất Đào của vua Nghiêu. Là Hồng Lĩnh của ông Cao Giao.

- Một ở phía Đông giáp biển (Thái Bình) theo như thần tích Bát Hải Động Đình. Là "Phủ Hạ" trong chuyện Chiêu Quân ở Thái Thụy (Phủ Hạ bát đụn tang). Là đất "Hạ Long" của Lạc Long Quân.

Cũng vì vậy, như trong bài viết đã nói, thời mở sử rất dễ chép lẫn giữa Hiên Viên ở Hồng Lĩnh với Lạc Long ở Hoa Hạ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kinh Định viết:

Mở Kinh Thư ngay thiên đầu là Nghiêu điển (câu 3) chúng ta đọc thấy được như sau: vua Nghiêu sai hai ông Hi Hoà ra 4 phương để lo việc thời gian tức là trị lịch.

Phía Đông: trạch ngung di viết dương cốc, chữ hán

Phía Tây: trạch Tây viết muội cốc, chữ hán

Phía Nam: trạch Nam giao, chữ hán

Phía Bắc: trạch sóc phương viết u đô, chữ hán

Đọc xong người ta nhận ngay ra điều này là 3 câu kia có tên riêng báo hiệu bằng chữ viết: ngung di thì có Dương cốc, Tây thì có Muội cốc, sóc phương thì có U đô chỉ có Nam giao không có tên đất, và đó là lý do gây thắc mắc trong làng học giả. Trịng Huyền cho là sau Nam giao có ba chữ “Viết Minh Đô” nhưng đã mất vì sách đứt mòn. Vì mặt trời thấy từ phương Nam tại Bắc Kinh

- Nhưng người ta trả lời rằng theo khẩu truyền của Phục Sinh tiên sinh thì không có ba chữ đó, vậy rõ rệt không phải vì sách đứt.

- Vương Túc giải rằng đã có chữ U chỉ Bắc phương thì khỏi cần nói chữ Minh để chỉ phương Nam (yếu lắm!).

- Lưu Sưởng (trong Thượng Thư tinh nghĩa) thì nói chính văn là “trạch Nam viết giao chỉ” về sau người ta bỏ sót hai chữ viết và chỉ (tại sao?)

Khổng An Quốc cho rằng Nam giao là mùa hạ giao với mùa xuân, nhưng bị bác liền, vì hai phương kia cũng có hai mùa giao nhau tại sao không gọi Tây giao… Tất cả các lý do trên đây đều không đứng vững, nên giáo sư Hòa quyết “Nam giao là Giao Chỉ không nghi ngờ gì nữa”. Tôi cũng cho như thế vì rất nhiều sách cổ xưa đã nói đến tên Giao Chỉ. Nhưng vấn đề không hết ở chỗ đó, vì tại sao không thêm hai chữ viết và chỉ. Bởi có thêm vào như thế mới nói rõ lên được tên đất: trạch nam viết giao chỉ, hoặc trạch nam giao viết minh đô, cũng được lắm, vì Minh đô đi với Đế Minh là hợp rồi. Vậy tại sao lại bỏ đi, chắc có ẩn ý gì đây. Và chúng ta nhận ra rằng trong các học giả đã bàn luận về vấn đề kể từ Trịnh Huyền đến giáo sư Trần Kinh Hòa (trong bai Danh xưng Giao Chỉ, Đại học Huế, số 15) đều không tìm ra ẩn ý đó.

Theo tôi thì ẩn ý đó phải tìm trong một số truyện vừa huyền thoại lẫn lịch sử như sau. Việc đầu tiên phảikể đến là trong tứ hung thì ba ông kia (Bá Cổn, Cộng Công, Hoan đâu) đều có niên hiệu bị đày, riêng Si Vưu không có (Danses 247), Ta nên nhớ Si Vưu là con cháu Thần Nông, mà Thần Nông đi với rồng (P.C 184) nên Si Vưu có cánh, coi về thời gian (ba ông kia coi về không gian) vì thế Si Vưu cũng là lá cờ hiệu. Phải nhớ thế mới hiểu được tại sao Hoàng Đế (năm 2697) đã giết Si Vưu rồi mà 314 năm sau vua Nghiêu (2356) dòn đày Si Vưu lên núi Vũ Sơn (kinh Thư I, II. 12). Câu truyện lan man đó tự Hoàng Đế đến Nghiêu có hơn ba trăm năm nói lên tính chất huyền sử. Ở Nghiêu đến Nam giao không có tên đất thì điều đó chỉ là một sự lắp lại việc Si Vưu không có niên kỷ. Thế mà việc lớn lao là trị lịch lại traon cho Si Vưu, cũng như sau này trao cho hai anh em Hi Hòa, cả hai là con cháu Trùng Lê mà Trùng Lê là vua phương Nam. Hai người cũng gọi là Chúc Dong đời Đế Cốc (Cao Tân) mà Chúc Dong là thần lửa, (xem Tả Truyện III. 288 và Danses 254). Như thế thì quá đủ để nhận ra gốc gác việc coi lịch, coi thời thuộc về phương Nam, cho nên ngoài Viêm Việt ở phương Nam thì tìm đâu ra tay bàn về “Chữ Thời” chữ Lịch cho hay được vậy mà lại không đưa tên Việt vào. Và thế là phía Việt tộc có phản ứng liền vào năm thứ 5 đời Nghiêu bằng sai một sứ thần nước Việt Thường (1) đến cống vua Nghiêu một con Thần Quy sống cả ngàn năm trên lưng có lịch sử dựng lên trời cùng đất viết bằng chữ của Việt tộc(tôi có nghe biết một người còn nhớ chữ này do cha truyền con nối tới nay, và người kể Truyện có viết cho tôi coi ít chữ. Nét đanh lắm.)

Phân tích của tác gia Kinh Định cho ta biết: chính là Minh Đô nhằm đối ứng với U Đô: tác gia Kinh Thư là người Việt - Việt nhược kê cổ (người Việt kể lại tích xưa): điểm thiếu cũng chính là nhấn mạnh nhằm giải thích kinh đô thời vua Đế Minh (Hoàng Đế - một trong Ngũ Đế) nằm ở phương Nam.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kattigara - Kinh đô huyền thoại Việt

Kattigara - Kinh đô huyền thoại Việt

Hà Hữu Nga

Trong thời gian Alexander Đại đế (365-323 TCN) mở một loạt chiến dịch lớn tiến về phương Đông, đánh bại Đế quốc Ba Tư vào năm 334 TCN, chinh phục Ai Cập năm 332-331 TCN, và thiết lập nền cai trị tại Ấn Độ vào năm 326 TCN thì vùng đất sau này được gọi là China (Đất Tần - Trung Quốc) chưa có nước Chin (Tần), còn người Hy Lạp thì thực sự bắt đầu quan tâm đến các Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) ở Phương Đông theo đường biển. Các bộ óc lớn nhất của thế giới Hy Lạp – La Mã cổ đại như Erathostenes (276-194 TCN), Hipparchus (190-120 TCN), Strabo (63 TCN - 24 SCN), Marinus (70-130 SCN), và đặc biệt là Ptolemy đã kế tiếp nhau xây dựng bản đồ thế giới, xác định vị trí của các đất nước, các đô thị quan trọng nhất trên trái đất, trong đó có Kattigara, một địa danh được cho là thuộc cực đông của thế giới theo quan niệm Hy Lạp cổ đại. Trong khoảng 2000 năm nay biết bao nhiêu công sức, trí tuệ, khát vọng và cả sinh mạng người đã được đánh đổi để mong tìm ra vị trí chính xác của cái đô thị đầy duyên nợ ấy, nhưng dường như Kattigara vẫn còn là một ẩn số lớn đối với người đời.

Ptolemy (90-168 SCN) là một học giả cổ đại nổi tiếng, mang họ Hy Lạp sống ở thành phố Alexandria. Tên đầy đủ của ông viết theo tiếng Hy Lạp là Κλαύδιος Πτολεμαῖος, còn theo tiếng Latin là Claudius Ptolemaeus, và chính cái tên này dường như lại cho thấy ông là một công dân La Mã. Ông nổi tiếng với tư cách là nhà thiên văn học, toán học, và đặc biệt là nhà địa lý học; Học thuyết Địa tâm gắn liền với tên tuổi ông đã thống trị thế giới cả ngàn năm dòng. Tập Địa lý học của ông gồm 8 cuốn, có ý nghĩa to lớn trong lĩnh vực nghiên cứu cổ bản đồ và địa lý học nói chung. Cuốn thứ nhất phác thảo về các nguyên lý làm nền tảng để ông xây dựng tọa độ, xác định vị trí chính xác cho các vùng đất trên thế giới, còn các cuốn sách khác, về cơ bản là tập chỉ dẫn cho việc thể hiện thành bản đồ dựa trên các tính toán của ông. Tuy nhiên di sản của Ptolemy còn lại cho đến bây giờ lại là các bản đồ phục dựng vào thế kỷ XIV-XVI, dựa trên các dữ liệu trong tập Địa lý của ông. Giá trị của những bản đồ này đã được thẩm định một cách nghiêm nhặt và đã cho thấy một mức độ chính xác nhất định về các con số thể hiện các tọa độ và một số địa danh được mô tả, trong đó có đô thị cổ Kattigara trong công trình của Ptolemy. Trong số 8.000 địa danh được ông ghi chú và mô tả thì Kattigara là cái tên gắn liền với nhiều nhân vật lừng lẫy từ thời cổ đại, kể cả bản thân Ptolemy; các nhà thám hiểm vĩ đại thời trung đại: Cristoforo Colombo (1451-1506), Amerigo Vespucci (1454-1512), Fernand de Magellan (1480-1521); và các học giả danh tiếng thời hiện đại như Ferdinand von Richthofen (1833-1905), George Coedes (1886-1969), Édouard Chavannes (1865-1918), Louis Malleret (1901-1970) v.v...cùng với rất nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi khác của Đông Nam Á, và của Việt Nam.

I. Kattigara và Thuyết địa tâm Hy Lạp cổ đại

Thành phố Alexandria, nơi Ptolemy sinh sống vốn là một trung tâm tri thức cổ đại lớn nhất và nổi tiếng với thư viện Alexandria, do vua Ai Cập Ptolemy I Soter I (Πτολεμαῖος Σωτήρ, 367 – 283 TCN), là một dũng tướng thân tín nhất và là một trong 7 vệ sỹ của Alexandros Đại đế cho xây dựng. Ông cai trị Ai Cập từ năm 323 đến 283 TCN, và khoảng năm 305 TCN ông đã lấy tước hiệu Thần vương Pharaoh đặt cho mình, trong khi đó tước hiệu này chỉ sử dụng cho các vua Ai Cập cổ đại cho đến thiên niên kỷ II TCN mà thôi. Khoảng năm 290 TCN, Pharaoh Ptolemy I cho xây "Museion", trong đó có một đại học, một viện hàn lâm và thư viện Alexandria với khoảng 400.000 cuộn sách vào lúc khởi đầu. Thư viện chỉ thực sự hoạt động dưới thời vua kế tiếp là Ptolemy II Philadelphus (285-246 TCN) với 500.000 cuộn sách [Tarn, W.W. 1928]. Đời vua Ptolemy III Euergetes đã cho người đi khắp nơi mua sách hoặc mượn sách có đặt cọc rất lớn, có cuốn tới 15 talent vàng, sau đó không nhận lại tiền cọc mà đổi lấy sách cho thư viện [Erksine A. 1995: 38 – 48]. Theo sử gia Plutarch, người viết tiểu sử Caesar thì năm 48 TCN thư viện bị cháy trong cuộc tấn công của Julius Caesar vào Alexandria dưới thời trị vì của Ptolemy XIII. Sau này Marcus Antonius (83 – 30 TCN) lại lấy 200.000 cuộn sách tặng Cleopatra làm quà cưới, khiến cho thư viện ngày càng nghèo đi. Strabo (Στράβων, 64 TCN-24 SCN), nhà địa lý, lịch sử, triết học Hy Lạp cổ đại, tiền bối của Marinus và Ptolemy, đã từng làm việc tại thư viện Alexandria năm 23 TCN cũng ghi nhận điều đó, còn nhà triết học La Mã nổi tiếng Licius Annaeus Seneca (4 TCN-65 SCN) có nói đến 40.000 cuộn sách của thư viện Alexandria đã bị đốt cháy [Griffin, Miriam T. 1976]. Có thể thư viện Alexandria vẫn được duy trì cho đến khi phần lớn sách bị mất lúc hoàng đế La Mã Aurelius (270–275) chiếm Alexandria từ nữ hoàng Zenobia xứ Palmyra [El-Abbadi, Mostafa 1992].

Sống trong bối cảnh tri thức của thành Alexandria như vậy, chắc chắn các tiền bối của Ptolemy, và chính bản thân ông đã có rất nhiều điều kiện để thu thập nhiều nguồn tư liệu địa lý trong thế giới cổ đại, cho dù đến thời ông thư viện Alexandria đã trải qua nhiều phen binh lửa. Điều đó chứng tỏ một thực tế là ông đã đưa vào công trình của mình hơn 8000 địa danh mà nhiều địa danh đối với ông, chắc chắn cũng mơ hồ như đối với chính những người tìm kiếm khác vậy. Một nghiên cứu so sánh của Strabo cho thấy phạm vi hiểu biết về phần thế giới chưa được biết đến còn mênh mông đến mức nào. Khối tri thức to lớn và cách mô tả rất cụ thể trong bộ Địa lý của Strabo đã tạo nền tảng vững chắc cho sự hiểu biết phần thế giới Địa Trung Hải, Tây Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Ba Tư và một phần Ấn Độ cho những người đi sau, trong đó có Ptolemy (Strabo 1917-1932). Các đoạn chú thích của Marinus chứa đựng nhiều dữ kiện đã được xây dựng dựa trên các ghi chép của các cuộc hành trình dài, các cuốn nhật ký hành trình chính thức, các tư liệu hành chính và cả các quan sát thiên văn của các nhà hàng hải và các thương nhân từ rất nhiều thế hệ khác nhau. Nhờ đức siêng năng và say mê đặc biệt với sự nghiệp địa lý học mà Ptolemy đã được thế giới cổ đại Hy La ngưỡng mộ. Nhà địa lý học Marcianus Heracleensis (thế kỷ IV) đã gọi ông là “nhà địa lý học cổ điển cuối cùng”.

Cái tên Ptolemy gắn liền với học thuyết địa tâm ở giai đoạn đỉnh cao của nó. Với tư cách là một đặc thù tư duy Hy Lạp cổ đại, thuyết này cho rằng Trái đất là trung tâm của vũ trụ và Mặt trời cùng các thiên thể khác quay xung quanh nó. Hệ này được coi là hình mẫu tiêu chuẩn thời Hy Lạp cổ đại, kể từ Aristotle (384 BC – 322 BC) – thầy dạy của Alexandros Đại đế - cho đến Ptolemy cũng như đa số các triết gia Hy Lạp khác đều đồng thuận coi Mặt trời, Mặt Trăng, các vì sao là vệ tinh của Trái Đất. Mô hình địa tâm bắt đầu xuất hiện trong triết học và thiên văn Hy Lạp từ rất sớm. Có thể tìm thấy những dấu vết mô hình này trong triết học trước cả Socrates (469-399 TCN). Ngay từ thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên Anaximander (610 – 546 TCN) đã đưa ra một vũ trụ học với Trái đất như một mặt cắt của một hình trụ là trung tâm của vạn vật. Mặt trời, Mặt trăng và các hành tinh lồng trong những bánh xe vô hình quanh Trái Đất. Còn các môn đồ Pytagoras (khoảng 580-490 TCN) thì cho rằng Trái đất là một hình cầu, nhưng không phải ở trung tâm; họ tin rằng nó chuyển động quanh một ngọn lửa vĩnh cửu. Sau này các quan điểm đó được phối hợp với nhau, vì thế đa số những học giả Hy Lạp từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên đều nghĩ rằng Trái Đất là một hình cầu tại trung tâm vũ trụ [Dreyer J.L.E. 1953; Heath, Thomas 1913].

Trong thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, hai nhà triết học Hy Lạp có nhiều ảnh hưởng đã viết các tác phẩm dựa trên mô hình địa tâm. Đó là Platon (427-347 TCN) và học trò của mình, Aristotle. Theo Platon, Trái Đất hình cầu, và nằm ở trung tâm vũ trụ. Các ngôi sao và các hành tinh được gắn trên các mặt cầu quay quanh Trái đất, với thứ thự (từ trong ra ngoài): mặt trăng, mặt trời, sao Kim, sao Thủy, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ, các ngôi sao cố định. Plato miêu tả vũ trụ một cách thần bí, còn Eudoxus Cnidus (408-355 TCN) đồng thời với Platon thì cho rằng toàn bộ các hiện tượng thiên thể có thể được giải thích bằng một chuyển động tròn duy nhất. Aristotle đã thêm chi tiết vào hệ thống của Eudoxus. Trong hệ thống đã được phát triển đầy đủ của Aristotle, Trái đất hình cầu nằm ở trung tâm vũ trụ [Dreyer J.L.E. 1953; Evans, James 1998].

Dù những giáo lý căn bản của thuyết địa tâm Hy Lạp được hình thành từ thời Aristotle, các chi tiết về hệ của ông không phải là một tiêu chuẩn. Tăm tiếng này được dành cho Hệ Ptolemy, được nhà thiên văn học Ptolemy đưa ra vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Cuốn sách thiên văn học quan trọng của ông Almagest là thành quả cao nhất của công trình kéo dài hàng thế kỷ của các nhà thiên văn Hy Lạp; nó đã được chấp nhận trong suốt hơn một nghìn năm sau, được những người Châu Âu và các nhà thiên văn học Hồi giáo coi là mô hình vũ trụ chính xác. Vì ảnh hưởng của nó, hệ Ptolemy thỉnh thoảng được coi tương tự với mô hình địa tâm. Đó chính là một trong những cơ sở lý thuyết để Ptolemy sử dụng các công cụ toán học và vật lý áp dụng vào các khung tính toán địa lý của các tiền bối, kết hợp với việc phê phán các bậc tiền bối để xây dựng hệ thống kinh tuyến, vĩ tuyến và tính toán các tọa độ trên trái đất [Evans, James 1998.; Heath, Thomas 1913].

Một trong những tiền bối lỗi lạc nhất của Ptolemy là Eratosthenes làm việc tại thành phố Alexandria. Ngay từ rất sớm, ông đã sử dụng các phương pháp khoa học để tìm cách đo đạc trái đất. Khai thác tri thức và các ghi chép của rất nhiều người thuộc nhiều thời lưu tại thư viện, ông biết giữa trưa ngày 21 tháng 6, mặt trời lên đến thiên đỉnh tại Syene (Aswan) [thành phố ở khu vực thượng nguồn sông Nil của Ai Cập cổ đại], trong khi đó tại Alexandria bao giờ mặt trời cũng có bóng dài, nhờ đó ông tính được Syene thuộc về phía nam Alexandria. Dựa vào kết quả quan sát từ hai địa điểm cách xa nhau ấy ông đã tính được chu vi của trái đất là 250.000 stadium, tổng cộng là khoảng 28.700 dặm, thừa khoảng 15 phần trăm so với chu vi thực mà ngày nay khoa học tính được một cách chính xác. Và phương pháp đo đạc vĩ mô của ông đã trở thành một đóng góp lớn cho nhân loại. Tiếp theo Eratosthenes, Ptolemy còn có một tiền bối vĩ đại khác, đó là Hipparchus, xứ Nicea, người đã chia trái đất thành 3600 và mỗi độ cách nhau 70 dặm, tương đương với khoảng cách giữa hai kinh tuyến để tính toán. Các thuật ngữ kinh tuyến, vĩ tuyến là do ông xây dựng và sử dụng (Broorstin, Daniel J. 1983).

Trong các công trình của các học giả trước Ptolemy, trái đất được biết với các dữ liệu sau: chiều Đông Tây là 1800, còn chiều Bắc Nam là 900. Trong công trình Almagest ông muốn chia trái đất thành 4 phần bằng đường xích đạo và quỹ đạo kinh tuyến qua hai cực trái đất. Phần thế giới đã biết của Ptolemy thuộc vùng phía bắc, phương Bắc Nam được tính từ cực bắc đến đường xích đạo, còn phương Đông Tây được tính bằng đường quỹ đạo kinh tuyến, có khoảng cách là 1800, không nhiều hơn sự khác biệt của 12 giờ, mà mỗi giờ được tính là 150 giữa hai điểm của phần thế giới đã biết, tính theo số lần bị che lấp của mặt trăng tại bất cứ một điểm nào ở phần trái đất đã biết. Đối với ông, vùng con người sống được là các khu vực thuộc bắc xích đạo. Điểm cực bắc có vĩ độ 630 Bắc (vùng Thule), còn điểm cực Nam thuộc vĩ độ 16.5/120 Nam (vùng Aigisymba - Cặp tê giác và Mũi Prason). Vậy là từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Sinae (mà nhiều học giả sau này giả định là Trung Quốc) theo hướng Đông - Tây là 1800. Đó chính là các điểm giới hạn của bản đồ thế giới của ông. Trong ranh giới đó, ông cố gắng xác định một cách ổn định các dữ liệu địa lý mà ông thu thập được của các bậc tiền bối với các dữ liệu thiên văn của ông để xây dựng bản đồ. [Riley T. M. 1995, 232].

Ông tính toán sự khác biệt giữa các cuộc hành trình của các nhà hàng hải, các thương nhân đã được ghi chép và khoảng cách thật, tức là khoảng cách theo vĩ độ Bắc qua Thule (Vùng Bắc Âu) và vĩ độ Nam qua Aigisymba (Trung Phi) và Mũi Prason (Ven biển châu Phi) bằng các phương pháp tính thông thường. Còn cực Đông thì ông sử dụng Kattigara làm vĩ độ 1800., có nghĩa là Kattigara cũng thuộc vùng đất Sinae. Marinus đã khai thác số liệu được ghi chép nhiều lần của các thương nhân, các nhà hàng hải, nên đã tính được khoảng cách về phía Nam tính từ đường xích đạo là 24.680 stade (đơn vị tính chiều dài, số nhiều của từ stadium, mỗi stadium = 184m), trong đó 500 stade = 10 vĩ, vậy thì quãng đường 24.680 stade người lữ hành phải qua 490 vĩ Nam. Marinus cũng đã tính quãng đường từ Ptolemai ở Trogloditya đến Mũi Prason, thuộc đất Ethiopia, là 27.800 stade, 560 vĩ Nam. Theo Ptolemy thì các khoảng cách đó cho thấy Ethiopia ở vùng lạnh thuộc Nam Bán cầu, trong khoảng 500-550 vĩ Nam, vì vậy Tê giác không thể sống được ở đó. Không những thế, người Garamantes lại chính là người Ethiopia thì “các dữ liệu của Marinus sẽ trở thành trò cười cho vị vua ở đó”, vì làm sao mà một vị vua lại có thể sống xa thần dân của mình đến thế được. Hơn nữa lại còn phải tính đến sự tương thích về khí hậu, chủng tộc, động vật giữa các vùng tương ứng thuộc Bắc và Nam bán cầu. Trong khi đó những người Ethiopia da đen lại sống gần những người ở phía Nam Ai Cập, người Ethiopia sống giáp đường Xích đạo về phía nam, còn người Ai Cập lại sống giáp đường Xích Đạo về phía bắc, vì vậy theo Ptolemy, khoảng cách thực phải giảm đi một nửa so với con số của Marinus, còn 23.1/20 mà thôi. Ngoài ra Marinus cũng có các báo cáo về các cuộc hải trình giữa Aromata (Sừng Châu Phi) và Rhapta (thuộc bờ đông Châu Phi). Diogenes xứ Kunikos (Διογένης ὁ Κυνικός, 404-323 TCN) đã phải mất 25 ngày đi thuyền về phía nam để đến các nguồn sông Nile ở Mũi Rhapta. Vậy thì số liệu của Marinus rất vô lý, nên Ptolemy đều giảm đi một nửa. [Riley T. M. 1995, 233].

Trên cơ sở đó, Ptolemy đã coi việc giảm các số liệu của Marinus xuống còn một nửa là một nguyên tắc. Vì vậy đối với trường hợp Đông Tây, đương nhiên ông cũng áp dụng nguyên tắc này cho các khu vực thuộc phần thế giới đã biết. Marinus có các báo cáo về cuộc hành trình từ Hierapolis tại Euphrates (Syria) đến Tháp đá thuộc “ranh giới phía tây của Sinae” là 26.280 stade, và hải trình từ Tháp đá đến “Sera thủ đô của Sinae” là 36.200 stade, về thời gian mất 7 tháng với tổng chiều dài đoạn đường là 62.480 stade hoặc là 156,1/50. Thêm vào con số ấy 720, tính từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Hierapolis và tổng đoạn đường Tây - Đông của thế giới đã biết là 228,1/50. Với vĩ tuyến Tây – Đông, Ptolemy tính mỗi độ bằng 400 stade, và áp dụng nguyên tắc giảm một nửa như đối với trường hợp châu Phi, Ptolemy cũng giảm con số tính toán của Marinus là 36.200 stade xuống còn 18.100 stade, và nếu tính theo độ thì còn 45,1/20, tình cờ là nó lại gần với con số thực. Con số 26.280 stade từ Hierapolis đến Tháp đá thuộc Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) được điều chỉnh xuống còn 24.000 stade, hoặc 600, và tổng số độ từ Hierapolis đến Sera là 105,1/40. Vậy là đoạn đường từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Hierapolis là 720, và từ Hierapolis đến Sera là 105,1/40, tổng cộng là 177, 1/40, gần khớp với tổng chiều dài vĩ tuyến Tây – Đông 1800. [Riley T. M. 1995, 233].

Trong chương I.14 của công trình Địa lý học, khoảng cách đường biển theo các báo cáo từ Ấn Độ đến Kattigara trên cùng vĩ tuyến với Sera cũng áp dụng nguyên tắc giảm thiểu như trên, để tính phương Đông Tây, vì vậy mà cũng còn gần 1800. Tất nhiên Ptolemy còn có các nguồn tư liệu khác nhau vì vậy ông chỉnh sửa các số liệu cũ bằng các số liệu mới hơn, và cũng đề cập đến tính cần thiết của việc phải cập nhật các nguồn dữ liệu mới đó. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể dễ dàng thực hiện đối với vùng thế giới đã biết, chủ yếu thuộc phạm vi Ả Rập, xa nhất là đến Ấn Độ, nơi mà cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế chấm dứt ở đó. Còn ngoài phạm vi đó thì các nguồn số liệu, dữ liệu mới là rất hiếm hoi. Trong thực tế thì đối với công trình Địa lý, Ptolemy đã sử dụng khuôn khổ và số liệu mà các tiền bối đã thực hiện. Đối với trường hợp này thì bản đồ truyền thống bao gồm cung ¼ bán cầu bắc, và ông đã điều chỉnh các báo cáo và các số liệu cũ bằng nguyên tắc giảm ½ đối với phần thế giới đã biết như vừa đề cập ở trên. [Riley T. M. 1995, 234].

Trên cơ sở học thuyết của mình, một địa điểm tại cực đông của địa cầu như Kattigara chính là một nhu cầu thúc bách trí tưởng tượng Hy Lạp cổ đại trong rất nhiều đời nhằm kiểm nghiệm lý thuyết địa tâm và mục đích cuối cùng là chinh phục địa cầu của tinh thần Hy Lạp. Nhưng có lẽ chỉ đến thế kỷ thứ tư TCN, sau khi Alexander Đại đế, học trò của Aristotle, chiến thắng Ai Cập, Ba Tư và Ấn Độ thì các hiểu biết về phương Đông, đặc biệt là những thông tin và tên gọi kiểu như Kattigara mới được các thương gia Nam Ấn cung cấp cho Alexander Đại đế và các tướng lĩnh dưới quyền ông một cách rõ ràng và chắc chắn nhất. Giai đoạn này tương đương với thời Hùng Vương 18 gồm có “Hùng Duệ Vương, Hùng Kính Vương và Tản Viên” trong truyền thuyết Việt, sau đó nhà nước Hùng Vương bị Thục Phán thôn tính vào năm 257 TCN theo Đại Việt sử ký Toàn thư hoặc vào năm 179 TCN theo các nguồn khác.

II. Kattigara – Marinus và Ptolemy

Tuy địa danh Kattigara không phải do Ptolemy phát hiện, nhưng cái tên đó lại gắn liền với Ptolemy và tất cả những nghi vấn mà ông đã để lại cho đời sau trong chính các ghi chú của công trình Địa lý học của mình. Một trong những ghi chú được tất cả những người tìm kiếm Kattigara phân tích, đó là việc ông than phiền Marinus không ghi rõ khoảng cách hải trình từ Bán đảo Vàng, ngày nay được thừa nhận là Bán đảo Malay đến Kattigara. Trong công trình của mình, Marinus chỉ ghi một cách mơ hồ là Alexandros đã viết rằng vùng đất đó ở bên kia vùng đất quay về phía nam, và phải bơi dọc theo đó đến Zabai mất 20 ngày, sau đó từ Zabai bơi tiếp một hồi về phương nam rồi rẽ trái đi tới Kattigara trong “vài ngày”. Theo Ptolemy thì “Marinus đã phóng đại khoảng cách đó bằng cách nói “vài ngày” có nghĩa là nhiều ngày, lại còn nói là vì vô số ngày nên không thể hiện bằng con số cụ thể được. Điều đó thật nực cười: làm gì có chuyện không tính được cụ thể số ngày, cho dù có đi vòng quanh cả trái đất đi nữa?” Hoặc có điều gì đó đã cản trở Alexandros không nói “nhiều ngày”, mà chỉ nói “vài ngày”, hệt như Marinus nói: “Dioskoros cho biết hải trình từ Rhapta đến Mũi Prason mất “nhiều ngày” [Ptolemy, 2000: 76].

Như vậy với ghi chú trên chúng ta biết chắc chắn rằng cái tên Kattigara không phải là do Ptolemy tìm kiếm được thông tin trực tiếp và đưa vào công trình Địa lý học của ông, mà do ông sử dụng lại từ công trình của Marinus. Trong thực tế thì nếu không có Địa lý học của Ptolemy, người ta sẽ không biết gì nhiều về Marinus. Có thể nói nhờ có Ptolemy thì người đời sau mới biết được vị thế và đóng góp to lớn của Marinus cho Địa lý học thế giới. Nhưng chính bản thân Marinus cũng để lại cho Ptolemy những vấn đề mà ông không giải quyết được, chẳng hạn ông không biết Marinus nói về hải trình đến Kattigara của Alexandros nào, ở thời nào. Liệu người này có trực tiếp đến Kattigara hay ông ta phái người đi đến đó. Khi tính khoảng cách từ Hy Lạp đến Kattigara ông cho rằng Marinus đã phóng đại kinh độ bằng cách xác định khoảng cách giữa các đảo Fortunes ở phía Tây đến các vùng cực đông thuộc Sera của Sinae và đến Kattigara không hơn 12 giờ. Bằng cách xác định vị trí của Sera, Marinus đã sử dụng tuyến hải hành của các thương nhân hoặc nhà hải hành nào đó đã đến đó và Ptolemy đã phê phán việc xác định đó. “Vì ông nói với chúng ta rằng các khoảng cách mà một kẻ tên Maes nào đó có họ Titianus, một người Macedonian, và cũng là một thương nhân giống như cha ông ấy; đâu phải tự ông ta thực hiện cuộc hải hành mà là cử người tới buôn bán với người Seres”. Nhưng rất may là sau này người ta đã tìm được tung tích của nguồn thông tin thứ hai mà Marinus đã sử dụng cho việc tính toán đoạn đường đến Kattigara. Nhân vật Maes Titanius ấy chính là một nhà lữ hành đã từng đi theo con đường tơ lụa trên bộ từ Địa Trung Hải tới phương Đông vào cuối thế kỷ I TCN hoặc đầu thế kỷ I SCN; nhờ có lời phàn nàn của Ptolemy mà thân phận của Maes Titanius đã được làm sáng tỏ [Cary M. 1956: 130-134].

Trong Ghi chú II của tác phẩm Địa lý, Ptolemy cho rằng: Phần có người ở của trái đất chúng ta còn có Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) ở phương Đông bao bọc, có các dân tộc ở cực đông của Đại Á cư trú, là người Sinae và các dân tộc Serice; tương tự như vậy là Vùng đất Chưa biết ở phía Nam khép kín biển Ấn Độ và ôm lấy Ethiopia đến nam Libya, được gọi là đất Agisymba; vòng về phía tây là Vùng đất Chưa biết bao quanh vịnh Ethiopic của Libya, và sau đó bao quanh Đại Tây dương nằm ở cực tây của Libya và châu Âu; và đại dương này bao gồm phần phía bắc với các đảo Britanic và phần cực bắc châu Âu có các tên gọi Duecalydonian và Sarmatic; tiếp đến một Vùng đất Chưa biết trải dọc các phần cực bắc của Đại Á, đó là Sarmatia, Scythia, và Serice…”. Và vùng đất này cũng bọc kín biển Hyrcanian còn được gọi là Caspian. Tương tự như vậy các vịnh Ả Rập, vịnh Ba Tư, vịnh Hằng Hà và Vịnh Lớn ở phương Đông cũng được đất liền bọc kín. Vì vậy chúng ta thấy có ba đại lục châu Á tiếp nối với Libya bởi eo đất Ả Rập tách biển (Địa Trung Hải) của chúng ta khỏi vịnh Ả Rập, và bởi Vùng đất Chưa biết khép kín biển Ấn Độ…”. Cực đông của Vùng đất Chưa biết giới hạn bởi kinh tuyến chạy qua thủ đô của Sinae, ở một khoảng cách là 1190 tính từ Alexandria, tương đương với 8 giờ tính đến đường xích đạo… [institute on the Far East Works 1915, tập vii, chương 5].

Trong cuốn sách thứ nhất của mình, Ptolemy nói về Marinus như là một tác giả Hy Lạp lớn nhất về phương diện Địa lý học. Có rất nhiều bản in bổ sung các biểu địa lý của ông, nhưng các phán đoán của ông cần phải được chỉnh sửa và ông đã đưa ra rất nhiều con số tính toán về các khoảng cách, chiều dài, chiều rộng của thế giới có con người sinh sống. Về vĩ độ, Ptolemy đã minh họa bằng cách phê phán vị trí do Marinus xác định dựa vào những chuyến hải hành nào đó đến vùng cực nam Ethiopia được gọi là Agisymba. Việc tính toán khoảng cách đại quát từ các tuyến đường đó có lẽ đã đặt vùng này vào khoảng cách 24.680 stades kể từ đường xích đạo về phía nam, hoặc như Ptolemy nói là thuộc về vùng Nam cực băng giá. Tổng cộng, Marinus đã cắt giảm con số đó xuống còn 12.000 stades để đưa nó lại gần với vùng nhiệt đới phía nam, và Ptolemy bằng cách suy đoán là thích hợp với một số loại động vật nhất định nên đã giảm khoảng cách đó xuống còn 8000 stades. Ông cho rằng Marinus đã phóng đại kinh độ khi xác định khoảng cách giữa các đảo Fortunes ở phía Tây đến các vùng cực đông thuộc Sera của Sinae và đến Kattigara không hơn 12 giờ[institute on the Far East Works 1915].

Một trong những vấn đề làm đau đầu những người tìm kiếm Kattigara là việc Ptolemy đã cố gắng xác định vị trí kinh tuyến chạy theo đường biển từ Mũi Kory ở Nam Ấn Độ đếnKattigara, được giả định là một cảng thị của Sinae, và nó thuộc vào vị trí 1770 đông. Những băn khoăn chủ yếu gắn liền với kinh độ này liên quan đến đoạn mô tả đô thị đó “ở mãi trong hẻm núi, cuối vùng đồng bằng” (chương 13-14 tập Địa lý của Ptolemy). Nhưng đoạn đó lại nói về tuyến đường trên đất liền đi qua Tháp đá, và bên kia là trạm nghỉ cho các thương nhân đi đến vùng đất của người Seres (bk.vi, chương 13). Richthofen cho rằng trạm này thuộc vùng Pamir [Richthofen, von Ferdinand 1877-1912]. Tuy nhiên theo Stein thì ngày nay khó lòng mà xác định được vị trí của “Tháp đá” nữa, nhưng nơi nghỉ mà Maes Tititanus nói là phía đông “Tháp đá” và nằm trên con đường đi Sera thì chắc chắn vẫn còn đó. Theo Richthofen thì vị trí này phải gần với vùng phân thủy giao nhau với tuyến đường trên, vì Ptolemy đã xác định vị trí đó trên tuyến Imaus, chắc chắn là phù hợp với vùng Pamir ở phương đông [stein M.A. 1907: 54-5]. Tháp đá của Ptolemy chắc chắn không thể bị lẫn lộn với Tash Kurghan. Nhưng theo Ptolemy, có lẽ hợp lý nhất là xem xét kỹ chi tiết mà Alexandros đã mô tả vùng đất bên kia Vùng đất vàng Chersonese nằm hướng về phía nam, và sau khi đi thuyền trong vòng 20 ngày thì đến thành phố Zabai, sau đó bơi vài ngày nữa theo hướng nam, rồi rẽ trái sẽ đến Kattigara. Điều đó có nghĩa là Ptolemy vẫn nghi ngờ tính xác thực của nguồn thông tin do Maes Tititanus cung cấp trên tuyến đường bộ mà sau này được Richthofen gọi là “Con đường tơ lụa”.

Trong chương 17 của tập Địa lý học, Ptolemy nói về những người đã thực hiện các chuyến hải hành đến Ấn Độ và đã từng sống lâu ở đó: Từ những người này chúng ta có những thông tin chính xác hơn về Ấn Độ cũng như về những đất nước xa hơn ở Vùng đất vàng, cho đến tận Kattigara. “Tất cả mọi người đều nhất trí rằng để đến được các vùng ấy, thì phải đi về phương Đông, còn để quay lại thì phải đi về phía Tây, và như thế thì không thể ấn định trước một khoảng thời gian chắc chắn trong bối cảnh đó”. “Họ cũng đồng ý rằng đất nước của người Seres có thủ phủ nằm về phía bắc vùng đất của người Sinae, còn đi tiếp về phía đông thì là Vùng đất Chưa biết, với rất nhiều đầm lầy mọc đầy loại lau sậy lớn, dày đặc đến mức người thổ dân khi đi qua đó cũng phải có cách riêng, vì ở đó không có đường đi” [institute on the Far East Works 1915].

Theo nhà Đông phương học kỳ cựu H. G. Rawlinson thì các công trình của Ptolemy về địa lý của giai đoạn này chủ yếu dựa vào các thông tin do Marinus xứ Tyre thu thập, đã thể hiện một sự hiểu biết sâu sắc hơn về vùng ven biển châu Á so với các bậc tiền bối của họ. Trong khi đó tác giả của sách Periplus biết không nhiều, hoặc thậm chí không biết gì về vùng biển bên kia sông Hằng. Ptolemy đã phải đương đầu với một vấn đề lớn có lẽ vì ông đã phải phụ thuộc vào nguồn thông tin của “các nhà hàng hải mù chữ với các thông tin mù mờ và lẫn lộn”. Ông đã nhầm Java với Sumatra; ông không nói gì về eo Malacca và ông nghĩ rằng bờ biển Trung Quốc đáng lẽ là ở hướng bắc thì lại quanh về phía nam để tiếp giáp với vùng ven biển Châu Phi. Thông tin mà ông thu lượm từ “các thủy thủ ít học, không đánh vần được đúng tên gọi các cảng biển mà họ cập bến”. Trong đầu họ chỉ có con đường từ cảng này đến cảng khác và thường là lẫn lộn; còn về khoảng cách thì như bản thân ông thú nhận là ông phải dựa vào phép tính trung bình của con tàu đi trong một ngày để tính toán, cùng với phép tính trung bình là các suy luận để giải quyết những bất thường của các vùng biển ông không có thông tin chắc chắn hoặc những nhân tố nhiễu loạn khác. Kết quả ấy đưa đến những sai lạc ghê gớm dù chỉ là về vùng ven biển Ấn Độ. Ptolemy dường như hoàn toàn không biết gì về sự thật là tiểu lục địa này xuôi theo hướng nam. Từ mũi Kory đến vùng cửa sông Hằng có hàng loạt đô thị, trong đó có một đô thị không được nêu tên, nằm giữa Maesolia và Palura. Maesolia hay Masalia trong sách Peripluscó lẽ là quận Masulipatam và Palura nơi bắt đầu của Vịnh Hằng Hà nằm thiên về phía bắc một chút. Chính từ vị trí này mà các con tàu bắt đầu cuộc hải hành về phương Đông. Qua khỏi vịnh Bengal, họ đến Sada thuộc vùng Đất Bạc, và từ Sada đến Temala hoặc Tamala gần mũi Negrais, nằm ở đầu vịnh Thái Lan (Vịnh Lớn). Sau đó đi tiếp đến đến một cảng gọi là Zaba. Yule cho đó là Champa và tìm kiếm nó ở bờ phía tây Campuchia và có lẽ gần sông Kampot hoặc sông Kang Kao. Hải trình đó mất 20 ngày; và từ Zabai đến Kattigara có cùng một khoảng cách tương tự như vậy. Tuy nhiên về chặng đường này Ptolemy thừa nhận là ông cũng rất nghi ngờ vì những thông tin mà Marinus có được từ một người nào đó có tên là Alexanderos [Rawlinson H. G. 1916: 131, 132].

Tiếp tục con đường ven biển từ Palura, Ptolemy mô tả cửa sông Hằng. Ông là một tác giả phương Tây đầu tiên đề cập đến vùng đồng bằng sông Hằng. Ngay cả tác giả sách Periplus cũng không nói gì về điều này, còn Strabo và toàn bộ các tác giả trước đó đều im lặng, nếu không kể đến “các tài liệu tham khảo đáng ngờ” của Vergil về “7 ngọn nguồn êm đềm” của dòng sông đó. Ptolemy gán cho sông Hằng có năm cửa. Từ sông Hằng ông mô tả Ấn Độ xuyên Hằng Hà, trước hết là vùng đất Airrhadii; tiếp đó là Ấn Độ từ sông Hằng đến Tokosanna hoặc sông Arakan; sau đó ông dẫn ta đến Đất Bạc, Arakan và Pegu; rồi đến Besynga hoặc Bassein; và cuối cùng đến vùng Đất Vàng, Bán đảo Malay. Cái tên đó được dịch từ tiếng Phạn Suvarnabhumi để chỉ vùng tam giác châu Irrawady, mà các biên niên sử Mianma gọi tên tương tự vùng ranh giới của họ là Sonaparanta. Tiếp đến là Mũi Lớn Campuchia, và Vịnh Lớn Thái Lan. Ở phía Tây của vịnh này có cảng Zabai đã được các đoàn hải hành nói đến khi bơi tới Kattigara. Cư dân ở đó được mô tả là “lễ phép, đầu tóc bờm xờm, mũi tẹt và hay ngồi xổm” – một đoạn mô tả khái quát khá rành mạch [Rawlinson H. G. 1916: 133-4].

Nhưng dù có to tiếng phê phán các sai lầm của Ptolemy thời cổ đại thì rồi cuối cùng Rawlinson thời hiện đại cũng vướng không ít mơ hồ khi kết luận rằng: “Kattigara có lẽ là Kian-chi (có thể Rawlinson viết sai từ Kau Chi) ở Bắc Kỳ, Việt Nam hiện nay, vì các biên niên sử Trung Quôc nói về sứ bộ La Mã đến Trung Quốc đã ghé vào đó mua bán rất nhiều. Còn thủ đô của Trung Quốc có lẽ là Nam Kinh; dân Sinae ở Đông Nam Trung Quốc mà Ptolemy nói đến chính là những thương nhân buôn bán với Đông Ấn Độ. Người Seres hoặc Người Dâu tằm cư trú ở phía tây hoặc phía bắc của Sinae, và tiếp xúc với phương Tây qua con đường Pamirs” [Rawlinson H. G. 1916: 136].

III. Kattigara – danh phận đoạn trường

Đối với Ptolemy câu hỏi Kattigara là gì không mấy quan trọng, điều quan trọng nhất đối với ông là cần phải xác định nó ở đâu, có nghĩa là ở kinh độ và vĩ độ nào trong cái mô hình bản đồ thế giới tuyệt vời của ông. Câu hỏi đó đã được ông trả lời bằng các tính toán và suy lý để rồi chấm được nó ở một vùng đất mà đại đa số các nhà nghiên cứu đều nhất trí là ở Việt Nam ngày nay. Tuy nhiên, vấn đề về địa danh Kattigara mà Marinus và Ptolemy đưa ra từ thời cổ đại vẫn tồn tại nguyên vẹn và liên tục cho đến thời trung đại. Nhà thám hiểm vĩ đại, người đã tìm ra châu Mỹ là Amerigo Vespucci đã thực hiện chuyến đi năm 1499 đã viết: Ông hy vọng đến được vương quốc “Melaccha ở Ấn Độ”, thực tế thì đó là Malacca hoặc Melaka thuộc bán đảo Malay, bằng chuyến hải hành từ Tây Ban Nha, bơi về phía tây, qua Đại Tây Dương, vòng qua “Mũi Kattigara” đến Vịnh Lớn Sinus Magnus [Vespucci A. 1500-1944-1999].

Thomas Suarez cho rằng vị trí chiến lược của Kattigara đã được các nhà thám hiểm tiên phong Châu Âu xác định ở Đông Nam Á, chẳng hạn như Amerigo Vespucci, Christopher Columbus và Ferdinand Magellan[suarez,Thomas 1999: 92]. Nhưng Vespucci đã thất bại trong việc tìm kiếm Mũi Kattigara trong chuyến thám hiểm năm 1499, khi ông bơi dọc theo bờ biển Venezuela Nam Mỹ, nhưng lại chưa bơi đến được tận cùng để giải quyết câu hỏi: có phải Sinus Magnus của Ptolemy vượt sang đến dải đất bên này không. Tương tự như vậy, Christopher Columbus cũng thất bại trong việc trả lời câu hỏi này khi ông bơi dọc theo chính bờ biển đó. Trong chuyến thám hiểm lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng của mình vào năm 1502-1503, Columbus đã xây dựng kế hoạch đi dọc bờ biển Champa về phía nam vòng qua “Mũi Kattigara” và bơi qua eo biển ngăn cách nó với Tân Thế giới để tới Sinus Magnus phía Malacca. Đây chính là tuyến đường mà ông cho rằng Marco Polo đã trở về từ Trung Quốc qua Ấn Độ vào năm 1292 [Nunn, George E. 1992; Wallis, Helen 1992]. Columbus cho rằng ông sẽ gặp đoàn thám hiểm của Vasco da Gama từ Bồ Đào Nha đi Malacca theo con đường Châu Phi, vòng qua Mũi Hảo vọng và đem theo ủy nhiệm thư của Quốc vương Ferdinand và Hoàng hậu Isabella của Tây Ban Nha giới thiệu với da Gama [Millares A. Carlo (ed.) 1951; Serrano C. Seco (ed.) 1954-1955]. Khi đến Cariay, ngày nay là Puerto Limon thuộc bờ biển Costa Rica, Columbus nghĩ rằng ông đã đến được các mỏ vàng Champa mà Marco Polo đã nói tới. Chính vì vậy từ Jamaica ông đã viết thư về cho Quốc vương và Hoàng hậu như sau: “Thần đã tới Cariay…Ở đây thần đã biết được về các mỏ vàng của người Champa mà thần tìm kiếm” [Varela, Consuelo (ed) 1992]. Một đoạn chú dẫn những tấm bản đồ do Bartolome Colon, tức là Bartholome Columbus, anh trai Christopher Colon và Alessandro Zorzi xây dựng năm 1504 cho thấy Christopher Columbus đã ước tính khoảng cách giữa Bồ Đào Nha và cái gọi là “Mũi Kattigara” trội lên quá nhiều, tới 2250 đông, thay vì tính toán của Ptolemy là 1800, nên đã làm cho ông tin rằng khoảng cách về phía tây chỉ là 1350. Chính vì vậy các vùng đất Châu Mỹ mà ông phát hiện lại được ông gọi là Đông Ấn. Nội dung của chú giải này là như sau: “Theo Marinus xứ Tyre và Columbus, từ Mũi St. Vincent đến Kattigara là 2250, tức là 15 giờ; theo Ptolemy đến tận Kattigara là 1800, tức là 12 giờ”.

Như George E. Nunn đã lưu ý, theo tính toán thì tấm bản đồ của Colon/Zorzi đã sử dụng kinh độ của Ptolemy từ Mũi St. Vincent về phía đông đến Kattigara, nhưng việc tính toán kinh độ của Marinus và Columbus lại được sử dụng cho khoảng không gian từ Mũi St. Vincent đến Kattigara theo hướng tây. Tấm bản đồ thế giới của Waldseemueller năm 1507 đã sử dụng cả hai tính toán kinh độ trên để thể hiện bờ biển phía đông Châu Á lên hai lần: một lần theo kinh độ của Ptolemy để thể hiện địa cầu như Martin Behaim đã làm vào năm 1492; và lại theo kinh độ của Columbus để thể hiện các phát hiện của ông và các nhà hàng hải Tây Ban Nha băng qua Đại Tây Dương. Các vùng bờ biển phía tây do người Tây Ban Nha phát hiện được Waldseemueller mô tả là “Incognita” - Vùng đất Chưa biết với một vùng biển phỏng đoán ở bên kia, làm cho vùng đất này rõ ràng là một lục địa tách riêng. Vị thế của Nam Mỹ với tư cách là một hòn đảo tách biệt hoặc là một phần của Châu Á, nhất là bán đảo Thượng Ấn (Đông Dương), nơi có địa điểm Kattigara vẫn chưa được xác định chắc chắn là ở đâu. Chính vì vậy mà Nunn đã viết: “Đó là một cách rất hợp lý để trình bày một vấn đề không giải quyết được” [Nunn, George E. 1927: 476-480], hoặc vấn đề Kattigara đã được giải quyết bằng cách đặt nó ở Nam Mỹ. [Nunn, George E. 1932: 12,13-49-51]. Tương tự như vậy, trên bản đồ địa cầu Jagiellonian Globe, những khác biệt về thước đo khoảng cách kinh tuyến chạy về hướng đông và hướng tây đã tạo ra một Châu Mỹ lưỡng vị gồm cả hai nửa bán cầu đông và tây. Nếu Costa Rica/Panama là một phần của Ấn Độ, như Christopher Columbus khẳng định thì vùng đất choãi về hướng nam đến eo biển kia chính là Mũi Kattigara đã được tìm thấy, và đô thị Kattigara phải nằm trên bờ phía tây của nó, như đã được thể hiện trên bản đồ của Colon/Zorzi vào năm 1504. Và niềm tin của Columbus đã được thể hiện rõ trên tấm bản đồ thế giới của Giovanni Contarini xuất bản tại Venise năm 1506, trên đó có một hình xuáy trôn ốc gắn liền với Champa, được ghi là: “Cristophorus Columbus …bơi về phía tây, đã đến vùng đất có tên gọi Champa…có một kho vàng lớn”. Trên tấm bản đồ này ghi rõ bờ biển phía đông của Vịnh Lớn Sinus Magnus ở vị trí 8.1/20 Nam, và vùng đất Sancta Crucis thuộc Brazil ngày nay, do Pedro Alvares Cabral phát hiện vào tháng Tư năm 1500, được thể hiện thành một lục địa phương nam riêng biệt [National Library of Australia 2010].

Hơn 23 năm sau, trên bản đồ thế giới năm 1523 nhà địa cầu học Schoener đã thể hiện Kattigara hoặc bán đảo Thượng Ấn - Đông Dương, bao gồm cả Mexico và Nam Mỹ, còn cái tên Biển Đông của Ptolemy thì trở thành Thái Bình Dương [Wieder F.C. (ed.) 1925]. Schoener cũng đưa phát hiện vùng đất Tierra del Fuego của Ferdinand Magellan năm 1520 vào tấm bản đồ với tên gọi là vùng đất Hạ Australis-Brasilia [schilder G. 1976: 10]. Cũng trong năm 1523 Maximillianus Transynvanus công bố các phát hiện của Magellan ở De Moluccisinsulis với lời chua rằng: Mặc dù các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đã đi tới tận vị trí 120 Nam, nhưng họ vẫn không tìm ra được Kattigara. Cuộc đi vòng quanh thế giới đầu tiên do Antonio Pigafetta, De Moluccis Insulis, và Maximilianus Transylvanus thực hiện, với lời giới thiệu của Carlos Quirino, (Manila, Filipiniana Book Guild, 1969). Antonio Pigafetta ghi là khi đi qua Thái Bình Dương, Magellan chắc chắn đã biết tọa độ Kattigara do Ptolemy xác định, nhưng “đã tìm kiếm Mũi Kattigara” ở vùng xung quanh vị trí 120 Bắc của đường xích đạo [Peillard L. 1984 : 128]. Chuyến thám hiểm thất bại của Magellan trong cuộc tìm kiếm bán đảo Kattigara, tức là Thượng Ấn tại khu vực lân cận Moluccas, đã khiến cho Schoener đi đến kết luận rằng Châu Mỹ chính là bán đảo đó. Còn bản thân Magellan thì bị thổ dân Philippines giết chết. Trong Opusculum Gegraphicum, Schoener viết phụ thêm vào tấm bàn đồ đó như sau: Sau Ptolemy, nhiều vùng đất vượt qua vị trí 1800 về phía đông đã được Marco Polo và những người khác phát hiện, giờ đây Collombus và Amerigo Vespucci đã cập đến các bờ biển đó sau khi bơi từ Tây Ban Nha đến Đại Tây Dương, và đã đến thăm các khu vực đó khi nghĩ rằng phần thế giới đó là một hòn đảo gọi là America, phần thứ tư của địa cầu. Nhưng từ các chuyến thám hiểm gần đây nhất của Magellan trong năm 1519…họ đã nhận thấy rằng vùng đất đó trong thực tế là đại lục Thượng Ấn, một phần của Châu Á [schoener, J. 1961].

Trong bản đồ của ông năm 1533, Châu Mỹ vẫn được khẳng định là một vùng mở rộng của Đông Dương với ghi chú: Châu Mỹ, một phần của Thượng Ấn và của lục địa Châu Á. Kattigara vẫn là nơi mà Ptolemy đã xác định, tại tọa độ 8 1/20, tính từ đường xích đạo, ở bờ đông của Oceanus Orientalis, Biển Đông, mà giờ đây được xác định là bờ tây Châu Mỹ, thuộc Nam Mỹ. Cũng giống như năm 1515, trên tấm bản đồ này Brazil lại được tái khẳng định là lục địa Nam Cực, một phần của Terra Australis, mới được phát hiện nhưng chưa được biết một cách đầy đủ. Môn địa cầu học của nhà toán học và bản đồ học người Pháp, Oronce Fine được khởi nguồn từ Schoener [Harrisse, Henry 1961]. Trên tấm bản đồ thế giới của Fine năm 1531, công bố năm 1532 trong Novus Orbis Regionum ac Insularum, Brasielie Rego được thể hiện nằm ở phía đông Châu Phi và ở phía nam Java. Kattigara vẫn giữ nguyên vị trí như trên bản đồ của Fine tại bờ tây của Nam Mỹ như trên bản đồ của Schoener các năm 1523 và 1533, giống với các tấm bản đồ thế giới các năm 1540. Hệt như Schoener và Fine cho rằng Canada, Mexico và Peru tạo thành một lục địa nối liền với Châu Á, vì vậy mà Jean Alfonse, cũng là một nhà bản đồ học lại cho rằng vùng đất Kattigara cũng chính là Cathay và gồm toàn bộ các vùng Cực viễn Hằng Hà trải về phía đông, có cả Canada và thuộc châu Á. Tây Ban Nha mới (Mexico) và Peru cũng gắn liền với nó, vì vậy đối với Alfonse, Kattigara ôm trọn các vùng đất này [Alphonse, Jean 1904 : 398, 401-2]. Phù hợp với địa cầu học của Schoener, Fine, và Alphonse, nhóm Harleian đã đặtKattigara ở bờ tây của Nam Mỹ và tách Mexico thành hai phần, một phần ở Bắc Mỹ và một phần ở Đông Á, là hàng xóm của Cathay và Mangi [Coote C.H. 1898].

Các bản đồ thế giới được sản xuất từ những năm 1530 đến những năm 1560 tại Dieppe khi nước Pháp do các nhà thương mại và hàng hải Norman dẫn đầu mong muốn sớm có quan hệ thương mại với các vùng thế giới mới. Vì vậy các nhà bản đồ học phải nhanh chóng nhập cuộc. Họ dựa vào công trình của người đồng hương Oronce Fine, vốn chịu ảnh hưởng lớn của Schoener và Martin Waldseemueller. Đến lượt mình, hai người này cố gắng cập nhật hóa nguồn thông tin địa lý mới do các nhà thám hiểm Christopher Columbus, Amerigo Vespucci, Pedro Alvares Cabral, Ferdinand Magellan và những người đương thời của họ vào khung địa cầu học kế thừa từ Claudius Ptolemy và Marco Polo, như đã được thể hiện thành khái niệm trong công trình của Martin Behaim năm 1492. Schoener và Fine bán sát vào tuyên bố của Columbus là ông đã đến Champa năm 1502 bằng cách bơi từ Tây Ban Nha về phía tây. Nam Mỹ được Waldseemueller xác định là Châu Mỹ năm 1507, và cũng được Schoener và Fine cho là Brazil, hoặc là một phần của Nam Cực, Terra Australis, cũng còn có nghĩa là một miền đất kéo dài thành Thượng Ấn – Bán đảo Kattigara – Đông Dương theo Behaim. Các bản đồ thế giới của Dieppe thể hiện giai đoạn tột cùng của địa cầu luận này với những lẫn lộn nghiêm trọng giữa Nam Cực với Brazil, Nam Mỹ lẫn với bán đảo Kattigara - Đông Dương. Điều đó khiến cho việc tìm kiếm Kattigara trong các thế kỷ XVI, XVII càng trở nên mờ mịt, và lắng dần xuống vào thế kỷ XVIII.

Giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XIX và 40 năm đầu thế kỷ XX, cùng với các hoạt động quân sự và khai thác thuộc địa tại Đông Á, người Anh, người Pháp, người Đức, người Hà Lan cùng một số cá nhân và tổ chức học thuật phương Tây khác cũng đã xúc tiến nhiều nghiên cứu lịch sử - văn hóa vùng đất này. Trong bối cảnh đó, vấn đề Kattigara và việc tìm kiếm địa danh Kattigara lại bắt đầu trở nên sôi động, nhưng quan điểm học thuật chi phối việc tìm kiếm của các nhà nghiên cứu phương Tây chủ yếu vẫn gắn liền với hai nền văn hóa lớn kẹp lấy Đông Dương, đó là Trung Quốc và Ấn Độ. Trước hết, khi đề cập đến vấn đề Kattigara họ liền gắn nó với cái gọi là con đường tơ lụa và những người sản xuất ra tơ lụa. Xuất phát điểm ấy đương nhiên đã xác định đường hướng tìm kiếm Kattigaragắn liền với đất nước Trung Quốc và/hoặc các vấn đề liên quan đến lịch sử - văn hóa Trung Quốc, trong trường hợp địa điểm đó có thể nằm ở Bắc Bộ Việt Nam. Nếu như địa điểm đó ở Nam Việt Nam thì đương nhiên người ta phải tìm các xuất phát điểm gắn liền với lịch sử văn hóa của cái gọi là các quốc gia Ấn Độ hóa, mà cụ thể là Phù Nam và Champa. Hai loại định kiến thực dân về phương diện lịch sử văn hóa một cách tự nhiên và vô thức ấy đã giành hết cơ hội cho một khả năng thứ ba, đó là tìm kiếm một Kattigara thuần túy bản địa, hay nói cách khác là thuần túy Việt, dù rằng khả năng này là hoàn toàn có thể.

Về phương án Kattigara nằm ở khu vực Bắc Bộ Việt Nam hoặc Nam Trung Quốc thì có thể coi tổng kết của McCrindle là một đại diện. Theo ông “trên tấm bản đồ thế giới năm 1489 của Henricus Martellus dựa trên công trình Địa lý của Ptolemy thì điểm tận cùng của Châu Á ở Đông Nam Á chính là Mũi Kattigara. Ptolemy hiểu Kattigara là cảng cực đông của các chuyến hải hành từ thế giới Hy La đến các vùng đất Viễn Đông, đó được coi là MũiKattigara, được gọi theo tên gọi của đô thị Kattigara mà Ptolemy cho là nằm bên Vịnh Lớn Sinus Magnus, “thực ra là Vịnh Thái Lan tại tọa độ 8.1/2 độ bắc của đường Xích đạo, choãi dài về phía Trung Quốc ở bên kia Vịnh” (McCrindle J.W. 1885-1974). Đối với người phương Tây thời gian đó, nói tới Đông Dương thì điều đó dường như đồng nghĩa với hai khả năng: Trung Hoa hoặc Ấn Độ. Với trường hợp đầu thì nhiều nhà Đông phương học người Châu Âu cho rằng Kattigara nằm ở Bắc Bộ, có thể là vùng cửa sông Cái (sông Hồng), hoặc xung quanh Hà Nội, thậm chí chính là Hà Nội [institute on the Far East Works 1915; Rawlinson, H. G. 1916].

Một quan điểm khác, công nhận Kattigara nằm trên đất Việt Nam, nhưng không phải là ở vùng Đồng bằng Sông Hồng, mà là ở Đồng bằng Sông Cửu Long, cụ thể là ở Sài Gòn (Herrmann, Albert 1938: 123-8) hoặc Óc Eo [Malleret L. 1951, 1962; Chakravarti Adhir K. 1972]. Điển hình cho trường hợp đầu là các nhà nghiên cứu tập trung xung quanh một tổ chức được gọi là Hakluyt Society, được thành lập năm 1846 tại London, Vương quốc Anh. Mục đích của Hội là tìm cách thúc đẩy tri thức và giáo dục thông qua việc công bố các hồ sơ, ghi chép, tác phẩm về các chuyến thám hiểm, các cuộc lữ hành xuyên lục địa và các tài liệu địa lý khác. Hội lấy tên họ của Rechard Hakluyt (1552-1616), một nhà sưu tập và chủ bút của các xuất bản phẩm về các chuyến hải hành, các cuộc thám hiểm, các chuyến phiêu lưu và các tư liệu khác liên quan đến lợi ích của người Anh tại hải ngoại dưới hình thức các xuất bản phẩm học thuật. Bên cạnh đó Hội còn tổ chức các cuộc gặp gỡ, hội thảo, hội nghị khoa học nhằm thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau giữa các nhà nghiên cứu và công chúng. Vì mục đích phi lợi nhuận đó Hội đã công bố được nhiều bản dịch từ tiếng Hy Lạp, Latin, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp, Hà Lan, v.v…ra tiếng Anh. Bên cạnh đó, Hội Hakluyt cũng có những cộng tác viên đắc lực, đó là tổ chức Những người bạn Mỹ của Hội Hakluyt được thành lập năm 1996 tại Thư viện John Carter Brown Library tại Đại học Brown Hoa Kỳ. Đây cũng là một tổ chức phi lợi nhuận có mục đích tương tự như Hội Hakluyt London, nhưng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực lịch sử Châu Mỹ [Foster, William 1946; Bridges R. C. & P. E. H. Hair (eds) 1996].

Đại diện cho quan điểm Kattigara nằm ở Bắc Bộ là của Nam tước Fernand von Richthofen, cha đẻ của cụm từ “con đường tơ lụa”. Quan điểm này hầu như đã được tất cả các thành viên Hội Hakluyt nhất trí, và được cho là rất thuyết phục, vì mấy lý lẽ lỏng lẻo và không khỏi lầm lẫn sau: i) trong nhiều thế kỷ kể từ trước Công nguyên đến năm 263 Giao Chỉ thực sự là quận huyện của Trung Quốc; ii) Giao Chỉ là cảng duy nhất trong giai đoạn đó được đề cập đến trong biên niên sử Trung Quốc là có quan hệ ngoại thương, và đó cũng chính là Đông Kinh, Kẻ Chợ, hoặc Hà Nội sau này. Trong khi không có bất cứ báo cáo nào đề cập đến việc người nước ngoài đến Trung Quốc thì riêng Giao Chỉ lại có chuyến thăm của sứ bộ nổi tiếng của vua Đại Tần (La Mã) An Đôn, tức là Marcius Aurelius Antonius (161-180) đến Giao Chỉ vào năm 166; iii) tên gọi vùng đất Jinan (Nhật Nam) có thể chính là từ Sinae đã theo chân các đoàn lữ hành để đến được với các thư viện phương Tây. Richthofen cũng nhấn mạnh: Tác giả Biên niên sử Trung Quốc về chuyến viếng thăm của sứ bộ Đại Tần còn viết thêm: “Người của nước đó thường xuyên đến Phù Nam, Nhật Nam, và Giao Chỉ buôn bán”. Chúng ta đều biết Phù Nam là Champa hoặc Zabai. Riêng ở Nhật Nam, với bến cảng chính Giao Chỉ, chúng ta có thể đảm bảo rằng đó chính là “Kattigara, cảng thị Sinarum” (Yule H. 1882: 658-9).

Còn đại diện cho quan điểm Kattigara thuộc vùng Nam Bộ, sớm nhất phải kể đến ý kiến cho rằng Kattigaralà cảng thị Banteaymeas, (nay là Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) không xa Óc Eo [Caverhill, John 1767]. Đến đầu thế kỷ XX, nhiều cuộc nghiên cứu Kattigara lại được tiếp tục khởi động, trong đó có quan điểm cho Kattigara là Sài Gòn xưa (Herrmann 1938); còn lại hầu hết thiên về di chỉ khảo cổ học Óc Eo (Malleret 1951, 1962; Chakravarti 1972). Đối với trường hợp Óc Eo, bên cạnh tài liệu khảo cổ học, các nhà nghiên cứu còn sử dụng tài liệu cổ ngôn ngữ để diễn giải lập luận của mình. Điển hình cho cách tiếp cận này là nghiên cứu của giáo sư người Ấn Độ Chakravarti. Ông cho rằng địa danh Kattigara có thể là các từ Sanskrit Kirti-nagara कीर्ति-नगर“Thành phố Lừng danh”, hoặcKotti-nagara कोटि-नगर“Thành phố Cường thịnh” (Chakravarti Adhir K. 1998). Tuy nhiên chúng tôi cho rằng việc suy diễn bằng cách biến đổi hẳn các từ mà không chứng minh được quy luật hoặc tính phổ biến của sự biến đổi như vậy có vẻ là một trò chơi ngôn ngữ có họ hàng rất gần gũi với một con dao hai lưỡi[1]. Cuối cùng cũng cần phải nhắc đến nghiên cứu mới toanh của Ferra, bằng cách bác bỏ hoàn toàn Ptolemy và sử dụng phương pháp xác định tọa độ của Marinus để chứng minh Kattigara là cảng cửa sông Châu Giang, thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Chỉ có điều duy nhất làm người đọc băn khoăn là tác giả này hoàn toàn tin tưởng vào phép tính toán xác định tọa độ Hy La cổ đại của Marinus với thông tin về khoảng cách và hàng loạt địa danh liên quan không được xác minh chắc chắn, nhưng lại lờ tịt một cứ liệu không dễ bác bỏ là cái tên Kattigara mà không hề nói lý do, (Ferra M.J. 2010), chẳng khác nào một hai tiền bối của ông trong Hội Hakluyt đã làm khi cho rằng Kattigara là Hợp Phố, cũng thuộc Quảng Đông, Trung Quốc [Yule, H. 1882].

Tuy nhiên chúng ta có thể hiểu được tại sao Ferra lại không đã động gì đến việc khai thác ngôn ngữ học lịch sử đối với địa danh Kattigara trong loạt bài viết của mình, bởi vì việc sử dụng cách tiếp cận ngôn ngữ đối với trường hợp Kattigara không phải dễ. Hơn nữa, nếu sử dụng phương pháp địa danh học thì khó mà tìm được Kattigara ở Quảng Châu, vì những từ này chẳng chút liên quan nào đến tiếng Hán cả. Trong thực tế, cho đến bây giờ không ai dám chắc Kattigara là loại ngôn ngữ nào, vì vậy cách xử lý tình huống có vẻ là một biện pháp dễ chấp nhận nhất đối với từng trường hợp cụ thể, trong đó việc lý giải bằng tiếng Sanskrit của giáo sư Chakravarti là một điển hình, cho dù nó có rất ít sức thuyết phục, bởi vì ông không đưa ra được bất cứ một sợi dây liên kết dù mong manh nào của mấy từ đó với bất kỳ mảnh ngôn ngữ nào còn sót lại ở Óc Eo liên quan đến các từ trên. Ấy là chưa kể việc người dân bản địa chắc gì đã sử dụng mấy từ ngoại lai ấy để gọi mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình.

Có lẽ so với Chakravarti, Ferra và rất nhiều người khác nữa, cách tiếp cận của Bình Nguyên Lộc tỉnh táo và đúng đắn hơn nhiều, khi ông đi tìm Kattigara tại vùng Vịnh Hạ Long của Việt Nam bằng cách dựa vào sự phân tích chính cái địa danh ấy bằng tiếng Việt. Vốn là người khẳng định nguồn gốc Mã Lai của người Việt, theo công thức Việt = Mã Lai, ông cho rằng: “Bắc Việt chỉ mới mất những danh từ thuần Việt là Bông, Trái, Muỗng, Ghe vào đầu đời Thanh vì lưu vong nhà Minh tràn ngập vùng đó. Thế nên không ai biết Hòn Gay là cái gì. Có lẽ đó là cái đảo mà ngày xưa là Bến Ghe thương hồ, và nó ăn khớp phần nào với Kattigara của Ptolémée, chớ Kattigara không thể là Óc Eo như ông Melleret đã viết. Kathi có thể nào là Kẻ Thị chăng? Vâng, Kẻ ThịKẻ Chợ cũng thế thôi. Và Kathi GaraKẻ Thị Gay, tức thành phố ghe thuyền, tức thương cảng. Cũng nên biết rằng Ptolémée đến nơi đó[2] vào cuối thế kỷ thứ II SCN, thế nghĩa là ta bị Mã Viện chinh phục gần hai trăm năm rồi, và sự vay mượn danh từ Thị đã xảy ra rồi. Hoặc Katti hay Kathi Cái Xị của Quảng Đông không chừng, vì dân cổ Tây Âu đã tràn sang đó để buôn bán vì bị trị trước và vì thạo thương mãi hơn ta. Dầu sao, không vì thế mà Kattigara lại nằm trong tỉnh Quảng Đông như có nhiều ông Tây đã nói, vì Gara không ăn vào với địa danh nào cả trừ với GayHòn Gay mà thôi. Kattigara cũng không thể là Óc Eo như ông Melleret đã viết vì ông R.A. Stein đối chiếu sự miêu tả cảnh vật của Ptolémée thì thấy nó không ăn khớp với vùng Óc Eo tí nào cả” [bình Nguyên Lộc 1971 – 2007].

Tuy nhiên cũng tương tự với rất nhiều trường hợp khác, chúng ta có thể dễ dàng chỉ ra những mặt mạnh gắn liền với những bấp bênh trong lập luận của Bình Nguyên Lộc khi ông đọc Kattigara là Kẻ Thị Gay. Trước hết trong cụm từ này đọc KaKẻ thì có thể chấp nhận về phương diện nghĩa, mặt dù trong thực tế thì KaKẻ là hai từ Việt cổ về hình thức không khác nhau là mấy cho nên mới qua mặt cả những trí thức Việt uyên thâm như cụ Đào Duy Anh (1997: 31-34), nhưng lại có nội hàm rất khác nhau. Việc đọc TiThị và lý giải vì “ta bị Mã Viện chinh phục gần hai trăm năm rồi” nên “sự vay mượn danh từ Thị đã xảy ra rồi” nghe thì rất thông minh và có lý, nhưng cái lý thông minh đó có gì hơi bất ổn, vì trong thực tế dường như chưa thấy có trường hợp nào người Việt quên mình là người Việt để đến nỗi phải cấy ghép một từ của kẻ ngoại vào giữa hai từ đặc sản Việt để gọi tên một địa danh đặc Việt như Hòn Gay (Gai) cả. Không những thế, nếu ai đã từng đến Hòn Gay, đã sống với kẻ Chã Hòn Gay, đã yêu kẻ Chã Hòn Gay thì mới thấy người Việt tự trọng đến mức nào. Kẻ Chã thà mù chữ chứ không bao giờ quên mình là Việt để đến nỗi chưa đầy 200 năm đã biến mình thành kẻ ngoại. Và không phải chỉ chưa đầy 200 năm, mà trong thực tế đã hơn 2000 năm qua kẻ Chã Hòn Gay nhất định không chịu bán mình mà vẫn nguyên vẹn là kẻ Chã Hòn Gay của nước Việt từ mấy nghìn năm trước. “Kẻ Thị Gay”, đúng là gay ngay cả với một kẻ tinh đời, một bộ óc trác việt và yêu nước Việt đến độ như Bình Nguyên Lộc khi không đọc ra một từ Việt nào khác nên đã phải ngậm đắng để cho từ 市Thị chen vào giữa hai từ đặc Việt: Kẻ - Gay, cho dù một lần nữa ông buộc phải đem cái tài trí siêu quần của mình ra để biện bác: Hoặc Katti hay Kathi Cái Xị của Quảng Đông không chừng, vì dân cổ Tây Âu đã tràn sang đó để buôn bán vì bị trị trước và vì thạo thương mãi hơn ta”. Thật đau cho Bình Nguyên Lộc, và cũng thật mừng vì gần nửa thế kỷ trước nước Việt lại có một Bình Nguyên Lộc uyên áo và thâm trầm đến mức nhận ra Việt = Mã Lai, cho dù đúng ra thì phải đảo lại là Mã Lai = Việt, vì đơn giản đối với tôi chí ít thì Việt cũng chắc chắn là tổ của một vài bộ phận Mã Lai-Đa đảo quan trọng, mà vùng đất tổ của họ chính vùng văn hóa biển Soi Nhụ, Cái Bèo, Hạ Long nơi có “Kẻ Thị Gay” của Bình Nguyên Lộc.

IV. Kattigara - Những bối cảnh hy hữu

Lịch sử thật công bằng vì đã đem đến cho Lạc Việt nhỏ bé một cơ hội hiếm hoi để xây đắp nên một nền văn minh Đông Sơn rực rỡ đến nhường ấy, và đã tỏa rạng ảnh hưởng của mình đến nhường ấy. Cái cơ hội ngàn năm có một theo nghĩa đen của cụm từ ấy đã đến vào khoảng thế kỷ V – III TCN khi lục địa Ấn Độ với nền văn minh kỳ vĩ của nó ở phía Tây bị nền văn minh Hy Lạp do Μέγας Αλέξανδρος - Alexandros Macedonia thử thách bằng chiến tranh; khi nền văn minh Hoa Hạ lừng lẫy của nhà Chu ở phía Bắc chìm đắm trong cuộc chiến tương tàn giành giật mảnh đất Trung Nguyên màu mỡ được tạo bởi hai đại giang Hoàng Hà và Dương Tử. Trong thời khắc hy hữu ấy, Lạc Việt đã trở thành trung tâm văn minh của Đông Nam Á lục địa, bên cạnh hai nền văn minh láng giềng Ấn – Hằng và Hoàng Hà – Dương Tử. Và may mắn là trước cơn sóng trào nguy cơ Hán hóa mạnh như vũ bão xuống phương nam thì Lạc Việt có được ba vùng đệm văn hóa làm phên dậu: Điền Việt ở phía Tây Bắc, Dạ Lang thiên chính Bắc, và Nam Việt ở Đông Bắc. Nhờ đó Lạc Việt vừa tỏa rạng được ánh sáng văn hóa của mình, lại vừa có thời gian chuẩn bị để đối phó với nạn đồng hóa của ngoại xâm phương Bắc. Đây không chỉ là giai đoạn lịch sử quyết định để tự biết sức mạnh của mình, mà còn là giai đoạn mà thế giới cũng bắt đầu biết đến mặt trời Đông Sơn của nền văn minh Lạc Việt, mà Kattigara là trung tâm của nguồn sáng đó.

Thời kỳ văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ chính là một trong những kích thích tố cho sự lớn mạnh của Điền quốc (khoảng 278 – 115 TCN) mà chủ nhân có thể là những người thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến. Sự kiện đó càng làm tăng cường các tương tác văn hóa giữa Lạc Việt và Điền Việt: Lạc Việt là cánh cửa mở ra biển Đông cho Điền quốc, đến lượt mình Điền quốc lại trở thành cánh cửa mở về các xã hội Tạng Miến phía Tây Bắc của Lạc Việt.Giao lưu mạnh mẽ nhất là giữa Đông Sơn và Điền được thúc đẩy nhờ sông Hồng, sông Đà, sông chảy và theo các chi lưu của các con sông này, mà chủ đạo là sông Hồng. Dấu tích của sự giao lưu nổi nét vẫn là trống Đông Sơn được chôn theo như một dạng quan tài hay đồ đựng tại đây. Bên cạnh đó còn có những chiếc vỏ sò - một loại tiền tệ được gọi là “bối tiền” sản phẩm của biển Đông nước ta cũng được chôn trong mộ của khu Thạch Trại Sơn. Một số trống Đông Sơn còn tìm được trong mộ táng ở những khu vực khác của tỉnh Quảng Tây như trống Điền Đông, trống La Bạc Loan, trống Phổ Đà… đều có thể được đem đến từ miền bắc Việt Nam theo những con đường trên bộ hoặc đường sông suối [Trịnh Sinh 1997: 55-65].

Chứng cớ xa nhất về phía bắc là chiếc trống đồng “đặc sản” của Đông Sơn đã có mặt ở Triết Giang, Trung Quốc. Ngôi mộ có trống minh khí là ngôi mộ số 10, được xác định vào thời Tây Hán, tức trùng vào thời Đông Sơn muộn [Trịnh Sinh 1997]. Nhiều khả năng Điền quốc trở thành nơi cung cấp nguyên liệu đồng và trao đổi nhiều công nghệ đồng với Lạc Việt, đặc biệt là những công nghệ được người vùng Lưỡng Hà và Ấn Độ sáng tạo từ rất sớm. Bên cạnh đó Lạc Việt còn nhận được các sản phẩm và công nghệ chăn nuôi, chẳng hạn bò, dê, ngựa. Trong khi đó Lạc Việt cung cấp cho Điền các sản phẩm nông nghiệp như lúa gạo, các loại nông sản, và đặc biệt là các sản phẩm biển như đồi mồi, ngọc trai, cá, muối, tơ tằm, và nhất là nguồn ốc tiền cowries của vùng biển Hạ Long v.v...Riêng nguồn hàng hóa đặc biệt này cũng có thể làm cho Lạc Việt có một vị thế không gì sánh nổi đối với Điền quốc, vì đơn giản loại ốc đó là vật trao đổi ngang giá, là tiền đối với một quốc gia nằm ở ngã ba đường giữa một bên là Ấn Độ ở phương Tây, một bên Trung Quốc ở phương Đông và cao nguyên Thanh Tạng ở phương Bắc. Tại Thạch Trại Sơn, nơi chôn cất các nhân vật hoàng tộc Điền, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một chiếc bình đồng thiếc trang trí 2 con hổ và 7 con bò, chứa vỏ sò, ốc được sử dụng làm tiền tệ, do người Điền chế tạo trong thời kỳ Tây Hán (202 TCN – 9). Những bằng chứng đó cho thấy cửa ra biển qua Lạc Việt đối với Điền quốc là có tính chất sống còn.

Ở phía bắc của Lạc Việt, từ thời Chiến quốc, thế kỷ VII TCN đã xuất hiện một nhà nước tự trị có tên gọi là Dạ Lang được cho là tổ tiên của người Di/Lô Lô. Trung tâm của nước này là xã Khả Lạc, huyện Hách Chương, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc ngày nay. Sử ký của Tư Mã Thiên mục Tây Nam Di chí gọi nước này là 牂牁 Tường Kha và đã mô tả cuộc tấn công của 庄跤 Trang Kiệu, một tướng nước Sở vào Dạ Lang vào cuối thế kỷ IV hoặc đầu thế kỷ III TCN. Cuối thế kỷ I TCN, Dạ Lang gây chiến tranh với các quốc gia láng giềng để mở rộng lãnh thổ và quyền lực. Theo Sử ký thì Dạ Lang đã từng phát triển rất hùng mạnh, có tới 100 nghìn quân tinh nhuệ, tàu bè của người Dạ Lang đi lại trên mặt sông, quang cảnh hết sức tấp nập. Năm 136 TCN Hán Vũ đế cử Đường Mông làm Lang trung tướng dẫn 1000 binh sĩ và mấy vạn dân đem theo lương thực và công cụ sản xuất xuất phát từ Ba quận vượt qua Phù Quan (Hợp Giang, Tứ Xuyên) đến Dạ Lang. Đường Mông tuyên truyền với Chúa Dạ Lang Đa Đồng về sức mạnh của Hán triều, ban tặng của cải để Đa Đồng cho Đường Mông đặt cơ quan quản lý ở đó và cử con trai Chúa Dạ Lang làm Lệnh ở đó. Năm 130 TCN Hán Vũ đế đặt Dạ Lang thành quận huyện và mở đường từ Ba Thục thông đến sông Tường Kha. Sau khi tiêu diệt Nam Việt, nhà Hán tấn công Thả Lan, tây nam huyện Hoàng Bình, Quý Châu ngày nay, giết chết mấy vạn người, đặt thành quận Tường Kha. Chúa Dạ Lang thấy Nam Việt của nhà Triệu bị tiêu diệt liền quy thuận nhà Hán và được Vũ đế phong làm Dạ Lang vương vào năm 111 TCN [Wade, Geoff 2009].

Về phía đông bắc Lạc Việt, văn hóa Đông Sơn cũng đã phát huy ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là khu vực Lưỡng Quảng, vốn là vùng đất của tổ tiên người Tày – Thái cổ. Đây chính là vùng đệm quan trọng, giống như một dạng phên dậu phía đông bắc cho quốc gia Lạc Việt trong công cuộc ngăn cản sự đồng hóa của phương Bắc, bắt đầu từ thời Tần (221 – 206 TCN) và sau đó là nhà Tây Hán (202 TCN – 9 SCN). Nếu như Điền quốc do một người nước Sở đến tiếm quyền cát cứ khi các thế lực phương Bắc của người Hoa tranh chấp Trung Nguyên thì hệt như vậy, Quốc gia Nam Việt của Triệu Đà cũng ra đời trong bối cảnh nhà Tần và sau đó là nhà Tây Hán không đủ sức với tay trực tiếp thống trị vùng đất Bách Việt phía nam sông Dương Tử. Dù Triệu Đà có mưu lược đến mấy thì cũng phải tự mình hòa đồng với người Việt để cát cứ và buộc phải chống lại những người chủ cũ Tần Hán của mình ở Trung Nguyên. Để tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, và có thể yên ổn cai trị Nam Việt quốc chủ yếu thuộc hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay, Triệu Đà đã thi hành những chính sách hòa hoãn và mềm dẻo với người Việt, đặc biệt là với người Lạc Việt. Trên thực tế, Đà không đủ sức đánh bại được người Lạc Việt ở vùng Bắc Bộ Việt Nam ngày nay, nên mới buộc phải cho con trai là Trọng Thủy gửi rể ở cung đình của An Dương Vương tại Cổ Loa, và đến lúc lừa chiếm được Âu Lạc thì cũng chỉ để lại hai quan sứ cai quản Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi [Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991].

Đây cũng chính là thời kỳ văn hóa Đông Sơn đã có những ảnh hưởng sâu đậm đến các dân tộc trong vùng Đông Nam Á như Lào, Thái Lan, Malaysia, và Indonesia, mà đại diện là chiếc trống đồng Đông Sơn nổi tiếng. Một số trống đồng Đông Sơn tìm thấy ở sâu trong địa phận Lào như trống Đon Đét, trống Phôn Xa Vẳn, trống Huổi Hủa Xang I và II, trống Viêng Xay ở vùng mường Viêng Xay của tỉnh Sầm Nưa [Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987]. Tại Thái Lan đã phát hiện được 22 chiếc trống đồng Đông Sơn [Trịnh Sinh 1988: 93-102]. Đó là những trống đồng tìm được trong hang Ongbah giống với trống đồng Quảng Xương, Hữu Chung [P. Sorensen 1979], trống đồng tìm thấy ở hang Thung Yang [R.B. Smith 1979]. Trong địa phận Việt Nam về phía nam, dấu tích văn hóa Đông Sơn được phát hiện tại Sa Huỳnh, di tích Gò Quê, xã Bình Đông, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; một loạt trống đồng tìm thấy ở ven biển như ở Nha Trang, Vũng Tầu. Trống đồng còn thấy ở Cao Nguyên Đắc Lắc, ở vùng núi Bình Định, Bình Dương. Vượt ra ngoài Việt Nam về phía nam các nhà khảo cổ cũng tìm thấy trống Đông Sơn ở Ko Samui, tỉnh Surathani, miền nam Thái Lan, chỉ cách bờ biển có 300 m. Vùng bờ biển của Malaysia cũng phát hiện được trống Đông Sơn, điển hình là hai chiếc trống Kuala Torengganu I và II ở bờ phía đông của bán đảo nước này. Vùng Kampon Sungai Lang cũng tìm được 2 trống Đông Sơn cùng được chôn ngửa trong một vò gốm và trống được trang trí hoa văn hiện thực khá đẹp như chim bay, hình người hoá trang lông chim, tượng cóc. Đặc biệt ở vùng quần đảo Indonesia phát hiện khá nhiều trống đồng Đông Sơn trên các đảo, điển hình như trống Xiandua, đảo Java. Đảo này còn có nhóm trống Somarang, trống Dieng. Trên đảo Sumbava có nhóm trống Sanghi gồm 6 chiếc là trống Đông Sơn trang trí đẹp. Trên các đảo Roti, Salayar và nhiều đảo nhỏ khác cũng tìm thấy khá nhiều trống Đông Sơn. Quần đảo Kai, gần Irian Jaya, có lẽ là vùng tìm thấy trống đồng Đông Sơn xa nhất về phía đông mang dấu tích giao lưu văn hoá. Trống đồng Đông Sơn có mặt ở quần đảo này muộn hơn, có thể được nhập từ Bắc Việt Nam vào khoảng 200 năm trước Công Nguyên [Trịnh Sinh 1997].

Hầu hết các nhà nghiên cứu Đông Nam Á đều cho rằng quá trình Ấn Độ hóa về phương diện văn hóa vùng này được định niên đại từ thế kỷ II SCN, nhưng thật ra thì tri thức của người Ấn Độ về vùng này lại cổ xưa hơn rất nhiều. Và đúng là tri thức Hy Lạp thời Ptolemy về khoảng cách giữa các vùng tại Đông Nam Á chỉ là sản phẩm phụ của thương mại. Sarkar cho rằng sự truyền bá của Đạo Phật một cách rộng rãi trong thời Asoka (270-230 TCN) đã làm biến đổi hẳn tri thức về Đông Nam Á từ một vài vùng đất mới chỉ được biết một cách mơ hồ đối với vùng phía nam Mianmar vốn được gọi là Suvarnabhûmi-Vùng đất vàng, cho đến Suvarnadvîpa – Vùng Đảo vàng với tư cách là một cánh cửa mở vào Trung Quốc [sarkar H.B. 1981]. Trong khi đó quá trình giao lưu văn hóa giữa Đông Nam Á và Ấn Độ thể hiện thông qua con người, các loại gia vị và các loại cây trồng đã được khảo cổ học phát hiện từ giai đoạn 1000 đến 400 năm TCN [Laffan, Michael 2005]. Ở Bắc Việt Nam, dấu ấn của Asoka đã được sách Giao Châu ký của Lưu Hân Kỳ ghi lại như sau: Con sông Trường Giang (sông Hồng) chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê nghe nói do A Dục Vương xây; thành này ở phía đông nam huyện An Định, tháp và giảng đường xưa vẫn đó [Lịch Đạo Nguyên (chú) 2005: 433]. Còn phương tiện để liên lạc với thế giới bên ngoài thì đã có thuyền đồng, như sáchLâm Ấp ký làm chứng: từ Giao Chỉ đi về phía nam, có sông ngách Đô Quan Tái Phố chảy ra…phía bắc kèm theo sông Trường Giang (sông Hồng) trong sông có chiếc chiếc thuyền đồng do Việt Vương đúc, lúc nước triều xuống người ta có thấy chiếc thuyền ấy (Lịch Đạo Nguyên (chú) 2005: 433). Vì vậy việc thế giới Ấn Độ và Lạc Việt đã có quan hệ tối thiểu là từ thời Asoka अशोक trị vì (299 – 232 TCN) là điều hoàn toàn có thể, và chỉ cần thông qua người Ấn và người Ả Rập thì người Hy Lạp – La Mã cũng có thể thu thập được tư liệu về phương đông, về Lạc Việt cho thư viện Alexandria, và có thể dễ dàng biết đến một đô thị Kattigara huyền thoại của người Lạc Việt.

Marcianus Heracleota, một nhà địa lý Tiểu Hy Lạp, sống sau Ptolemy khoảng hai trăm năm (thế kỷ IV SCN), được coi là người có thẩm quyền tri thức để diễn giải Ptolemy cũng mô tả con đường từ bán đảo Vàng đến Kattigara như sau: bơi về phía nam, rẽ trái hướng đến đất Sinae về phía đông, đến một vịnh lớn có nhiều thú hoang, bơi theo vịnh lớn gọi là vịnh Sinea, nơi con sông Cotiaris chảy vào vịnh, ngược theo sông đó thì đến Kattigara [Caverhill, John 1767]. Dù người ta vẫn nhầm lẫn vịnh này là Vịnh Thái Lan, nhưng tên con sông thì lại gọi là sông Giao Chỉ (Cotiaris). Có một điều rất lạ là đến thời Marcianus đã có các thương đoàn và sứ bộ đi về giữa Alexandria và Trung Quốc, đã ghé qua Giao Chỉ, con đường tơ lụa trên biển đã hình thành, nhưng diễn giải của ông và rất nhiều người khác vẫn không cho biết chắc chắn Kattigara ở chỗ nào, và càng về sau thì người Châu Âu lại càng bối rối trong việc xác định địa danh này như chúng ta đã thấy.

Trong số khá nhiều nhà Địa lý học tìm kiếm vị trí của Kattigara mà chúng ta có thể tiếp cận được cho đến hiện nay thì có lẽ mô tả của nhà địa lý kiêm bản đồ học lớn người Pháp Bourguignon d'Anville (1697-1782), là một diễn giải kỹ lưỡng hơn cả. Chọn cái tên Sinae trong Địa lý của Ptolemy làm xuất phát điểm ông cho rằng cái tên đó là để thể hiện Cochin-China, đối với những người Châu Âu thì cái tên ấy chính là Giao Chỉ, có nghĩa là Bắc Kỳ của Việt Nam. Theo ông những người Ả Rập đã gọi Giao Chỉ là Sines, nhờ đó mà Ptolemy biết được đó là dân Sines. Kinh đô của dân Sines được Marinus và Ptolemy gọi là Thyna và đó là từ Latin của Sinae. Kinh đô ấy nằm cách cửa biển của con sông Cotiaris - Giao Chỉ một khoảng xa và về phía trái của con sông này có một con sông khác có tên gọi là Senus, và con sông này chính là sông lớn Camboia, cách cửa biển 80 leages (344km, 1 league = 4.3km). Ở đó có hai nhánh sông khác, còn sông chính nằm về phía bên phải là sông Cotiaris, dẫn đến một đô thị mà nhà Địa lý học Ả Rập kia nói là rất nổi tiếng về buôn bán, đó là Loukin, và đó chắc là Thinae của Ptolemy. Nhưng còn cái kinh thành của người Sines mà các nhà địa lý Ả Rập gọi là Sin, và các cuốn sử ký của Trung Quốc gọi là Tehen-tehen thì lại là nơi hẻo lánh hơn Loukin, có tên gọi là Sinhoa đã từng là một đô thị phồn thịnh nhất của Giao Chỉ khi cảng thị này chưa bị sa bồi vùi lấp [d'Anville 1810: 128-133]. Trong trường hợp trên có lẽ d'Anville đã có một số nhầm lẫn về địa danh với Cửu Chân, tên gọi xứ Thanh dưới thời Hán, nhiều khả năng ông đã sử dụng tư liệu hoặc hỏi chuyện các nhà buôn và/hoặc các nhà truyền giáo đã đến Việt Nam rất nhiều vào thế kỷ XVII, XVIII, mà không đặt chân đến Bắc Bộ Việt Nam nên một hai tên sông có thể nhầm với Campuchia. Trong công trình của ông, một số địa danh nghe khá lạ, tuy nhiên vẫn có thể phân biệt được, chẳng hạn Loukin thì người Châu Âu viết nhầm địa danh Long Biên, cònTehen-tehen có tên gọi Sinhoa thì có vẻ là Thạch Thành, thành đá của nhà Hồ ở Thanh Hóa, chỉ có điều đó không phải là một cảng thị. Tuy nhiên khi nói về Kattigara và xác định nó thuộc Bắc Bộ Việt Nam thì d'Anville lại tỏ ra bám khá sát vào hướng dẫn của Ptolemy, đặc biệt là các ghi chú của ông nói rằng đô thị đó “ở mãi trong hẻm núi, cuối vùng đồng bằng” trên đường bơi tới đó “hai bên có những dãy núi lớn sừng sững” (chương 13-14 tập Địa lý của Ptolemy).

Vậy thì có thể lý giải như thế nào về các lầm lẫn suốt gần 2000 năm qua trong việc xác định chính xác địa danh và vị trí địa lý Kattigara? Một kịch bản có thể hình dung là Alexandros đã thực sự bơi đến Kattigara vào thời điểm cuối cùng trước khi đô thị này đã bị quên lãng, còn những người khác, trong đó có sứ bộ của Antonius thì đến vùng đô thị mới của Giao Chỉ, chứ không phải là Kattigara. Chính vì vậy mà về sau người ta không còn biết tìm Kattigara ở đâu nữa. Nếu căn cứ vào mô tả trong ghi chú của Ptolemy và trong sự hình dung của d'Anville thì Kattigara chính là vùng Kinh đô Phong Châu huyền thoại của người Việt cổ mà vào giai đoạn trước sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng nơi đó vẫn còn là Kinh đô Lạc Việt, dù đã có một thời Cổ Loa thay thế vị trí của nó theo một nghĩa nào đó, trong một thời điểm rất ngắn ngủi, nhưng đối với người Lạc Việt thời đó thì sự xuất hiện của Cổ Loa trong vòng vài chục năm vẫn chưa đủ để xóa đi ký ức của họ về kinh đô Phong Châu huyền thoại, vốn đã trở thành vị trí trung tâm văn minh Việt cổ hàng ngàn năm trời rồi. Ấy là chưa kể xuất thân còn chưa mấy rõ ràng của Thục Phán, chủ nhân thành Cổ Loa và mối quan hệ phức tạp giữa Thục Phán và Nam Việt Vương gốc Hán Triệu Đà trong một bối cảnh ngàn cân treo sợi tóc của hàng trăm ngàn con dân Lạc Việt trước nguy cơ bị Hán hóa. Vì vậy trước sau công nguyên, Kinh đô Phong Châu vẫn là trái tim của mọi con dân nước Việt, và nói tới vùng đất Lạc Việt là phải nói tới Kinh đô Phong Châu. Hơn nữa, về phương diện địa lý, trong thời gian ấy, khi vịnh Bắc Bộ còn ăn sâu vào gần đất Hà Nội thì vùng ngã ba Bạch Hạc vẫn mang bóng dáng là một loại cảng biển, với cảnh hàng năm Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh nhau với Sơn Tinh dưới chân núi Tản Viên. Lúc đó Hà Nội vẫn còn các làng Láng lênh láng nước, và vùng Mê Linh, quê hương Hai Bà Trưng vẫn còn là những vùng nước Mlênh – Mlang (Mênh Mang) về phía bắc tràn lan lên đến vùng Yên Lãng gần Vĩnh Yên bây giờ, còn về phía nam thì thông ra biển ngay sát quê chồng bà Trưng Trắc ở cửa sông Châu Giang, giáp với thành phố Hưng Yên ngày nay. Chỉ sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, cùng với những chính sách đồng hóa thâm độc của Mã Viện bằng cách tiêu diệt tận gốc các tinh hoa Việt, cướp hết trống đồng - biểu tượng tinh thần Lạc Việt - nung chảy để đúc ngựa và đúc cột đồng, truy sát đến tận diệt các cừ soái Lạc Việt, hòng bắt người Lạc Việt phải quên đi quá khứ huy hoàng của mình thì cái tên Kinh đô Phong Châu mới dần dần bị khuất lấp sau tấm màn đen của chính sách khủng bố đại Hán tộc mà Mã Viện và những hậu bối của ông ta thực thi.

Trong bối cảnh đó, có lẽ giống như một định mệnh, cái kinh đô có thật kia, cái tên Kattigara đã từng một thời thân quen như máu thịt kia đã vang lên lần cuối cho đến tận trời Tây của Ptolemy và các tiền bối của ông, để rồi khuất lấp vào dĩ vãng và sống dưới dạng các mảnh vụn huyền thoại Việt dưới màn đêm đen nghìn năm Bắc thuộc, đến nỗi mới có một hai trăm năm sau người ta chỉ còn biết đến lỵ sở Liên Lâu, Luy Lâu thời kỳ đầu Bắc thuộc, và tiếp đó là vùng đô thị Long Biên ngày một trở nên phồn thịnh cùng với quá trình biển thoái, và đồng bằng châu thổ sông Hồng ngày một vươn xa về phía biển. Đương nhiên đối với các nhà địa lý Hy-La và Ả Rập, cái tên Kattigara không có ý nghĩa gì khác hơn là một địa danh được lấy làm cực đông của địa cầu để chứng minh cho học thuyết địa tâm Hy Lạp. Chính vì vậy ngay cả sau này, khi đã biết quá rõ Trung Quốc nhưng người phương Tây vẫn không thể nào tìm kiếm được Kattigara, không thể nào biết được Kattigara ở đâu.

V. Kattigara - Kinh đô huyền thoại Việt

Phải công bằng mà nói Bình Nguyên Lộc đã và sẽ còn đồng hành lâu dài với sự nghiệp nghiên cứu nền văn minh Việt cổ khi ông gắn Việt tộc với Mã Lai, dù theo cung cách quay đầu xuống đất. Chính vì vậy, theo tôi, với trường hợp Kattigara ông đã đọc gần đúng nghĩa của cụm từ này theo cách đọc của người Việt cổ, nói cách khác là theo cách đọc của (một bộ phận) tổ tiên người Malayo. Từ một vài từ gốc được người Hy-La cổ đại viết thành một từ đa âm tiết, ông đã tách được thành ba từ riêng biệt theo đúng phong cách và cấu trúc ngôn ngữ Việt, trong đó Kađược đọc thành Kẻ, Ti được đọc thành Thị, còn Gara được đọc thành Ghe (thuyền). Theo tôi, ông đã gần đúng với trường hợp chữ Ka, còn TiGara thì chưa đúng, cho dù ông rành rẽ tiếng Mã Lai, như ông đã nói và đã thể hiện trong hai tác phẩm quan trọng Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam Lột trần Việt ngữ. Lầm lẫn của ông, có lẽ xuất phát từ việc ông bị định kiến trước với từ Thị của người Hoa tại Sài Gòn xưa, và đặc biệt có lẽ còn hơn cả định kiến trước, ông đã bị ám ảnh với từ Gay (ghe thuyền) trong tiếng Mã Lai, nên đã lập tức tách thành một từ gọi làGara để đọc thành Gay. Ấy là chưa kể về phương diện lịch sử, Hòn Gay chỉ thực sự có mầm mống một đô thị kể từ năm 1878, khi nhà buôn người Thanh là Ngô Nguyên Thành xin chính quyền Tự Đức cho khai mỏ than tại vùng này; và đặc biệt là kể từ khi Pháp đánh chiếm Quảng Ninh năm 1883 cho đến Thế chiến I, với chính sách đẩy mạnh khai thác thuộc địa phục vụ cho chính quốc [Trần Văn Giàu 1961]. Còn gần 2000 năm trước thì vùng Hòn Gay có lẽ vẫn chỉ có những vạn chài thưa thớt với những con thuyền và kiếp sống lang thang rày đây mai đó mà thôi.

Giống Bình Nguyên Lộc, tôi cũng hiểu Kattigara là một cụm từ tiếng Việt cổ, chứ không phải là tiếng Phạn hay một thứ tiếng nào khác, để ghi lại một địa danh Việt cổ nổi tiếng; từng từ trong cụm từ đó có nghĩa rất rõ ràng; cả cụm từ được viết rất đúng với cấu trúc tiếng Việt, và không hề nhầm lẫn. Tuy nhiên vì là tiếng Việt cổ, cách xa chúng ta hàng 2000 năm ròng, nên muốn hiểu hết nghĩa của các từ cổ đó thì cần phải so sánh nó với các ngôn ngữ liên quan, trong đó có tiếng Mã Lai. Giống với Bình Nguyên Lộc tôi cũng tách cụm từ đó thành ba từ riêng biệt, nhưng khác với Bình Nguyên Lộc, tôi không tách cụm từ đó thành Ka-Ti-Gara, mà thành Kat-Tiga- Ra. Và cũng khác với Bình Nguyên Lộc, trong ba từ của ông có một từ ngoại lai là Ti (Thị), còn trong ba từ của tôi không có bất cứ từ ngoại lai nào, mà là ba từ tiếng Việt cổ, hoàn toàn cổ, đến mức là ngày nay hầu như người ta không hiểu được rõ ràng, vì vậy cần phải diễn giải các từ này một cách chi tiết hơn.

Trước tiên với trường hợp chữ Ra, theo các nhà ngôn ngữ học trong địa danh thuần Việt, dạng ngữ âm Ra có các biến thể la, lô, rào dùng để chỉ các con sông, chẳng hạn sông Hồng cũng mang tên là Lô, một nhánh sông từ Tuyên Quang nhập vào sông Hồng ở Việt Trì cũng mang tên Lô; về ngữ âm la, có sông La ở Hà Tĩnh, suối La ở Quảng Trị; về biến thể Rào, có Rào Quán ở Quảng Trị, Rào Nậy- sông Gianh ở Quảng Bình, Cửa Rào- Nậm Nơn hợp thành sông Cả ở Nghệ An v.v.. [Trần Trí Dõi 2008]. Bên cạnh các tương đồng và biến đổi trên, chúng ta còn thấy ở Việt Nam và Đông Nam Á, sự biến đổi rất phổ biến giữa bán nguyên âm ya, các nguyên âm kép ia, ea, ai, ay (sông nước) trở thành các dạng có phụ âm đầu như ba, da, đa, tạ, đạ, đà, đái, đak, đáy, pa, trà vẫn để chỉ sông nước, ở miền Bắc có Tạ Khoa, Tạ Pú, sông Đà, sông Đáy; đặc biệt là ở các vùng miền Trung – Tây Nguyên có vô số sông suối mang tên Ia, Ea, Trà, Đạ, Đak như Ia Ly, Ea Hleo, Trà Giang, Trà Bồng, Trà Cú, Đạ Đờng, Đạ Tẻ, Đạ Hoai, Đak Bla, Đak Lak, Đak Krông, v.v.... Cho nên hiện tượng biến âm giữa ia, ea, tạ, đà, lô, la thành ra để chỉ sông nước trong cụm từ cổ Kattigara là điều rất bình thường. Và như vậy hoàn toàn có thể đọc Rasông, nước.

Riêng với trường hợp từ Kat nếu bỏ phụ âm cuối [t] còn lại Ka thì đúng là một đặc sản Việt cổ xuất phát từ cuộc sống gắn liền với sông biển. Trong môi trường cư trú của người Việt cổ - một bộ phận của tổ tiên người Malayo-Polynesian - chúng ta thấy có ba từ tạo thành một hệ thống sinh thái nước hoàn chỉnh, đó là Cái để chỉ vũng vịnh ven biển, nơi con người có thể tụ tập thành cộng đồng và sinh sống lâu dài. Vùng biển Quảng Ninh, vịnh Hạ Long và Hải Phòng điển hình cho môi trường này. Ở khu vực này vẫn còn thấy rất nhiều địa danh có từ Cái như Cái Bầu, Cái Lân, Cái Làng, Cái Bèo, v.v... Những vùng này ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán cho nên ít thấy có trường hợp sử dụng từ Hán Việt để mô tả từ này ở khu vực Quảng Ninh, Hạ Long. Nhưng lùi về bờ biển phía đồng bằng Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, chúng ta thấy có hàng loạt từ Hải, chắc chắn đã được dùng thay cho từ Cái, đó là Hải trong Hải Đông, Hải Dương, Hải Phòng, Hải Hậu. Ở Hải Phòng còn thấy một số địa danh cải biến Cái thành 吉Cát hoặc lai giữa Việt và Hán Việt, trong đó có thể từ Cát là tiếng Việt thay cho từ Cái như Cát Bà, hoặc Cát Cụt, Cát Dài nhưng đối với trường hợp Cát Hải thì lại có thể được diễn giải bằng hai từ Hán 吉海, trong khi vẫn tồn tại địa danh Cái, chẳng hạn Cái Tráp huyện Cát Hải. Có lẽ các biến đổi địa danh trên diễn ra muộn, không xa ngày nay là bao nhiêu.

Riêng từ Cửa cũng khá phức tạp, vì từ này được dùng để mô tả các cửa sông chảy ra biển, hoặc cửa sông chảy vào một con sông chính nào đó. Hầu hết các vùng này đều dần dần trở thành thủ đô hoặc các đô thị, các trung tâm quan trọng của vùng, nên khi bị người Hán đô hộ, từ Cửa đã được khoác bằng một hai chiếc áo Hán để ghi bằng các âm tương ứng trong tiếng Hán như 古Cổ (Cổ Loa, Cổ Đô (cạnh ngã ba Hạc Trì), Cổ Lương (Hà Nội), hoặc Khả 可(Khả Lũ - Cổ Loa; Khả Lạc - Kinh đô của người Dạ Lang cũ nay thuộc Quý Châu, Trung Quốc) chẳng hạn. Như vậy trong hầu hết các trường hợp thì Cổ - Khả là để chỉ một loại trung tâm như Kinh đô, hoặc chính là Kinh đô. Riêng với Kẻ, giống như trường hợp Cái, vì xa các trung tâm đô thị Hán hóa và ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán nên nó vẫn tồn tại nguyên vẹn với tư cách là một từ tiếng Việt, cho dù có một hai âm đọc tương ứng khác là Kẽ, Khe, và cũng có thể được viết bằng từ Hán 溪Khê. Đây là những địa điểm tụ cư tại cửa các con sông nhỏ, hoặc cửa các con ngòi, lạch nhỏ chảy vào một vùng nước, hoặc một con sông chính. Vì vậy về cấu trúc phân cấp xã hội phải có một loạt Kẻ phụ thuộc vào một Cửa – Cổ - Khả nào đó.

Trong lịch sử thủy cư Việt thì ba từ trên tương ứng với ba quy mô lớn nhỏ khác nhau. Về mặt nguyên ủy, nếu chỉ sống dựa vào tự nhiên thì Cái có quy mô diện tích lớn nhất, và cũng có thể nuôi chứa được một dân số đông nhất vì nguồn lợi thiên nhiên dồi dào của nó. Tuy nhiên khi nông nghiệp, thủ công nghiệp và đô thị phát triển thì Cửa - Khả - Cổ lại là môi trường thuận lợi nhất để nuôi chứa được một dân số lớn đến mức khó tưởng tượng đối với con mắt của người quen nhìn cuộc sống phụ thuộc vào các nguồn thuần túy tự nhiên. Cuối cùng Kẻ vẫn là quy mô làng thôn theo đúng nghĩa của từ khe, ngòi chỉ đủ nguồn lợi để nuôi chứa được một cộng đồng dân số nhỏ bé. Riêng Kẻ Chợ là một khái niệm phiếm chỉ, có lẽ nó ra đời cùng với lớp thị dân vừa thoát khỏi thân phận nông nô, hoặc nông dân tự do nghèo khổ, là những người sống bên lề của xã hội quan lại, quý tộc phong kiến. Vì vậy Kẻ Chợ không nằm trong hệ thống Cái, Cổ, Kẻ truyền thống Việt, mà lại là một từ có vẻ tiên báo về một giai cấp tiểu tư sản thị dân đang xuất hiện và dần dẫn trở thành chủ đạo, giống như các thành thị Châu Âu thời Cận đại vậy. Tuy nhiên vấn đề ở đây lại không phải là chữ Ka, mà là Kat. Liệu có phải Marinus, Ptolemy và những người trước họ đã viết thừa một phụ âm [t]; nếu họ viết thừa một phụ âm [t] thì khi tách ra sẽ đúng là có ba từ Ka-Tiga-Ra mà thôi. Nhưng theo tôi chắc không có chuyện viết thừa phụ âm [t] ở đây. Tôi đã kiểm tra lại nguyên bản viết tay tiếng Hy Lạp của Ptolemy do thư viện Paris công bố [Ptol. Geograph. l.i.c. 17. Paris, 1546, Lib. i, c. 14] thì thấy tất cả đều được viết là Καττιγαρα[3]với hai phụ âm [t]. Như vậy khi tách cụm từ đó thành ba thì sẽ là Kat – Tiga – Ra, và vấn đề sẽ trở nên khó khăn, rắc rối hơn, vì sẽ không còn là Ka để có thể đọc là Khả, Kẻ, Cổ nữa. Như vậy thì không thể đơn giản bỏ một phụ âm [t] đi để đọc cho thuận được. Chỉ còn cách duy nhất là phải thử đọc chữ Kat đó, và tất nhiên cũng phải đọc nó là một từ tiếng Việt.

Tôi nhớ hồi còn nhỏ ở quê, bà nội và bà ngoại tôi rất già, không bao giờ gọi Việt Trì, mà chỉ gọi là Vật Trì, dù bà ngoại là người Bạch Hạc. Tại sao các bà lại nhầm lẫn hoặc nói nhịu kiểu đó? Trong thực tế khả năng biến âm giữa [iê] (chẳng hạn từ thiệt) và [â] (chẳng hạn từ thật) của ViệtVật là thông thường. Nhưng điều đó có ý nghĩa gì không? Tôi nhớ cạnh Việt Trì, bên huyện Ba Vì, sát kề sông Đà có xã Vật Lại. Và tôi cũng đã từng đọc mấy câu thơ nổi tiếng của sĩ phu Ngô Quang Bích (1832 – 1890) làm quan lâu năm ở xứ Hưng Hóa và gắn bó máu thịt với non nước nơi này; chính vì vậy ông đã có được những vần thơ để đời như hai câu 眾水皆東走, 沱江獨北流 Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu; vừa mượn hướng chảy của sông Đà để nói về chí khí của mình, vừa nói về kinh đô Phong Châu, nơi hồn thiêng núi sông ngàn năm hội tụ. Vậy thì chắc hẳn chữ Việt trong Việt Trì, được viết Kat là biến/hoán đổi âm của Vật Quật Quặt Kat được dùng để mô tả dòng Hắc Long – sông Đà chảy vật lại, quật lại, quặt lại, quay lại, từ phía tây nam ngược lên phía bắc; dòng Thanh Long – sông Lô từ phía đông lượn sát Việt Trì quành về phía tây bọc lấy Bạch Hạc; còn dòng Xích Long – sông Hồng đón nước Đà giang rồi lượn vòng hẳn về phía đông hợp lưu với Lô giang, trở thành ba con rồng thiêng quần chầu ôm lấy vùng Đất tổ, tạo thành một Đại huyệt đạo Kattigara.

Tuy nhiên, thử thách lớn nhất trong ba từ trên chính là Tiga, thật không dễ tìm được một từ nào trong vốn tiếng Việt hiện đại tương ứng để suy luận nghĩa của nó. Chính vì vậy, chúng tôi đã phải tìm đến các ngôn ngữ gần gũi hoặc có quan hệ với tiếng Việt, mà trước hết là các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Malayo-Polynesian. Và ở đây chúng tôi đã tìm thấy một gợi ý rất có ý nghĩa, khi phát hiện ra Tiga chính là số 3 (Ba) trong hệ số đếm của các ngôn ngữ Malayo-Polynesian như dưới đây (Anderbeck K. R. 2008):

Malay: Tiga

Indonesian: Tiga

Javanese: Tiga, Telu

Balinese: Tiga, Telu

Sundanese: Tilu

Toraja: Tallu

Tagalog: Tatlo

Acehnese: Lhè

Nhìn bảng trên có thể thấy các ngôn ngữ Balinese, Indonesian, Javanese, và Malay vẫn còn giữ được nguyên vẹn số đếm Ba từ thời cổ đại, trong khi đó các ngôn ngữ còn lại đã có những biến đổi hoặc đôi chút khác biệt, tuy nhiên vẫn có những mối liên hệ ngữ âm rất rõ ràng và có tính quy luật. Bình Nguyên Lộc đã chứng minh rằng người Việt cổ cũng sử dụng hệ số đếm này trong cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Còn bản thân chúng tôi vẫn chủ trương khu vực văn hóa Soi Nhụ - Cái Bèo - Hạ Long của người Việt cổ là một trong những cội nguồn của người Malayo-Polynesian, nên đương nhiên ngữ hệ Malayo-Polynesian cũng là một cơ tầng ngôn ngữ Việt. Chính vì vậy ở đây chúng tôi không chứng minh lại nữa, mà chỉ xem xét riêng về khả năng biến đổi những từ đa âm tiết trong tiếng Việt cổ thành từ đơn âm tiết sau khi tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ - văn hóa Hán. Một trong vô vàn trường hợp đó chính là từ Tiga đã biến đổi thành một từ đơn tiết trong tiếng Việt hiện đại là Ba. Như trên chúng ta đã thấy, bên cạnh Tiga của các ngôn ngữ Indonesian, Javanese, Malay đã xuất hiện phụ âm [l] trong chính các từ số đếm Ba của các ngôn ngữ Javanese, Balinese, Sundanese, Toraja, Tagalog, và Acehnese. Trong tiếng Việt, có thể thấy rất rõ sự biến âm giữa [t] ~ [bl]; đặc biệt là vẫn còn rất nhiều hiện tượng biến đổi trực tiếp [g] như: gạy → bẩy, gói →buộc, gập → bẻ, gò → bó, gạt →bạt, guá → bụa, gả → bán. Vì vậy trong trường hợp này, quá trình đơn tiết hóa có thể diễn ra như sau: tiga → tiba → tba → ba.

Vậy là chúng ta đã đọc được cụm từ Kattigara, và đến đây thì ai cũng biết là cụm từ ấy có thể diễn giải theo nghĩa đen là Vùng đất Ba sông Cuộn lại, nói theo cách hiện đại là Thành phố Ngã ba sông, Thành phố Việt Trì. Còn trong lịch sử và tiềm thức thì người Việt vẫn coi đó là Kinh đô Phong Châu của nước Văn Lang, Kinh đô huyền thoại của các vua Hùng, của người Lạc Việt. Như thế có nghĩa là cái đặc trưng lớn nhất của vùng đất linh thiêng này là nơi hợp lưu của ba con sông, và ngay cả đặc trưng 北流 bắc lưu của Hắc Long – Đà Giang cũng đã được người xưa ghi nhận trong chính cái tên mà họ đã gọi nó. Tuy nhiên có một số vấn đề cơ bản về ngữ âm học lịch sử, danh pháp học lịch sử liên quan đến những từ cổ để gọi Kinh đô Phong Châu vẫn còn lại ở vùng này, đó là chữ Trì trong địa danh "Việt Trì". Chữ Việt thì mọi người đều có thể dễ dàng đồng ý là về sau người ta có thể dùng từ chữ Hán là 越 Việt trong cái tên quen thuộc Việt Nam. Nhưng còn chữ 池 Trì được ghép thành 越池 Việt Trì để giải thích là Ao Việt thì không có nhiều sức thuyết phục so với cả trường ý nghĩa rất sâu sắc gắn liền với Kinh đô Phong Châu huyền thoại của dân tộc. Chúng tôi chỉ tạm thấy yên tâm với chữ Trì khi mạo muội cho rằng đó có thể chính một mảnh ngữ âm còn rớt lại từ quá trình biến đổi nghĩa tiga thành ba, nhưng về phương diện ngữ âm thì lại vẫn lưu giữ một mối liên hệ ngầm theo con đường giữa tiga với ti, tli, để rồi cái mảnh ngọc nhỏ xíu quý báu đó đã ẩn mình sau tấm áo Hán 池 trì (ao);và một lần nữa lại long đong cùng các cố đạo Pháp, khi họ dùng chữ cái Latin để ghi âm tiếng Việt thì ti hoặc tli hoặc âm trì trong tiếng Hán của địa danh này đã chính thức trở thành chữ Trì trong hai chữ Việt Trì, vẫn được giải thích là Ao Việt.

Nhưng vẫn không hết băn khoăn, vì bên cạnh chữ Việt Trì, vẫn còn một chữ quen thuộc khác là Hạc Trì. Vậy thì Hạc là gì? Về phương diện thuần túy danh pháp thì có thể diễn giải Hạc Trì là Ao Hạc, nơi có nhiều hạc, sếu đến kiếm ăn. Trong thực tế có thể có chuyện đó, và đúng là có chuyện đó. Vào cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX, khi người viết bài này còn nhỏ, nhà bên dòng sông Lô, cách Việt Trì không bao xa, vào mùa thu chúng tôi vẫn thấy những đàn sếu, bồ nông chân dài, mỏ dài, sải cánh lớn bay về kiếm ăn bên dòng sông vẫn còn rất êm đềm, vắng vẻ. Vì vậy nếu hình dung khoảng hơn 2000 năm trước, cùng với quá trình biển thoái, cả một vùng đất ngập nước bao la, màu mỡ của Ngã ba sông hiện ra, thì đúng là nơi “đất lành chim đậu”. Bên cạnh đó, có thể còn những khả năng khác để diễn giải chữ 鶴 Hạc. Trước hết, trên các trống đồng Lạc Việt có hình khắc chim hạc, sếu. Vì vậy có thể hạc, sếu được sử dụng làm biểu tượng của cư dân Phong Châu nói riêng, làm biểu tượng của người ở nơi cao ráo, ít bị ngập úng, thuộc vùng đồi núi, vùng của mẹ Tiên, người ở trên núi Tiên, mà chữ trên trong tiếng Việt cổ có thể có nguồn gốc từ tlên, tliên, chiền, tiên vẫn còn có thể quan sát được. Ngoài ra cũng còn một cách khác để diễn giải chữ Hạc từ khả năng tương đồng âm giữa chữ Kat và chữ Hạc. Trong tiếng Trung Quốc phổ thông hiện đại, chữ Hạc được phát âm là hứa, khứa, còn những nhóm người khác nhau ở Đài Loan và Quảng Đông thì phát âm là hộc, hạc, hác, khác, khách không xa âm Kat trong tiếng Việt cổ.

Tuy nhiên tích truyện xưa lại lý giải cái tên Bạch Hạc với cây Chiên đàn “cao hàng nghìn nhẫn, tỏa ra một vừng rộng, che rợp như rừng, có đến hàng nghìn dặm, thường có đôi hạc đậu ở trên nên gọi là Bạch Hạc” [Vũ Quỳnh 1993: 95] thì rõ ràng có màu sắc Phật giáo. Trước hết là hình tượng cây Chiên đàn, 栴檀树 Chiên đàn thụ - là loại cây quý, màu vàng tro, tỏa hương thơm ngào ngạt, người xưa dùng để tạc tượng Phật. Theo Kinh Tăng nhất A hàm, quyển 28, trong thời gian đức Phật lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp độ mẫu thân, vua Ưu Điển (Udayana) không được đảnh lễ Ngài, nên sinh bệnh. Các quan lấy cây Chiên đàn tạc pho tượng Phật cao 5 thước, vua liền khỏi bệnh, và đó chính là pho tượng đầu tiên của Đức Phật tại Ấn Độ. Vì vậy hình tượng cây Chiên đàn tại Bạch Hạc chính là cây Chiên đàn trong tích truyện vua Ưu Điển. Cùng với hình tượng cây Chiên đàn thì hình tượng chim Bạch Hạc cũng chính là biểu tượng của Đức Phật. Kinh Đại Niết Bàn chép rằng khi đức Phật nhập niết bàn tại Sa La viên, cả rừng Sa La rủ bóng che chở Ngài, toàn bộ lá trong rừng đều biến thành màu trắng như ngàn cánh hạc trên kim thân đức Phật. Màu trắng là gốc của các màu thể hiện đức Phật nhập Niết Bàn là quay về với bản nguyên vô thủy, vô chung. Chính vì vậy các khu vườn của tăng đoàn sau này thường được gọi là Hạc lâm. Một phiên bản khác nói rằng khi đức Phật nhập Niết Bàn thì hai cây Sa La bên kim thân Ngài biến thành đôi hạc trắng, nên hai cây Sa La đó còn được gọi là Sa La Song thụ, hoặc có tên gọi khác là cây Hạc trắng. Ngoài ra sách Đại Nhật kinh sớ, quyển 3 còn nói ở Ấn Độ có loại chim Sarasa, giống như chim uyên ương, nhưng lớn hơn đôi chút, tiếng hót rất thanh nhã, loài chim này không có ở Trung Quốc, sách Tuệ Lâm Âm nghĩa dịch là Cộng hành điểu, còn gọi là Bạch Hạc – tượng trưng cho Phật tính.

Vậy là dù có những phiên bản khác nhau, nhưng tất cả các hình tượng trên đều là biểu tượng của đạo Phật, của sự quay về với cái bản nguyên của con người. Tuy nhiên trong trường hợp Bạch Hạc, chắc chắn tác giả của tích truyện còn muốn sử dụng hình tượng của Phật giáo để gửi gắm tâm sự và niềm tin của người dân đất Việt vào nơi gốc tổ, coi đó không chỉ là bản nguyên của mỗi cá nhân, gia đình, mà còn là bản nguyên, là nguồn sức mạnh vô song của cộng đồng, và của cả dân tộc. Đặc biệt là khi đất nước gặp nguy nan như khi kẻ thù phương Bắc xâm lược, hoặc gặp thời tao loạn, người con dân Lạc Việt luôn luôn quay trở về tìm lại nguồn sức mạnh vô tận từ gốc tổ, từ bản nguyên, để hồi sinh, lớn mạnh, và chiến thắng.

Vài lời cuối bài viết

Hai nghìn năm là một quãng đường dài, nhiều hiện thực lịch sử đã trở thành ký ức, nhiều ký ức đã trở thành huyền thoại, và đến lượt mình nhiều huyền thoại đối với nhiều người chỉ còn thuần túy là huyền thoại. Có thể Hạc Thành - Phong Châu không ở trong trường hợp đó, nhưng với nhiều người, thật không dễ để nhìn thấy nó như một hiện thực sống động. Trong bối cảnh đó Kattigara - Kinh đô Ba con sông - Hạc Thành, giống như một cuốn phim, không phải ngẫu nhiên đã được Marinus, Ptolemy và những bộ óc vĩ đại khác của thế giới Hy - La ghi lại như để dành tặng riêng cho người Việt. Không phải ngẫu nhiên, vì chính bản thân Lạc Việt - Phong Châu - Kinh đô Ba con sông - Hạc Thành đã một thời tỏa rạng bên bờ biển Đông. Cái thời đó tưởng đã lùi xa, tưởng đã bị vùi lấp trong thẳm sâu quá khứ, nhưng giống hệt một chân lý, và đó chính là chân lý - những gì là giá trị thực thì sẽ vĩnh viễn tồn tại cùng con người. Kattigara là một chân lý như vậy. Tôi hình dung một ngày không xa Việt Trì - Phong Châu - Hạc Thành sẽ có một công viên, một con đường, một nhà hát, một bảo tàng, một đại học mang lại cái tên đầy âm hưởng xưa: Kattigara của những thế hệ tổ tiên vĩ đại. Ở đó bên cạnh bố Rồng, mẹ Tiên, các vua Hùng và các tiên hiền Lạc Việt, còn có những bức tượng của Alexandros, Titanus, Marinus, Ptolemy, Columbus, Magellan và nhiều vĩ nhân khác nữa - những con người đã chót bén duyên Lạc Việt. Và tương lai sẽ có những tuyến hải hành quay trở lại con đường cổ, từ Kattigara - Phong Châu - Hạc Thành tỏa đến Alexandria, Châu Phi, Châu Mỹ để tưởng nhớ những bước chân các vĩ nhân xưa trên con đường đi tìm một Kattigara huyền thoại nay đã trở về cùng hiện thực.

Tài liệu tham khảo

Alphonse, Jean 1904. La Cosmographie, 1544 ff.150r and 151rv, in Georges Musset (ed.), Recueil de Voyages et de Documents pour servir a l'Histoire de la Geographie, XX, Paris, 1904, pp.398 and 401-2. Anderbeck, Karl Ronald 2008. Malay Dialects of the Batanghari River Basin (Jambi, Sumatra). SIL International Library of Congress Catalog. Bình Nguyên Lộc 1971-2007. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Chương V: Dấu vết Mã Lai trong xã hội Việt Nam ngày nay. Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn 1971. Bản điện tử do talawas thực hiện ngày 13/10/2007. Bridges R. C. & P. E. H. Hair (eds) 1996. Compassing the Vaste Globe of the Earth, Studies in the History of the Hakluyt Society, London. Broorstin, Daniel J. 1983. A History of Man's Search to Know His World and Himself. Random House, Inc.,United States of America.

Cary, Max 1956. Maes, Qui et Titianus. In The Classical Quarterly, New Series, 6.3/4 (July–October 1956), pp. 130–134. Caverhill, John 1767. Some Attempts to ascertain the utmost Extent of the Knowledge of the Ancients in the East Indies. In Proceedings of the Royal Society of London; Philosophical Transactions, vol.57, 1767, pp.155-174. Publisher: Royal Society of London. Chakravarti Adhir K. 1972. Early Sino-Indian Maritime Trade and Fu-Nan, D.C. Sircar (ed.), Early Indian Trade and Industry, Calcutta, University of Calcutta Centre of Advanced Study in Ancient Indian History and Culture,Lectures and Seminars, no.VIII-A, part I, 1972, pp.101-117. Coote C.H. 1898. Autotype Facsimiles of Three Mappemondes, Aberdeen, 1898.

D'Anville 1810. Sinae - Compendium of Ancient Geography. In The Royal Academy of Inscription and bells lettres at Paris. Translated from the French. Vol. II, London.

Dreyer J.L.E. 1953. A History of Astronomy from Thales to Kepler. 2nd edition. New York: Dover Publications. Đào Duy Anh 1997. Đất nước Việt Nam qua các đời – Nghiên cứu Địa lý học lịch sử Việt Nam. In lần thứ hai, Nxb. Thuận Hóa – Huế. Tp. Huế, Thừa Thiên Huế.

El-Abbadi, Mostafa 1992. Life and fate of the ancient Library of Alexandria (2nd edition). Paris: UNESCO. Erksine A. 1995. Culture and Power in Ptolemaic Egypt: The Museum and Library of Alexandria. Greece & Rome, 2nd ser., 42(1), 38-48. Evans, James 1998. The History and Practice of Ancient Astronomy. New York: Oxford University Press.

Ferra M.J. 2010. The maps of Claudius Ptolemy explained with a resolution of the place names including Cattigara. India Intra et Extra Ganggem – Sinea and Taprobane.http://www.cartographyunchained.com/cartographicalabstracts.html

Foster, William 1946. The Hakluyt Society, a Retrospect 1846–1946. In Edward Lynam (ed.), Richard Hakluyt & his Successors, A Volume issued to commemorate the Centenary of the Hakluyt Society, London, 1946

Griffin, Miriam T. 1976. Seneca: A Philosopher in Politics, Oxford 1976. 34.

Harrisse, Henry 1961. The Discovery of North America, London, 1892 (reprinted Amsterdam, N. Israel, 1961), p.583.

Heath, Thomas 1913. Aristarchus of Samos. Oxford: Clarendon Press, 1913.

Herrmann, Albert 1938. Der Magnus Sinus und Cattigara nach Ptolemaus. Compte-rendu du Congrès international de géographie (Amsterdam).

Hirth F. 1885. China and the Roma Orient, Text p. 42, and commentary, pp. 173-178. Shanghai & Hong Kong, 1885.

Institute on the Far East Works 1915. Note II. Extracts from the Geography of Ptolemy. Vol. I. Second Series No. XXXVII. Issued for 1915 by Society Cathay and the Way thither 1915. Liberary of Wellesley College Presented by Institute on the Far East Works, (Ptolemy K. 1915).

Laffan, Michael 2005. Finding Java: Muslim nomenclature of insular Southeast Asia from Śrîvijaya to Snouck Hurgronje. Asia Research Institute, Working Paper Series No. 52. Princeton University.

Lịch Đạo Nguyên (chú), Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh (sớ), Đoàn Hy Trọng (điểm hiệu), Trần Kiều Dịch (phúc hiệu) 2005. Thủy Kinh chú sớ. Nxb. Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, (Bản dịch của Nguyễn Bá Mão).

Malleret L. 1951. Les fouilles d’Oc-Eo (1944). Rapport préliminaire, BEFEO 1951, tr. 75-88.

Malleret L. 1962. L’Archéologie du delta du Mékong, Tome Troisiéme, La culture du Fu-nan, Paris, 1962, chap.XXV, “Oc-Èo et Kattigara”, pp.421-54.

McCrindle J.W. 1885-1974. Ancient India as described by Ptolemy, London, Trubner, 1885, New Delhi, Today & Tomorrow's Printers & Publishers, 1974.

Millares A. Carlo (ed.) 1951. Columbus' letter of credence. In Historia de las Indiaspor Fray BartOlome de las Casas, Mexico, Fondo de Cultura Economica, 1951, Lib.2, cap.iv, pp.219-20.

National Library of Australia 2010. Digital Collections – Maps – A Map of the World 1506.. http//:nla.gov.au/nla.map-f887

Nunn, George E. 1927. The Lost Globe Gores of Johann SchOner, 1523-1524. The Geographical Review, vol.17, no.3, July 1927, pp.476-480.

Nunn, George E. 1932. The Columbus and Magellan Concepts of South American Geography. Glenside, the author, 1932, pp.12-13 & 49-51.

Nunn, George E. 1992. The Three Maplets attributed to Bartholomew Columbus. Imago Mundi, vol.9, 1952, 12-22, p.15

Peillard, Leonce 1984. Antonio Pigafetta, Relation du Premier Voyage autour du Monde par Magellan, Paris, Tallandier.

Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987. Trống Đông Sơn. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991. Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp.

Priaulx, Osmond de Beauvoir 1873. Indian Embassies to Rome(J.R.A.S. xix.294) (bound with Apollonius of Tyana), London.

Ptolemy K. 1885. Ancient India as described by Ptolemy. Translated by J.W. McCrindle, Publisher: Trübner.

Rawlinson, H. G. 1916. Intercourse between India and the Western World from the Earliest Times to the Fall of Rome. Cambridge : University Press, 1916. - vi, [2].

Reinaud M. 1863. Relations Politiques et Commerciales de l’Empire Romain avec l’Asie Oriental. L’hyrcanie, L’Inde, La Bactriane et La Chine p. 184, Paris.

Richthofen, von Ferdinand 1877-1912. China, Ergebnisse eigner Reisen und darauf gegründeter Studien (China: The results of my travels and the studies based thereon, 1877-1912, 5 vols. and atlas).

Riley T. M. 1995. Ptolemy’Use of his Predecessors’ Data. Transactions of the American Philosophical Association 125 (1995) 221 – 225, California State University, Sacramento.

Sarkar H.B. 1981. A geographical introduction to South-East Asia: The Indian perspective. Bijdragen tot de Taal-, Land- en Volkenkunde (hereafter BKI) 137-2/3 (1981): 293-323.

Schilder G. 1976. Australia Unveiled, Amsterdam, Theatrum Orbis Terrarum.

Schoener, J. 1961. Opusculum Geographicum, Norimberga, [1533], cap.xx; quoted in James R. McClymont The Theory of an Antipodal Southern Continent during the Sixteenth Century, Report of the Fourth Meeting of the Australasian Association for the Advancement of Science, Hobart, January 1892, Hobart, the Association, 1893, p.455; (reprinted Amsterdam, N. Israel, 1961), pp.525-6.

Serrano C. S. (ed.) 1954-1955. Obras de Martin Fernandez de Navarrete. Madrid, 1954-55, vol.1, pp.223-5.

Smith R.B. 1979. Check list of “Heger type I” Bronze drums from South East Asia. ESA. New York-Kualalumpur.

Sorensen P. 1979. The Ongbah Cave and Its fifth drum. EAS. New York-Kualalumpur.

Suarez, Thomas 1999. Early Mapping of Southeast Asia, Hong Kong, Periplus, 1999, p.92.

Stein R. A. 1907. Ancient Khotan - Detailed Report of Archaeological Explorations in Chinese Turkestan Carried out and Described under the Orders of H.M. Indian Government. Indian Educational Service. Vol.II, Oxford at the Clarendon Press. London, Edinburgh, New York and Toronto.

Stein R. A., A. Herrmann 1940. Das Land der Seide und Tibet im Lichte der Antike, BFEO 1940, No.2, tr. 456-460.

Strabo 1917-1932. The Geography of Strabo. Loeb Classical Library, 8 volumes, Greek texts with facing English translation by H. L. Jones: Harvard University Press, 1917 thru 1932.

Tarn, W.W. 1928. Ptolemy II. The Journal of Egyptian Archaeology, 14(3/4).

Trần Trí Dõi 2008. Tên gọi của sông Hồng: Dấu tích biểu hiện nét đa dạng văn hóa trong lịch sử người Việt. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba. Hà Nội 4-7 tháng 12 năm 2008.

Trần Văn Giàu 1961. Giai cấp công nhân Việt Nam - Sự hình thành và phát triển của nó từ giai cấp “tự mình„ đến giai cấp “cho mình„. Nxb. Sự thật, Hà Nội.

Trinh Sinh 1988. A comment on the bronze drums dícovered in Thailand. Comparative Thai-Vietnamese Archaeoloy: Culture in Metal Age. Bangkok.

Trịnh Sinh 1997. Nhân chiếc trống đồng Đông Sơn mới tìm được ở Triết Giang, Trung Quốc. Tạp chí Khảo cổ học, số 3 năm 1997.

Varela, Consuelo (ed) 1992. Lettera Rarissima, Jamaica, 7 July 1503, in Cristobal Colon: Textosy Documentos Completos, Madrid, Alianza Editorial, 1992, p.48.

Vespucci A. 1500-1944-1999. Amerigo Vespucci to Lorenzo de'Medici, Seville, 18 July 1500; quoted in Frederick J. Pohl, Amerigo Vespucci: Pilot Major, New York, Columbia U.P., 1944, p.77; Early Modern Literary Studies, vol.5, no.2, September 1999.

Vũ Quỳnh 1993. Tân đính Lĩnh Nam Chích quái. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Wade, Geoff 2009. The Polity of Yelang (夜郎) and the Origins of the Name ‘China’. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, Sino-Platonic Papers, 188 (May 2009).

Wallis, Helen 1992. What Columbus Knew. History Today, vol.42, May 1992.

Wieder F.C. (ed.) 1925. Monumenta Cartographica, The Hague, Martinus Nijhoff, 1925, Vol.I, pp.1-4, The Globe of Johannes SchOner, 1523-1524, and Plates 1-3.

Yule, H. 1882. Notes on the oldest records of the sea route to China from Western Asia. Proceedings of the Royal Geographical Society IV: 658-9. London.

Chú thích của tác giả

[1] Với vốn Phạn ngữ nghèo nàn của mình, nhân tiện trò chơi ngôn ngữ của Giáo sư Chakravarti, tôi cũng xin mạo muội vui đùa tạo ra những từ tiếng Phạn dù có thể hơi ngớ ngẩn, nhưng còn gần gũi với Kattigara hơn là hai từ của ông. Chẳng hạnकटी-गिरा(Kattigira) = Bị bổ vỡ-Bị sụp đổ (hú vía! gira chứ không phải là gara - nagara); कोटि-गिरा (Kottigira) = Cường thịnh Sụp đổ (rủi là gira chứ không phải là gara - nagara); कटी-गेरा(Kattigera) = Bị bổ vỡ - Khu vực (may là gera chứ không phải là gara - nagara); còn từ कोटि-गेराKottigera = Khu vực Cường thịnh, thì nghĩa rất hay, nhưng chỉ có điều trớ trêu là cái từ này dường như vừa may (vì Kot = cường thịnh), lại vừa rủi (vì chỉ có Kot chứ không có Kat như trong nguyên văn Kattigara !).

[2] Về điều này thì Bình Nguyên Lộc đã nhầm lẫn, vì Ptolemy chưa bao giờ đến Kattigara. Còn nếu ông, với tư cách là một nhà địa lý vĩ đại, chuyên đo đạc, tính toán, và xây dựng tọa độ địa lý cho cả địa cầu mà đã đến Kattigara rồi thì hậu thế sẽ không bao giờ phải bận tâm đến việc đi tìm Kattigara như bây giờ nữa.

[3] Nguyên văn các đoạn bằng tiếng Hy Lạp của Ptolemy đều có hai phụ âm [t] ở chữ Kattigara in đậm dưới đây:

Φησι δε Αλεξανδρον αναγράφεται την γλω εντεύθεν εναντιαν ειναι τη μεσημβρίαν, και τους πλέονταςπαρ αιτην εν ημεραις εικοσι κατα λαμβανσιν πολυ Ζαβας. Απο δε των Ζαβων προς νοτου διαπλευσαντας, και μαλλον εις τα ευωνυμα ημερας τινας, εκδεχεδαι τα Καττιγαρα. [Ptol. Geograph. l.i.c. 17. Paris, 1546, Lib. i, c. 14.].

Dịch nghĩa:

Tuy nhiên Alexander thông báo rằng vùng đất từ đó choãi về phía bắc của tuyến hải hành; và những người bơi dọc theo bờ biển đó đến thành Zaba mất hai mươi ngày; từ Zaba bơi về phía nam, và cần nhất là sau đó rẽ về bên trái, mất vài ngày thì đến Kattigara.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Điều chỉnh lại:

Phân tích của tác gia Kinh Định cho ta biết chính là Minh đô nhằm đối ứng với U đô: tác gia Kinh Thư là người Việt - Việt nhược kê cổ (người Việt kể lại tích xưa): điểm thiếu cũng chính là nhấn mạnh nhằm giải thích kinh đô thời vua Đế Minh (Huyền Đế - một trong Ngũ Đế) nằm ở phương Bắc. Theo truyện Hồng Bàng Thị, Đế Minh tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh gặp người con gái tên là Vụ Tiên rồi lấy làm vợ, sinh ra Lộc Tục tức Kinh Dương Vương. Đế Minh chia đôi nước, giao Đế Nghi làm vua phương Bắc và Lộc Tục làm vua phương Nam. Cũng theo cuốn Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu, tác giả Nguyễn Bá Trạc vua Kinh Dương Vương chính thức lên ngôi vua phương Nam vào năm 2879 tr.CN, tương đương với thời vua Đế Nghi năm thứ 6, điều này giúp chúng ta hiểu rằng khi trước khi vua Kinh Dương Vương lên ngôi, thì vua Đế Minh đã ở lại phương Nam trợ giúp việc triều chính cho ngài trong vòng 6 năm, sau đó mới chính thức lên ngôi. Đồng thời, sự kiện vua Đế Minh tuần thú phương Nam chứng tỏ thời vua Đế Minh đóng đô ở phương Bắc tức U đô, như vậy Minh đô ở phương Nam là ẩn ý nói về kinh đô của vua Kinh Dương Vương mà tác giả cuốn Kinh Thư đã gửi gắm và làm mật hiệu. Tuy nhiên, chúng ta chú ý họ nội của các vua Hùng là ở phương Bắc, còn họ họ ngoại lại ở phương Nam.

Không chỉ vậy, qua đó chúng ta còn được biết rằng vua Đế Nghi lên ngôi vào năm (2879+6)=2885 tr.CN và khả năng chính là năm lập lời thề tại núi Thiên Đàn , tỉnh Hồ Nam.

Share this post


Link to post
Share on other sites

TRUYỆN CHIM BẠCH TRĨ Về đời vua Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là họ Việt Thường đem chim bạch trĩ sang tiến cống. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu Công phải sai sứ qua nhiều lần dịch mới hiểu nhau được. Chu Công hỏi: "Tại sao tới đây?". Họ Việt Thường đáp: "Đời nay không có mưa dầm gió dữ, ngoài bể không nổi sóng lớn đã ba năm nay, ý chừng là Trung Quốc có thánh nhân xuất thế, nhân vậy tới đây". Chu Công than rằng: "Chính lệnh không thi hành thì người quân tử không bắt được kẻ khác thuần phục mình, đức trạch không mở rộng thì người quân tử không hưởng lễ của người. Còn nhớ Hoàng Đế có câu thề rằng:

"Phương Việt Thường không thể xâm phạm được". Bèn ban thưởng cho phẩm vật địa phương, dạy răn mà cho về. Họ Việt Thường quên đường về, Chu Công bèn ban cho 5 cỗ biền xa đều chế cho hướng về phương Nam. Họ Việt Thường nhận lấy rồi theo bờ biển Phù Nam, Lâm ấp đi một năm thì về tới nước. Cho nên, xe chỉ nam thường dùng để đi trước đưa đường. Về sau, Khổng Tử viết kinh Xuân Thu cho nước Văn Lang là một nơi hoang vu, văn vật chưa có bèn bỏ trống mà không chép. Theo bản cũ chép thì Chu Công có hỏi: "Người Giao chỉ cắt tóc ngắn, xăm mình, để đầu trần, đi chân đất, nhuộm răng đen là cớ làm sao?".

Đáp: "Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng rú. Xăm mình để giống hình Long Quân bơi lội dưới sông loài giao long không phạm tới. Đi chân đất để tiện leo cây. Cày bằng dao, trồng bằng lửa. Để đầu trần để tránh lửa bén. n trầu cau để trừ uế cho nên răng đen vậy".

Trong truyện Bạch trĩ, sự kiện sứ giả sang Trung Hoa (cực Bắc) nhưng khi về bằng xe có gắn kim chỉ nam nhưng không biết tại sao lại bị lạc... tới Phù Nam và Lâm Ấp ở tận cực Nam của Văn Lang? - Đây chính là mật ngữ của tác giả viết trong Lĩnh Nam Chích quái về các Bộ của Văng Lang bao gồm cả Phù Nam (bao gồm Campuchia), Lâm Ấp.

Truyện Mộc Tinh: liên quan đến vua Kinh Dương Vương, cây chiên đàn chỉ có ở Ấn Độ (nước Mi Hầu) ứng phương Tây Nam nếu lấy kinh đô Thăng Long làm tâm chuẩn (Giao chỉ).

Hoàng đế - tức Đế Minh.

Các bộ của Văn Lang cần phân tích:

1. Triết Giang

2. Giang Tây

3. Hồ Nam

4. Quảng Đông (gồm các đảo)

5. Quảng Tây

6. Quý Châu

7. Vân Nam

8. Phong Châu (Bắc Bộ Việt Nam) - Kinh đô Long Biên tên gọi Bạch Long Thành hay Bạch Thành.

9. Lào

10. Lâm Ấp (Chămpa)

11. Phù Nam (gồm Campuchia)

12. Thái Lan

13. Indonexia

14. Myama

15. Philipin và hải đảo

Tiếp giáp Ấn Độ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Dạ Xoa

Posted ImageĐiêu khắc trên đài thờ Trà Kiệu

Thời thượng cổ, ở ngoài nước Nam Việt Âu Lạc có nước Diệu Nghiêm, vua nước ấy hiệu là Dạ Xoa (còn có tên là Trường Minh Vương và Thập đầu Vương). Phía bắc nước ấy giáp nước Hồ Tôn Tinh, thái tử nước Hồ Tôn Tinh tên là Vi Tư (1), có người vợ tên là Bạch Tịnh, nhan sắc tuyệt trần, trên đời ít ai có được. Vua Dạ Xoa nghe tin rất thích, bèn đem quân vây đánh nước Hồ Tôn Tinh, cướp được nàng Bạch Tịnh đem về nước. Vi Tư cả giận , liền đem quân khỉ (di hầu) phá núi lấp biển thành ra đất bằng, đánh phá nước Diệu Nghiêm, giết vua Dạ Xoa, rồi đem nàng Bạch Tịnh về nước

(Hồ Tôn Tinh là loài khỉ (di hầu) tinh, nay là nước Chiêm Thành): Câu này là câu bình.

Chú thích:

1) Bản A 2914 chép là Trưng Tư (Dịch giả: chữ Hán Vi và Trưng rất dễ bị nhầm).

(Nguyễn Hữu Vinh dịch)

Bình:

Posted ImageĐiêu khắc quân khỉ ở chùm tháp Khương Mỹ

• Đây rất rõ là truyện tóm tắt của Trường ca Ramayana của Ấn giáo, là một phần chính của văn hóa Chiêm Thành, trở thành một phần của văn hóa Việt Nam qua đồng bào Chăm.

Ramayana là một trường ca dài 24.000 nghìn câu, chia thành 500 chương, chứa trong 7 quyển, có lẽ ra đời khoảng thế kỷ thứ 8 trước công nguyên. Đây là một câu truyện giáo lý, cùng với trường ca Mahābhārata, thành 2 truyện giáo l‎ý lớn trong Ấn giáo, dạy con người cách sống đúng, cũng như giải thích giáo pháp cho mọi người.

Nhân vật chính là hoàng tử Rama, hiện thân của thần Vishnu tái sinh lần thứ 7. Ayana trong tiếng Sankrist là “đi, tiến tới”. Ramayana vì vậy là “Cuộc hành trình của Rama”.

Vợ của Rama là công chúa Sita, hiện thân tái sinh của thần Lakshmi, một trong những người vợ của thần Vishnu. Sita là biểu tượng của sự tinh khiết và đức hạnh của phụ nữ. Trong truyện Việt có tên là Bạch Tịnh – trắng và trong sạch.

Sita bị Ravana, là một quỷ Rakshasa, bắt cóc. Có lẽ chữ “quỷ dạ xoa” đến từ chữ “quỷ Rakshasa.” Ravana là vua của nước Lanka.

Rama đi cứu vợ, gặp khỉ tướng Hanuman, làm bạn, và do đó giúp khỉ vương Sugriva lấy lại ngai vàng. Để trả ơn Sugriva cho Hanuman và các quân khỉ giúp Rama đi đánh vua quỷ Ravana, giải thoát vợ.

• Trong các di tích khảo cổ của văn hóa Chăm có khá nhiều các hình ảnh khỉ, như Đài thờ Trà Kiệu, khai quật năm 1901, và các phát hiện mới đây của khu tháp ở Khương Mỹ, Quảng Nam.

(Trần Đình Hoành bình)

Theo nhận xét của Huber trong La Légende du Ramayana en Annam, Etudes indochinoises thì Hồ Tôn Tinh có thể là vương quốc Chăm Pa cổ. Những quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ thời đó đều có sự tích giống nhau, tại Indonesia trong các đền thờ đạo Bà-la-môn lớn đều khắc truyện thần thoại này trên tường đá. Chuyện Quỷ Vương có mười đầu có lẽ chỉ là cách miêu tả thô thiển ngai vàng của các vị vua trong thần thoại Ấn ĐộPhù Nam thường có hình rắn hổ mang (naja) mười đầu.

Đúng là trường ca Ramayana thế kỷ thứ III trước Công nguyên nhưng ẩn ý câu chuyện lại khác. Nước Hồ Tôn chính là Ấn Độ, vậy thì chính sử của các nước Đông Nam Á có nói gì liên quan đến Văn Lang???

Các câu chuyện có liên quan đến Hồ Tôn: Bạch Trĩ - Mộc Tinh - Dạ Xoa vương.

Cuộc đời của đức Phật:Như chúng ta đều biết, đức Phật xuất thân là một vị Đông cung Thái tử, sống trong nhung lụa với tất cả những tiện nghi của một vị Hoàng đế. Nhưng Ngài không đành lòng hưởng thụ riêng cho mình nên đã từ bỏ tất cả, vượt thành xuất gia để tìm đường giải thoát cho bản thân và nhân loại.

Theo lịch sử vào ngày trăng tròn tháng tư tính theo âm lịch của chúng ta, nhưng theo Ấn Độ thì ngày trăng tròn tháng năm vào năm 543 trước Công Nguyên, tại thành Ca Tỳ La Vệ, trong vườn Lâm Tỳ Ni, Thái tử Tất Đạt Đa ra đời. Cha Ngài là vua Tịnh Phạn thuộc dòng quý tộc Thích Ca, mẹ là Hoàng hậu Ma Da. Sau khi sanh Ngài được bảy ngày thì Hoàng hậu Ma Da qua đời. Người em gái của bà là Ma Ha Ba Xà Ba Đề, tức bà Kiều Đàm Di nuôi dưỡng Ngài. Thái tử được nuôi dưỡng cưng chiều với tất cả tiện nghi cao nhất của một ông hoàng.

Một hôm nhân ngày đầu vụ mùa, vua quan đến vùng nông thôn làm lễ, cày những luống cày đầu tiên với ước nguyện nông dân được trúng vụ mùa, thu hoạch nhiều, đem lại no ấm cho toàn dân. Ngày này gọi là ngày lễ hạ điền. Thái tử Tất Đạt Đa cũng được theo vua cha đến dự lễ hạ điền. Lễ rất vui, mọi người ăn mặc đẹp đẽ, sang trọng. Các nông dân theo nghi thức của nhà nước đến đó dâng lễ đối với các bậc thần thánh tổ quốc và sau đó chuẩn bị cày những luống cày đầu tiên dưới sự chứng kiến của vua, các vị đại thần. Đây là ngày lễ hội rất lớn đối với toàn dân Ấn Độ thời bấy giờ.

Trong lúc mọi người đang nô đùa mừng lễ, Thái tử cũng rất vui nhưng khi thấy từng luống cày, từng thớ đất lật lên có những con trùng, con dế bị đứt làm hai làm ba, liền đó các loài chim ở rừng bay đến, giành nhau nuốt những con vật nhỏ kia. Rồi người thợ săn rình rập đâu đó, lắp cung tên sẵn sàng hạ thủ mấy con chim. Đồng thời trong khu rừng, những con hổ chực chờ để vồ lấy gã thợ săn. Thấy cả một chuỗi tranh giành, cấu xé của chúng sanh, Thái tử quá đau lòng nên sắc diện trở nên trầm tư buồn bã. Thành ra, thay vì dự lễ vui tươi như bao người thì Thái tử lại tìm một nơi yên lắng, ngồi suy tư bất động dưới bóng cây.

Share this post


Link to post
Share on other sites

5/Hanuman.

Là con khỉ trung thành phụ giúp Rama trong cuộc tìm kiếm nàng Sita. Hanuman được tôn thờ khá phổ biến đối với những người Ấn giáo thuộc Nam Á châu. Trong Ramayana có kể về chuyện Hanuman trở thành khỉ chúa và dẫn đàn khỉ đi tìm ở khắp Ấn Độ khi nàng Sita bị bắt cóc. Sau cùng nó đã tìm thấy nàng trong một khu rừng của quỷ vương Ravana ở Tích Lan. Qua bao cuộc chiến đấu và mưu mô, Hanuman đã cứu được công chúa Sita cho chủ mình. Bất cứ thân tướng gì mà Hanuman hiện ra, người ta đều dễ dàng nhận được vì Hanuman thường được tô điểm với màu đỏ.

Posted Image

Năm 1972, tên chính thức của đất nước được đổi thành "Cộng hòa Sri Lanka Tự do, Chủ quyềnĐộc lập " (ශ්‍රී ලංකා śrī lankā trong ngôn ngữ Sinhala (trong khi chính hòa đảo này tự gọi mình là ලංකාව lankāva), இலங்கை ilaṅkai trong tiếng Tamil). Năm 1978 nó được đổi thành "Cộng hòa Sri Lanka xã hội chủ nghĩa dân chủ". Trước năm 1972, Sri Lanka được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau: các nhà địa lý học Hy Lạp cổ đại gọi nó là Taprobane, người Ả rập gọi là Serendib, Ceilão là tên chính thức do người Bồ Đào Nha đặt khi họ tới hòn đảo này, nhưng có lẽ tên nổi tiếng nhất là Ceylon. "Sri Lanka" (nguyên gốc từ tiếng Phạn) được dịch thành "Lanka đáng kính", "śrī" nghĩa là "đáng kính trọng" và "laṃkā" là tên cổ của hòn đảo đã được kiểm chứng trong cuốn Mahabharata và sử thi Ramayana.

Những cư dân đầu tiên trên hòn đảo Sri Lanka ngày nay có thể là tổ tiên của người Wanniyala-Aetto, cũng được gọi là Veddahs với dân số khoảng 3.000 người. Phân tích ngữ âm cho thấy có sự tương quan giữa ngôn ngữ Sinhalese và các ngôn ngữ SindhGujarat, dù đa số các nhà sử học tin rằng cộng đồng Sinhala đã xuất hiện sau sự đồng hóa nhiều nhóm dân tộc khác. Người Dravidian có thể đã bắt đầu di cư tới hòn đảo này từ thời tiền sử. Một số điểm khảo cổ học đáng chú ý, gồm cả tàn tích Sigiriya, được gọi là "Pháo đài trên bầu trời", và các công trình công cộng lớn có từ thời cổ đại. Trong số những công trình công cộng đó có những "bể nước" hay hồ chứa nước lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc tích trữ nước cho mùa khô, và các hệ thống cống dẫn nước tinh vi, với độ nghiêng được xác định chỉ là một inch trên mỗi dặm. Sri Lanka cổ đại cũng là một trong những đất nước đầu tiên trên thế giới đã thành lập một bệnh viện chuyên môn tại Mihintale từ thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên. Sri Lanka cổ đại cũng là nhà xuất khẩu quế hàng đầu thế giới, quế đã được xuất khẩu sang Ai Cập ngay từ năm 1.400 trước Công Nguyên. Sri Lanka cũng là nước Châu Á đầu tiên có vua cai trị là nữ giới, Nữ hoàng Anula (4742 TCN).

Sri Lanka cổ đại nằm dưới quyền quản lý của nhiều tiểu quốc, chia thành nhiều vùng khác nhau. Hòn đảo này thỉnh thoảng cũng phải chống trả các cuộc xâm lược từ phía các vương triều Nam Ấn và nhiều phần của nó cũng phải trải qua các giai đoạn cai trị của triều đại Chola, triều đại Pandya, triều đại Cheratriều đại Pallava. Sri Lanka cũng từng bị các vương quốc Kalinga (Orissa hiện đại) và các vương quốc từ Bán đảo Malay xâm chiếm. Phật giáo từ Ấn Độ được Tỳ kheo Mahinda, con trai của hoàng đế Maurya Ashoka, đưa tới đây từ thế kỷ thứ 3 TCN. Phái đoàn của Mahinda đã chiếm được lòng tin của vua Singhalese là Devanampiyatissa xứ Mihintale, vị vua quyết định theo tôn giáo mới và truyền bá nó trong khắp dân cư Sinhalese. Các vương quốc Phật giáo tại Sri Lanka xây dựng một số lượng lớn các trường Phật học và đền chùa, và hỗ trợ việc truyền bá đạo Phật vào vùng Đông Nam Á.

Thật độc đáo:

Truyện Dạ Xoa Vương nói về Ấn Độ và Sri Lanka, Ấn Độ phía Ba8`c so với Sri Lanka: chính thức khẳng định Ấn Độ là Hồ Tôn Tinh thông qua ẩn nghĩa Thần khỉ Hanuman.

Chúng ta sẽ phải giải quyết mối quan hệ các nước mà trước đây thuộc Văn Lang qua văn hóa và lịch sử.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nam Triệu và Nam Chiếu

Wednesday, January 23, 2013 11:38:15 PM

Nguồn cội

Trong Lĩnh Nam chích quái có một câu chuyện rất thật, không có chút huyền thoại hay “chích quái” nào nhưng lại khó hiểu nhất vì chẳng hề ăn khớp tí gì với chính sử. Đó là Truyện Nam Chiếu. Nay xin “đọc lại” câu chuyện này, không cần phải “giải mã” gì, chỉ cần đối chiếu với những gì đã và đang biết về lịch sử bị lãng quên của miền Tây và Nam nước ta.

Câu đầu tiên của Truyện Nam Chiếu khẳng định: “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”. Câu khẳng định này đúng là đánh đố người đọc ngày nay. Nam Chiếu được coi là quốc gia của người Di Bạch vùng Vân Nam, sao lại là con cháu Triệu Đà được? Nhưng đích thực, câu mở đầu này đã xác định nước “Nam Chiếu” thực chất là ở đâu.

Triệu Vũ Đế dựng nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung – Quảng Đông. Thành phần dân tộc chính vùng này là nhóm người Tày Thái. Nam Chiếu là con cháu Triệu Đà, tức là một quốc gia người Thái. Lịch sử Nam Chiếu cho biết quốc gia người Thái này đã từng trải rộng trên đất Tây Bắc Việt Nam, Lào và Bắc Thái Lan.

Nước Nam Chiếu ở trong truyện không phải mới bắt đầu vào thời Đường như nước Nam Chiếu theo chính sử ở Vân Nam, mà có gốc gác từ thời Tây Hán. Khi Lộ Bác Đức tấn công Nam Việt thì “Con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn, là những xứ vắng vẻ không người. Khi bộ hạ đông đúc họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bể đột nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu”.

Đất Hoành Sơn mà ở gần cửa Thần Phù thì là đèo Ngang giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, chứ không phải Hoành Sơn ở Quảng Bình. Con cháu họ Triệu như vậy trở về vùng Ái Châu tụ tập.

Đoạn ghi chép trên rất giống với chuyện… Man vương Mạnh Hoạch chống lại các vị quan họ Chu của nhà Đông Hán trong thần tích làng Hương Ngải - Sơn Tây. Mạnh Hoạch hoạt động cả một dải từ Hưng Hóa tới Ái Châu, làm quan cai trị ở Giao Châu lúc đó phải lao đao… Nam Triệu như vậy là tên gọi nước của Mạnh Hoạch từ thời Đông Hán, là vùng đất phía Tây Giao Chỉ.

Tiếp theo, “Đến đời Ngô, Tôn Quyền sai Đái Lương, Lữ Đại làm thú mục để đánh dẹp. Quân Nam Chiếu ở cả một vùng từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở, không có một vết chân người. Quân Nam Chiếu ở đấy thường lấy việc cướp bóc để sinh sống, đánh giết thú mục, không thể ngăn cản nổi.

Đây cũng là thành tích của Mạnh Hoạch khi phần đất phía Đông Giao Chỉ được Sĩ Nhiếp Ngạn Uy dâng cho Ngô Tôn Quyền. Đoạn trên cho biết một loạt các địa danh “từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, Ô Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi”. Các địa danh này hẳn nằm ở Tây Bắc và Tây Thanh Nghệ ngày nay, là đất Nam Triệu của Mạnh Hoạch.

Mạnh Hoạch hay Mãnh Hoàng, có thể chỉ là cách gọi vị vua của người Mường Mán. Mãnh Hoàng là con cháu họ Triệu, sau khi kinh đô Phiên Ngung của Nam Việt thất thủ đã rời về Tây Giao Chỉ và hùng cứ một vùng, liên tục chống lại các quan lại nhà Hán rồi tới nhà Ngô. Tiếp theo thì như đã biết, Vũ Hầu Gia Cát, thừa tướng của nhà Thục đã vượt Lô Giang, tiến vào Tây Bắc bình định, thu phục Mãnh Hoàng. Mãnh Hoàng tiếp tục cai quản khu vực Nam Triệu này dưới hình thức tự trị, độc lập.

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là Triệu Ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều nể phục, cùng hợp lại với quân Nam Chiếu, được hơn hai vạn người, lại đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ, xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển.

Nếu đối chiếu với tộc phả họ Phạm:

"Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân - Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) - tức là Nam Trung bộ ngày nay.

Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trước CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm Ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).”

Có thể thấy Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà, là họ Lý, bắt đầu từ Lý Thân (Lý Ông Trọng). Vùng đất Tây Giao Chỉ là vùng Lâm Thao, nơi Lý Ông Trọng trấn giữ người Hồ dưới thời Tần.

Đặc biệt truyền phả họ Nguyễn còn chép rằng Triệu Đà chính là Lý Ông Trọng. Chuyện này tuy còn nhiều nghi vấn, nhưng có thể có phần nào là sự thật khi con cháu Triệu Đà cũng là con cháu của Lý Thân, chiếm vùng đất Tây Giao Chỉ dưới thời Hán.

Vùng Tây Giao Chỉ là đất của Mãnh Hoàng (Mạnh Hoạch), còn gọi là Nam Triệu, thời Tam quốc đã hàng phục nước Thục nhờ công của Vũ Hầu Gia Cát. Khi nhà Tấn diệt Thục, Tấn chỉ chiếm được vùng Xuyên Thục phía Bắc của nước này. Phần phía Nam vẫn do Mãnh Hoàng tự trị kiểm soát. Theo Truyện Nam Chiếu thì lúc này Triệu Ông Lý, con cháu Triệu Đà – Lý Thân, đã lên nắm quyền cai quản ở đây. Triệu Ông Lý chống lại nhà Tấn, “cùng hợp với quân Nam Chiếu”, tức là hợp với quân của họ Phạm ở phía Nam vùng ven biển Trung Bộ theo như tộc phả họ Phạm chép.

Truyên Nam Chiếu chép: “Khi ấy, nước Tây Bà Dạ chia đều đất ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Già La, trên từ Cầm Châu xuống tới Hoan Châu gọi là lộ Lâm An giao cho Nam Chiếu và Triệu Ông Lý thống lĩnh. Sau đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá, đất Diễn Châu, đông giáp với biển, tây tới nước Bà Dạ, nam tới Hoành Sơn, tự xưng làm chúa.”

Có thể thấy nước Nam Chiếu trong truyện ở thời kỳ nhà Tấn chính là xứ Lâm Ấp hay Nam Hà trong tộc phả họ Phạm. Xứ này bao gồm 2 phần:

- Phần lộ trên từ Quý Châu tới Diễn Châu do Triệu Ông Lý cai quản. Lộ này có tên Như Hoàn, hay Già La, sách khác gọi là Như La, Gia Viễn. Đây là phần đất liền không giáp biển, là Tây Giao Chỉ, gồm cả đất Lào ngày nay. Tên gọi Già La hay Như La cho thấy vùng này chính là nước Lỗ (La) của thời Chiến Quốc. Đây cũng là đất Lâm Thao thời Tần, trước do Lý Ông Trọng cai quản, sau đó giao cho con cháu Lý Thân.

- Lộ dưới từ Cầm Châu tới Hoan Châu gọi là Lâm An, do con cháu họ Phạm quản lý. Đây là phần giáp biển, ven biển miền Trung ngày nay. Tên lộ Lâm An cho thấy đây là đất Yên (An) thời Chiến Quốc, đã được nhà Tần giao cho Phạm Duy Hinh, con của tướng Phạm Duy Minh ở Đằng Châu cai quản.

Posted Image

Bản đồ trên ước vẽ 2 phần đất Già La và Lâm An từ thời Tấn. Đây là phạm vi nước Lâm Ấp vẫn được mô tả trong sử sách, có phía Đông giáp biển, Tây đến Vân Nam …

Truyện Nam Chiếu kể tiếp: “Nhà Đông Tấn sai tướng là Tào Khả đem quân sang đánh, Ông Lý mai phục ở rừng núi hiểm trở nơi đầu nguồn sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở núi Liên Vị, địch tới thì mình đi, địch đi thì mình tới, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5 năm trời, không hề đối đầu. Quân Tấn không chịu nổi lam chướng, chết hơn quá nửa, bèn rút quân về.

Nhà Tấn sau khi diệt Thục và Ngô, tấn công xuống phương Nam. Nhưng gặp sự kháng cự của Mãnh Hoàng, rồi Triệu Ông Lý ở vùng Nam Triệu này, không tiến nổi. Vùng đất này như vậy vẫn giữ độc lập từ thời Tấn.

Lý Ông Nam Triệu tương đương với … Lý Nam Đế (Triệu = Chúa), trong sử Việt được gọi là triều Hậu Lý Nam Đế. Tới thời Tùy Cao Tổ năm 602 tướng Lưu Phương đã dụ hàng con cháu của Nam Triệu, đưa vùng đất La – Lỗ nhập vào đất Tùy. Năm 605 Lưu Phương cũng tấn công xuống phía Nam thắng lợi, đuổi họ Phạm chạy ra ngoài hải đảo, sát nhập nốt đất An – Yên vào nhà Tùy. Nước “Nam Triệu” của Triệu Ông Lý chấm dứt ở đây sau 600 năm tồn tại. Nhưng sau đó, một nước Nam Chiếu mới lại nổi lên…

Tộc phả họ Phạm viết: "Đến đời vua họ Phạm thứ 19 là Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa, vơ vét của cải , châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua họ Phạm, khiến Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh về cùng Mai Thúc Loan và cha con Phùng Hưng, Phùng An , diệt được quan quân nhà Đường và lập Mai Thúc Loan làm Bố Cái Đại vương, tức Mai Hắc đế (766)."

Còn Truyện Nam Chiếu chép: “Quân Nam Chiếu tới cướp các xứ Nam thành, Đông thành, Trường An, quan lệnh không thể dẹp nổi. Tới khi nhà Đường thịnh lên, vua Ý Tông sai Cao Biền đem quân sang dẹp, không đánh nổi phải bỏ về.

Đoạn này nói tới cuộc khởi nghĩa thời Mai Thúc Loan - Phùng Hưng, tấn công chiếm thành Tống Bình (Trường An?). Phải tới Cao Vương Biền mới đuổi được quân Nam Chiếu của họ Phùng ra khỏi Đông Giao Chỉ, và đặt vùng này làm Tĩnh Hải quân. Nhưng phía Tây Giao Chỉ vẫn do Nam Chiếu chiếm giữ. Thậm chí còn mở rộng ra thành 6-7 “chiếu” theo như truyền thuyết về Khun Borom ở Lào.

Posted Image

Đoạn cuối cùng của Truyện Nam Chiếu: “Tới đời Ngũ Đại vua Tấn là Thạch Kính Đường sai tướng tư mã là Lý Tiến đem 30 vạn quân đánh Đồ Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về biên giới Ai Lao, gọi là nước Đầu Mô, nay là đất Bồn Man”.

Thời Thạch Kính Đường thì Hoa Nam đã chia năm xẻ bảy, còn hơi sức đâu mà nhà Hậu Tấn đánh dẹp Nam Chiếu. Lúc này trên đất Tĩnh Hải là triều đại của Nam Hán Lưu Cung. Đoạn sử trên có thể nói tới sự kiện Cao Biền đánh Nam Chiếu từ thời Đường Ý Tông, hoặc chuyện Đoàn Tư Bình diệt Nam Chiếu, lập nước Đại Lý. Có điều sử Tàu đã biến chuyện Nam Chiếu bị diệt thành chuyện Nam Hán Lưu Cung cử Lý Tiến đánh Khúc Thừa Mỹ. Có thể Lý Tiến là tướng của Lưu Cung quãng năm 936 – 940 (thời Hậu Tấn) đã tấn công Nam Chiếu ở Tây Giao Chỉ, chứ không phải đánh Khúc Thừa Mỹ.

Phải nói Truyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái là một ghi chép rất đầy đủ và chân xác về lịch sử vùng Tây Giao Chỉ trong suốt một thời kỳ dài từ Đông Hán tới tận thời Ngũ Đại. 1000 năm lịch sử của miền Tây đã bị lãng quên, may mắn còn được lưu lại trong truyện. 600 năm Nam Triệu và 400 năm Nam Chiếu, kiên cường chống lại phương Bắc, huy hoàng mở các quốc gia người Thái khắp Đông Nam Á.

Cổ tích của các sắc tộc ở Tây Bắc kể rằng, loài người sinh ra từ trong một quả bầu, khi quả bầu già vỏ khô rồi người mới lấy dùi nung đỏ dùi lỗ chui ra. Kẻ ra trước dính muội nhiều nên da ngăm, kẻ ra sau dính muội ít hơn nên da sáng hơn.

Khoa học nhân chủng chỉ rõ tổ tiên loài người xuất phát từ châu Phi, người da đen, chữ không phải xuất phát từ người vượn Bắc Kinh. Vì vào kỷ nguyên băng hà, người vượn Bắc Kinh đã tuyệt chủng, chưa kịp tiến hóa lên dạng trí nhân.

Phân tích âm dương trong tiếng Việt thì từ Mẹ theo QT Nở sinh ra cặp đối Mun (0) / Minh (1). Mun=Hun=Hôn昏 = Hoen = Đen = Hoẻn =Hắc黑. Mun=Mọi=Mình là chỉ người da ngăm. Ngăm=Ám=Âm. Minh=Mỗi=Mình là chỉ người da sáng. Sáng=Láng=Lượng=Dương.

Người Kinh xưa ghi ký tự lên “Thanh Tre”= Thẻ, bằng cách xăm lên thẻ những nét kẻ thẳng. Tượng trưng Dương hay đàn ông là nét kẻ

liền ( - ):

“Kẻ Liền”=Kiền=Càn=Cả=Cha=Bá=Bố=Phò=Phụ=Đụ=Chú=

=CHÀY=Chài=Trai=Ai=Am=Nam=NƯỜNG. (Chày=Tay=Tơi là cái vỏ ngoài, gọi là cái Am, tiếng Anh thì “Arm” lại là Tay).

Tượng trưng Âm hay đàn bà là nét kẻ nối ( - - ):

“Kẻ Nối”=CỐI=Cái=Con=NÕN=Nụ=Nữ=Nọc=Nái=Gái=Ai=

=Mái=Mẹ=Đẻ.( Nọc=Nọt=Rọt=Ruột=Rỡi là cái lõi của từ). Cặp đối Cối/ Chày hay Nõn/ Nường là tượng trưng phồn thực.

“Thanh Tre”=Thẻ=Quẻ= “Qu ẻ của Ngài” = Quái, dùng để “Biết Coi”= Bói khi rút “Thẻ Xăm”= Thăm.

Chữ Nôm 喃 đọc là Vuông 口 Nam 南. Vuông Nam = Văn Lang. Nam Việt 南粤 thời Triệu Đà có nghĩa là Nước Việt. (Tiếng Thái gọi nước là Nam. Nam=Nậm=Nước=Nác=Lạc). Nam Việt quốc của Triệu Đà có nghĩa là Lạc Việt quốc. Đây là một nước mới, thành lập lại vào thời Tần Hán, trên cơ sở đất đai và dân cư Việt của Văn Lang xưa. Tiếng Đài Loan đọc chữ Việt Nam 越 南là Oát Lâm. Oát=Quát=Quất=Quế. Quế Lâm = Oát Lâm = Việt Nam, đều là đất của Văn Lang xưa. Đất Quế 桂 đại diện cho tỉnh Quảng Tây, xe ô tô của tỉnh đều có mã số bằng chữ Quế 桂. Đất Việt 粤 đại diện cho tỉnh Quảng Đông, xe ô tô của tỉnh đều có mã số bằng chữ Việt 粤.

Người Việt 粤 là chủ nhân đầu tiên của nền nông nghiệp trồng trọt của loài người. Trời đã đem cái sáng của mình mà sinh ra loài người (Trời=Ngời=Người). Trời lại cho người con Trâu để làm nông nghiệp (Trời=Trâu), con Trâu được người thuần dưỡng và sử dụng nên “Người dùng Trâu”= Ngầu. Ngầu là từ chỉ con Trâu ở tiếng Quảng Đông. Và con “Ngầu Bé”= Nghé. “Con Trâu là đầu cơ nghiệp”, trong các công cụ làm nông thì con Ngầu là tối ưu, nên “Ngầu Ưu”= Ngưu. Cũng như các dòng họ thì họ Hùng là cổ xưa nhất, nên gọi là “Họ Cựu”= Hữu, gọi là Hữu Hùng, tức cái họ Hùng cổ xưa.

Chữ Việt 粤 có nghĩa đen biểu ý là “Kinh 口 và Thái 采 cùng chung một cái Cày 亏” (Giống như đôi trâu cày đôi gồm con Dí và con Thá cùng kéo một cái cày khai phá nông nghiệp cổ đại từ nam ra bắc. Dí=Dính=Kinh. Thá=Thái), giải thích như sau:

VUÔNG 口=Vắn=Văn=Vành Vạnh=Mảnh=Mình=KINH=Minh=

=Linh=Láng=Tráng=Trưng=Chưng=Choang=SÁNG=Sáng Sớm=Sáng Sủa=Lửa=Lả=Tá=Tá Hỏa=Ta=“Tất Cả ”=Đa=

=ĐÔNG=Đúc=Đi=Di=Dí=Dữu=Hữu=Hồng=Giông=RỒNG.

THÁI 采= Chái = Cháy = Chiếu = Chiều = Chóa = Lóa = THÁ = Tả= =TIÊN=TÂY=Tà=Đa=Đoài=Đúc=Đuốc=Thuộc=Thụt=Thục=Chúc=

=Chói=Chang=Choang=SÁNG=Sáng Sủa= Lửa= Lả = Tá =Tá Hỏa=Ta= “Tất Cả”

Dòng Kinh là dòng Rồng ở phía Đông, là dòng rắn. Dòng Thái là dòng Tiên ở phía Tây, là dòng chim. Nền nông nghiệp trồng trọt ở xứ ấm áp nên no đủ quanh năm, (“Trời sinh voi trời sinh cỏ”), đẻ nhiều, dân số tăng nhanh( “Con rắn không chân mà đi nổi năm rừng bảy rú. Con gà không vú mà nuôi nổi chin mười con”), nên đã đi khai thác ra bắc từ cổ đại để làm nông nghiệp, càng ra bắc càng rộng ra hai phía đông và tây (Đông Di, Tây Thục), hình thành nên nền văn minh Văn Lang trong phạm vi từ một bên là Thái Bình Dương, một bên là Ấn Độ Dương, đến phía bắc là bờ nam Dương Tử.

Con Trâu đã quen kéo cày ra bắc nên nó quen hiểu khẩu lệnh: Dí ! (Rì !) là rẽ Phải, tức bên Hải, là bên Đông, bên mặt trời lên, có biển. Thá ! (Tắc !) là rẽ Trái, tức bên Sài, là bên Sơn có núi, bên mặt trời lặn chiều tà. Con Trâu của nền văn minh lúa nước đã từ mảnh đất Việt Nam đi ra bắc đến tận Dương Tử, mang tên là con Ngầu=Ngưu.

Dí=Di=Dẽ=Dưới=Dữu=Hữu (phía Đông thấp hơn)

Thá=Tả=Tắc=Thắc=Thác=Tháp (phía Tây cao hơn, “Quản bao lên Thác xuống Ghềnh”). Con Trâu biết đi ra bắc vì người Việt có cái la bàn gọi là Kim chỉ Nom. Kim=Chim (như cái mỏ con chim)=Châm=Trâm (như cái trâm cài tóc)=Trân (Hán ngữ phiên âm và dịch ý là cái Chỉ Nam Trân 指 南 针, dùng chữ Nam 南 phiên âm chữ “Nom”, cái kim không phải chỉ hướng nam mà là nó chỉ hướng bắc là hướng Nom theo chòm sao bắc đẩu mà đi, càng ra bắc đất càng rộng ra hai phía đông và tây, cho nên hướng Nom là hướng Nống. Nom=Nống=Bồng=Bành=Bắc. Nền văn minh lúa nước đã từ ĐNÁ bành trướng ra bắc, làm nên nền văn minh Trung Hoa.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites