Posted 24 Tháng 2, 2013 NHÂN VÍA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ (17-11 ÂM LỊCH)Hạnh nguyện của Phật A Di Đà Theo lời dạy của Phật Thích Ca, Đức Phật A Di Đà đã thành Phật cách đây mười ức kiếp; hiện là giáo chủ cõi Cực lạc phía Tây thế giới Ta bà. Ngài có hạnh nguyện rộng lớn là tiếp độ tất cả chúng sanh trong mười phương pháp giới, nếu người nào có lòng ưa thích muốn được sanh về thế giới của Ngài. A Di Đà, tiếng Phạn là Amitaba, theo kinh Phật Thuyết A Di Đà (La Thập dịch) thì: “Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng, nên gọi là Phật A Di Đà”. Còn theo kinh A Di Đà và kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Tho thì danh xưng A Di Đà có ba nghĩa là Vô lượng quang, Vô lượng thọ và Vô lượng công đức. Vô lượng quang nghĩa là Đức Phật A Di Đà có ánh sáng vô lượng, chiếu soi khắp mười phương pháp giới. Ánh sáng vô lượng biểu thị Phật A Di Đà có trí tuệ vô lượng. Vô lượng thọ là Đức Phật A Di Đà có thọ mạng lâu dài không thể tính kể. Thọ mạng lâu dài biểu thị công năng thiền định của Phật A Di Đà là vô tận. Vô lượng công đức là Phật A Di Đà có công đức vô cùng vô tận. Công đức vô lượng biểu thị Phật A Di Đà có giới đức vô biên. Tóm thâu, danh xưng A Di Đà có ý nghĩa vô lượng giới, định và tuệ. Mà giới, định, tuệ là pháp môn tu hành căn bản của đạo Phật. Ba đời chư Phật trong qua khứ do đây mà thành tựu; chư vị Bồ tát cũng nương vào pháp môn này để đắc quả Vô thượng Bồ đề và tất cả chúng sanh nếu ai muốn siêu phàm nhập thánh thì không thể rời bỏ pháp môn này. Về nhân địa tu hành của Đức Phật A Di Đà, theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tiền kiếp quá khứ Đức Phật A Di Đà là con thứ chín trong mười sáu người con của Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Sau khi Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai xả tục xuất gia tu hành thành Phật, mười sáu vị vương tử cũng phát tâm xuất gia làm Sa di trong pháp hội của Phật. Sau khi Phật Đại Thông Trí Thắng nhập Niết bàn; mười sáu vị Sa di thay Phật tiếp tục giảng kinh Pháp Hoa, nhờ công đức giảng kinh này mà mười sáu vị vương tử đều thành Phật. Trong đó vị vương tử thứ chín thành Phật, hiệu là A Di Đà ở cảnh giới Cực lạc. Theo kinh Xuất Sanh Bồ Tát, về thưở quá khứ có vị Thái tử tên là Bất Tư Nghì Thắng Công Đức, nhờ nghe kinh Pháp Bổn Đà La Ni của Đức Phật Bảo Công Đức Tinh Tú Kiếp Vương mà xả tục xuất gia, tinh tấn tu hành. Sau khi xuất gia, Ngài đã hóa độ được mười muôn ức na-do-tha chúng sanh phát tâm bồ đề, trụ bậc bất thối chuyển. Thái tử Thắng Công Đức chính là tiền thân của Đức Phật A Di Đà. Lại theo kinh Quán Phật Tam Muội Hải, đời quá khứ Ngài làm một vị Tỳ kheo, nhờ công đức siêng năng kính lễ và quán tưởng tướng lông mày trắng của Đức Phật Không Vương, nên được Phật Không Vương thọ ký thành Phật hiệu là A Di Đà. Theo kinh Bi Hoa, quá khứ hằng hà kiếp về trước, Ngài là vị Chuyển luân thánh vương tên Vô Tránh Niệm. Vị Chuyển luân thánh vương này có một vị đại thần tên Bảo Hải, rất giàu lòng tín ngưỡng Phật pháp. Một hôm vua hay tin Đức Phật Bảo Tạng đến thuyết pháp tại vườn Diêm phù ở gần bên thành, vua cùng đại thần Bảo Hải đến nghe và sanh tâm hoan hỷ. Vua phát tâm thỉnh Phật và đại chúng vào vương cung cúng dường trọn ba tháng để cầu phước báo. Đức Phật khuyên nhà vua nên phát tâm bồ đề để cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi đó Đức Phật Bảo Tạng liền phóng hào quang sáng ngời, soi khắp cả thế giới của chư Phật mười phương, cho chúng hội đồng thấy. Đại thần Bảo Hải liền thưa với vua Vô Tránh Niệm: “Nay bệ hạ nhờ oai thần của Phật, được thấy các thế giới, vậy bệ hạ muốn cầu thế giới nào”. Vua đảnh lễ Phật quỳ gối chắp tay phát đại nguyện, cầu xin sau khi tu hành thành Phật, quốc độ và nhân dân của Ngài, đều được trang nghiêm thanh tịnh. Do nhân duyên ấy, sau Ngài thành Phật hiệu là A Di Đà ở cõi Tây phương Cực lạc. Còn theo kinh Vô Lượng Thọ, đời quá khứ lâu xa cách đây hơn mười kiếp, có một nước tên là Diệu Hỷ, vua cha là Nguyệt Thượng Luân Vương, mẹ là Thù Thắng Diệu Nhan sanh ra được ba người con. Người con trưởng là Nhật Nguyệt Minh, người con thứ hai là Kiều Thi Ca, người con thứ ba là Nhật Đế Chúng. Khi ấy có Đức Phật ra đời hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai. Thái tử Kiều Thi Ca bỏ ngôi phú quý theo Phật xuất gia, thọ giới Tỳ kheo, được Phật cho hiệu là Pháp Tạng. Tỳ kheo Pháp Tạng đối trước Phật phát bốn mươi tám đại nguyện rộng lớn, độ khắp mười phương chúng sanh. Ngài nguyện rằng nếu có một nguyện nào không viên mãn, thì thề chẳng thành Chánh giác. Khi ấy chư thiên rải hoa, tán thán, quả đất rung động, giữa hư không có tiếng khen ngợi: “Tỳ kheo Pháp Tạng quyết định sau này sẽ thành Phật hiệu là A Di Đà”. Về hạnh nguyện độ sanh của Phật A Di Đà, theo kinh Vô Lượng Thọ, trong khi hành Bồ tát đạo làm vị Tỳ kheo Pháp Tạng, Phật A Di Đà đã thỉnh cầu Phật Thế Tự Tại Vương vì mình mà thị hiện hai trăm năm mươi ức Phật độ. Sau khi quán sát quốc độ mười phương chư Phật, Tỳ kheo Pháp Tạng liền chọn lọc những điểm đặc sắc của mỗi quốc độ để kiến lập thế giới Cực lạc. Đồng thời Tỳ kheo Pháp Tạng đem thế giới thù thắng đó thưa với Phật. Phật Thế Tự Tại Vương dạy Pháp Tạng muốn thành tựu được cảnh giới thù thắng đó cần phải phát đại nguyện, rộng độ chúng sanh. Sau khi nghe Phật dạy, Tỳ kheo Pháp Tạng liền đối trước Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai phát bốn mươi tám đại nguyện. Trên nền tảng của bốn mươi tám đại nguyện, Tỳ kheo Pháp Tạng xây dựng quốc độ của mình bằng ba phương tiện nhiếp pháp hàng đầu, đó là nhiếp pháp thân nguyện, nhiếp tịnh độ nguyện và nhiếp chúng sanh nguyện. Nhiếp pháp thân nguyện là nguyện xây dựng Phật thân. Bồ tát Pháp Tạng chọn quả Vô thượng Bồ đề, để đem công đức thù thắng, thệ nguyện trang nghiêm thành tựu Pháp thân chư Phật, ánh sáng vô lượng, thọ mạng vô lượng và công đức vô lượng. Nhiếp tịnh độ nguyện là Bồ tát Pháp Tạng thệ nguyện xây dựng cõi Phật trang nghiêm, tạo thuận duyên cho chúng sanh tu hành. Vì thế sau khi thành Phật, quốc độ của Ngài toàn bằng thất bảo, thanh tịnh thù thắng không có Tịnh độ của Đức Phật nào có thể sánh bằng. Nhiếp chúng sanh nguyện là Bồ tát Pháp Tạng với lòng từ bi vô lượng, nhận thấy tất cả chúng sanh trong mười phương, tuy siêng năng tu học nhưng khó thành tựu đạo quả. Ngài liền kiến tạo thế giới Cực lạc, nơi hội đủ duyên lành cho chúng sanh tu học, đồng thời phát tâm tiếp độ và giáo hóa tất cả chúng sanh bao gồm cả phàm phu và thánh trí. Hạnh nguyện tiếp độ chúng sanh của Đức Phật A Di Đà đã thể hiện rõ nét qua thánh tượng của Ngài. Như chúng ta biết thánh tượng của Phật A Di Đà, đứng trên hoa sen trụ giữa hư không, bên dưới là bể cả sóng dậy chập chùng; mắt Ngài nhìn xuống, tay phải đưa lên ngang vai, tay trái duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi tiếp cứu những chúng sanh đang lặn hụp biển cả ba đào. Phật A Di Đà đứng trên hoa sen trụ giữa hư không, hai mắt nhìn xuống biểu thị Phật luôn luôn hướng về chúng sanh, theo dõi chúng sanh; tâm Phật thương yêu chúng sanh chẳng khác nào mẹ hiền thương con đỏ. Tay phải của Phật đưa lên biểu thị đón tiếp tứ Thánh, tay trái Phật duỗi xuống biểu thị tiếp dẫn lục phàm. Nghĩa là Ngài luôn sẵn sàng đón tiếp tứ Thánh, cứu độ lục phàm, đồng đưa lên bờ giác. Kỷ niệm ngày Khánh đản Đức Từ phụ A Di Đà, chúng ta nên noi theo đại nguyện của Ngài, phát tâm bồ đề rộng lớn, nguyện phát tâm tín sâu, nguyện thiết, chuyên trì thánh hiệu Ngài. Chúng ta hãy cùng nhau hướng về pháp hội Di Đà vĩnh hằng vô tận, hướng về thế giới Liên Trì Hải hội thanh tịnh, hoan hỷ sáng lạn tràn ngập tiếng cười, cất lên tiếng hát an lành của đại sư Ấn Quang, vị cao tăng hoằng dương pháp môn Tịnh độ thời cận đại:Vãng sanh phát nguyện đi thôiSuối non đất khách mặc người quẩn quanhQuê nhà chẳng chịu về nhanhHễ về ắt được, ai giành gió trăng.THÍCH NGUYÊN LIÊN 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 25 Tháng 2, 2013 Những bản kinh ngắn dịch từ Hán Tạng Kinh Phật Thuyết Quán Di Lặc Bồ Tát Hạ Sanh Thích Nữ Như PhúcNguồn: Thích Nữ Như Phúc Như vầy tôi nghe:Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-Cô-Độc, rừng Kỳ-Đà, nước Xá-Vệ, cùng 1.500 đại chúng Tỳ-kheo. Lúc bấy giờ tôn giả A-nan sửa y về vai phải, gối phải quỳ sát đất, bạch đức Thế Tôn:- Đức Như Lai quán sát thật sâu xa, uyên áo, không việc gì mà Ngài không soi xét, cả ba đời quá khứ, tương lai hay hiện tại Ngài đều biết rõ. Danh hiệu, tên họ của chư Phật cùng chúng Bồ-tát, Thanh văn từ thời quá khứ theo tùy tùng nhiều hay ít Ngài đều biết rõ. Dầu là một kiếp, trăm kiếp hoặc vô số kiếp Ngài đều quán sát và biết rõ như vậy. Ngài phân biệt rõ ràng tên họ của từng vua, quan, nhân dân, như cõi nước hiện tại này có bao nhiêu người Ngài đều biết rõ. Kính bạch đức Như Lai Chí chơn Đẳng chánh giác, chúng con muốn nghe sự giáo hóa, xuất hiện của Phật Di Lặc nơi thời tương lai lâu xa cùng chúng đệ tử theo Phật về cõi nước an vui sung mãn trải qua thời gian bao lâu?Đức Phật bảo A-nan:- Thầy hãy trở về chỗ ngồi, lắng nghe Ta nói và khéo suy nghĩ, ghi nhớ về sự xuất hiện của Phật Di Lặc và cõi nước giàu có, an vui cùng chúng đệ tử nhiều hay ít .Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, trở lại chỗ ngồi. Đức Phật bảo A-nan:- Thời tương lai lâu xa, nơi cõi nước này sẽ có thành quách tên Sí-đầu, Đông Tây 12 do-tuần, Nam Bắc 7 do-tuần, đất đai phì nhiêu, nhân dân hùng cường giàu có và nhiều đường sá. Trong thành có Long vương tên Thủy Quang, ban đêm tuôn những chất thơm thấm nhuần, ban ngày thì làm ôn hòa trong mát. Trong thành Sí-đầu có quỷ La-sát tên Diệp Hoa, hành động thuận với chánh pháp, không trái chánh giáo. Sau khi mọi người ngủ say thì vị này đi trừ bỏ những vật nhơ uế bất tịnh và dùng nước thơm rưới trên đất, cực kỳ sạch sẽ thơm tho.A-nan nên biết! Đất ở Diêm Phù Đề lúc ấy các phương Đông Tây Nam Bắc rộng 10.000 do-tuần. Các núi, sông, vách đá đều tự tiêu diệt. Nước ở 4 biển cả đều chiếm cứ một phương. Mặt đất ở Diêm Phù Đề cực kỳ bằng phẳng như tấm gương sáng sạch. Đất khắp Diêm Phù Đề đều có thực phẩm, ngũ cốc trù phú, tốt tươi. Nhân dân phồn thịnh, châu báu thật nhiều, làng mạc thôn xóm gần nhau, cùng nghe tiếng gà gáy. Bao nhiêu hoa quả, cây cối khô cằn hay những vật dơ xấu đều tự tiêu diệt. Những cây ngon quả ngọt, thơm ngon tươi tốt nhất thì sanh ra khắp mặt đất. Khí hậu ôn hòa, thời tiết thích hợp theo mùa. Con người không bị 108 bệnh, không có tham dục, sân hận, ngu si, không cần lo âu săn sóc. Nhân tâm quân bình, cùng một ý với nhau, gặp nhau vui vẻ và nói những lời hiền thiện, cùng một loại ngôn ngữ giống như người Uất-đơn-việt không khác. Nhân dân lớn hay nhỏ ở Diêm Phù Đề đều cùng một âm giọng, không có sự sai khác. Những người nam hay nữ ở cõi này khi muốn đại tiểu tiện, đất tự nhiên nứt ra, sau khi xong việc, đất khép lại như cũ.Lúc ấy đất đai ở Diêm Phù Đề tự nhiên sanh lúa gạo vô cùng thơm ngon, không có vỏ, ăn vào không bị bệnh khổ. Những loại vàng, bạc, trân bảo, xa cừ, mã não, chân châu, hổ phách rải khắp trên mặt đất mà không có ai quan tâm. Có khi họ cầm châu báu này và nói với nhau: "Con người xưa kia vì những châu báu này mà phải tàn hại nhau, bị tù đày và chịu biết bao khổ não. Vậy mà ngày nay châu báu này cũng như ngói gạch, không có ai cất giữ" . Lúc bấy giờ vương pháp xuất hiện, tên là Nhương Khứ, dùng chánh pháp trị nước và đầy đủ bảy báu. Bảy báu đó là: kim luân bảo, tượng bảo, mã bảo, châu bảo, ngọc nữ bảo, điển binh bảo, thủ tàng bảo. Trấn giữ Diêm Phù Đề không cần đến đao trượng mà điều phục tự nhiên.Này A-nan! Bốn kho trân bảo là:1- Nước Càn-đà-việt có kho báu Y-la-bát, rất nhiều trân báu và vật quý hiếm, không thể kể hết.2- Nước Di-đề-la có kho lớn lưới báu và rất nhiều trân bảo.3- Nước Tu-lại-tra có kho báu lớn và nhiều trân bảo.4- Nước Ba-la-nại Nhương Khứ có kho báu lón và rất nhiều trân bảo, không thể tính kể.Bốn kho báu lớn này tự nhiên ứng hiện. Các vị giữ kho đến tâu vua: "Cúi xin đại vương đem những vật trong kho báu này ban bố cho những kẻ bần cùng" . Vua Nhượng Khứ được những kho báu này cũng chẳng dòm ngó chúng vì không có ý nghĩ về của cải châu báu.Tại đất Diêm Phù, trên cây tự nhiên sanh những y phục vô cùng mềm mịn để cho mọi người mặc, như hiện nay người Uất-đơn-việt tự nhiên trên cây sanh ra y phục. Đại vương có đại thần tên Tu Phạm Ma, là vị quan được vua rất kính mến từ thuở còn niên thiếu. Vị đại thần này có tướng mạo khôi ngô, không cao, không thấp, không mập, không gầy, không trắng, không đen, không già, không trẻ. Vợ của Tu Phạm Ma tên Phạm Ma Việt, là người xinh đẹp tuyệt trần nhất trong các ngọc nữ, giống như hậu phi của thiên đế. Miệng bà nói ra có mùi thơm hoa sen và thân đầy hương chiên-đàn, 84 trạng thái mà các phụ nữ khác vĩnh viễn không bao giờ có. Bà cũng không có ý niệm hay tư tưởng cuồng loạn, tật bệnh.Lúc bấy giờ Bồ-tát Di-Lặc ở trời Đâu Suất quán sát cha mẹ không già, không trẻ, giáng thần ứng hiện sanh ra từ hông phải của mẹ, như Ta ngày nay cũng đã giáng sanh từ hông phải. Bồ-tát Di lặc cũng như thế. Tất cả chư thiên cõi Đâu Suất đều ngợi ca: "Bồ-tát Di Lặc đã giáng sanh" .Tu Phạm Ma đặt tên cho con là Di Lặc. Bồ-tát Di Lặc có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thân màu vàng ròng vô cùng tốt đẹp. Người ở cõi này không có các hoạn nạn, tuổi thọ lâu dài. Họ sống đến 8 vạn 4 ngàn năm, con gái 500 tuổi mới lấy chồng.Di-Lặc sống ở gia đình một thời gian ngắn thì đi xuất gia học đạo. Khi đi ra khỏi thành Sí-đầu chưa bao xa thì Ngài gặp đạo thọ tên Long Hoa cao một do-tuần, ngang 500 bộ. Bồ-tát Di Lặc ngồi dưới cội cây này thành tựu đạo quả Vô thượng. Ngay nửa đêm Bồ-tát Di Lặc xuất gia thì đạt ngay đạo quả Vô thượng. Cả 3.000 cõi đại thiên chấn động 6 cách. Các địa thần đều bảo nhau rằng: "Hôm nay Bồ-tát Di Lặc đã thành Phật đạo" . Dần dần đến cung Tứ Thiên Vương cũng nghe "Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo" , và lan dần đến cõi trời 33, trời Đâu Suất Đà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, cho đến Phạm thiên đều vang tiếng "Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo" .Lúc bấy giờ có ma vương tên Đại Tướng - giáo hóa trị vì ma quân bằng chánh pháp - nhờ nghe tiếng vang danh âm của Như Lai vô cùng hân hoan, phấn chấn, suốt 7 ngày đêm không ngủ nghỉ. Sau đó ma vương mang vô số thiên nhân ở cõi Dục đến chỗ Phật Di Lặc cung kính lễ bái. Thánh tôn Di Lặc cùng các thiên nhân dần dần nói về luận của pháp mầu vi diệu. Các luận đó là: Luận về bố thí, luận về giới, luận về sanh thiên, giải thoát khỏi dục tưởng bất tịnh là tốt đẹp.Đức Phật Di Lặc thấy mọi người đã hoan hỷ phát tâm, Ngài liền đem những pháp chư Phật Thế Tôn thường dạy như: khổ, tập, diệt, đạo và phân tích nghĩa lý sâu rộng cho chư thiên nhân. Lúc ấy trên tòa có 8 vạn 4 ngàn thiên tử đã sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Ma vương Đại Tướng bảo mọi người ở cõi đó rằng: "Các ngươi hãy mau xuất gia. Vì sao? - Vì Bồ-tát Di Lặc nay đã đến bờ giác ngộ và sẽ hóa độ cho các ngươi cũng đến bờ giác ngộ" .Trong thành Sí-đầu có trưởng giả tên Thiện Tài nghe giáo lệnh của ma vương, lại nghe âm vang của Phật nên đem 8 vạn 4 ngàn chúng đến chỗ Phật Di Lặc cung kính đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên. Đức Phật Di Lặc dần dần nói pháp luận vi diệu cho đại chúng. Pháp luận đó là: luận về thí, luận về giới, luận về sanh thiên, giải thoát khỏi dục tưởng bất tịnh là tốt đẹp.Đức Phật Di Lặc thấy mọi người tâm ý được khai mở theo như pháp chư Phật Thế Tôn đã nói, Ngài giảng về khổ, tập, diệt, đạo và phân tích nghĩa rộng các pháp ấy cho mọi người. Lúc ấy 8 vạn 4 ngàn người dứt sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Trưởng giả Thiện Tài cùng 8 vạn 4 ngàn người đến trước đức Phật cần cầu xin xuất gia, khéo tu phạm hạnh, tất cả đều thành tựu đạo quả A-la-hán. Hội đầu tiên của Phật Di Lặc có 8 vạn 4 ngàn người đắc quả A-la-hán. Lúc ấy vua Nhương Khứ nghe Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo, ông muốn được nghe pháp nên vội đến chỗ Phật. Pháp đức Phật nói cho vua ban đầu thiện , giữa thiện, cuối cùng thiện và nghĩa lý rất sâu xa. Một thời gian sau, đại vương lập thái tử lên làm vua, bao vật quý báu vua cho người thợ cắt tóc rồi đem các loại châu báu ban cho các Phạm chí và dẫn 8 vạn 4 ngàn chúng đến chỗ Phật xin làm Sa-môn. Cuối cùng, họ thành tựu đạo quả, đắc đạo A-la-hán.Đại trưởng giả Tu Phạm Ma nghe Bồ-tát Di Lặc thành Phật đạo cũng đem 8 vạn 4 ngàn chúng Phạm chí đến chỗ Phật cầu xin làm Sa-môn. tất cả đều chứng đắc A-la-hán, duy nhất có Tu Phạm Ma đoạn tận 3 kiết sử và chắc chắn chấm dứt hết khổ.Phật mẫu Phạm Ma Việt cũng đem 8 vạn 4 ngàn chúng thể nữ đến chỗ Phật xin làm Sa-môn. Các thể nữ đều chứng đắc A-la-hán, duy nhất có Phạm Ma Việt đoạn tận 3 kiết sử, chứng quả Tu-đà-hoàn.Các bà dòng Sát-lợi nghe tin Phật Di Lặc xuất hiện ở thế gian, thành Đẳng chánh giác, đem cả ngàn vạn chúng đi đến chỗ Phật cung kính đảnh lễ dưới chân Ngài rồi ngồi qua một bên. Họ phát tâm mong cầu được xuất gia học đạo, làm Sa-môn. Có người chứng đắc đến bờ giác, có người không chứng đắc. Lúc ấy, này A-Nan! Những người chưa vượt bậc để chứng đắc đều là những người phụng hành giáo pháp, nhàm chán tất cả thế gian và tu hành quán tưởng không có dục lạc. Phật Di Lặc sẽ nói giáo nghĩa Tam thừa như Ta hiện nay. Trong các đệ tử của Ta có Đại Ca Diếp thực hành 12 hạnh Đầu-đà, như chư Phật thời quá khứ đã khéo tu phạm hạnh, người này sẽ ở bên cạnh Phật Di Lặc khuyến hóa mọi người tu tập.Ca Diếp cách Như Lai không xa, ngồi kiết-già, thân ý chánh niệm tỉnh giác. Đức Thế Tôn bảo Ca Diếp:- Nay Ta đã 80, tuổi đã già suy và có 4 đại Thanh văn kham nhận việc giáo hóa khắp nơi. Họ có đầy đủ phước đức và trí tuệ vô tận, đó là: Tỳ-kheo Đại Ca Diếp, Tỳ-kheo Quân-xa-bát-thán, Tỳ-kheo Tân-đầu-lô, Tỳ-kheo La-vân. Bốn Thanh văn các ông chưa được nhập Niết-bàn mà chờ đến khi giáo pháp Ta không còn, khi ấy mới được nhập Niết-bàn. Đại Ca Diếp cũng không nên nhập Niết-bàn mà cần phải đời Phật Di lặc xuất hiện ở thế gian. Vì sao? - Vì đệ tử của Phật Di Lặc đều là đệ tử của Phật Thích Ca Văn, nhờ Ta giáo hóa chấm dứt hữu lậu. Trong thôn Tỳ Đề, cõi nước Ma Kiệt, Đại Ca Diếp cư trú trong núi đó và Di Lặc Như Lai sẽ đem vô số ngàn người lần lượt cùng nhau đến núi này. Nhờ hồng ân Phật, các quỷ thần đều mở cửa làm cho họ được thấy Ca Diếp thiền định trong hang động. Khi đó, Phật Di Lặc đưa cánh tay phải chỉ Ca Diếp và bảo mọi người: "Thời quá khứ xa xưa, đệ tử của Phật Thích Ca Văn tên Ca Diếp hiện đang tu khổ hạnh Đầu-đà tối thượng đệ nhất" . Mọi người thấy sự kiện như vậy, ngợi khen là việc chưa từng có. Có vô số trăm ngàn chúng sanh dứt sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Hoặc có chúng sanh đượïc thấy thân Ca-Diếp, gọi đó là hội đầu tiên. Có 96 ức người đều đạt quả A-la-hán. Những người này đều là đệ tử của Ta. Vì sao? - Vì họ được Ta giáo hóa mới đạt kết quả này. Và nhờ bốn nhân duyên bố thí, nhân từ, mang lại lợi lạc cho hết thảy quần sanh.Này A-nan! Di Lặc Như Lai sẽ trao Tăng-già-lê cho Ca Diếp đắp. Lúc ấy thân thể Ca Diếp chợt sáng như sao sa. Phật Di Lặc lại đem các loại hương hoa cúng dường Ca Diếp. Vì sao? - Vì chư Phật Thế Tôn có tâm tôn kính chánh pháp và Bồ-tát Di-Lặc cũng đã từng do Ta truyền trao giáo hóa chánh pháp, thành tựu đạo Vô thượng Chánh chơn.A-nan nên biết! Hội kỳ hai của Phật Di Lặc có 94 ức người đều đắc quả A-la-hán, đều là đệ tử đã từng được Ta giáo hóa thực hành 4 sự cúng dường nên được kết quả như vậy. Hội kỳ ba của Phật Di lặc có 92 ức người đắc quả A-la-hán, cũng là đệ tử do Ta giáo hóa. Lúc bấy giờ đệ tử của Ta là Tỳ-kheo tên Từ Thị, như Ta ngày này các Thanh văn đều xưng là đệ tử của Thích Ca. Phật Di Lặc thuyết pháp cho các đệ tử: "Này các Tỳ-kheo! Hãy nghĩ đến vô thường, tưởng vui có khổ, tưởng ngã và vô ngã, tưởng thật có không, tưởng sự biến đổi của sắc, tưởng sự ứ dịch, tưởng về sưng trướng, tưởng ăn chưa tiêu hết, tưởng về máu mủ, tưởng tất cả thế gian không an vui. Vì sao? - Này các Tỳ-kheo! Đây là 10 tưởng mà Phật Thích Ca Văn đã dạy cho các ông, làm cho tất cả được dứt trừ tâm hữu lậu và được giải thoát. Những ai trong chúng này là đệ tử Phật Thích Ca Văn đều do thời quá khứ đã tu hành thanh tịnh nên đến cõi của Ta. Hoặc có người ở thời Phật Thích Ca Văn cúng dường Tam bảo mà sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn tu tập thiện căn trong khoảng khảy móng tay mà sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn thực hành Tứ đẳng tâm rồi sanh đến đây. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn thọ trì 5 giới, 3 pháp tự quy nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn xây dựng tháp miếu nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn sửa sang chùa cũ nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn giữ 8 pháp trai giới nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn cúng dường hương hoa nên sanh đến đây. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn nghe pháp mà rơi lệ nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn nhất tâm lảnh hội giáo pháp nên sanh đến chỗ của Ta. Hoặc có người suốt đời tu hành phạm hạnh nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ghi chép, đọc tụng nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người phục vụ cúng dường nên sanh đến chỗ Ta.Đức Phật Di Lặc nói kệ:- Tăng thêm giới, văn, đứcThiền và nghiệp tư duyKhéo tu hạnh thanh tịnh Nên đến chỗ của TaBố thí phát tâm vui Tâm tu hành căn bảnÝ không nghĩ bao laĐều đến chỗ của TaBiết phát tâm bình đẳng Cúng dường các đức PhậtCúng Thánh chúng thực phẩm Đều đến chỗ của TaHoặc tụng giới, khế kinh Dạy cho người khổ, tậpThắp sáng chánh pháp Phật Nay đến chỗ của TaThích chủng khéo biến hóa Cúng dường các xá-lợiPhục vụ pháp cúng dườngNay đến chỗ của TaNếu người ghi chép kinhTuyên nói điều cao tộtVà cúng dường kinh điển Đều nên đến chỗ TaGấm vóc và mọi vậtCúng dường nơi chùa thápTự xưng "Nam mô Phật"Đều nên đến chỗ TaCúng dường Phật hiện tạiCùng chư Phật quá khứThiền định chánh bình đẳng Cũng không có tăng giảmThế nên đối pháp Phật Kính thờ các bậc ThánhChuyên tâm thờ Tam bảoẮt đến chỗ vô siA-Nan nên biết! Di Lặc Như Lai ở nơi chúng đó nói bài kệ này, chư thiên, loài người trong đại chúng tư duy về 10 tưởng này có 11 ức người dứt sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Trong 1.000 năm chúng Tăng ở cõi Phật Di Lặc không có lỗi lầm, Ngài thường dùng một bài kệ để làm giới cấm ngăn:Miệng, ý không làm ác Thân cũng không trái phạmHãy dứt ba nghiệp nàyChóng thoát đường sanh tử.Trải qua 1.000 năm sau sẽ có người phạm giới, Phật thiết lập ra giới cấm. Di Lặc Như Lai thọ 8 vạn 4 ngàn năm. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, giáo pháp của Ngài tồn tại đến 8 vạn 4 ngàn năm. Chúng sanh lúc ấy đều lợi căn. Những người thiện nam hay thiện nữ nào muốn được gặp Phật Di-Lặc, ba hội chúng Thanh văn và thành Sí-đầu, muốn gặp vua Nhương Khứ cùng 4 kho trân bảo lớn, muốn ăn lúa gạo ngon tự nhiên và mặc y phục tự nhiên, sau khi chết được sanh lên trời. Những người thiện nam, thiện nữ ấy không nên lười nhác mà hãy nỗ lực tinh tấn, hãy cúng dường hầu hạ các Pháp sư, cúng dường các loại vật dụng, hoa hương... chớ để thiếu sót.Này A-nan! Hãy học và thực hành như vậy.Tôn giả A-nan và các đại hội nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.KINH PHẬT THUYẾT QUÁN BỒ-TÁTDI LẶC HẠ SANHHết Share this post Link to post Share on other sites
Posted 25 Tháng 2, 2013 Giác Ngộ Online Hình ảnh Đức Phật Di Lặc-Mật Tông-Tây Tạng Hình tượng Đức Phật Di Lặc có nhiều phong cách tạo hình khác nhau,Mọi người Phật tử khi nói đến Đức Di Lặc ai cũng hình dung là một vị Phật miệng cười,bụng bự,nhưng chúng ta ít khi nào nghĩ Đức Phật Di Lặc có nhiều thể loại khác nhau tùy theo từng quốc gia , các bộ phái mà hình ảnh của Ngài được thể hiện khác nhau. Dưới đây GNO sưu tập 6 ảnh Đức Di Lặc thuộc Mật Tông-Tây Tạng xin giới thiệu đến đọc giả . Sưu tập. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 25 Tháng 2, 2013 Sự tích Quán Thế Âm Bồ Tát Hiện nay Quan Thế Âm đã chứng được bực Đẳng Giác Bồ Tát, ở cõi Cực Lạc mà hầu hạ Đức Phật A Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương đem về cõi ấy. Đức Quan Thế âm Bồ Tát, khi chưa xuất gia tu hành, có một kiếp Ngài làm con đầu lòng của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử. Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ, thì có Phật Bảo Tạng ra đời. Vua thấy nhơn tâm xu hướng theo lời giáo hóa của Phật càng ngày càng đông, bèn suy nghĩ rằng: “Nếu Đạo Phật không phải chơn chánh, thì đâu có lẻ người ta sùng bái khắp xứ như vậy!” Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường Phật và chúng Tăng trong ba tháng, và lại khuyên các vị vương tử và đại thần cũng làm như vậy. Khi ấy Bất Huyến Thái Tử vâng lời Phụ Vương, hết lòng tin kính, sắm đủ các món ngon quý và đem những đồ trân trọng của mình mà dưng cúng cho Phật và đại chúng trong ba tháng, không trễ nãi bữa nào và cũng không món gì kém thiếu. Quan Đại thần Bảo Hải, là phụ thân của Phật Bảo Tạng, thấy vậy khuyên rằng: “Điện hạ đã sẳn lòng tu phước mà cúng Phật cúng Tăng: vậy xin Điện hạ hãy đem công đức đó mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề, chớ nên cầu sự phước báu trên cõi Trời Đao Lợi hay là cõi Trời Phạm Thiên làm chi. Bởi vì mấy cõi ấy, tuy là cảnh vật vui tốt, nhơn dân vui sướng, căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo đi tự tại, những đồ y thực sẵn có, các cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ dụng đủ đều khoái lạc, không có sự khổ như cõi nhơn gian. Cái phước báu trong các cõi đó tuy là mỹ mãn như thế, nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất, chắc chắn gì đâu, chính là sự vô thường, thật là tướng vô định, như cơn gió thổi mau không có thế lực gì cầm lại đặng: hết vui thì xảy ra buồn, hết sướng thì trở lại khổ, dầu có sống lâu đến mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo vào đường nọ ngõ kia. Nếu Điện hạ cứ cầu phước báu đó, chắc không thoát khỏi ải sanh tử luân hồi: nếu đã không khỏi luân hồi, thì chưa chắc lúc nào đặng tiêu diêu tự tại. Chi bằng Điện hạ đem công đức đó mà cầu món phước báu vô lậu, không hư không mất, đời đời kiếp kiếp vượt ra ngoài ba cõi bốn dòng hưởng sự an vui vô cùng vô tận, và hồi hướng về Đạo Bồ Đề mà cầu mau thành Phật quả, đặng cứu độ chúng sanh khỏi sông mê biển khổ. Vậy phần tự lợi đã vuông tròn, mà đức lợi tha lại đầy đủ nữa. Bất Huyến Thái Tử nghe ông Bảo Hải khuyên nói như vậy, bèn đáp rằng: “Ta xem xét cả thảy chúng sanh trong đường địa ngục chịu sự khổ cực: còn kẻ nhơn gian và người thiên thượng thì đủ điều cấu nhiễm, lắm chuyện trần lao, không có chút nào đặng thanh tịnh, bởi đó mà tạo thành tội nghiệp, nên mới thọ quả báo mà đọa vào ba đường dữ là: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh”. Bất Huyến Thái Tử đáp lại rồi tự nghĩ rằng: “Bởi chúng sanh ở trong đời không gặp đặng những người hiền nhơn quân tử, khuyên việc lánh dữ làm lành mà dìu dắt lên con đường giải thoát, chỉ gặp những kẻ tàn ác tiểu nhơn cũ dụ nhau kết bạn bè, thường xúi dục những điều bất thiện, và lại phá hư Chánh Pháp, khinh Pháp Đại Thừa, làm cho mất cả căn lành, thêm điều tà kiến, vì vậy mới che lấp tâm tánh, không biết đạo đức là gì, nên phải chịu nổi đày đọa”. Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng: “ Nay tôi đối trước mặt Phật và đại chúng mà tỏ lời như vầy: Tôi nguyện đem tất cả các món công đức tôi đã từng cúng dường Tam Bảo và các món công đức tôi đã từng tu tập Pháp mầu mà hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề. Tôi nguyện trong khi tôi tu những điều công hạnh Bồ Tát, làm những việc lợi ích cho chúng sanh, nếu tôi xem có kẻ mắc sự khốn khổ hiểm nghèo ở trong hoàn cảnh ám muội, không biết cậy nhờ ai, không biết nương dựa đâu, mà có xưng niệm danh hiệu tôi, tức thời tôi dùng phép Thiên nhỉ mà lóng nghe và dùng phép Thiên nhãn mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn việc gì, đặng tôi hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ và đặng vui . Nếu chẳng đặng như lời thề đó thì tôi không thành Phật. Thưa Đức Thế Tôn! Nay tôi vì hết thảy chúng sanh mà phát lòng đại nguyện, tu học về Pháp xuất thế, lo làm các công hạnh tự giác tự lợi, nguyện khi phụ vương tôi là Vô Tránh Niệm, trải hằng sa kiếp nhẫn sau thành Phật, hiệu là A Di Đà Như Lai ở cõi An Lạc, Thế giới, hóa độ chúng sanh xong rồi, chừng nhập Niết Bàn, Chánh Pháp truyền lại, thì tôi tu hạnh làm việc Phật sự. Đến lúc Chánh Pháp gần diệt, hễ diệt bửa trước thì bửa sau tôi chứng Đạo Bồ Đề. Xin Đức Thế Tôn từ bi mà thọ ký cho tôi, và tôi cũng hết lòng yêu cầu các Đức Phật hiện tại ở hằng sa thế giới trong mười phương đều thọ ký cho tôi như vậy nữa? Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện ấy, liền thọ ký Bất Huyến Thái Tử rằng: “ Ngươi xem xét chúng sanh trong cõi Thiên Thượng Nhơn gian và trong ba đường dữ đều mắc những sự tội báo, mà sanh lòng đại bi, muốn đoạn trừ mọi sự khổ cực, dứt bỏ những điều phiền não và làm cho cả thảy đều đặng hưởng sự an vui. Vì người có lòng soi xét những loài yêu cầu của loài hữu tình trong thế gian mà cứu khổ như vậy, nên nay Ta đặt hiệu là: Quan Thế Âm. Trong khi ngươi tu hạnh Bồ Tát, thì giáo hóa cả vô lượng chúng sanh cho thoát khỏi sự khổ não và làm đủ mọi việc Phật sự. Sau khi A Di Đà Như Lai nhập Niết Bàn rồi, thì cõi Cực Lạc lại đổi tên là: “Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”, y báo càng tốt đẹp hơn trước đến bội phần. Chừng đó, đương lúc ban đêm, độ trong giây phút, có hiện ra đủ thức trang nghiêm, thì ngươi sẽ ngồi trên tòa Kim Cang ở dưới cây Bồ Đề mà chứng ngôi Chánh Giác hiệu là: “Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sang Vương Như Lai”, phước tròn hạnh đủ, muôn sự vẻ vang, đạo Pháp cao siêu, thần thông rộng lớn, rất tôn rất quý, không ai sánh bằng mà lại sống lâu đến chín mươi sáu ức na do tha kiếp, rồi khi diệt độ thì Chánh Pháp còn truyền bá lại đến sáu mươi ba ức kiếp nữa. Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi, liền vui mừng mà thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự thề nguyện của tôi quả đặng hoàn mãn như lời Ngài nói đó, thiệt là hân hạnh biết bao! Nay tôi lạy Ngài xin làm thế nào cho các Đức Phật hiện ở hằng sa thế giới cũng đều thọ ký cho tôi và khiến cho cả thảy thế giới đều đồng thời vang ra những tiếng âm nhạc, và các kẻ chúng sanh nghe tiếng ấy đều đặng thân tâm thanh tịnh mà xa lìa mọi sự dục vọng trên đời”. Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu Lễ Phật, tức thì các Thế giới tự nhiên rung động vang rền, kêu ra những tiếng hòa nhã, ai ai nghe đến cũng sanh lòng vui vẻ, là cho các điều dục vọng bổng nhiên tiêu tan cả. Khi ấy, thoạt nghe các Đức Phật ở mười phương đồng thinh thọ ký cho Quan Thế Âm rằng: “Đương khi thời kiếp Thiện trụ, ở tại cõi Tán Đề Lam thế giới, nhằm lúc Phật Bảo Tạng ra đời mà giáo hóa chúng sanh, có con của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử phát tâm cúng dường Phật và Đại chúng trong ba tháng: Do công đức đó, nên trải hằng sa kiếp sẽ thành Phật, hiệu là: Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai, ở về thế giới Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”. Bất Huyến Thái Tử khi đặng Chư Phật thọ ký rồi, thì lòng rất vui mừng. Đến khi mạng chung, thì Ngài thọ sanh ra các đời khác, trải kiếp nọ qua kiếp kia, hằng giữ bổn nguyện, gắng công tu hành, cầu đạo Bồ Đề, làm hạnh Bồ Tát, chăm lòng thi hành những sự lợi ích cho chúng sanh, không có khi nào mà Ngài quên cái niệm đại bi đại nguyện. Hiện nay Quan Thế Âm đã chứng được bực Đẳng Giác Bồ Tát, ở cõi Cực Lạc mà hầu hạ Đức Phật A Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương đem về cõi ấy. Đến sau, Đức Phật A Di Đà nhập Niết Bàn rồi, thì Ngài kế ngôi Phật vị mà giáo hóa chúng sanh. Trích "Sự tích Phật A Di Đà và bảy vị Bồ tát" - Phật học tạp chí Từ Bi Âm (200-204)SỰ TÍCH ĐỨC QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT Huệ Lương Quán Âm Bồ Tát là danh hiệu của một vị Phật đáng lẽ đã chứng quả Phật, nhưng còn nguyện ở lại cõi ta bà để cứu độ chúng sinh. Người ta cũng gọi Ngài là Quan Âm Phật, Quan Âm Như Lai, Quan Thế Âm, Quan Âm Nam Hải, Phổ Đà Phật Tổ, v.v... Quyền pháp năng lực của Ngài cao siêu. Quyển kinh nói về Ngài, mà hiện nay phái Bắc Tôn (Trung Hoa, Cao Ly, Nhựt Bổn, Việt Nam) còn truyền tụng là quyển “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm”. Theo lời kinh Phổ Môn bất cứ là hạng nào trong chúng sanh, bất cứ là ở vào tình cảnh nào, lúc nào, hễ cầu đến Ngài, niệm danh hiệu Ngài thì đặng cứu ngay. Ngài dùng huyền diệu cứu vớt chúng sanh không biết muôn ức nào mà kể. Nếu cầu Ngài với danh hiệu thuộc về một phân thân nào của Ngài thì Ngài xuất hiện y theo phân thân ấy để cứu độ. Kinh Phổ môn có biên rành 12 điều đại nguyện của Ngài. Theo kinh truyện để lại, Ngài phân thân giáng trần 33 kiếp, khi thì mượn xác nam nhi, khi thì làm thiếu nữ, khi thì ở vào cảnh quyền quý cao sang, khi thì vào hàng bần cùng cơ khổ, khi thì sanh làm đạo sĩ, khi thì làm tỳ khưu, v.v... Hiện nay đời còn truyền tụng hai kiếp giáng trần làm phụ nhơn của Ngài là: kiếp thứ mười làm bà Thị Kính, kiếp chót làm bà Diệu Thiện. Sau khi thoát kiếp chót này Ngài được chứng quả Phật Tổ tại Phổ Đà Sơn (Nam Hải).SỰ TÍCH THỨ NHỨT: QUÁN ÂM THỊ KÍNH Trước kia Đức Quan Âm Bồ Tát tu đã đặng tám kiếp rồi. Qua tới kiếp thứ chín Ngài phân thân nam nhi đi tu chứng bực tỳ khưu. Khi kiếp thứ chín của Ngài gần mãn thì Đức Thích Ca giáng xuống thử lòng. Đấng Thế Tôn hiện ra một người con gái tới lần khân ép nài vị tỳ khưu kia kết duyên với mình. Vị này mới thốt rằng: “Có chăng họa may là kiếp sau, chớ kiếp này vì lời thề nguyện tu trì thì không thể nào đặng.” Vì lời hứa ấy mà sau khi mãn kiếp thứ chín rồi vị tỳ khưu kia phải giáng trần đầu thai làm thiếu nữ, suốt đời phải chịu trăm điều cay đắng về vấn đề tình duyên để thử lòng Ngài coi ra sao. Ấy là phép Phật định vậy. Vâng lịnh của Đức Phật Tổ chơn linh vị Bồ Tát kia bèn giáng trần đầu thai làm con gái nhà họ Sùng là Sùng Ông, một nhà giàu có ở xứ Cao Ly lại là nhà từ tâm chưởng đức. Hai ông bà tuổi đã cao mà không con nên đi cầu tự và sanh ra nàng Thị Kính, dung nghi đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang. Hai ông bà mừng được chút gái để có người hôm sớm trong lúc tuổi già. Khi nàng đã đúng tuần cập kê thì gần đó có chàng Thiện Sĩ, con nhà quyền quý trâm anh cậy mai đến nói. Vợ chồng Sùng Ông thấy phải đôi vừa lứa bèn chịu gả con gái mình. Đến ngày nạp thái vu quy nàng Thị Kính buồn tủi muôn phần! Buồn là vì thấy mình là con một, một khi đã xuất giá rồi thì bề nhà sau trước quạnh hiu, lấy ai mà thần tỉnh mộ khang thế cho mình! Tủi là lỡ sanh làm con gái thì đúng tuổi phải xuất giá tòng phu rủi may phải chịu và ơn sanh thành không sao trả đặng! Cha mẹ nghe nàng than thở làm vậy bèn kiếm lời khuyên giải và nói rằng: Cha mẹ sanh con là gái, thì khôn lớn có nơi có chốn làm đẹp mặt nở mày mẹ cha đó là đủ rồi. Con chẳng nên lo điều chi khác nữa! Vả lại nhà bên chồng con cũng gần đây thì sự thăm viếng cũng thuận tiện. Nghe vậy nàng mới an lòng chiều ý muốn của cha mẹ. Từ khi về nhà chồng, nàng giữ một mực tôn kính, phụng sự nhà chồng, trong êm ngoài ấm, ai nấy đều khen. Một ngày kia nàng đương ngồi may, chàng Thiện Sĩ sau khi đọc sách mỏi mệt mới ra gần chổ nàng may mà nằm nghỉ, luôn dịp ngủ quên. Từ khi về nhà chồng đến giờ nàng chưa có dịp nhìn chàng cho chính đính. Nay có cơ hội đưa đến nàng, nhơn lúc chàng ngon giấc mà nhìn kỹ mặt đức lang quân. Chợt thấy dưới cầm chàng có mọc một sợi râu và biết coi tướng ít nhiều, nàng thấy quả là sợi râu bất lợi! Nhơn cầm sẵn cái kéo trong tay nàng mới đưa kéo ra cắt lấy. Đương lúc ấy, chàng Thiện Sĩ giựt mình thức dậy, thấy vợ cầm kéo đưa ngay cổ mình, vụt la hoảng lên rằng: “Vợ tôi muốn giết tôi.” Trong nhà vỡ lở, cha mẹ gia tướng chạy đến gạn hỏi. Nàng tình thật cứ nói ngay, không ngờ cha mẹ chồng quá ư nghiêm khắc bắt tội nàng có ngoại tình và mưu giết chồng. Nhơn cớ ấy cha mẹ chồng buộc chàng Thiện Sĩ làm tờ để vợ và mời vợ chồng Sùng Ông đến lãnh con về. Vợ chồng Sùng Ông hơ hãi tới nơi mới tường tự sự. Hai ông bà kêu con ra hỏi, rầy la than trách một hồi rồi lãnh con về. Lúc ấy Thiện Sĩ lòng như dao cắt, tưởng là việc đáng bỏ qua không dè đến nỗi rẽ thúy chia loan thì chàng ăn năn vô ngần, châu rơi lã chã. Khi nàng Thị Kính lạy từ công cô và chàng ra về, vì sợ uy cha mẹ chàng chẳng dám hở môi nói bào chữa nàng một lời nào. Về nhà, nàng Thị Kính buồn bã muôn phần. Một là buồn cho số phận long đong, tình duyên trắc trở; hai là buồn cho cha mẹ phải mang điều phiền não trong lòng. Vì nàng là một người đàn bà chân chính may rủi một chồng mà thôi, nàng khăng khăng không chịu “ôm cầm thuyền ai”. Nàng than rằng nếu có anh em đông thì nàng cũng đành nhắm mắt cho rồi để khỏi mang tiếng nhơ. Nhưng vì nàng là con một, nàng không nỡ hủy mình, sợ e thất hiếu, mà ở như vậy thật rất khổ tâm cho nên nàng quyết chí xuất gia, noi gương Phật Tổ, tu hành cho đắc đạo rồi trở về độ lại mẹ cha. Một hôm, nàng lén cải trang nam tử, rồi bỏ nhà trốn đi. Hay tin cha mẹ nghi nàng vì buồn tình xưa mà sanh nhẹ dạ theo người và sai người đi kiếm cùng nơi mà không gặp. Từ khi nàng lìa gia đình ra đi thì nàng có ý tìm một cảnh chùa để gởi thân. Đến ngôi chùa được chọn nàng gặp giờ sư cụ đang thuyết pháp. Nàng trộm xem tướng mạo thì thấy rõ đó là một bậc chơn tu, đạo pháp khá lớn. Nàng bèn xin thọ pháp quy y. Sư cụ ban đầu rất nghi ngờ nàng, bèn ngọn hỏi ngành tra vì sợ e trang thiếu niên kia sau này bán đồ nhi phế mà đắc tội với Phật Trời. Nàng thì một mực nói mình là một thư sanh, con nhà quyền quý, lòng chán công danh nên vào nương nhờ cửa Phật để gột rửa lòng phàm. Thấy chí quả quyết của vị thiếu niên, sư ông mới vui nhận cho làm đệ tử và ban pháp danh là Kính Tâm. Vì sãi Kính Tâm là nữ trá hình cho nên dung mạo khôi ngô kiều mị, làm cho hàng tín nữ trầm trồ, nhất là nàng Thị Mầu, con của một vị phú ông trưởng giả vùng ấy. Mượn cớ ra vô trong chùa, nàng Thị Mầu lắm khi đưa tình trêu ghẹo sãi Kính Tâm, nhưng nàng vẫn trơ trơ như không hay không biết. Thất vọng, Thị Mầu mới quay lại tư tình với đứa ở của nàng. Khi thai đã gần già, khí sắc nàng đổi, làng xã thấy thế mới đòi phú ông và nàng ra hỏi. Chịu đòn không kham, Thị Mầu túng phải cung xưng. Trong khẩu cung Thị Mầu quả quyết rằng mình có tư tình với sãi Kính Tâm nên mới ra cớ đỗi và xin làng rộng lượng cho sãi Kính Tâm hoàn tục kết duyên với mình. Trống mõ inh ỏi, cửa thiền xưa nay êm lặng phút chốc trở nên huyên náo, sóng dậy ba đào. Người nhà làng đến chùa đòi sư ông và sãi Kính Tâm ra nghe dạy việc. Thầy trò cùng dắt nhau đi. Đến nơi mới hay tự sự! Tá hỏa tâm thần, thầy hỏi trò có sao nói thiệt. Trò một mực kêu oan chớ không nói điều chi thêm nữa. Hương đảng đông đủ tra hỏi sãi nhỏ đủ điều, khi dọa, khi khuyên nhủ rằng: Nếu nói thật thì làng cũng chứng cho để lập gia thất. Kẻ thì mai mỉa: Sãi kia tu có trót đời không? Rốt cuộc vì không chịu xưng tội tình và một mực kêu oan cho nên sãi Kính Tâm phải bị đem ra tra tấn. Đứng trước cảnh thịt nát máu rơi và thấy trò bất tỉnh, sư ông mới động mối từ tâm đứng ra xin bảo lãnh cho trò để sau này về nhà khuyên nhủ dạy răn. Thấy thế hương đảng cũng niệm tình ưng thuận cho sư tiểu cùng về. Đến chùa, Sư ông dạy tiểu ra ở ngoài tam quan để tránh tiếng không tốt cho chùa. Thời gian qua, Thị Mầu đến ngày mãn nguyệt khai hoa, hạ sanh đặng một mụn con trai. Nàng bèn bồng hài nhi đến cửa tam quan bỏ đó rồi về, nói rằng: “Con của ngươi, đem trả cho ngươi.” Sãi Kính Tâm đương tụng kinh nghe đứa nhỏ bị bỏ dưới đất giãy giụa khóc la, động mối từ tâm người bèn ra ẵm đứa bé vào, mướn vú nuôi bên tự. Mẹ vò nuôi con nhện lắt lẻo qua ngày. Hết thời trì kinh thì sãi Kính Tâm lại phải giữ gìn bồng bế đứa trẻ. Nghe vậy, sư cụ mới vời sãi Kính Tâm vào mà trách rằng: “Trước kia con nói rằng con bị hàm oan, mà nay như thế thì chính thầy đây cũng phải nghi ngờ nữa là ai?” Sãi Kính Tâm bèn bạch rằng: “Bạch sư phụ, khi xưa sư phụ có dạy đệ tử rằng cứu đặng một người, phước đức hà sa. Đệ tử vâng lời thầy mới cứu mạng đứa trẻ này, chớ kỳ trung con không có ý chi hết.” Tuy vậy sãi Kính Tâm cũng không đặng phép vô ra trong chùa để tránh tiếng cho chùa. Đứa trẻ khi đặng hai, ba tuổi đã có vẻ thông minh và giống sãi Kính Tâm như hệt. Khi hài nhi đúng ba tuổi thì sãi Kính Tâm đến ngày phải theo Phật. Biết trước giờ phân ly, sãi Kính Tâm mới viết hai bức thơ gởi lại, một kính gởi cho sư cụ, còn một bức thì gởi cho cha mẹ ruột. Khi sãi Kính Tâm tắt hơi thì đứa nhỏ y như lời cha dặn đem bức thơ vào dâng cho sư cụ. Xem thơ xong, sư ông rất ngậm ngùi, bèn phái vài vị ni cô ra coi tẩm liệm. Khám xét xong thì mới hay sãi Kính Tâm là nhi nữ trá hình. Tin ấy truyền ra hương lân nhóm lại đòi cha con Thị Mầu đến buộc tội cáo gian và phạt phải chịu tổn phí về các cuộc tống táng và làm ma chay cho sãi Kính Tâm. Bằng chứng sờ sờ phú ông phải chịu, Thị Mầu xấu hổ muôn phần bèn quyên sinh để trốn khổ nhục. Đến ngày an táng sãi Kính Tâm thì thiên hạ đồng thấy Phật hiện trên mây rước hồn sãi Kính Tâm là nàng Thị Kính. Hai vợ chồng Sùng Ông và Thiện Sĩ đặng thơ và hay tin đau đớn này đồng có đến dự. Sau cuộc tống táng vợ xưa Thiện Sĩ ăn năn lỗi trước bèn phát nguyện tu hành. Tục truyền rằng Thiện Sĩ sau đắc quả thành con chim ngậm xâu chuỗi bồ đề, đậu một bên Đức Phật Quan Âm, Đức Phật Quan Âm cũng độ luôn con của Thị Mầu đắc quả hầu gần bên Ngài. Ngày nay, người xứ ta và người Tàu khi họa tượng Phật Quan Âm thì thường họa một bà đội mũ ni xanh hoặc đen, ngồi trên tòa sen hoặc thạch bàn, bên tay mặt có một con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay hầu. Ấy là con của Thị Mầu.SỰ TÍCH THỨ NHÌ:TÍCH BÀ DIỆU THIỆN HAY QUAN ÂM NAM HẢI Theo sự khảo cứu của nhà bác học Hòa Lan tên là De Groot thì trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang. Vào năm 2587 trước Chúa giáng sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ bên phương Tây có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu (Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra), phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày cấy, nông trang. Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự. Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin). Vì nhà vua không có con trai nên vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã (rể vua). Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện thì cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi.” Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh.” Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn lòng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ý thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou), tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều. Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là vì khi nàng làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt nàng và đưa về đền. Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở lại quãng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử hình cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ gìn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa giơ gươm lên thì gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm thì giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng thì hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung. Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự. Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha. Nhờ huyền diệu ấy mà nàng DIệu Thiện tuy chết nhưng xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đã lướt gió tung mây... Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật. Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Mình vưng lệnh Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rõ ràng cảnh khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết. Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ý Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng các vua ưng thuận thì nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cõi trần. Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện.” Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian. Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn. Khi nàng tu đặng chín năm thì có một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đã đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần sanh.” Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật Tổ Phổ Đà Sơn. Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì thấy một cái xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một lòng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh. Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con mình mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài. Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở. Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh. Khi đến trước mặt vua thì nhà sư bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất bình và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi. Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị phò mã dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự thì tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào phòng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không còn hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì sợ bị khổ hình nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em mình là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con đường tu niệm thì Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy. Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai vật ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần. Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh ngặt nghèo. Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi. Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là con mình nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện trước mắt, tay mắt đủ, hình dạng mạnh khỏe như xưa. Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát vua cùng hoàng hậu nhứt định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh mình trần tục tìm đàng thiên thai. Huệ Lương 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 26 Tháng 2, 2013 Phật Mẫu Chuẩn Đề Vương Bồ tát Trong kinh Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni có ghi Bồ tát Chuẩn Đề là hóa thân của Đức Quán Thế Âm, thị hiện vào trong sáu đường sanh tử để hóa độ chúng sanh. Bồ tát Chuẩn Đề có thệ nguyện hộ trì Phật pháp và hộ mạng cho những chúng sanh nghiệp chướng sâu dày, thân nhiều tật bệnh… Phật Mẫu Chuẩn Đề tên Phạn là Cundì, tên Hán văn là Thất Câu Chi Phật Mẫu hay Thất Câu Đê Phật Mẫu, Chuẩn Đề Bồ tát. Ngài là một trong lục Quan Âm của Phật giáo, trong Tạng Giới Mạn Đà La ghi Chuẩn Đề là một trong 3 vị Phật Mẫu thuộc Biến Tri Viện. Thân Bồ tát Phật Mẫu Chuẩn Đề có màu vàng trắng hay màu vàng lợt, ngồi kiết già trên đài sen, có hào quang tỏa sáng xung quanh, mình mặc thiên y, trên đầu trang điểm ngọc anh lạc. Đầu đội mão báu có ngọc lưu li rũ treo, có 18 tay đều đeo vòng xuyến khảm xà cừ và mỗi tay đều cầm các loại khí cụ biểu thị cho các Tam muội gia. Phật Mẫu Chuẩn Đề có 3 mắt, chuyên hộ trì Phật pháp và bảo hộ những chúng sinh có mạng sống ngắn ngủi được thọ mạng lâu dài. Pháp môn tu hành của vị Bồ tát này là trì tụng Phật Mẫu Chuẩn Đề thần chú:“Khể thủ quy y Tô tất đế. Đầu diện đảnh lễ Thất cu chi. Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề. Duy nguyện từ bi thùy gia hộ. (Cúi đầu lạy pháp Tô tất đế Chân thành đảnh lễ bảy ức Phật Con nay ca ngợi Đức Đại Chuẩn Đề Xin Ngài duỗi lòng từ bi gia hộ). Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà câu chi nẫm, đát diệt tha. Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha”. Hiện thân của Chuẩn Đề Bồ tát có nhiều hình hài, nhưng chân thân của Ngài như sau: Bửu tượng của Ngài có nhiều vẻ quang minh tốt đẹp, đều chiếu diệu cả mình, còn thân tướng thì sắc vàng mà có lằn điển quang trắng. Ngài ngồi kiết già, trên thì đắp y, còn dưới thì mặc xiêm đều trọn một sắc trắng mà có bông, lại có đeo chuỗi anh lạc và trên ngực có hiện ra một chữ “Vạn”. Còn hai cườm tay có đeo hai chiếc vòng bằng ốc trắng, hai bên cánh tay có xuyến thất châu trông rất xinh lịch, lại hai trái tai có được ngọc bửu đương và trong các ngón tay đều có đeo vòng nhỏ. Trên đầu Ngài thì đội mão Hoa quang, trên mão ấy có hóa hiện ra 5 vị Như Lai. Nơi mặt Ngài có 3 con mắt, trong mỗi con mắt ấy lại rất sắc sảo, dường như chăm chú ngó vào chúng sanh mà có ý sanh lòng từ mẫn. Toàn thân của Ngài có mười tám cánh tay, mỗi bên chín cánh.Hai bàn tay ở trên hết thì kiết ấn Chuẩn đề, như tướng đương lúc thuyết pháp.Tay trái thứ hai cầm lá phướn như ý, còn tay mặt cầm cái thí vô úy.Tay trái thứ ba cầm một bông sen đỏ, còn tay mặt cầm cây gươm.Tay trái thứ tư cầm một bình nước cam lồ, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi Ni ma bửu châu.Tay trái thứ năm cầm một sợi dây Kim cang, còn tay mặt cầm một trái la ca quả.Tay trái thứ sáu cầm một xa luân, còn tay mặt cầm một cái búa.Tay trái thứ bảy cầm pháp loa, còn tay mặt cầm cái thiết câu.Tay trái thứ tám cầm một bình như ý, còn tay mặt cầm một cái chày kim cang.Tay trái thứ chín cầm một cuốn kinh Bát nhã Ba la mật, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi dài.Ngài ngồi trên tòa sen, dưới có hai vị Long Vương ủng hộ. Đó là bửu tượng của Ngài đại lược như vậy, nếu ai có lòng trì niệm, muốn chiêm vọng và quán tưởng, thì vọng niệm chẳng sanh mà chơn tâm hiển hiện. Nếu công phu thuần thục lâu rồi, chẳng có chút gì gián đoạn, thì sẽ đặng phước quả rất rộng lớn, có ngày đạt tới nơi cực quả bồ đề. Trong Kim Cương Giới thì Chuẩn Đề được nhận biết dưới danh hiệu Kim Cương Hộ Bồ tát (Ràksïa Bodhisatva) là một trong 4 vị Bồ tát thân cận của Đức Phật Thích Ca ở phương Bắc.“Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đà câu chi nẫm đát điệt tha. Án, chiết lệ, chủ lệ, Chuẩn Đề ta bà ha”. Đức phật chỉ rõ: Nếu có Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di nào thọ trì đọc tụng thần chú này mãn 80 vạn biến thì những tội ngũ vô gián đã tạo từ vô lượng kiếp đến nay hết thảy đều được tiêu diệt. Sanh ra chỗ nào cũng gặp chư Phật và Bồ tát, đời sống tùy ý đầy đủ, đời đời thường được xuất gia, trì đủ luật nghi tịnh giới của Bồ tát, thường sanh nhơn thiên, không đọa ác thú, thường được chư thiên thủ hộ. Nếu có những người tại gia nam nữ thường trì tụng, thì nhà kẻ ấy không có khổ não tai ương, bịnh khổ. Ra làm việc gì đều được hanh thông, nói ra lời gì đều được tín thọ. Nếu tụng thần chú này mãn 10 vạn biến trong chiêm bao thấy được chư Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Duyên Giác tự thấy trong miệng mửa ra vật đen. Nếu có ngũ nghịch tội thì không được thấy những hảo mộng như vậy. Nên tụng mãn 70 vạn biến thì sẽ được thấy những tướng như trước cho đến mộng thấy mửa ra sắc trắng như sữa, cơm, vân vân thời phải biết người đó tội diệt, được tướng thanh tịnh. Chúng ta sinh trong thời mạt pháp, pháp nhược, ma cường, Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề là một trong các vị Bồ tát phát nguyện hộ trì người tu tập gặp nhiều chướng duyên trở ngại. Vì thế, mỗi hành giả trên bước đường tu học cần đặt chánh tín trọn vẹn và tâm thành đảnh lễ, một lòng trì niệm thần chú Phật Mẫu Chuẩn Đề cầu Bồ tát gia hộ, ngõ hầu vượt thoát mọi chướng duyên, ma nghiệp là điều không thể thiếu của người con Phật chúng ta.Trí Bửu Share this post Link to post Share on other sites
Posted 26 Tháng 2, 2013 CHUẨN ĐỀ PHẬT MẪU Huyền Thanh dịch I _ DANH TỰ: Chuẩn Đề được dịch âm từ các tên Phạn là Cundì , Cunïtïi , Cunïdïhi , Kunïdïi , Cunõdhe , Cunde, Cumïdi , Cumïdhe , ‘Suddhe ( Trong các tên Phạn này thì 2 tên thường được dùng là Cunõdhe với ‘Suddhe ) và được phiên dịch theo các ý nghĩa là Khiết Tĩnh, Thanh Tịnh, Diệu Nghĩa, Minh Giác, Hộ Trì Phật Pháp. Đây là vị Bồ Tát hay hộ mệnh và tế độ các chúng sinh khiến cho ngộ giải Phật Quả . Theo Truyền Thuyết của Ấn Độ thì Cunïtïi hay Cunïdïhi là tên của một Apsara và có ý nghĩa là Nguồn suối nhỏ, cái giếng nhỏ, may mắn, tốt giỏi, người có tài ba lỗi lạc. Theo Truyền Thuyết khác thì Chuẩn Đề ( Kunïdïi ) là một tên gọi của Durga ( Hóa thân của Hắc Mẫu Thiên Kàli ) với bài Chú xưng tán là: OMÏ _ KÀLI KULI KUNÏDÏI _SVÀHÀ ( Quy mệnh Hắc Mẫu Thiên. Nguyện tuân theo sự tôn kính ‘Sakti mà thành tựu Pháp của Durga ). Theo Truyền Thống Hoa Văn thì Chuẩn Đề còn có các tên gọi khác là: Thất Câu Chi Phật Mẫu hay Thất Câu Đê Phật Mẫu ( Sapta_Kotïi Buddha màtrï ) , Chuẩn Đề Phật Mẫu ( Cunõdhe Màtrï ) , Thất Câu Đê Phật Mẫu Chuẩn Đề (Sapta_Kotïi Buddha Màtrï Cunõdhe ), Chuẩn Đề Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva ), Chuẩn Đề Quán Aâm hay Chuẩn Đề Quán Tự Tại ( Cunõdhe Avalokite’svara ) Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đa La ghi nhận Chuẩn Đề là một trong 3 vị Phật Mẫu thuộc Biến Tri Viện với Tôn Tượng màu vàng lợt, mặc áo lụa mỏng như Thiên Y , đầu đội mão báu có ngọc lưu ly rũ treo, mặt có 3 mắt, ngồi trên tòa sen, toàn thân có 18 tay, mỗi tay có đeo vòng xuyến khảm Xà Cừ và mỗi tay đều cầm các loại khí cụ biểu thị cho các Tam Muội Gia ( Bản Thệ_ Samaya ). Trong Viện này thì Chuẩn Đề biểu thị cho sự thanh tĩnh vô nhiễm cấu là đặc tính của Liên Hoa Bộ ( Padma Kulàya ) nên Chuẩn Để được xem là Mẫu ( Màtrï ) của Liên Hoa Bộ trong Phật Bộ ( Buddha Kulàya ) nghĩa là từ Tôn này sinh ra các Tôn trong Liên Hoa Bộ. Trong Kim Cương Giới Man Đa La thì Chuẩn Đề được nhận biết dưới danh hiệu Kim Cương Hộ Bồ Tát ( Ràksïa Bodhisatva ) là một trong 4 vị Bồ Tát thân cận của Đức Phật Bất Không Thành Tựu ( Amoghasiddhi Buddha ) [ tức là Đức Phật Thích Ca ( ‘Sàkyamunïi Buddha ) ] ở phương Bắc. Tôn này được sinh từ Môn Giáp Trụ Đại Từ của tất cả Như Lai vì thế Chuẩn Đề được dịch ý là Hộ Trì Phật Pháp và là vị Bồ Tát thường đi lại trong Thế Gian để đập nát các Hoặc Nghiệp của tất cả chúng sinh, khiến cho kẻ đoản mệnh được thọ mệnh lâu dài, tăng tiến Phước Tuệ , đời đời xa lìa nẻo ác, mau chóng phát Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) và viên mãn mọi ước nguyện. Ý nghĩa này thường được đại chúng nhận biết nhiều qua các công năng của Thần Chú Chuẩn Đề ghi trong các Kinh Quỹ. Dựa trên hai truyền thống này mà các Dòng Phái Mật Giáo đã có sự nhận định khác nhau về Bồ Tát Chuẩn Đề. _ Chuẩn đề thuộc Quán Aâm Bộ ( hay Liên Hoa Bộ ) Căn cứ và chủng tử BU ( ) nghĩa là “ Ngộ Giải chẳng thể đắc”: của Bồ Tát Chuẩn Đề trong Biến Tri Viện và Quán Tự Tại Bồ Tát ( Avalokite’svara Bodhisatva ) ở cánh hoa Đông Bắc trong Trung Đài Bát Diệp Viện cũng có chủng tử là BU , đồng thời cả 2 Tôn này đều biểu thị cho Tâm Tính thanh tịnh nên người đời hợp xưng thành danh hiệu Chuẩn Đề Quán Aâm và hồng danh này biểu thị cho Hạnh Nguyện của Tâm Bồ Đề với Đức Tự Chứng. Dựa trên ý nghĩa này nên Hệ Đông Mật của Nhật Bản đem Chuẩn Đề làm một Tôn trong 6 vị Quán Aâm và nhiếp vào trong 6 vị Quan Aâm của Liên Hoa Bộ. 6 vị Quán Aâm này chia vào 6 nẻo tác thân ứng hóa để tế độ các chúng sinh. Theo Ma Ha Chỉ Quán thì 6 vị Quán Aâm với hình sắs, danh hiệu như sau đều hiển tướng Từ Bi cứu độ chúng sinh trong 6 nẻo , gồm có : 1 ) Đại Từ Quán Aâm là Biến Thân của Chính Quán Aâm có chủng tử là JAHÏ ( ) cứu Địa Ngục Đạo , Thân màu xanh, tay trái cầm hoa sen xanh, tay phải Thí Vô Úy . Kết Đại Tam Cổ Ấn , dùng Bản Chú. 2 ) Đại Bi Quán Aâm là Biến Thân của Thiên Thủ Quán Aâm có chủng tử là HRÌHÏ ( ) Cứu Ngạ Quỷ Đạo. Thân màu vàng ròng , 6 mặt có tướng Từ Bi. Tay trái cầm hoa sen hồng, tay phải Thí Vô Úy. Kết Liên Hoa Hợp Chưởng, tụng Chú là: OMÏ _ VAJRA DHARMA _ HRÌHÏ 3 ) Sư Tử Vô Úy Quán Aâm là Biến Thân của Mã Đầu Quán Aâm có chủng tử là KHÌ ( ) hoặc HÙMÏ ( ) cứu Súc Sinh Đạo. Thân màu xanh, tay phải cầm hoa sen trên hoa có Phạn Khiếp , tay trái Thí Vô Úy. Kết Phạn Khiếp Ấn, tụng Chú là: OMÏ _ VAJRA KHÌ _ SVÀHÀ 4 ) Đại Quang Phổ Chiếu Quán Aâm là Biến Thân của Thập Nhất Diện Quán Aâm có chủng tử là KA ( ) cứu A Tu La Đạo. Thân màu thịt. Tay phải cầm hoa sen hồng trên hoa có bình hoa, miệng bình dứng báu Độc Cổ. Tay trái Thí Vô Úy. Kết Bất Động Ấn, tụng Chú là: OMÏ _ MAHÀ PRABHA _ SVÀHÀ 5 ) Thiên Nhân Trượng Phu Quán Aâm là Biến Thân của Chuẩn Đề Phật Mẫu có chủng tử là SU ( ) cứu Nhân Đạo. Hợp 2 ngón út, 2 ngón vô danh cài chéo nhau bên trong. Dựng 2 ngón giữa , đem 2 ngón trỏ phụ lưng ngón giữa, đem 2 ngón cái phụ bên cạnh 2 ngón trỏ. Tụng Chú là: OMÏ _ SURE SURE SUNÏE _ SVÀHÀ 6 ) Đại Phạm Tấn Tốc Quán Aâm là Biến Thân của Như Ý Luân Quán Aâm có chủng tử là HRÌHÏ ( ) cứu Thiên Đạo. Thân màu trắng. Tay trái cầm hoa sen, trên hoa dựng chày Tam Cổ. Tay phải Thí Vô Úy Kết Đại Tam Cổ Ấn, ngón trỏ như hình báu. Tụng Chú là: OMÏ _ HRÌHÏ MAHÀ PRA _ SVÀHÀ . ) Thắng Quân Bất Động Quỹ ghi :” Trùy Chung Ca Thái La Vương là thân sở biến của Chuẩn Đề Quán Aâm” . ) Quỹ ghi :” Tu Pháp Chuẩn Đề đều thấy tượng của Quán Tự Tại” . ) Tiểu Dã Sao ghi:” Thiên Nhân Trượng Phu là Chuẩn Đề Phật Mẫu cứu độ Nhân Gian” . ) Khuyến Tu Tự Sao ghi:’ Chuẩn Đề là Quán Aâm” . ) Thạch Sơn ghi:” Chuẩn Đề Quán Tự Tại Bồ Tát” . ) Thiền Tông cũng dùng Chuẩn Đề là một Tôn trong Quán Aâm Bộ Lại nữa Chuẩn Đề dịch là Thanh Tịnh tức Thanh Tĩnh Quán Aâm , Vì Bất Không Quyến Sách Quán Aâm cũng có tên là Thanh Tịnh và cũng là một Hóa Tôn cứu độ tất cả chúng sinh trong Nhân Đạo nên Chuẩn Đề chính là Bất Không Quyến Sách . Do nhận định Chuẩn Đề là một Tôn trong Quán Aâm Bộ nên các hệ phái này đều dùng Kết Giới Minh Vương là Mã Đầu hoặc Quân Trà Lợi. _Chuẩn Đề thuộc Phật Bộ Theo Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đa La thì Chuẫn Đề là một Tôn trong Biến Tri Viện biểu thị cho đức Năng Sinh của chư Phật và từ Tôn này sinh ra các Tôn của Liên Hoa Bộ. Lại nữa Chuẩn Đề còn biểu thị cho Tâm Tính Thanh Tĩnh là khuôn mẫu để sinh ra các Phật Tử ( Buddhaputra ) nên Chuẩn Đề được tôn xưng là Phật Mẫu ( Buddha Màtrï ). Do Biến Tri Viện là một Viện trong Phật Bộ thuộc Thai Tạng Giới nên Chuẩn Đề phải là một Tôn trong Phật Bộ. Cao Huệ nói:” Chuẩn Đề là Hộ Bồ Tát, một trong 4 Bồ Tát thân cận của Đức Bất Không Thành Tựu Như Lai mà Bất không Thành Tựu Như Lai lại là Đức Phật Thích Ca. Do đó Chuẩn Đề là một Hóa Thân của Đức Phật Thích Ca” Khẩu nói:” Bất Động là Hóa Thân của Thích Ca Mâu Ni mà Thắng Quân Bất Động Quỹ ghi: Hiện Thân thứ năm trong 8 loại thân là thân sở biến của Chuẩn Đề. Do đó Chuẩn Đề là hóa thân của Đức Phật Thích Ca” Khẩu nói:” Tu Pháp Chuẩn Đề thì dùng Ô Sô Sa Ma ( Ucchusïma ) làm Kết Giới Minh Vương mà Ô Sô Sa Ma là thân sở biến của 2 Tôn Thích Ca và Bất Động. Do đó Chuẩn Đề là một hóa Thân của Thích Ca”. Quỹ ghi :” Dùng Ô Sô Sa Ma hay Vô Năng Thắng làm Kết Giới Kim Cương” vì Ô Sô Sa Ma và Vô Năng Thắng (Aparajita ) đều là thân sở hóa của Thích Ca nên Chuẩn Đề phải là Hóa Thân của Thích Ca Bạch Bảo Khẩu Sao ghi nhận:” Chuẩn Đề là hoá thân của Thích Ca biểu thị cho Đức Thuyết Pháp “ Hệ Thai Mật của Nhật Bản đem Chuẩn Đề nhập vào Phật Bộ, dùng làm một Tôn trong Phật Bộ. Do nhận định Chuẩn Đề là một Tôn trong Phật Bộ nên các Hệ Phái này thường dùng Ô Sô Sa Ma hay Vô Năng Thắng làm Kết Giới Minh Vương. II_ TRÚ XỨ: Chuẩn Đề Phật Mẫu cư ngụ tại Trời Sắc Cứu Cánh. III _ TÔN TƯỢNG: Tôn Tượng Chuẩn Đề có nhiều dạng: 4 tay, 6 tay, 14 tay, 18 tay… nhưng thông thường người ta hay thờ phụng Tượng 18 tay. Tượng Chuẩn Đề Quán Aâm của Trung Hoa : Tượng có 4 cánh tay, trên đỉnh đội Định Ấn là một vị Hóa Phật. Bên trái : Tay thứ nhất để trước eo, tay thứ hai cầm Bảo Châu ( Viên ngọc báu ). Bên phải: Tay thứ nhất cầm chày Độc Cổ, tay thứ hai nâng cao lên đem ngón cái và ngón vô danh cùng vịn nhau, Nhũ phòng ( hai vú ) sung mãn lộ xuất biểu thị cho tướng Phật Mẫu. Tượng Chuẩn Đề Quán Aâm của Tây Tạng: Tượng có 4 tay, ngồi Kiết Già trên hoa sen. Hai tay trái phải thứ nhất đặt ở trên rốn cầm Bình Bát. Tay phải thứ hai rũ xuống tác Thí Vô Uý Ấn, tay trái thứ hai co ở trước ngực cầm hoa sen trên hoa an trí một rương Kinh Phạn. Tôn Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu 18 tay được ghi nhận rất rõ trong Kinh Quỹ.Nay dựa vào Bạch Bảo Khẩu Sao ghi nhận lại sự minh họa ý nghĩa của Tôn Tượng này . Tượng có thân màu vàng trắng: Màu vàng ( A ) tượng trưng cho Thai Tạng Giới, màu trắng ( VAMÏ ) tượng trương cho Kim Cương Giới. Màu vàng trắng biểu thị cho nghĩa “ Lý Trí chẳng hai, Định Tuệ một Thể” và biểu thị cho Đức Năng Sinh của chư Phật. Mặt Tượng có 3 mắt: 3 mắt là Phật Nhãn, Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa “ 3 Đế chẳng dọc chẳng ngang, nhất như bình đẳng” Thân Tượng có mọi loại trang nghiêm tỏa ánh hào quang tròn sáng rực lửa: Sắc Pháp biểu thị cho nghĩa của Thai Tạng Giới. Mọi loại biều thị cho các Pháp như cát bụi. Trang Nghiêm biểu thị cho nghĩa Bồ Tát dùng phiền não làm Bồ Đề.Ánh hào quang tròn sáng rực lửa biểu thị cho nghĩa Tâm Pháp của Kim Cương Giới, là Trí hay phá mọi ám chướng của Tâm hư vọng. Thân Tượng có 18 tay: Hai tay bên trên tác Tướng Thuyết Pháp: Tôn này vào Nhân Đạo hay làm vị Hóa Chủ phá 3 Chướng nên đặt biệt hiện ra 3 mắt Trí nói Pháp lợi sinh nên y theo giáo vì Pháp Cơ khiến cho chứng quả vị của 3 Thân Bên Phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy: 5 ngón tay bên phải biểu thị cho 5 Trí là nghĩa của Quang Minh. Tôn này là Hóa Chủ của Nhân Đạo nên ở Thế Giới Sa Bà có hiệu là Thí Vô Úy ( Abhayamïdada ) . Do hiển nghĩa Đại Bi chân thật sạu rộng nên hiện tay này. Tay thứ ba cầm cây Kiếm: Cây Kiếm biểu thị cho Trí Tuệ giáng 4 Ma , trừ 3 Chướng, hại 3 Độc , dứt 5 Dục. Tay thứ tư cầm Sổ Châu ( Tràng Hạt ) : Tràng Hạt biểu thị cho Trí Tuệ mang nghĩa Chuyển Pháp Luân. Mẫu Châu là Bản Tôn A Di Đà. Manh mối của tràng hạt là Quán Aâm, đây là manh mối Đại Bi của Quán Aâm xâu suốt 108 phiền nảo. Mỗi lần chuyển dời một hạt ắt dứt bỏ một phiền não, nên đoạn 108 phiền não chứng 108 Tam Muội, mỗi mỗi đều đủ cho Pháp, như Đức Thần Lực chẳng thể nghĩ bàn,mỗi mỗi đều đủ vô lượng Bản Thệ Tam Muội của thân khẩu ý. Tay thứ năm cầm quả Vĩ Nhạ Bố La Ca ( Bìjapùraka): Bìja là hạt, Pùraka là tràn đầy nên Bìjapùraka được dịch là Tử Mãn Quả, quả này chí có ở Thiên Trúc.Quả này biểu thị cho hạt giống mãn vạn hạnh vạn thiện, hiển nghĩa công đức viên mãn của Phật Quả. Tay thứ sáu cầm cây búa (Phủ Việt ): Cây búa phá tất cả, không có gì không tồi phá được là tồi phá nạn Vô Minh, cắt đứt Hoặc Chướng biểu thị không dư sót. Tay thứ bảy cầm móc câu: Móc câu ( Anõku’sa ) có nghĩa là vua, 4 biển đều triều tôn nhà vua nên vạn đức đều quy vào Tôn này, nghĩa là vua của các Tôn nên gọi là Phật Mẫu. Sở Thuyên Câu Triệu tất cả chúng sinh khác vào cung Pháp Giới Nội Chứng vốn có là có triệu vào Như Lai Tịch Tĩnh Trí Đức. Do vậy hiện tay cầm móc câu. Tay thứ tám cầm Bạt Chiết La ( Vajra ) : Đường gọi Độc Cổ Xử là chày Kim Cương, Tam Cổ Xử là Bạt Chiết La ( Vajra ). Tam Cổ Xử hay tồi diệt 3 Độc hiển chư Tôn của 3 Bộ nên là Phật Mẫu của 3 Bộ. Tay thứ chín cầm vòng hoa báu ( Bảo Man) : Hoa Man xâu suốt hoa lá biểu thị cho nghĩa Vạn Đức Trang Nghiêm, là công đức của Bình Đẳng Tính Trí. Bên trái: Tay thứ hai cầm cây phướng báu Như Ý: Phướng báu Như Ý là phướng báu của Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) có địa vị cao tột. Đối với chúng sinh không có Phước Tuệ , bần cùng thì ban cho Nguyện Thế Xuất Thế. Viên ngọc báu ( Bảo châu ) là gốc rễ của mọi thiện, đáy nguồn của vạn hạnh. Tay thứ ba cầm hoa sen hồng: Hoa sen hồng tên Phạn là Padma. Hoa sen là tự tính thanh tĩnh biểu thị cho nghĩa Tự Tính Thanh tĩnh của tất cả các Pháp. Là Pháp tĩnh 3 Độc , 5 Dục, tất cả tội của Nhân Gian. Màu hồng biểu thị cho màu sắc khả ái ( đáng yêu ) Tôn này vào Nhân Đạo làm vị Hóa Chủ nên đặc biệt dùng hoa sen hồng biểu thị cho Đức này Tay thứ tư cầm bình Táo Quán: Cái Bình mang nghĩa chứa đầy tất cả vật. Phật Mẫu Tôn sinh ra các Tôn trong 3 Bộ là Đức chứa đầy. Do vậy hiện thị tay cầm bình Táo Quán. Tay thứ năm cầm sợi dây: Sợi dây biểu thị cho nghĩa giáng phục Ác Ma. Các Tôn Phẫn Nộ ( Krodha Nàtha ) hay cầm sợi dây. Tôn này trói buộc kẻ khó phục khiến cho khuynh động dẫn vào cung Pháp Giới vốn có. Trong 4 Nhiếp Phương Tiện thì đây là phương tiện Đại Bi cực vị vậy. Tay thứ sáu cầm bánh xe: Bánh Xe ( Luân_ Cakra ) nghĩa là chuyển hoặc tồi phá, biểu thị cho sự lưu chuyển sinh tử trong 25 Hữu. Khi luân chuyển đã diệt thì bánh xe dừng lại vậy. Tay thứ bảy cầm loa : Loa là vỏ ốc ( ‘Sanõkha ) mang nghĩa nói tịch tĩnh như Pháp. Lại biểu thị cho tiếng rống của sư tử, khi sư tử rống thì muôn thú trong sơn dã đều bị giáng phục. Nay dùng tiếng vang lớn của loa khiến giáng phục loại phiền não hoặc chướng của chúng sinh. Tay thứ tám cầm Hiền Bình: Hiền Bình là Tam Muội Gia ( Samaya ) biểu thị sự chứa đầy 4 Trí Cam Lộ ban cho chúng sinh đều khiến mở Hoa Giác vốn có. Tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã : Rương Kinh Bát Nhã biểu thị cho Thể của Trí Tuệ. 10 phương 3 đời Phật Bồ Tát đều y theo Bát Nhã này thành Chính Giác. Do Tôn này là Phật Mẫu của chư Phật nên cầm rương Kinh Bát Nhã. Để giúp cho Đồ Chúng dễ ghi nhớ Tôn Tượng 18 tay của Chuẩn Đề Phật Mẫu, các vị Đạo Sư Trung Hoa đã biên soạn bài tán Chuẩn Đề Phật Mẫu là: Khuôn mặt Bồ Tát như trăng đầy Sắc tướng trắng vàng rất đoan nghiêm Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện thấy Tôn nhan thường cúng dường NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Trên mặt Bồ Tát có ba mắt Như bốn biển lớn thật lặng trong Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện được năm loại mắt thanh tịnh NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tai Bồ Tát đeo báu trang sức Mọi thứ thù thắng rất trang nghiêm Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện được Nhĩ Thông , nghe Diệu Pháp NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Lồng ngực Bồ Tát hiện chữ Vạn Như trăng tròn diệu hiển quang minh Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện được Tâm Thông, nghe liễu ngộ NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát đội mão hoa trên đỉnh Trong mão hóa hiện năm Như Lai Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện được Từ Tôn ban quán đỉnh NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát khoác áo màu trắng tinh Sáu Thù đeo thể thật trang nghiêm Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện được quần áo khéo giải thoát NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Thân Bồ Tát đeo Châu Anh Lạc Tay, ngón đeo vòng báu trang nghiêm Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện đủ băm hai ( 32 ) tướng Như Lai NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát ngồi thẳng trên hoa sen Lớn cao chẳng động tựa núi vàng Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện sau sẽ ngồi tòa Bồ Đề NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Mọi chi phần trên thân Bồ Tát Thường phóng vô lượng ánh sáng lớn Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện được Từ Quang đến hộ niệm NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát kết Ấn Thuyết Pháp Biểu thị khéo nói tất cả Pháp Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện được các Pháp đều thông đạt NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm Phướng báu diệu Biểu thị Thế Gian là Tối Thắng Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện con hay dựng Phướng Đại Pháp NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát kết Ấn Thí Vô Úy Dìu dắt chúng sinh bị hiểm nạn Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con mau lìa sự đáng sợ NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm hoa sen diệu Biểu thị sáu căn thường thanh tịnh Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con lìa dơ ( ly cấu ) như hoa sen NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm kiếm Trí Tuệ Hay chặt trói buộc của phiền não Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con chặt đứt Tham, Sân, Si NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay bồ Tát cầm bình Táo Quán ( rưới vảy ) Tuôn nước Cam Lộ thấm chúng sinh Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con thường được Phật quán đỉnh NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát cầm tràng hoa màu nhiệm Mọi thứ trang điểm thật thù thắng Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện con được buộc lụa Diệu Pháp NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát cầm sợi dây Kim Cương Khéo hay dẫn nhập vào tất cả Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con được vào Pháp tương ứng NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm quả Thiên Diệu Biểu thị viên thành quả Bồ Đề Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con rộng tu các quả lành NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát cầm bánh xe tám căm Uy quang chiếu diệu khắm Tam Giới ( 3 cõi ) Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con thường chuyển Đại Pháp Luân NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm cây búa lớn Hay phá Pháp Bất Thiện bền chắc Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con đập nát núi Nhân Ngã ( Người và Ta ) NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm Loa Đại Pháp Âm thanh chấn động ba ngàn cõi Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con hay nói tất cả Pháp NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát cầm móc câu Kim Cương Khéo hay câu triệu khắp tất cả Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con thành tựu Pháp Câu Triệu NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm Bình Như Ý Tuôn ra Tạng báu với Kinh Điển Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con thọ dụng thường như ý NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm chày Kim Cương Tám Bộ Trời Rồng đều quy ngưỡng Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con điều phục kẻ khó phục NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm Kinh Bát Nhã Hàm chứa nghĩa vi diệu thâm sâu Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con không Thầy tự nhiên ngộ NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát cầm viên ngọc Ma Ni Hào quang tròn trắng không tỳ vết Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện Tâm Địa con luôn lanh lợi NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Bồ Tát Hiện mười tám tay ngồi trên Đàn Tám Đại Bồ Tát hộ tám phương Đệ Tử một lòng quy mệnh lễ NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT IV- CHÂN NGÔN: Theo truyền thống Hoa Văn thì Chuẩn Đề có Mật hiệu là Tối Thắng Kim Cương ( Vijaya Vajra ) hay Kim Cương Mẫu ( Vajra Màtrï ) Chủng tử là : BU ( ) hay SA ( ) hay CA ( ) Tam Muội Gia hình là : Hiền Bình, Hoa sen, Giáp trụ, chày Tam Cổ, chày Ngũ Cổ. Phạn Hiệu là ÀRYA BUDDHÀ BHAGAVATI ( Thánh Phật Thế Tôn ) hay ÀRYA BUDDHÀ BHAGAVATI BODHISATVA ( Thánh Phật Thế Tôn Bồ Tát ) Tam Mật Phòng ghi là: NAMO ÀRYA ‘SUDDHA BODHISATVA MAHÀ SATVA ( Kính lễ Thánh Thanh Tịnh Bồ Tát Ma Ha Tát ) Tâm Chú của Chuẩn Đề được ghi nhận qua nhiều bản khác nhau: _ Hiển Mật Viên Thông ghi là: OMÏ _ CALE CULE CUMÏDE _ SVÀHÀ _ Thắng Định Phòng ghi là: OMÏ _ ‘SALE ‘SULE ‘SUDDHE _ SVÀHÀ _ Thất Câu Chi Viện ghi là: OMÏ_ ‘SALE ‘SUDDHE _ SVÀHÀ _ Pháp Tự Luân Quán ghi là; OMÏ _ CARE SURE ‘SUDE _ SVÀHÀ _ Bạch Bảo Khẩu Sao ghi là: OMÏ_ ‘SALE ‘SULE ‘SUNTE _ SVÀHÀ _ Tự Luân Quán ghi là: OMÏ _ CALE SULE ‘SUDDHA _ SVÀHÀ _ Đồ Tượng 10 ghi nhận là: OMÏ _ ‘SALE ‘SULE CUMÏDE _ SVÀHÀ Hay OMÏ_ CALE SURE ‘SUNDHE _ SVÀHÀ _ Bản thường dùng ghi là; OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ _ Bản khác ghi là: OMÏ_ ‘SARI ‘SÙRI ‘SUDDHE _ SVÀHÀ Nay theo sự khảo cứu của chúng tôi thì chỉ có 3 bài Chú biểu thị rõ nghĩa của Phạn Văn là: 1 ) OMÏ : Cảnh Giác ‘SARI : Thú tính hoang dã, người hung bạo, loài thú hoang ‘SÙRI : Biến đổi trở thành anh hùng ‘SUDDHE : Thanh tịnh SVÀHÀ : Quyết định thành tựu. 2 ) OMÏ : Nhiếp triệu ‘SALE : Cây thương , cây giáo ‘SÙLE: Tay cầm cây thương, quyền lực với cây thương ‘SUDDHE : Thanh tịnh SVÀHÀ : Quyết định thành tựu 3 ) OMÏ : 3 Thân quy mệnh CALE : lay động. Nghĩa bóng là Giác động tức là chuyển động sự Giác Ngộ. CULE : Nghi thức cạo tóc Quy Y, đỉnh cao của căn nhà, trung tâm của sao chổi. Nghĩa bóng là Trực khởi tức là đi thẳng đến CUNÕDHE ( hay CUNÏDÏHI ) là nguồn suối nhỏ, cái giếng nhỏ, nguồn hạnh phúc.Nghĩa bóng là Tự Tính thanh tĩnh của Tâm Bồ Đề. SVÀHÀ : Quyết định thành tựu, hay thành tựu tự tính an lạc của Đại Niết Bàn. Nếu dựa theo nghĩa đen thì bài Chú trên hàm chứa nhiều ý nghĩa thô tục nên một số Học Giả đã loại bỏ câu Chú này và thay bằng câu Chú thứ hai bên trên (Nhật Bản thường dùng câu Chú thứ hai ) . Tuy nhiên dựa theo thói quen tu tập và nghĩa bóng thì người ta thường dùng câu Chú thứ ba này với ý nghĩa là: “ Khi thân khẩu ý hợp nhất với sự giác ngộ Phật Tính sẽ đi thẳng vào Tự Tính Thanh Tĩnh của Tâm Bồ Đề và thọ nhận mùi vị an lạc tịch tĩnh của Đại Niết Bàn” CÔNG NĂNG CỦA THẦN CHÚ CHUẨN ĐỀ: Công Năng của Thần Chú Chuẩn Đề được ghi nhận rất nhiều trong các Kinh Quỹ. Nay chúng tôi chỉ ghi nhận thêm một số công năng mà Kinh Quỹ ghi thiếu như sau: _ Trừ Khẩu Thiệt: Đoạn 5 Tân, đủ Trai Giới, trong 14 ngày vào Đạo Trường này liền tăng lộc ép buộc oan gia tai hoạnh vì khẩu thiệt. Mỗi đêm 3 thời hướng về Bản Tôn tụng Chân Ngôn 108 biến, cứ một biến thì xưng tên gọi của kẻ ấy một lần liền giải oán kết, thân như cha mẹ. Trừ Khẩu Thiệt Lợi Quan Trị Tất Trúng Chú là: “ Phu phu, túc bà túc bà, a kính bà a kính bà, cứu tra cứu tra, sa ha” BHUHÏ BHUHÏ_ ‘SUBHA ‘SUBHA _ AKAMÏPA AKAMÏPA _ KUTÏA KUTÏA _ SVÀHÀ _ Cầu Thông Minh: Nếu muốn cầu thông minh. Lấy Thạch Xương Bồ, Ngưu Hoàng mỗi thứ nửa lạng, đảo quết làm bụi nhỏ rồi hòa với bơ. Ở trước Phật làm Man Trà La, niệm tụng 5000 biến rồi uống vào liền được thông minh. Thông Minh Chú là: “ Mỵ đế mỵ đế, ưu đế ưu đế, ưu đà đế , sa ha” MITI MITI_ UTTI UTTI _ UDÀTTI _ SVÀHÀ _ Thấy cha mẹ đã chết và diên mệnh: Nếu muốn thấy cha mẹ đã quá vãng với nam nữ đã quá vãng kèm biết nơi thọ sinh. Trong 14 ngày y theo Pháp niệm tụng đều được thấy biết. Lại Quỹ ghi rằng: Cha mẹ gặp Pháp này, được vào Quán Đỉnh hay khiến cho con cháu đều cùng được phước. Nếu nam nữ được vào Quán Đỉnh hay khiến cho cha mẹ sống lâu tăng phước, vĩnh viễn không có tai nạn, mong cầu vừ ý. _ Cầu mưa: Nếu có đại hạn. Vào giữa đêm đốt An Tất Hương , kết Ấn rồi Sắc cho Rồng ở 5 phương mau khiến tuôn mưa. Nếu 21 ngày mà chưa tuôn mưa, liền lấy Trầm Thủy Hương khắc 5 vị Rồng dài 9 thốn, tùy phương vẽ 5 màu đều an trên Đàn. 7 ngày y theo Pháp niệm tụng liền được tuôn mưa. Nếu muốn tạnh mưa liền ngửa mặt hướng lên Trời tụng Đà La Ni 81 biến tức tạnh mưa. _ Hiện Thanh Y Đồng Tử phụng sự: Mỗi ngày đêm 6 thời tụng Đà La Ni này 1080 biến. Trải qua 49 ngày như Niệm Tụng này tức Thanh Y Đồng Tử sẽ hiện thân phụng sự người niệm tụng. Hai Đồng Tử ấy đều tự có Sứ Giả ( 7 người ) . Đồng Tử bên trái biết việc sinh sống, thiện ác, cát hung của Nhân Gian. Vị Đồng Tử bên phải biết việc thiện ác trong Minh Đạo ( Cõi Aâm ) . Muốn biết việc Quan Lộc, tuổi thọ, cát hung của người liền Sắc cho Đồng Tử bên phải khiến nơi Minh Đạo sao chép Tính ( Họ Tên ) sắc cho Tư Mệnh với Diêm La mau chóng báo . Mỗi lần Sắc thời kết Ấn tụng Đà La Ni 7 biến liền ở trong cõi Aâm biết đủ thiện ác. Vị Đồng Tử bên phải ấy tự hiện thân có thể hỏi gốc rễ. Thầy nói: Nếu có thể 49 ngày như 6 thời này niệm niệm xong. Sau đó tụng thêm 108 biến, cũng chẳng khác biến số. Hai vị Đồng Tử ấy hỏi lấy Danh Tự, cần sai khiến liền sai khiến. V_ ẤN KHẾ : Ấn Khế của Chuẩn Đề có rất nhiều. Nay chi ghi nhận 2 Ấn với ý nghĩa cơ bản của Ấn Khế. Đệ Nhất Căn Bản Ấn: Hai Luân Địa , hai Luân Thủy cài nhau đặt trong lòng bàn tay. Hai Luân Hỏa dựng đứng thẳng cùng vịn nhau. Hơi co hai Luân Phong vịn trên lóng thứ nhất trên lưng hai Luân Hỏa. Hai luân Không đặt bên cạnh hai Luân Phong Ấn này gọi là Tam Cổ Ấn, Tam Năng Sinh Phật Mẫu Ấn tức là Phật Đỉnh Ấn biểu thị cho nghĩa của Phật Mẫu.Trong đó: Hai Luân Địa ( 2 ngón út ) cài bên trong biểu thị cho Thành Sở Tác Trí, làm nghiệp Đức bên trong là Phật Đỉnh Ấn nên tác nghiệp chẳng lộ ra ngoài. Hai Luân Thủy ( 2 ngón vô danh) cài bên trong biểu thị cho Diệu Quan Sát Trí là Đức Thuyết Pháp Đoạn Nghi nên thường ở bên trong Hai Luân Hỏa ( 2 ngón giữa ) là Pháp Thể của Pháp Nhĩ căn bản Hai Luân Phong ( 2 ngón trỏ ) là Giới Tuệ của Tu Sinh Thủy Giác, thường hay khai mở nghĩa Tâm Bồ Đề của chúng sinh Hai Luân Không ( 2 ngón cái ) là nghĩa Nhất Đức Thành Tựu của Pháp Giới Thể Tính Trí Kết Ấn này , tụng Chân Ngôn: NAMO SAPTÀNÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA KOTÏINÀMÏ OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ Đệ Nhị Căn Bản Ấn: Hai tay hướng ra ngoài cài chéo nhau, kèm dựng 2 ngón trỏ, 2 ngón cái liền thành Ấn này thường dùng để Hộ Thân. Khi kết Ấn Hộ Thân thì khởi Tâm Đại Bi duyên khắp 4 loài sinh trong 6 nẻo. Nguyện cho tất cả Hữu Tình đều mặc áo giáp Kim Cương bền chắc trang nghiêm Đại Thệ mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề. Kết Ấn này, tụng Chân Ngôn là: OMÏ _ KAMALE VIMALE CUNÕDHE _ SVÀHÀ Ý nghĩa của tay Ấn này là: 6 ngón ( 2 ngón út, 2 ngón vô danh, 2 ngón giữa ) cùng cột buộc nhau biểu thị cho sự ràng buộc sinh tử trong 6 nẻo 2 ngón trỏ chỉ cho Thể ngưng nghỉ của Mệnh mà chúng sinh cột buộc trong Tả Đạo đã trở thành mệnh ngắn ngủi vô thường. Do Phật Giới thuận Hữu Đạo nên Tuệ Mệnh thường trụ bất biến. Như vậy 2 ngón trỏ hợp nhau biểu thị cho sự hòa dung của Phật Giới và Sinh Giới khiến cho chúng sinh đoản mệnh được hòa hợp với Tuệ Mệnh thường trụ của Phật Giới. 2 ngón cái hợp dựng biểu thị cho sự Quy Pháp Giới Đại Không. Riêng Ấn này tập Giáp Trụ Ấn. Do Tôn này là sở biến của Bắc Phương Hộ Bồ Tát , mặc giáp trụ Kim Cương bền chắc hộ Phật, hộ mệnh cho chúng sinh. Bên trong tồi phá phiền não của nẻo ác, bên ngoài giáng phục 3 chướng nạn của Ma. Duyên khắp 4 loài trong 6 nẻo thành tựu diên mệnh cho Hữu Tình. Nếu cầu Diên Mệnh Tất Địa thời quán nghĩa lý này. VI_Ý NGHĨA PHÁP VẼ TƯỢNG CHUẨN ĐỀ PHẬT MẪU: Thất Câu Đê Phật Mẫu Sở Thuyết Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh ( Do Tam Tạng BẤT KHÔNG dịch ) có ghi: “ Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu với thân màu trắng vàng, ngồi Kiết Già trên hoa sen, thân tỏa hào quang tròn có dính hạt thóc nhẹ như áo của 10 Ba La Mật Bồ Tát, phía trên bên dưới đều tác màu trắng. Lại góc áo khoác ngoài ( Thiên Y ) có quấn anh Lạc, đội Mão Trời, cánh tay đều đeo vòng xuyến. Đàn Tuệ ( 2 bàn tay ) đều đeo vòng báu. Mặt Tượng ấy có 3 mắt, 18 cánh tay. Hai tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp Bên phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy, tay thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm vòng hoa báu, lòng bàn tay thứ năm cầm Cụ Duyên Quả, tay thứ sáu cầm cây Búa, tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay thứ tám cầm chày Kim Cương, tay thứ chín cầm Tràng Hạt. Bên trái: Tay thứ hai cầm cây Phướng báu Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen hồng hé nở, tay thứ tư cầm Quân Trì, tay thứ năm cầm Sợi Dây, tay thứ sáu cầm Bánh Xe, tay thứ bảy cầm Thương Khư (‘Sanõkha_Vỏ ốc ) , tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã. Bên dưới hoa sen vẽ ao nước. Trong ao có Long Vương Nan Đà ( Nanda Nàga ràja ) , Long Vương Ổ Ba Nan Đà ( Upananda Nàga ràja ) nâng tòa hoa sen. Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh, hướng mắt nhìn xuống. Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên Tử, một vị tên là Cụ Sách Đà Thiên Tử, tay cầm vòng hoa hướng xuống dưới, nương theo trên hư không đến cúng dướng Thánh Giả”. Ý nghĩa của Tranh Tượng này là: _ Thân màu trắng vàng: Biểu thị cho nghĩa Lý Trí chẳng hai, Định Tuệ một Thể hàm chứa Đức Năng Sinh của chư Phật. _ Ngồi Kiết Già: Biểu thị cho tính Nhất Như của sinh tử và Niết Bàn _ Hoa sen : Biểu thị cho Tâm Đại Bi _ Thân tỏa hào quang: Biểu thị cho Trí phá ám chướng của Tâm hư vọng. _ Phía trên bên dưới toàn là màu trắng: Biểu thị cho sự hiển bày Pháp Đại Bi trắng tịnh để hóa độ chúng sinh _ Mọi thứ trang sức trên thân: Biểu thị cho hiện tượng Bồ Tát đi vào dòng sinh tử dùng phiền não để hiển thị Bồ Đề. _ Mặt có 3 mắt : Hiện Phật Nhãn, Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa Ba Đế chẳng dọc chẳng ngang, nhất như bình đẳng. _ Thân có 18 tay: Hai tay thứ nhất : tác tướng thuyết Pháp biểu thị cho sự hiển bày Phật Pháp hóa độ chúng sinh . Còn lại tám tay bên trái biểu thị cho Mê Giới và tám tay bên phải biểu thị cho Phật Giới . Hai tay thứ hai : Tay trái cầm Phướng báu tượng trưng cho Tâm Bồ Đề vốn có nơi mọi chúng sinh mà chẳng tự biết . Nay dùng tay Thí Vô Úy bên phải gia trì khiến cho hiển đắc Tâm Bồ Đề đó . Hai tay thứ ba : Tay trái cầm hoa sen tượng trưng cho Bản Thể vô cấu nhiễm vốn có của mọi chúng sinh, nhưng do dựa vào phiền não ngăn trệ mà dư Tập khí chưa hết nên chẳng hiển lộ được vạn đức . Nay dùng cây kiếm sắc bén bên phải tượng trưng cho Đẳng Giác của Phật giới, một lần chuyển kiếm chém đứt dư Tập khí ấy khiến cho hoa sen thanh tịnh nở bày những cánh hoa vạn đức vạn thiện . Hai tay thứ tư : Tay trái cầm bình Quân trì chứa nước Táo quán ( Nước rưới vảy ) tượng trưng cho Trí Tuệ vốn có của chúng sinh . Nhưng do không có Phước, không có trí như đất khô cằn chẳng có nước thấm ướt nên mầm giống Bồ Đề chẳng thể sinh trưởng được, đây tức là dựa vào phiền não mà chẳng thể phát sinh Trí Tuệ . Nay dùng tay phải cầm Tràng hạt gia trì khiến cắt đứt 108 phiền não để cho hiển đắc được nước Trí Tuệ của Như Lai rưới thấm ướt đất tâm khô cằn . Nước ấy là Đức của Trí Thủy chứa trong bình Quân Trì vậy . Hai tay thứ năm : Tay trái cầm sợi dây tượng trưng cho sự ràng buộc cột trói chúng sinh trong nhà sinh tử, sự ràng buộc này thiên về Thức thứ tám (Alàya vijnõàna). Tay phải cầm Cụ Duyên Quả ( Bìja pùraka_ Tử Mãn Quả ) tượng trưng cho thức thứ tám là thức của tâm . Nhiều hạt giống của Pháp ở ngoài Tâm được thu nạp vào mà chẳng bị hư hoại hao tổn, lại tùy ý khiến sinh ra sự xoay chuyển làm cho Thức thứ tám lưu chuyển, chứng đắc được cảnh giới Đại Viên . Khi ấy tất cả năm ấm thuộc chủng tử trong Thức thứ tám đều bị thiêu hủy hết nên A lại gia hiển bày Tâm Tĩnh Bồ Đề vô cấu nhiễm giống như đẳng hư không . Như vậy, dùng Cụ Duyên Quả gia trì chuyển Thức thành Trí thì dây nghiệp bị thiêu cháy hết mà ngưng nghỉ sự luân chuyển của sinh tử bản hữu . Hai tay thứ sáu : tay trái cầm Bánh xe tượng trưng cho sự luân chuyển trong ba cõi sáu đường của các chúng sinh . Tay phải cầm cây búa là lợi khí đập nát . Nay dùng búa lớn đập nát bánh xe luân chuyển khiến nó trở thành Đức Luân Viên Cụ Túc của Như Lai . Hai tay thứ bảy : Tay trái cầm Thương Khư ( ‘Sanõkha ) là vỏ ốc trong biển tượng trưng cho chúng sinh đang trầm luân trong biển khổ sinh tử . Nay tay phải cầm Đại Bi Câu ( Móc câu Đại Bi ) tiếp dẫn khiến cho đến được bờ bên kia là Niết Bàn an lạc . Hai tay thứ tám : tay trái cầm Hiền Bình tượng trưng cho sự hòa hợp của Sắc ( Rùpa ) Tâm ( Citta ) là nẻo sinh tử, nước trong bình tượng trưng cho sự nắm giữ tội của ba nghiệp mà lưu chuyển không cùng . Nay tay phải dùng Bạt Chiết La Tam Cổ Xử ( Chày Tam Cổ Kim Cương ) phá nát ba nghiệp ấy mà chặn đứng dòng sinh tử . Hai tay thứ chín : Tay trái cầm Bát Nhã Phạm Khiếp là Trí Thức sở nạp trong Tâm, do chẳng tự biết nên phải bị trầm luân trong biển khổ . Nay tay phải dùng Bảo Man ( Vòng hoa báu ) gia trì khiến khai phát Bản Trí ấy . Bảo Man là Tâm Tính Nghiêm vậy Do các nghĩa này mà Chuẩn Đề ( Cunõdhe ) còn được dịch ý là MINH hoặc Diệu Giác . Đây là thành quả của Tuệ Ba La Mật và là điều kiện căn bản để phát sinh Chư Phật vậy . _ Trong ao nước có 2 vị Long Vương Nan Đà, Ô Ba Nan Đà cùng nâng đỡ tòa sen: Tòa sen tượng trưng cho núi Tu Di ( Sumeru ) 2 anh em Long Vương Nanda và Upananda là 2 Long Vương quấn quanh chân núi ấy. Khi Đức Thích Ca đản sinh thời Long Vương dùng nước nóng tắm gội nên 2 vị Rồng này biểu thị cho Đẳng Giác Vị hay Vô Cấu Vị . Dùng nước Vô Cấu tắm gội khiến thành Diệu Giác, mãn Quả Diệu Giác này thì Thích Ca và Chuẩn Đề đồng Thể. Sau khi mãn Quả dùng Đẳng Giác Vô Cấu nên hai vị Rồng làm Tòa biểu thị cho nghĩa này. Hai vị Rồng nâng đỡ cọng sen: Bồ Tát Đạo theo thứ tự tu hành Địa Ba La Mật từ Địa thứ nhất cho đến Địa thứ mười một. Nên biết Địa sau dùng Địa trước làm thềm bậc nên nói Như Lai dùng Thân Bồ Tát làm Tòa Sư Tử. Nay 2 rồng nâng đỡ cọng sen được biểu thị cho nghĩa này Hoa sen sinh từ nước: Nước biểu thị cho nước Định ( Định Thủy ) mang ý nghĩa Dưỡng Nuôi Thủ Hộ . Do đó hoa sen sinh từ nước được hiểu là Dùng nước Định nuôi dưỡng tự tính thanh tịnh bất nhị . _Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên: Chúng Tĩnh Cư gồm có 5 vị Thiên Tử là: Tự Tại Thiên Tử, Phổ Hoa Thiên Tử, Quang Man Thiên Tử, Ý Sinh Thiên Tử, Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử. Các vị Thiên này đều biểu thị cho nghĩa Trong Sạch ( ‘Suddha ) đều là Pháp căn bản để sinh ra Thánh Giả. Nay đề cử 2 vị Thiên này đều là Thánh Giả thân cận Đức Phật, lắng nghe nói Pháp để hóa độ phương khác. Vì Chuẩn Đề Phật Mẫu hay vào Nhân Đạo nói Pháp lợi sinh, xoay chuyển Pháp Luân tồi phá tội ác của chúng sinh. Nên trong tranh tượng vẽ 2 vị Thiên này. _ Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh, hướng mắt nhìn xuống: Người Trì Minh cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả: Biểu thị cho sự đem nhiệt tâm chân thành quán sát rõ ràng Pháp Yếu của Bản Tôn nhằm chuyên chú thực hành Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh , hướng mắt nhìn xuống: Biểu thị cho lực gia trì của Bản Tôn luôn luôn hiện hữu. Nếu Hành Giả biết cách thọ nhận sẽ thành tựu Tất Địa mong cầu. Ngoài ra trong Kinh còn ghi rằng bên dưới trang tượng nên viết Bài Kệ Pháp Thân Duyên Khởi nhằm giúp cho Hành Nhân chuyên chú quán niệm sẽ mau chóng thực chứng được Pháp Duyên Khởi mà chứng Đạo Bồ Đề. Pháp Thân Duyên Khởi Kệ là: “ Chư Pháp tùng Duyên Khởi Như Lai thuyết thị Nhân Bỉ Pháp Nhân Duyên tận Thị Đại Sa Môn thuyết” Dịch là: “ Các Pháp theo Duyên khởi Như Lai nói là Nhân Pháp ấy Nhân Duyên hết Là Đại Sa Môn nói” Các Bậc Đạo Sư Tây Tạng thì thay bài Kệ trên bằng Thần Chú Duyên Khởi là: OMÏ_YE DHARMA HETU PRABHÀVA HETUN TESÏÀMÏ TATHÀGATO HYA VADATA TESÏÀMÏ CHAYO NIRODHA. EVAMÏ VÀDI MAHÀ ‘SRAMANÏAHÏ YE _ SVÀHÀ Mùa Xuân năm Giáp Thân ( 2004 ) HUYỀN THANH (Nguyễn Vũ Tài) kính ghi <br style="page-break-before:always" clear="all"> Mật Tạng Bộ 3_ No.1075 ( Tr.173_ Tr.178 ) PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI MINH ĐÀ LA NI KINH Hán dịch : Đời Đường_ Thiên Trúc Tam Tạng KIM CƯƠNG TRÍ Việt dịch : HUYỀN THANH Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm ( Bhagavan_Thế Tôn ) ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc trong đại thành Danh Xưng.Bấy giờ Đức Thế Tôn suy tư quán sát thương lo cho các chúng sinh đời vị lai nên nói Quá Khứ Thất Câu Đê Chuẩn Đề Như Lai Đẳng Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni cho đến nay Ta cũng nói. Liền nói Đại Minh là: “ Ná ma táp đa nam, tam miệu tam bột đà, câu đê nam. Đát điệt tha: Aùn_ Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề, sa phộc ha” NAMO SAPTANÀMÏ SAMYAKSÏAMÏBUDDHA KOTÏINÀMÏ. TADYATHÀ : OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca thọ trì đọc tụng Đà La Ni này mãn 90 vạn biến thì 5 tội Vô Gián với tất cả tội nặng trong vô lượng kiếp sau đều diệt hết không sót. Ở nơi sinh ra đều gặp thẳng chư Phật, Bồ Tát, hết thảy tư cụ tùy ý sung túc, vô lượng trăm ngàn đời thường được xuất gia, thường là nơi chư Thiên yêu kính cũng thường thủ hộ. Nếu sinh vào chốn nhân gian sẽ làm con của nhà Đế Vương, hoặc sinh vào nhà quý tộc. Nhà đó không có tai hoạnh, bệnh khổ gây não hại, chẳng bị đọa vào 3 nẻo ác, mọi việc tạo tác trong chư Hữu (các cõi ) không có gì không có đồng bạn, nói ra lời dạy thì người đều tin nhận. Tụng Đà La Ni này 10 vạn biến thì được thấy Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật, nếu có tội nặng chẳng được nhìn thấy. Liền tụng đủ 10 vạn biến tức trong Cảnh Giới nôn mửa cơm màu đen. Hoặc thấy lên cung điện. Hoặc lên núi cao với trên cây. Hoặc thấy biển lớn xoáy nước. Hoặc bay trên hư không tự tại. Hoặc thấy Thiên Nữ ban cho Diệu Ngôn Biện. Hoặc thấy ở trong Đại Tập Hội nghe nói Diệu Pháp. Hoặc thấy nhổ tóc, tự mình cạo đầu. Hoặc ăn Lạc Phạn ( Cơm có trộn lạc ), uống Cam Lộ màu trắng. Hoặc vượt qua biển lớn. Hoặc nổi trên sông nhỏ sông lớn.Hoặc lên Tòa Sư Tử. Hoặc thấy cây Bồ Đề. Hoặc ngồi trên thuyền. Hoặc thấy Sa Môn. Hoặc mặc áo trắng, áo vàng dùng áo che phủ đầu. Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng. Hoặc thấy đồng nam, đồng nữ. Hoặc thấy trên thân của mình có cây sữa. Hoặc lên cây có hoa quả. Hoặc thấy trong miệng của Hắc Trượng Phu phun ra lửa mạnh, sợ hãi chạy đi. Hoặc thấy ngựa, trâu ác có dạng tựa như đánh nhau. Hoặc thấy tự ăn cháo sữa. Hoặc thấy hoa trắng có mùi thơm. Nếu thấy tướng như trên liến biết Diệt tội sinh phước. Nếu bị 5 tôi nghịch , nghiệp cực nặng chẳng được thấy tướng trên. Cần phải tụng đủ 70 vạn biến ắt được thấy tướng mạo như trước. Lại nữa, nay Ta nói công năng, việc tạo tác của Đà La Ni này.Nếu ở trước tượng Phật hoặc ở trước tháp xá Lợi hay nơi thanh tĩnh, dùng Cù Ma Di xoa tô đất rồi làm Man Trà La ( Manïdïala _ Đàn ) hình vuông rộng 4 khuỷu tay. Lại đem hương , hoa, phướng, lọng, thức ăn uống, đèn sáng, đuốc lửa tùy theo sức bày biện y theo Pháp cúng dường. Nếu muốn cầu nguyện. Trước tiên nên niệm tụng, gia trì vào nước thơm rải 8 phương, trên, dưới để Kết Giới. Kết Giới xong, ở 4 góc và chính giữa Man Trà La đều để một cái bình nước thơm. Hành Giả ở mặt Tây hướng về phương Đông, quỳ dài niệm tụng 1080 biến. Bình nước thơm ấy liền tự chuyển động, tùy ý Đông Tây nhận dùng cao thấp. Hoặc dùng cái bát sành sứ sạch, đốt hương xông ướp, trong ngoài bôi xoa hương thơm, chứa đầy nước thơm và hương hoa tốt rồi đặt ở trong Mạn Trà La. Y theo Pháp cái bình lúc trước mà tác niệm tụng thì cái bát ấy liền chuyển động cùng với cái bình không khác. Nếu muốn biết tất cả việc : Thành Tựu, Chẳng Thành Tựu. Liền đốt hương, phát nguyện, khải bạch Thánh Giả, Nguyện Tâm quyết nghi. Nếu chuyển bên phải thì biết thành tựu, chuyển bên trái tức chẳng thành tựu Lại lấy hoa tốt, niệm tụng 108 biến. Khiến một Đồng Tử tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch. Dùng bột hương xoa tay, nâng hoa án khôn mặt. Lại đưa tay của mình liền lấy hoa riêng niệm tụng. Cứ một biến thì một lần ném lên thân Đồng Tử, đồng tử liền nghe việc thiện ác và nói lại. Tùy ý múa cười, đứng ngồi, đi lại. Hoặc ở mặt gương sáng sạch, dùng hoa tốt niệm tụng 108 biến rồi rải lên trên gương thì Sứ Giả liền hiện trong gương. Lại dùng Pháp trước, liền lấy hoa tốt rải trên mặt gương liền có tướng thiện ác hiện trong gương. Hoặc dùng Chu Sa , hoặc dùng dầu thơm bôi móng ngón tay cái ( Dầu thơm dùng hoa Tô Ma Na xâm trong dầu Hồ Ma ) niệm tụng 108 biến liền hiện Thiên Thần với hình tượng chư Tăng, Bồ Tát,Phật. Nếu Tâm có sự nghi ngờ việc trong ba cõi, mỗi mỗi thỉnh hỏi đều biết thiện, chẳng thiện tức đều tự hiện trên ngón tay cái. Nếu người bị bệnh ác. Dùng cành Thạch Lựu, mầm non màu trắng, cỏ thơm… niệm tụng, dùng roi phất phẩy liền khỏi. Hoặc dùng cỏ mầm để trong bơ, niệm tụng 7 biến ném vào trong lửa thiêu đốt rồi xông khói vào người bệnh, liền trừ khỏi. Hoặc nhờ Đồng Nữ xe sợi thành dây chỉ, niệm tụng một biến thì kết một gút. Như vậy đủ 21 gút đem cho người bệnh, trẻ con nam nữ cột buộc trên đỉnh đầu thì bệnh do hàng Ma. Quỷ, Mỵ ác gây ra đều được trừ khỏi. Hoặc dùng hạt cải trắng để trong bơ. Lấy chút ít hạt cải, niệm tụng một biến thì một lần ném trong lửa, 21 lần như vậy thì bệnh liền khỏi. Lại dùng Cù Ma Di xoa tô đất làm Mạn Trà La. Dùng tro vẽ đất làm hình ấy, dùng roi gậy bằng cành Thạch Lựu đánh thì Quỷ đó kêu khóc cầu xin, tự bỏ chạy chẳng dám đến. Hoặc dùng Đồng, Thiếc, Gỗ làm chày Kim Cương để bên cạnh người bệnh, niệm tụng dùng gậy đánh thì Quỷ cũng liền bỏ chạy. Lại có Pháp. Nếu có người bị Quỷ ám thân, lại ở nơi xa không thể tự đến, hoặc Hành Giả chẳng thể tự đi. Nên lấy cành Dương Liễu, niệm tụng 108 biến rồi sai người mang đến chỗ ấy, nói rằng:” Ngươi ở hay ngươi đi. Ta tên (….. ) sai mang gậy roi này cho ngươi. Nếu ngươi chẳng đi sẽ tổn hại cho ngươi”. Nếu chẳng đi , dùng roi đánh thì Quỷ liền bỏ đi. Lại có Pháp. Nếu đi đêm trên đường, niệm tụng không thiếu sẽ không bị vướng nạn sợ hãi về giặc cướp, trộm cắp, cọp, sói, Quỷ, Mỵ ác. Giữ Tâm niệm tụng và tác Hộ Thân thì các nạn thuộc nhóm ấy đều tự tiêu diệt, hoặc phát Tâm Bồ Đề hoặc sinh sợ hãi, hoặc có lời nói Tâm cầu miễn nạn, nếu bị cột trói liền tự giải thoát. Nếu muốn vượt qua sông hồ, biển lớn mà trong nước có hàng Rồng, Cù đáng sợ. Niệm tụng như Pháp trước liền được chẳng sợ. Hoặc bị rắn cắn, liền khiến người ấy nhiễu vòng quanh người Niệm Tụng một số vòng, liền khỏi. Hoặc bị Đinh Sang, ung thư, ghẻ nhọt, bệnh lác, bệnh lậu. Lấy Huân Lục Hương, đất sạch cùng hòa với nước, niệm tụng 21 biến rồi xoa bôi lên trên, liền khỏi. Hoặc quốc thổ bị khô hạn, nguồn nước chẳng đều. Nhóm trâu, ngựa, súc vật vướng dịch độc lưu hành. Nên dùng Du Ma, Đại Mạch, gạo tẻ, hạt dẻ, đậu, bơ, mật, sữa, lạc, cây có nhựa trắng, các loại hương tạp… đều để một bên, đốt hương phát nguyện:” Vì tất cả chúng sinh trừ khử tai nạn” . Liền tác Thủ Khế ( Tay Ấn ) Hộ Thân, tưởng niệm. Lấy các vật lúc trước niệm tụng gia trì rồi ném vào trong lửa thiêu đốt. Như vậy 7 ngày, mỗi ngày 3 thời tác Pháp, mỗi thời 1080 biến liền được mãn nguyện, tất cả an vui, tất cả Tam Bảo thảy đều hộ trợ cũng hay thành tựu tất cả Đại Nguyện. Nếu muốn giáng phục các Đại Quỷ Thần, nhìn thấy liền tâm phục. Lấy 7 hạt xương Xá Lợi để trong cái bát Lưu Ly trắng. Lấy nửa thăng Đề Hồ đổ đầy cái bát. Vào đêm thuộc ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, trước Đài Hương với trước tháp Suất Đổ Ba, dùng bùn xoa tô Mạn Trà La hình vuông rộng một, hai khuỷu tay. Đặt cái bát ở trong, lấy hoa tốt cúng dường, mặt Tây để một lò hương, thiêu đốt An Tất Hương, gấp rút niệm tụng thì Xá Lợi trong cái bát ấy sẽ tỏa ánh sáng, hoặc sinh ra Xá Lợi thời Hành Giả cầm lò hương phát nguyện lễ bái. Liền lấy Xá Lợi ra, uống hết Đề Hồ. Lấy cái bình Lưu Ly chứa Xá Lợi ấy, dùng lụa ngũ sắc phủ đầy rồi đội trên đầu, tức vô lượng câu đê Phật thường toại hạnh, các hàng Quỷ Thần tự nhiên giáng phục. Lúc tác Pháp thời một ngày một đêm chẳng ăn. Nếu cầu giàu có. Dùng gạo tẻ, Du Ma để trong bơ, lạc. Tay nhúm chút ít, phát nguyện niệm tụng 7 biến rồi ném vào trong lửa thiêu đốt. Tùy sức từ 7 ngày đến 49 ngày , liền như nguyện ấy. Nếu cầu con. Ở trên lá, vỏ cây hoa viết Đà La Ni này và vẽ Đồng Tử. Dùng áo lót màu tím, niệm tụng 1080 biến rồi để trong búi tóc, liền mang thai. Nếu muốn kẻ khác kính nhớ thì xưng tên gọi của người ấy, niệm tụng Bản Bộ 1080 biến liền được kính nhớ. Nếu chồng chẳng thích vợ. Lấy cái bình sạch chứa đầy nước thơm, đặt riêng ở Tĩnh Xứ. Dùng Cù Ma Di xoa làm Mạn Trà La, niệm tụng 108 biến. Như vậy 7 cái bình đều tác Pháp này. Ở Tĩnh Xứ dùng hương hoa làm Đạo Trường, lấy nước thơm bên trong bình tắm gội thì người chồng liền yêu thích, cũng được mang thai. Vợ chẳng thích chồng cũng như Pháp lúc trước. Nếu muốn giáng phục Xả Đổ Lô ( ‘Satrù: Oan Gia ) Lấy một Kiếp Ba La, nước nóng thơm tắm gội sạch sẽ. Lấy Hoàng Đan hòa với bơ xoa bôi trên Kiếp Ba La liền xoa tô khắp rồi đặt trong một Mạn Trà La nhỏ. Xong lấy 5 chén đèn bơ đặt ở 4 góc và chính giữa, xưng Na Ma (Nàma: Tên gọi ) trước tiên, niệm tụng , một lần xưng một lần tụng, gia trì vào hạt cải trắng. Để một chén sữa trên Mạn Trà La cúng dường Kiếp Ba La này, một đêm đổi một lần, nói rằng:” Vì Con lấy Chất Đa (Citta: Tâm ) ấy đến “. Cái đó tức Chất Đa Nậu Khư ( Citta duhïkha : Sự khổ não bất toàn của tâm ) Muốn Mẫu Đà ( Buddha: Giác Tuệ ) thì Xả Đổ Lô ( ‘Satrù : Oan gia) ấy liền phục thật. Chớ khiến hết, vì hết tức nhiều kiếp chất chồng sẽ trừ bỏ Đạo. Nếu muốn cầu thông minh. Lấy Thạch Xương Bồ, Ngưu Hoàng, mỗi thứ nửa lạng, giã thành bụi, dùng bơ hòa. Ở trước Phật làm Mạn Trà La, niệm tụng 5000 biến rồi uống vào, liền được thông minh. Muốn được thấy tất cả Quỷ Thần. Lấy Ngưu Hoàng niệm tụng khiến cho khói, lửa hiện ra. Liền bôi con mắt và uống vào, liền nhìn thấy. Lại có Pháp. Ở bên cạnh biển lớn hoặc trên bãi cát bên sông, sông dùng ấn hình tượng cái Tháp. Ấn cát trên đầm làm hình tượng Tháp, niệm tụng một biến thì ấn thành hình cái Tháp, như vậy đủ số 60 vạn biến liền được nhìn thấy Tượng của Thánh Giả Quán Tự Tại, hoặc thấy Đa La Bồ Tát, Kim Cương Tạng Bồ Tát, tùy theo tâm nguyện ấy đều được mãn túc. Hoặc thấy trao cho Thuốc màu nhiệm của Tiên Thần, hoặc thấy trao cho Bồ Đề thọ ký, hoặc hiện trước mặt đến hỏi thì tùy theo điều cầu nguyện đều được địa vị của hàng Bồ Tát. Lại có Pháp. Nếu nhiễu quanh Tượng của cây Bồ Đề, hành Đạo niệm tụng mãn 100 vạn biến liền thấy Phật, Bồ Tát, La Hán vì mình nói Pháp. Ý muốn tùy Bồ Tát liền được làm tùy tòng, sự mong cầu như nguyện cho đến thân đời này thành Đại Chú Tiên, liền được đi đến Tĩnh Thổ ở 10 phương phụng sự chư Phật, được nghe Diệu Pháp. Lại có Pháp. Nếu lúc khất thực thời thường trì Đà La Ni này thì chẳng bị người ác, chó ác… xâm hại, khất thực dễ được. Lại có Pháp. Nếu ở trước Tháp hoặc trước tượng Phật hoặc trước Tháp Xá Lợi tụng trì Đà La Ni này 30 vạn biến. Lại vào ngày mồng một cho đến ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, bày cúng dường lớn, một nhày một đêm chẳng ăn, chính niệm tụng thời được thấy Kim Cương Tạng Bồ Tát liền đưa người ấy đến trong cung của mình. Lại có Pháp. Nếu vướng Vương Nạn ( Nạn vua chúa ) bị cột trói, nhốt cùm, xiềng xích, cấm đoán thân ấy. Tụng Đà La Ni này liền được giải thoát. Lại có Pháp. Nếu ở trước Tháp Chuyển Pháp Luân , hoặc trước Tháp nơi Phật sinh ra, hoặc trước Tháp ở thềm báu mà Đức Phật từ Trời Đao Lợi đi xuống, hoặc trước Tháp Xá Lợi . Ở trước các Tháp của nhóm như vậy niệm tụng nhiễu theo bên phải 49 ngày liền thấy A Bát La Thị Đa Bồ Tát ( Aparajita Bodhisatva: Vô Năng Thắng Bồ Tát ) và A Lợi Đề Bồ Tát ( Hrïtye Bodhisatva_ Quỷ Tử Mẫu Bồ Tát ) , tùy theo sự cầu nguyện đều được mãn túc. Nếu cầu Thuốc Tiên tức liền trao cho, lại vì người ấy nói Pháp để hiển bày Đạo Bồ Đề. Nếu có người tụng Đà La Ni này cho đến chưa ngồi Đạo Trường thì tất cả Bồ Tát sẽ làm bạn tốt của người ấy. Lại Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni này được chư Phật nói vì lợi ích cho tất cả chúng sinh về Đạo Trường Bồ Đề vô biên. Nếu có chúng sinh bạc phước không có chút căn lành, không có căn khí, không có Bồ Đề Phần. Nếu người đó được nghe Chuẩn Đề Đà La Ni này hoặc đọc một biến liền được sinh mầm giống căn khí của Bồ Đề Phần, huống chi tụng trì thường xuyên mà chẳng giải được sự vô dụng ư ? !... Do căn lành này mau thành hạt giống Phật, đều được thành tựu vô lượng công đức, vô lượng chúng sinh mau lìa trần cấu quyết định thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ( Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác ). PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI NIỆM TỤNG PHÁP Y theo bản Kinh Phạn có 10 vạn Kệ Tụng. Nay Ta lược nói niệm tụng, Quán Hạnh, thứ tự cúng dường Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca phát Tâm Bồ Đề , hành Hạnh Bồ Tát , cầu mau ra khỏi sinh tử. Trước tiên nên vào Tam Muội Gia Quán Đỉnh Đạo Trường, thọ trì Cấm Giới bền chắc chẳng lui, yêu thích Giới Hạnh Bồ Tát Đại Thừa, nơi 4 Uy Nghi tu 4 Vô Lượng, phát 4 Hoằng Nguyện, cầu mau lìa Tam Đồ ( 3 nẻo Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh ) . Đối nới tất cả sự nghiệp, tâm chẳng tán loạn thì mới có thẩ vào Pháp Môn Bí Mật này Phàm Pháp Niệm Tụng Cúng Dường. Ở nơi cư trú đều nên tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, tùy sức bày biện nghiêm sức Đạo Trường Pháp Đạo Trường ấy. Nên lựa chọn Thắng Địa, Đông Tây Nam Bắc đều rộng 4 khuỷu tay làm Mạn Trà La hình vuông, đào sâu xuống dưới một khuỷu tay trừ bỏ các loại: Xương, đá, gạch, ngói, đất ác, tóc, lông, tro, than, trấu, cây nhiều gai, trùng, kiến… Dùng đất sạch tốt lấp đầy và nện chặt cho bằng phẳng. Lấy Cù Ma Di ( Phân trâu trắng ở núi Tuyết ) và đất tốt hòa chung với nước thơm xoa tô đất. Nếu ở lầu gác , hoặc ở trên Điện thì y theo Pháp Nê Đồ ( dùng bùn xoa tô) Nếu ở trong núi với nhà sạch tốt thì chẳng nên đào đất mà y theo trước xoa tô nghiêm sức. Liền giương Thiên Cái ( Lọng Trời ) , 4 mặt treo phướng. Nếu có Tượng Bản Tôn Thất Câu Đê Phật Mẫu thì đặt yên trong Mạn Trà La hướng mặt về phương Tây. Nếu không có Bản Tôn mà có các Tượng Phật, Xá Lợi với Kinh Điển Đại Thừa thì cúng dường cũng được. Mài Bạch Đàn Hương xoa tô làm Mạn Trà La có 8 góc ( Bát Giác Mạn Trà La ) giống như trăng đầy hoặc tựa như hoa sen 8 cánh. Liền đem vật cúng mới sạch là vật khí bằng vàng, bạc, đồng đã tôi luyện (Thục Đồng) Thương Khư ( ‘Sanõkha: Vỏ ốc ) , Bối ( vỏ sò ), Ngọc, đá, đồ sứ, gỗ…chứa đầy các thức ăn uống với hương hoa tốt, đèn sáng, nước thơm Ứ Già tùy theo sức mà đặt bày cúng dường. Nếu là Bật Sô, Bật Sô Ni . Trước tiên giữ Giới Hạnh rồi mới vào Đạo Trường, lại nên Sám Hối liền tự thề phát nguyện Thọ Giới. Nếu là Bồ Tát tại gia , mới đầu vào cũng nên tự thề phát nghuyện tùy theo sức, thọ Tam Quy Ngũ Giới hoặc thường giữ 8 Giới. Nếu thường 3 thời niệm tụng. Liền ở Tây Nam của Đạo Trường hướng về phương Đông, chí Tâm chắp tay cúi 5 vóc sát đất kính lễ chư Phật Bồ Tát ở 10 phương, Chân thành vận tưởng tràn khắp Hư Không Giới. Liền quỳ gối phải sát đất, chắp tay, chí Tâm Sám Hối : ” Từ Vô Thủy trở đi có bao nhiệu tội của Thân Khẩu Ý. Nay đối trước chư Phật Bồ Tát, Đệ Tử ( họ tên… ) xin phát lộ sám hối cho đến mọi loại Công Đức do viên mãn Phước Trí của chư Phật Bồ Tát 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai . Nay con xin tùy hỷ” Liền an Tâm quyết định ngồi theo thế Kiết Già hoặc Bán Già, trừ tất cả vọng tưởng, quán chúng sinh trong 6 nẻo từ vô thủy đến nay ở trong biển sinh tử bị luân hồi 6 nẻo. Nguyện đều phát Tâm Bồ Đề, hành Hạnh Bồ Tát, mau được ra khỏi. Liền dùng dầu thơm xoa tay rồi kết Thủ Khế ( Tay Ấn ) . Lúc kết Khế thời dùng áo che tay đừng để người khác nhìn thấy.Trước tiên kết 3 Bộ Tam Ma Gia Khế rồi kết các Khế. Khế thứ nhất :” Phật Bộ Tam Ma Gia Khế”. Tướng của Khế đó là: Đều ngửa tay Phước Trí ( 2 bàn tay ) hơi co Đàn ( ngón út phải ) Giới ( Ngón vô danh phải ) Nhẫn Nhục ( ngón giữa phải ) Bát Nhã ( ngón út trái ) Phương Tiện ( ngón vô danh trái ) Nguyện ( ngón giữa trái ) cùng trụ nhau. Tiến Lực ( 2 ngón trỏ ) đè lóng trên Nhẫn Nguyện ( 2 ngón giữa ) , Thiền Trí ( 2 ngón cái ) phụ bên cạnh Tiến Lực ( 2 ngón trỏ ) liền thành. Tụng Chân Ngôn là: “ Aùn_ Đát tha nghiệt đổ phộc bá gia, sa-phộc ha” OMÏ_ TATHÀGATA UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ (Tụng 3 biến, đem Khế bung trên đỉnh đầu. Liên Hoa Bộ, Kim Cương Bộ đều dựa theo đây ) Khế thứ hai :” Liên Hoa Bộ Tam Ma Gia Khế”. Hai Phước Trí (2bàn tay) cùng hợp nhau. Giới ( Ngón vô danh phải ) Nhẫn ( ngón giữa phải ) Tiến ( ngón trỏ phải ) Phương Tiện ( ngón vô danh trái) Nguyện ( ngón giữa trái ) Lực ( ngón trỏ trái ) mỗi mỗi bung tán rồi hơi co lại. Sáu Ba La Mật ( 6 ngón tay ) mở như hoa sen. Đàn ( ngón út phải ) Tuệ ( ngón út trái ) Thiền ( ngón cái phải ) Trí ( ngón cái trái ) cùng dính nhau, cũng hơi co lại liền thành. Tụng Diệu Ngôn là : “ Aùn _ Bát đầu mâu phộc bá gia, sa-phộc ha” ( Tụng 3 biến ) OMÏ_ PADMA UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ Khế thứ ba : “ Kim Cương Bộ Tam Ma Gia Khế” Úp Phước ( Bàn tay trái) ngửa Trí ( bàn tay phải ) Thiền ( ngón cái phải ) Bát Nhã ( ngón út trái ) Đàn (ngón út phải ) Trí ( ngón cái trái )cùng cài nhau, liền thành. Tụng Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Phộc chiết lỗ bà bá gia, sa-phộc ha” ( Tụng 3 biến ) OMÏ_ VAJRA UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ Khế thứ tư :” Chuẩn Đề Phật Mẫu Căn Bản Thân Khế “. Tướng của Khế đó là: Trước tiên đem 2 ngón út , 2 ngón vô danh cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay. Dựng thẳng 2 ngón giữa cùng dính đầu ngón, 2 ngón trỏ phụ bên cạnh lóng trên của 2 ngón giữa, 2 ngón cái đều phụ bên cạnh 2 ngón trỏ liền thành. Diệu Ngôn, tụng Căn Bản Đà La Ni ( Tụng 7 biến, đưa Khế bung tán trên đỉnh đầu. Dùng các Khế bên dưới kết thành, đè chạm Ấn xong cũng đều nên bung trên đỉnh đầu ) Khế thứ năm : “ Tịch Trừ Nhất Thiết Thiên Ma Aùc Quỷ Thần Đẳng Khế”. Khế ấy: Trước tiên đem ngón giữa, ngón vô danh, ngón út và ngón cái của tay phải nắm ngón giữa, ngón vô danh, ngón út của tay trái. Tiếp đem ngón cái trái nắm trên móng của 3 ngón giữa, vô danh, út của tay trái rồi hợp thành quyền, đem 2 ngón trỏ cùng dính đầu ngón , liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Câu lỗ đa na, hồng, nhạ” OMÏ _ KRODHANA HÙMÏ JAHÏ ( Tụng một biến, đem Khế chuyển quanh thân theo bên phải. Làm như thế 3 lần ) Khế thứ sáu: “ Kết Địa Giới Quyết Khế”. Tướng của Khế đó là: Đem 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, co ngón trỏ trái như móc câu, dựng thẳng ngón trỏ phải. Khiến 2 ngón cái, 2 ngón út cùng dính mặt ngón, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chuẩn nễ, nê, chỉ la dã, sa-phộc ha” OMÏ_ CUNÕDHE _ DHE , KÌLÀYA _ SVÀHÀ ( Tụng một biến, đem ngón cái của Khế chạm đất một như thế đóng cọc. Làm 3 lần rồi nghỉ ) Khế thứ bảy: “ Kết Tường Giới Khế”. Tướng của Khế là: Dựa theo Quyết Khế lúc trước, đem ngón trỏ phải co như móc câu, dựng thẳng ngón trỏ trái, liền thành.Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chuẩn nễ, nê, bát la ca la gia, sa-phộc ha” OMÏ_ CUNÕDHE_ DHE, PRAKARÀYA _ SVÀHÀ ( Tụng ba biến, đưa Khế quơ theo bên phải 3 vòng ) Khế thứ tám: “ Kết Võng Khế” . Khế đó dựa theo Tường Khế, mở ngửa dính nhau, ngón cái phải vịn đầu ngón trỏ trái, ngón cái trái vịn đầu ngón trỏ phải, ngón út y như cũ cùng trụ nhau, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chuẩn nể, nê, bán nhạ la, sa-phộc ha” OMÏ_ CUNÕDHE _ DHE , PAMÏJALA _ SVÀHÀ ( Tụng 3 biến , đưa Khế tùy theo mặt trời quơ 3 lần ) Khế thứ chín: “ Kết Ngoại Hỏa Viện Đại Giới Khế”. Khế đó : Dùng tay trái đè kín lưng tay phải, trùng nhau. Dựng thẳng 2 ngón cái cùng cách nhau khoảng 2 thốn, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ A tam ma nghĩ nễ, hàm, sa-phộc ha” OMÏ_ ASAMÀMÏGNI HÙMÏ _ SVÀHÀ ( Tụng 3 biến, đưa Khế chuyển bên phải 3 lần ) Khế thứ mười: “ Kết Xa Lạc Ấn”. Tướng của Khế đó là: Trước tiên, 2 tay hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau, bên phải đè bên trái. Liền ngửa mở lòng bàn tay, duỗi thẳng 2 ngón trỏ dính đầu ngón, đưa 2 ngón cái bật đầu 2 ngón giữa, đưa qua đưa lại, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ đổ lô, đổ lô, sa-phộc ha” OMÏ_ TURU TURU _ SVÀHÀ ( Kết Khế này, Tâm tưởng trong Tập Hội ở cung Trời A Ca Ni Sắt Tra (Sắc Cứu Cánh ) 10 Địa Bồ Tát vây quanh Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Thỉnh Chuẩn Đề Phật Mẫu ngồi trên Xa Lạc 7 báu trang nghiêm. Trên Xa Lạc có tòa hoa sen trắng, trên Tòa có hình tượng như mong cầu. Trong Tâm tưởng niệm như ở ngay trước mắt. Liền tụng Diệu Ngôn 3 biến ) Khế thứ mười một: “ Kết Nghinh Thỉnh Thánh Giả Khế” . Dựa theo Đệ Nhất Căn Bản Khế lúc trước, đưa 2 ngón cái qua lại, triệu mời 3 lần, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, ê hế duệ tứ, bạc già phộc để, sa-phộc ha” OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ EHYEHI BHAGAVATI _ SVÀHÀ ( Kết Khế này, tưởng Thánh Giả từ trên Xa Lạc đi xuống đến Đạo Trường trên tòa sen trắng. Liền tụng Diệu Ngôn 3 biến ) Khế thứ mưới hai: “ Kết Liên Hoa Tòa Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, kèm 2 ngón cái hướng về thân mở thẳng, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Ca ma la, sa-phộc ha” OMÏ_ KAMALA _ SVÀHÀ ( Kết Khế này, Tâm tưởng trong Đạo Trường có mọi loại lưới báu, trên Tòa Sư Tử nở sen trắng, an đặt Thánh Giả trên hoa sen. Liền tụng Diệu Ngôn 3 biến ) Khế thứ mười ba: “ Kiết Ứ Già Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem 2 ngón cái đều vịn dưới cạnh lóng thứ nhất ở gốc ngón trỏ, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, át kiềm, bạc già phộc để, bát la để sai, sa-phộc ha” OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE _ ÀRGHÀMÏ BHAGAVATI PRATICCHA _ SVÀHÀ Khế thứ mười bốn:” Kết Táo Dục Khế” Dựa theo Ứ Già Khế lúc trước, đem 2 ngón cái đều vịn cạnh lóng giữa của 2 ngón giữa , liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết, sa-phộc ha” OMÏ_ CA _ SVÀHÀ Khế thứ mười lăm : “ Kết Đồ Hương Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước,đe 2 ngón cái nắm dính lóng dưới của ngón trỏ phải, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Lệ, sa-phộc ha” OMÏ _ LE _ SVÀHÀ Khế thứ mười sáu : “ Kết Hoa Man Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đe 2 ngón cái để cạnh lóng dưới của ngón trỏ trái, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chủ, sa-phộc ha” OMÏ _ CU _ SVÀHÀ Khế thứ mười bảy: “ Kết Thiêu Hương Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, co ngón trỏ phải vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là; “ Aùn_ Lệ, sa-phộc ha” OMÏ _ LE _ SVÀHÀ Khế thứ mười tám : “ Kết Cúng Dường Ẩm Thực Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem ngón trỏ trái vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chuẩn, sa-phộc ha” OMÏ _ CUNÕ _ SVÀHÀ Khế thứ mười chín: “ Kết Đăng Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem 2 ngón trỏ đều vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn, đề, sa-phộc ha” OMÏ _ DHE _ SVÀHÀ ( Nhóm Đồ Hương Khế bên trên, mỗi mỗi đều dùng Khế chạm vào trên sắc vật thật rồi cúng dường ) Khế thứ hai mươi : “ Kết Bố Tự Khế”. Tướng của Khế đó là: Đưa 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau. Kè dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ, 2 ngón út cùng dính đầu ngón, liền thành. Kết Thủ Khế này thành, liền tưởng thân của mình giống như Thích Ca Như Lai với 32 tướng tốt 80 loại tùy hình đẹp, thân tỏa ánh hào quang àu vàng tía ( Tử Ma Kim Sắc ) . Tưởng xong, dùng Thủ Khế ( Tay Ấn ) chạm trên đầu an chữ Aùn (OMÏ _ ) , chạm mắt an chữ Chiết ( CA_ ) mỗi mỗi y theo thứ tự chữ cho đến đầy đủ và dùng Khế chạm bày. Nói Pháp Tưởng chữ của Đà La Ni an bày ở thân: _ Aùn ( OMÏ _ ) tưởng an trên đầu Màu sắc trắng như trăng Tỏa nơi vô lượng quang Trừ diệt tất cả chướng Liền đồng Phật Bồ Tát Xoa trên đỉnh người ấy _ Chữ Chiết ( CA_ ) an hai mắt Màu sắc như Nhật Nguyệt Chiếu soi các ngu ám Hay phát Thâm Tuệ Minh ( Ánh sáng Tuệ thâm sâu ) _ Chữ Leä ( LE_ ) an trên cổ Màu như Lưu Ly cam Hay hiển các sắc tướng Dần đủ Trí Như Lai _ Chữ Chủ (CU_ ) tưởng an tim Màu sắc như trắng sáng Giống như Tâm thanh tĩnh Mau đạt Đạo Bồ Đề _ Chữ Leä ( LE_ ) an hai vai Màu vàng như Kim Sắc Do quán sắc tướng ấy Hay mặc Giáp Tinh Tiến _ Chữ Chuẩn ( CUNÕ_ ) trưởng trong rốn Màu trắng vàng màu nhiệm Mau khiến lên Đạo Trường Được Bồ Đề Bất Thoái _ Chữ Đề ( DHE_ ) an hai đùi Màu sắc như vàng lợt Mau chứng Đạo Bồ Đề Được ngồi Tòa Kim Cương _ Sa-Phộc ( SVÀ _ ) hai bắp chân Dạng ấy màu vàng đỏ Thường hay tưởng chữ ấy Mau được chuyển Pháp Luân _ Chữ Ha ( HA_ ) hai bàn chân Màu sắc như trăng đầy Hành Giả tác tưởng đó Mau được đạt Viên Tịch Như vậy Bố Tự ( an bày chữ ) tưởng niệm xong Liền thành Chuẩn Đề Thắng Pháp Môn Cũng là Bản Tôn Chân Thật Tướng Hay diệt các tội, được cát tường Giống như tụ Kim Cương bền chắc Gọi là Chuẩn Đề Thắng Thượng Pháp Nếu thường tu hành y như thế Nên biết người ấy mau Tất Địa ( Siddhi_ Thành Tựu ) Khế thứ hai mươi mốt:” Đệ Nhị Căn Bản Khế”. Tướng của Khế đó là: Đưa 2 tay hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau. Kèm dựng thẳng 2 ngón trỏ, 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Nam mô táp đá nẫm,tam miệu tam bột đà, câu đê nam. Đát diệt tha: Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa-phộc ha” NAMO SAPTÀNÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA KOTÏINÀMÏ TADYATHÀ : OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ ( Tụng 7 biến, đưa Khế lên đỉnh đầu bung tán ) Khế thứ hai mươi hai: “ Kết Phụng Sổ Châu Khế” Tướng của Khế đó là: Trước tiên lấy Sổ Châu ( Tràng hạt ) để trong 2 lòng bàn tay, liền để ngang trái tim rồi chắp hai tay lại. Tụng Căn Bản Đà La Ni lúc trước 3 biến, đem tràng hạt đội trên đỉnh đầu, liền tác Bả Sổ Châu Khế để Tĩnh Châu ( Làm cho tràng hạt thanh tịnh ) Khế thứ hai mươi ba: “ Bả Sổ Châu Khế”. Tướng của Khế đó là: 2 ngón vô danh, 2 ngón cái đều vịn trên hạt châu, 2 tay cùng cách nhau khoảng một thốn, bung mở các ngón còn lại rồi hơi co lại, liền thành. Tụng Tĩnh Sổ Châu Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Vi lô già na, a ma la, sa-phộc ha” OMÏ_ VAIROCANA AMALA _ SVÀHÀ ( Tụng 3 biến ) Tĩnh Sổ Châu xong. Tự Tâm tưởng trong miệng của Thất Câu Đê Phật Mẫu tuôn ra văn tự của Thất Câu Đê Đà La Ni, mỗi một chữ phóng tỏa ánh sáng ngũ sắc nhập vào trong miệng của Hành Giả rồi an trong vành trăng ngay trái tim của mình, xoay chuyển theo bên phải đặt bày. Liền tụng Căn Bản Đà La Ni một biến, dùng ngón vô danh phải lần qua một hạt châu, cứ thế giáp vòng trở lại hạt ban đầu, chẳng gấp chẳng chậm, chẳng được cao giọng. Nên xưng chữ rõ ràng mà tự nghe được chữ an bày trên thân với Bản Tôn đã quán. Niệm tụng Ký Số.Ở trong một niệm và tu một thời, quán thấy chẳng được khiếm khuyết khiến Tâm tán loạn.Nếu Quán Niệm mệt mỏi thì tùy sức niệm tụng hoặc 1000, 2000, 3000, 4000 cho đến 5000 biến . Thường lấy một số làm hạn định. Nếu có duyên sự, cũng chẳng được giảm số dưới 108 biến. Đây gọi là Thanh Niệm Tụng. Nếu cầu giải thoát sẽ mau ra khỏi sinh tử. _ Tác Tam Ma Địa Quán Hạnh này thì không có ký không có số. Người niệm liền tưởng trái tim của mình có một mặt trăng đầy rất ư thanh tĩnh, trong ngoài rõ ràng. Đem chữ Aùn ( ) để trong tâm mặt trăng. Đem các chữ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa-phộc ha( ) từ phía trước chuyển theo bên phải, thứ tự giáp vòng an bày Luân Duyên. Thành thật quán ( Đế quán ) nghĩa của mỗi một chữ, đem Tâm tương ứng chẳng được khác biệt. Nói Nghĩa Bố Tự của Tam Ma Địa Quán Niệm Aùn Tự Môn ( ) có nghĩa là Lưu Chú chẳng sinh diệt. Lại ở tất cả Pháp làm nghĩa Tối Thắng Chiết Tự Môn ( ) Ở tất cả các Pháp làm nghĩa Vô Hành ( không có lưu chuyển ) Lệ Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Tướng (không có tướng ) Chủ Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Khởi Trụ ( Không có khới trụ ) Lệ Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Cấu (không có bợn nhơ ) Chuẩn Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Đẳng Giác Đề Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Thủ Xả ( không có lấy, không có bỏ ) Sa-phộc Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Bình Đẳng Vô Ngôn Thuyết Ha Tự Môn ( )ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Nhân Tịch Tịnh Vô Trụ Niết Bàn Đã nói nghĩa của chữ. Tuy lập văn tự đều là nghĩa không có văn tự. Để không có văn tự nên đế quán mỗi một nghĩa tướng, vòng quanh rồi lại bắt đầu, không có ký không có số, chẳng được cắt đứt ( đoạn tuyệt ) . Chẳng cắt đứt là nghĩa Tối Thắng lưu chú chẳng sinh chẳng diệt. Do nghĩa tối thắng chẳng sinh chẳng diệt cho nên là Vô Hành. Vì nghĩa Vô Hành cho nên là Vô Tướng. Vì nghĩa Vô Tướng cho nên là Vô Khởi Trụ. Vì nghĩa vô khởi trụ cho nên là Vô Đẳng Giác. Vì nghĩa vô đẳng giác cho nên là vô thủ xả. Vì nghĩa vô thủ xả cho nên là Bình đẳng vô ngôn thuyết. Vì nghĩa bình đẳng vô ngôn thuyết cho nên là vô nhân tịch tịnh vô trụ niết bàn. Vì nghĩa Tịch Tịnh Vô Trụ Niết Bàn cho nên là bất sinh bất diệt tối thắng vô đoạn tuyệt, vòng quanh rồi lại bắt đầu. Đây gọi là Tam Ma Địa Niệm Tụng Nói Pháp Chuẩn Đề Cầu Nguyện Quán Tưởng: Nếu cầu Vô Phân Biệt nên quán Vô phân biệt vô ký niệm Nếu cầu Vô Tướng Vô Sắc nên quán văn tự vô văn tự niệm Nếu cầu Pháp Môn Không Hai ( Bất Nhị Pháp Môn ) nên quán 2 cánh tay Nếu cầu Bốn Vô Lượng nên quán 4 cánh tay Nếu cầu Sáu Thông nên quán 6 cánh tay Nếu cầu Tám Thánh Đạo nên quán 8 cánh tay Nếu cầu Mười Ba La Mật, viên mãn Mười Địa nên quán 10 cánh tay Nếu cầu Như Lai Phổ Biến Quảng Địa nên quán 12 cánh tay Nếu cầu mười tám Pháp Bất Cộng nên quán 18 cánh tay. Liền quán Pháp như tượng vẽ Nếu cầu 32 Tướng nên quán 32 cánh tay Nếu cầu 84000 Pháp Môn nên quán 84 cánh tay Quán Niệm như trên sẽ vào Nhất Thiết Như Lai Tam Ma Địa Thậm Thâm Phương Quảng Bất Tư Nghị Địa, là Chính Niệm Xứ, là Chính Chân Như, là Chính Giải Thoát. Niệm Tụng Quán Hạnh xong. Muốn ra khỏi Đạo Trường , lại nên y theo thứ tự trước. Liền kết Thủ Khế của nhóm: Thiêu Hương, Đăng Minh, Aám Thực, Cúng Dường, Sám Hối, Tùy Hỷ, Phát Nguyện. Liền kết Đệ Nhất Căn Bản Khế lúc trước, tụng Căn Bản Đà La Ni 7 biến rồi bung Ấn trên đỉnh đầu. Lại kết Xa Lộ Khế lúc trước, đưa 2 ngón cái hướng ra ngoài, bật đầu ngón giữa 3 lần, tụng Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Đổ lô, đổ lô, Sa-phộc ha” OMÏ_ TURU TURU _ SVÀHÀ ( Tụng 3 biến ) Lại kết Nghinh Thỉnh Ấn lúc trước. Đem ngón cái hướng ra ngoài, mở 3 lần liền thành Tống Thánh Giả Hoàn Bản Cung. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, nghiệt xa nghiệt xa, bà nga phộc để, sa phộc bá nẫm, bố ná , a yết la nga, ma na gia, sa-phộc ha” OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ GACCHA GACCHA BHAGAVATI SVÀBHANÀMÏ BUDDHA ARGHA MANÀYA_ SVÀHÀ Liền kết Ngoại Hỏa Viện Đại Giới Khế lúc trước, tụng A Tam Ma Kỳ Neã Diệu Ngôn, chuyển bên trái 3 lần liền thành. Liền kết 3 Bộ Tam Ma Gia Khế, đều tụng Diệu Chân Ngôn một biến liền xong, tùy ý ra khỏi Đạo Trường, tùy ý Kinh Hành. Đọc tụng Đại Bát Nhã hoặc Hoa Nghiêm, hoặc Vô Biên Môn, hoặc Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Niết Bàn, Kinh Luận Đại Thừa…suy tư, tụng, nói hoặc đem ấn Tháp Tượng Thất Câu Đê Phật, dùng ấn bùn thơm,trên cát, trên giấy… tùy ý nhiều ít. Nếu niệm tụng có công đức như cảnh giới đã nói trong Kinh, mỗi mỗi biết thứ tự thật rõ ràng. Muốn tác mọi loại phương pháp của nhóm Phiến Để Ca ( ‘Sàntika_ Tức Tai ) hoặc vì tự thân hoặc vì người khác liền dốc lòng y theo Pháp mà tác niệm tụng.Nếu muốn Tức Tai trừ tất cả Quỷ Thần và được thông minh, trường thọ, cầu giài thoát. Liền ở trong Đạo Trường, hướng mặt về phương Bắc, chéo 2 bắp chân dựng thẳng đầu gối mà ngồi. Quần áo, thức ăn uống, hương, hoa, đèn, đuốc, đất đều dùng màu trắng. Từ ngày mồng một đến ngày mồng 8 của tháng, một ngày 3 thời niệm tụng với Pháp của nhóm Hộ Ma. Nếu Niệm Tụng thời trước tiên tụng Căn Bản Đà La Ni 7 biến xong, sau đó chỉ tụng từ chữ Aùn. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề ban cho ( họ tên của mình hay người khác) trừ tai nạn, sa-phộc ha” OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho…. ) ‘SÀNTIMÏ KURU _ SVÀHÀ Nói Pháp Bố Sắt Trí Ca ( Pusïtïika _ Tăng Ích ) . Nếu muốn cầu tăng trưởng 5 Thông, Chuyển Luân, mọi loại Bảo Tạng, Bố Xa Luân, Kiếm, Hiền Bình, Như Ý Bảo, An Thiện Na, Ngu Lý Ca, Gương, Búa, Sợi dây, Tam Cổ Xoa… tất cả tài bảo, cỏ thuốc… cầu Pháp thành tựu. Thân mặc áo vàng, hướng mặt về phương Đông, ngồi Kiết Già. Mọi thứ cúng dường như hương, hoa, thức ăn uống, quả trái, đèn đuốc, đất… đều dùng màu vàng. Từ ngày mồng 8 đến ngày 15 của tháng, mỗi ngày 3 thời niệm tụng, làm việc Hộ Ma, niệm tụng như trước. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề ban cho ( họ tên… ) sở cầu như ý, sa-phộc ha” OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho…. ) PUSÏTÏIMÏ KURU _ SVÀHÀ Nói Pháp Phạt Thí Ca La Noa ( Va’sikaranïa_ Kính Aùi ) Nếu muốn hô triệu tất cả hàng Trời, Rồng, Quỷ , Thần, Người, Phi Nhân…thì nên tác Pháp này. Thân mặc áo đỏ, hướng mặt về phương Tây, ngồi theo thế Hiền Tọa. Hương, hoa, thức ăn uống, Quả trái, đèn đuốc, đất… đều dùng màu đỏ. Từ ngày 16 đến ngày 23 , mỗi ngày 3 thời niệm tụng, tác Pháp Hộ Ma. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ,chủ lệ, chuẩn đề. Vì con nhiếp triệu vị Thần ( tên là…. ) thành tựu nguyện của con, sa-phộc ha” OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho…. ) VA’SI KURU _ SVÀHÀ Nói Pháp A Tỳ Già Lỗ Ca ( Abhicàruka_ Giáng Phục ) Nếu muốn giáng phục tất cả Quỷ Thần với Người, Trời… là tổn hoại Tam Bảo, chúng sinh có nhiệu tội nghiệp chướng nặng, kẻ khó điều phục … hay khiến phát Tâm Bồ Đề, tu các nghiệp lành thì nên khởi Tâm Từ Bi mà tác Pháp này. Thân mặc áo xanh, hướng mặt về phương Nam, tác Tông Cứ Tọa ( chéo ống chân ngồi xổm ) ống chân phải đè ống chân trái. Dùng hương, hoa, thức ăn uống, quả trái, đất… đều là màu xanh đen. Từ ngày 23 đến ngày cuối tháng, mỗi ngày 3 thời niệm tụng, tác Pháp Hộ Ma. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, hồng, phát tra” OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE HÙMÏ PHATÏ Tác Pháp xong, niệm tụng như thường Nói Pháp Vẽ Tượng Thất Câu Đê Phật Mẫu Chuẩn Đề Lấy lụa trắng thanh tịnh chư bị cắt, loại bỏ tóc người. Họa Sư thọ 8 Giới Tế, chẳng dùng keo nấu bằng da thú để hòa màu sắc, mọi thứ trang nghiêm thân ấy. Từ eo trở xuống mặc áo trắng, áo trên có hoa. Lại thân khoác áo ngoài ( Thiên Y ) bằng lụa mịn màng mỏng nhẹ. Dùng đai ngũ sắc cột eo, mây sắc đỏ sáng sớm quấn quanh thân, cổ tay đeo xuyến bằng vỏ ốc trắng, cánh tay đeo vòng xuyến dùng 7 báu trang nghiêm. Trên mỗi một tay đeo Chỉ Hoàn ( Nhẫn ) . Thân có 18 tay, mặt có 3 mắt. 2 tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp Bên phải: tay thứ hai Thí Vô Úy, tay thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm tràng hạt, tay thứ năm cầm quả Vĩ Nhạ Bố La Ca ( Đường gọi là Tử Mãn Quả, nơi này không có chỉ Tây Tạng mới có ) , tay thứ sáu cầm cây búa, tay thứ bảy cầm móc câu, tay thứ tám cầm Bạt Chiết La ( Vajra_ Chày Kim Cương ) , tay thứ chín cầm vòng hoa báu ( Bảo Man ) Bên trái : tay thứ hai cầm cây phướng báu Như Ý, tay thứ ba cầm hoa sen, tay thứ tư cầm bình Táo Quán, tay thứ năm cầm sợi dây, tay thứ sáu cầm bánh xe, tay thứ bảy cầm vỏ ốc ( Loa ) tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã Ba La Mật. Phía dưới Bồ Tát làm ao nước. Trong ao có 2 vị Long Vương ( Nàga Ràja ) là Nan Đà ( Nanda ) và Ô Bạt Nan Đà ( Upananda ) cùng nâng cuống hoa sen, ở trên hoa sen an Chuẩn Đề Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva ) . Vòng tròng chung quanh Tượng ấy an lửa rực sáng. Tượng ấy tác con mắt thương xót nhìn xuống. Hành Giả ngồi ngay bên dưới, tay cầm lò hương, hướng mặt lên trên nhìn Bồ Tát. Ở phía trên Bồ Tát vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên. Tượng Pháp như vậy, xong. PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI KINH ( Kèm Niệm Tụng Quán Hạnh Pháp ) _ Hết_ 19/10/2002 Share this post Link to post Share on other sites
Posted 27 Tháng 2, 2013 Sự tích Đức Địa Tạng Vương Bồ tát Trong kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện, đức Phật nói về bốn tiền thân, với bốn đại nguyện của ngài Địa Tạng như sau. 1. Trong vô lượng kiếp về trước, ngài Địa Tạng là một vị Trưởng giả, nhờ phước duyên được chiêm ngưỡng, đảnh lễ và được sự chỉ dạy của đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, vị Trưởng giả này đã phát đại nguyện: “Từ nay đến tận đời vị lai, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng nó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật quả.” 2. Vào thời quá khứ vô số kiếp trước, thuở đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tiền thân của Ngài là một người nữ dòng dõi Bà-la-môn có nhiều phước đức và oai lực; nhưng mẹ của cô không tin vào nhân quả tội phước, tạo rất nhiều ác nghiệp, sau khi chết bị đọa vào địa ngục. Là người con chí hiếu, cô rất thương nhớ mẹ, và đã làm vô lượng điều lành, đem công đức ấy hồi hướng cho mẹ, và cầu nguyện đức Phật cứu giúp. Nhờ các công đức chí thành ấy, đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại đã cho cô biết là mẹ của Cô đã được thoát khỏi cảnh địa ngục và vãng sanh về cõi trời. Vô cùng hoan hỉ trước tin ấy, cô đã đối trước đức Phật Giác Hoa phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát.”3. Trong hằng hà sa số kiếp về trước, thuở đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, ngài Địa Tạng là một vị vua rất Từ bi, thương dân như con … nhưng chúng sanh lúc ấy tạo rất nhiều ác nghiệp, vị vua hiền đức này đã phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng an vui chứng quả Bồ Ðề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật.” 4. Vô lượng kiếp về thuở quá khứ, thời đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, ngài Địa Tạng là một hiếu nữ tên Quang Mục có nhiều phước đức. Nhưng mẹ của Quang Mục lại là người rất ác, tạo vô số ác nghiệp. Khi mạng chung, bà bị đọa vào địa ngục. Quang Mục tạo nhiều công đức hồi hướng cho mẹ, và nhờ phước duyên cúng dường một vị A-la-hán, vị Thánh này đã cho biết rằng, mẹ của cô đã thoát khỏi cảnh địa ngục sanh vào cõi người, nhưng vẫn còn chịu quả báo sinh vào nhà nghèo hèn, hạ tiện, lại bị chết yểu… vì lòng thương mẹ và chúng sanh, Quang Mục đã đối trước đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai phát nguyện: “Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng sanh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v... Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác.” Ngoài những sự tích trong kinh nêu trên lại còn một sự tích Lịch sử Phật giáo Hàn Quốc ghi rằng : Ngài Địa Tạng Bồ tát tục danh Kim Kiều Giác (Kim Kyo-gak), sanh vào thế kỷ thứ VII, năm 696 TL, tại nước Tân La (Silla), hiện nay là Hán Thành, thuộc Nam Hàn. Ngài vốn là một Hoàng tử, sống trong lầu son nhung lụa, ở cung vàng điện ngọc, thế nhưng tính Ngài lại thích đạm bạc, không bị ảnh hưởng bởi nếp sống vương giả phong lưu đài các, mà chỉ chăm lo học hỏi và ham đọc Thánh hiền. Đức tướng trang nghiêm, lòng Từ bi thuần hậu của Ngài thì khó có ai sánh kịp. Vào năm Vĩnh Huy đời Đường Cao Tông, sau khi tham khảo hết Tam giáo, Cửu lưu và Bách gia chư tử thì Ngài bèn buông lời cảm thán: “So với Lục kinh của Nho gia, Đạo thuật của Tiên gia, thì lý Đệ nhất Nghĩa đế của nhà Phật là thù thắng hơn hết, rất hợp với chí nguyện của ta.” Sau đó lập chí xuất gia vào lúc 24 tuổi. Sau khi xuất gia, Ngài ưa đến chỗ vắng vẻ tu tập Tham thiền nhập định, nhân đây bèn nghĩ đến việc hành cước, tìm một nơi thanh vắng để tĩnh tu. Ngài chuẩn bị thuyền bè, đem theo một ít hành trang và lương thực, đồng thời dắt theo con Bạch khuyển (chó trắng) tên Thiện Thính, đã theo Ngài từ lúc xuất gia. Ngài một mình tự lái thuyền rời bến Nhân Xuyên (Incheon), trương buồm ra khơi, tùy theo hướng gió mà đi, sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, đến cửa sông Dương Tử (Trung Hoa). Thuyền bị mắc cạn trên bãi cát, Ngài bèn bỏ thuyền đi bộ lên bờ, tiếp tục cuộc hành trình. Sau nhiều ngày lang thang, ngài đến chân núi Cửu Tử ở huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy. Thấy phong cảnh nơi đây hùng vĩ, sơn xuyên tú lệ, ngài bèn quyết định ở lại. Ngài đi dọc theo triền núi lên phía trên cao để khảo sát, phát giác khoảng giữa các ngọn núi là một vùng đất bằng phẳng, cảnh trí nên thơ vô cùng tịch mịch, bèn trèo lên mỏm đá bên cạnh một khe nước suối trong và thong dong tự tại với năm tháng mà ngồi tĩnh tọa. Một hôm, đang lúc tĩnh tọa, bổng có một con rắn độc nhỏ đến cắn vào đùi, nhưng ngài vẫn an nhiên bất động. Giây lát sau, một người đàn bà tuyệt đẹp từ trên vách núi bay xuống, đến bên cúi lạy, đưa thuốc cho ngài và nói: “Đứa bé trong nhà rắn mắt, xúc phạm tôn nhan. Thiếp xin tạo một con suối mới để đền đáp lỗi lầm của cháu nhỏ.” Nói xong biến mất. Chưa đầy một sát na, trong vách núi phụt ra một dòng suối cuồn cuộn chảy xuống. Từ đó, ngài không còn phải lao nhọc đi xa gánh nước về. (Đây là dòng suối Long Nữ Tuyền nổi danh ở núi Cửu Hoa). Tương truyền, dưới chân núi có vị Trưởng giả tên Mẫn Công (Văn Các lão nhân), là người thích bố thí cúng dường chư tăng. Ông thường tổ chức cúng dường trai tăng hàng trăm vị. Thế nhưng, mỗi lần như thế, đều thiếu một vị Tăng. Vì vậy, mỗi lần tổ chức ông đều tự thân lên núi mời Ngài. Nếu không, công đức cúng dường không được viên thành. Không bao lâu sau, vì muốn mở rộng đạo trường để quảng độ chúng sanh, ngài Địa Tạng bèn đến xin Mẫn Công (Văn Các lão nhân) cúng dường một mảnh đất. Mẫn Công nói: “Tùy ngài muốn bao nhiêu con xin cúng bấy nhiêu.” Ngài Địa Tạng nghe thế, tung tấm Cà sa lên không. Tấm Cà sa tỏa rộng bao trùm toàn núi Cửu Hoa. Mẫn Công (Văn Các lão nhân) thấy thế bèn vô cùng hoan hỷ, đem toàn bộ núi Cửu Hoa cúng dường. Mẫn Công (Văn Các lão nhân) có một người con trai, ngưỡng mộ đức hạnh của ngài, bèn đến xuất gia, hiệu là Đạo Minh. Sau đó, Mẫn Công(Văn Các lão nhân), vì muốn thuận tiện trong việc nghe pháp, bèn lễ bái Đạo Minh làm thầy. Việc này trở thành một giai thoại nổi tiếng trong chốn Thiền môn. Hiện nay, trong các chùa ở Hàn Quốc thờ tượng đức Điạ Tạng, phần lớn đều có tượng của cha con (Văn Các lão nhân), Mẫn Công (một nhà sư trẻ và một ông lão) đứng hầu hai bên. Ngài Địa Tạng thường Tham thiền nhập định. Ngoài việc giảng kinh thuyết pháp, ngài thường mướn người sao chép bốn bộ kinh lớn của Đại thừa Liễu nghĩa, đem đi bố thí khắp nơi. Năm Chí Đức thứ nhất (TL 765), có danh sĩ Gia Cát Tiết, ngụ tại một làng dưới chân núi, hương dẫn các kỳ lão trong làng, lên núi thưởng ngoạn. Đến vùng đất bằng trên núi, thấy những áng mây trôi lững lờ trên bầu trời xanh với ánh nắng chan hòa ấm áp, tiếng suối reo từ khe núi chảy ra nghe róc rách, tiếng chim hót líu lo khiến cho mọi người bị phong cảnh tú lệ làm mê hoặc, đi dần vào rừng sâu, chợt thấy có một vị Thiền sư Tọa thiền trên mõm đá bên cạnh dòng suối, đang nhắm mắt nhập định. Bên cạnh là một cái đảnh cổ gảy một chân, trong đó có một ít gạo trộn lẫn đất trắng. Một lát sau, vị Thiền sư xuất định, lấy gạo đất nấu chín rồi ăn. Ăn xong, ngài lại tiếp tục tĩnh tọa Tham thiền. Những người trong nhóm thấy thế, vô cùng cảm động bèn đến thưa với ngài: “Thưa! Ngài tu khổ hạnh như vầy, đây là lỗi của dân làng chúng con!” Chẳng bao lâu, mọi người trong làng cùng nhau xây cất một ngôi Thiền đường rộng lớn hơn nữa, quanh năm đều cúng dường thực phẩm không hề gián đoạn. Năm Kiến Trung thứ nhất (TL. 780), vị Quận thú Trương Nghiêm, nhân vì kính ngưỡng đạo hạnh cao quý sùng kính công nghiệp hoằng pháp của ngài, bèn tâu lên Đức Tông Hoàng Đế, ban sắc dụ chính thức kiến tạo Tự viện. Bấy giờ Đạo tràng của Ngài Địa Tạng mới thực sự hùng vĩ trang nghiêm. Lúc ấy, các vị tăng nước Tân La (Silla) nghe danh, có đến vài trăm người tìm đến thân cận tu học với Ngài. Dần dần, số người càng lúc càng đông, thực phẩm trở nên thiếu thốn. Một hôm, ngài ra phía ngoài chùa, cho đào rất nhiều đất trắng nhuyễn như bột, dự định bổ túc vào phần ăn. Mọi người trong chùa, cảm mến bởi đức hạnh của Ngài, đều cùng nhau lên tiếng: “Nguyện dùng pháphỷ thực và Thiền duyệt thực nuôi sống tuệ mạng, không dùng vật thực nuôi sống thân mạng”. Điều này chứng tỏ mọi người trong chùa không lấy thân mạng làm trọng. Thời đó, mọi giới trong Phật giáo đều tỏ lời khen ngợi, ca tụng họ là “Nam mô Các Vị Tăng Gầy Ốm phương Nam”. Một hôm vào mùa hạ, năm Trinh Nguyên thứ mười (TL. 795), Ngài triệu tập Tăng chúng vào Chánh điện để từ giã. Mọi người cảm thấy hoang mang không rõ lý do gì. Lúc ấy, các ngọn núi phát ra tiếng khóc gào thét thảm thiết của muôn thú, những tảng đá lớn ầm ầm rơi xuống vực sâu, khắp rừng cây cỏ đều ngẩn ngơ sầu, mây che phủ kín trời đất đều rung chuyển và mây che phủ kín, mùi hương tỏa khắp núi rừng. Ngài an tọa kiết già Thị tịch. Hưởng thọ 99 Xuân. Sau khi Viên tịch, nhục thân của ngài được đặt trong một động đá. Ba năm sau, Tăng chúng mở động ra, thấy nhục thân vẫn còn nguyên vẹn, tướng mạo giống hệt như lúc sanh tiền. Đại chúng đem nhục thân đến Bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh. Dọc đường, nghe văng vẳng như có tiếng tích trượng vàng khua động theo nhịp chân của mọi người. Kinh dạy: “Bồ tát bị nạn, hình hài vang động ”. Đây là một dữ kiện chân chánh, không chút hoài nghi, chứng minh sự ứng hóa của ngài Bồ Tát Địa Tạng. Hơn nữa, nếu như cung kính lễ bái nhục thân của ngài Kim Địa Tạng, thì sẽ được lợi ích giống như Kinh Địa Tạng đã nói. Từ đó đến nay trải qua hàng thiên niên kỷ, Phật tử và mọi người khắp nơi trên thế giới đều không ngại gian lao, đều phát tâm đến Thánh tích Cửu Hoa Sơn, Trung Quốc để cùng chiêm bái nhục thân của ngài Địa Tạng Bồ Tát. Đặc biệt, mỗi năm vào ngày vía của Ngài vào ba mươi tháng bảy AL, tại Thánh địa Cửu Hoa Sơn, trong vòng mấy mươi dặm, dầy đặc những Phật giáo đồ, nam nữ lão ấu, đến tham dự nhất bộ nhất chiêm (một bước một xá) hoặc nhất bộ nhất bái (một bước một lạy), đủ chứng tỏ Bồ tát đã kết duyên Bồ đề rộng rãi, sức Từ bi cảm hóa sâu dày ! Đến đầu thế kỷ thứ VIII, nhân gian truyền nhau rằng: Bồ tát Địa Tạng thị hiện thành Thái tử Triều Tiên tục danh Kim Kiều Giác (Kim Kyo-gak), xuất gia tu Phật, rồi vân du sang Trung Quốc, tại núi Cửu Hoa, hóa hiện thần lực nhiếp độ quần sanh. Và từ đó về sau, Cửu Hoa Sơn trở thành đạo tràng của Bồ tát Địa Tạng. Từ khi Bồ tát Địa Tạng ứng hiện tại Cửu Hoa Sơn, niềm tin về sự cứu độ của Ngài trong lòng Phật tử ngày càng sâu rộng. Khách từ phương xa hành hương đến, chiêm bái và cầu nguyện tại Cửu Hoa Sơn ngày càng đông. Rồi theo thời gian, vì nhu cầu tu tập của Tăng Ni cũng như Phật tử, hàng trăm Tự viện được xây dựng trên dãy núi kỳ vĩ này. Cửu Hoa Sơn hưng thịnh nhất vào đầu và giữa triều đại nhà Thanh và suy giảm từ cuối nhà Thanh trở về sau... Ngày nay, dù không còn hưng thịnh như xưa, nhưng Cửu Hoa Sơn vẫn là một trong Tứ đại Danh Sơn linh thiêng bậc nhất của Phật Giáo Trung Hoa, và là điểm thu hút du khách cả nước và du khách Quốc tế. Từ Trung Quốc, Phật giáo truyền đến Triều Tiên. Qua ngõ Triều Tiên, Phật giáo truyền vào Nhật Bản đầu thế kỷ thứ VI TL. Trước khi Phật giáo truyền đến Nhật Bản, người dân nơi đây phần lớn tin theo Thần đạo. Họ tôn thờ nhiều vị thần linh. Khi Phật giáo du nhập và phát triển, dân chúng Nhật Bản đã lưu truyền nhiều câu chuyện về Bồ tát Địa Tạng như là hiện thân của vị Bồ tát chăm lo và cứu giúp những người bất hạnh và khổ đau. Họ tin rằng, Ngài luôn bảo hộ những lữ khách đi đường, phụ nữ có thai, người lính cứu hỏa… đặc biệt trẻ em bất hạnh. Ngài luôn hiện thân để bảo vệ trẻ em bị ngược đãi, bạo hành trong gia đình và xã hội. Với những trẻ thơ bất hạnh yểu mạng, Ngài thường đến bên bờ sông Nại Hà, dòng sông mà tín ngưỡng dân gian Á Đông tin là linh hồn phải đi qua trước khi vào điện Diêm La nghe Diêm vương phán xét tội hình, an ủi và che chở các em. Nhiều người tin rằng, những trẻ em yểu mạng, vì thương nhớ cha mẹ và người thân, linh hồn các em thường ở lại bên bờ Nại Hà nhặt những viên đá cuội xây lâu đài và thành quách để tưởng đến người thân. Các em rất khổ sở vì nhớ cha, nhớ mẹ và nhớ anh chị, Bồ tát Địa Tạng thường đến bên các em vỗ về, an ủi và cùng các em nhặt đá xây thành, giúp các em tích tạo công đức, và đưa các em qua sông Nại Hà. Nhiều người khác lại tin rằng, các em có tội bất hiếu vì khiến cha mẹ và người thân đau buồn, nên các em bị hình phạt bên bờ Nại Hà, bị qủy dữ hiếp đáp, và Bồ-tát Địa Tạng thường hiện thân cứu giúp các em, đưa các em qua dòng sông Nại Hà. Vì tôn thờ Bồ tát Địa Tạng là vị Bồ tát bảo vệ trẻ em, nên phần lớn tranh tượng của Ngài thường biểu hiện giống và liên quan đến trẻ thơ. Có tranh tượng, khuôn mặt Ngài trông giống trẻ em, rất ngây thơ, hồn nhiên. Có tranh tượng, trên tay Ngài bồng một em bé, dưới chân lại có vài ba em bé khác đang níu kéo Tăng bào và thiền trượng của Ngài. Và tượng Ngài thường được tôn thờ bên những dòng sông, con suối. Hằng năm, người dân Nhật Bản thường tổ chức lễ tưởng nhớ công ơn của Ngài dành cho trẻ thơ vào ngày 24 tháng 7 AL. Ngày nay, tín ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng đã trở thành tín ngưỡng chung của Phật giáo và dân gian. Và sau Lễ Vu Lan rằm tháng 7 AL thì các Chùa thường khai kinh Địa Tạng tụng cho đến ngày cúng vía Ngài vào cuối tháng 7 tức ngày 30. Việt Nam ta chưa có lưu hành và thọ trì Địa Tạng Sám pháp kinh, trong khi Hàn Quốc thì Kinh này rất thông dụng cho các chùa thường tổ chức cho quý Phật tử thọ trì Địa Tạng Sám pháp kinh. Mong rằng gương hạnh Đại Nguyện Vương Bồ tát mãi thắp sáng trong tâm thức của nhân thế trần gian và nhất là những người cầm cân nãy mực điều hành đất nước khắp nơi trên thế giới để cùng nhau một Đại nguyện góp phần khắc phục những xung đột chiến tranh, hậu quả thiên tai dịch họa, xứng với câu kinh Phật : "Tâm bình thế giới bình " nói chung và riêng thịnh trị thái bình của mỗi quốc độ. . . 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 3, 2013 Sự tích Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Đức Văn Thù Sư Lợi, khi chưa thành đạo thì Ngài là con thứ ba của vua Vô Tránh Niệm, tên là Vương Chúng Thái Tử.Nhờ phụ vương khuyên bảo, nên Ngài phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và Tăng chúng trọn ba tháng.Lúc ấy, có quan Đại Thần là Bảo Hải thấy vậy thì khuyên rằng: “ Nay Điện hạ đã có lòng làm sự phước đức, tạo nghiệp thanh tịnh, nên vì hết thảy chúng sanh mà cầu đặng các món trí huệ, và đem công đức ấy hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì tốt hơn là mong cầu mọi sự phước báu nhỏ nhen”.1- Vương Chúng Thái Tử nghe quan Đại thần khuyến như vậy, thì liền chấp tay mà thưa với Phật rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn! Công đức tôi cúng dường Phật Tăng và những hạnh nghiệp tu tập thanh tịnh của tôi đó, nay xin hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề, nguyện trải hằng sa kiếp tu hạnh Bồ Tát, đặng hóa độ chúng sanh, chớ tôi chẳng vì lợi ích một mình mà cầu mau chứng đạo quả.2- Tôi nguyện hóa độ hết thảy mọi loài chúng sanh ở các thế giới trong mười phương đều phát tâm cầu đạo Vô Thượng Chánh Giác, giữ gìn tâm Bồ Đề cho bền chắc, và khuyến hóa theo môn lục độ (lục độ là: 1- bố thí, 2- trì giới, 3- nhẫn nhục, 4- tinh tấn, 5- thiền định, 6- trí huệ).3- Tôi nguyện giáo hóa vô số chúng sanh ở các thế giới đều đặng thành Phật thuyết Pháp trước tôi, và trong khi thuyết Pháp, làm sao cho tôi đều xem thấy tất cả.4- Tôi nguyện trong khi tu Bồ Tát Đạo, làm đặng vô lượng việc Phật, và sanh ra đời nào cũng tu theo Đạo ấy cả.5- Bao nhiêu chúng sanh của tôi dạy dỗ đều đặng thanh tịnh, như các người đã có tu phép thiền định ở cõi Phạm Thiên, tâm ý không còn điên đảo. Nếu đặng các kẻ chúng sanh như vậy sanh về cõi tôi, thì khi ấy tôi mới thành đạo.6- Tôi nguyện đem các món hạnh nguyện mà cầu đặng cõi Phật trang nghiêm và nguyện hết thảy các cõi Phật đều hiệp chung lại thành một thế giới của tôi. Đường giới hạn xung quanh trong cõi ấy đều dùng những chất: Vàng, bạc, ngọc lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não, mà xây đắp cho cao lên đến cõi Phạm Thiên, còn mặt đất thì toàn là ngọc lưu ly tất cả. Trong cõi ấy không có các món đất, cát, bụi bặm, chông gai, dơ dáy, và không có những sự cảm xúc, thô ác, và xấu xa, cũng không có những người đàn bà và tên hiệu của người đàn bàHết thảy chúng sanh đều hóa sanh, chớ không phải bào thai trong bụng mẹ như các cõi khác, và hằng tu tập các pháp thiền định, vui đẹp tự nhiên, chớ không cầu phải ăn uống những đồ vật chất.7- Trong cõi tôi không có người Tiểu thừa, Thinh Văn và Duyên Giác. Thảy đều là các bực Bồ Tát, căn tánh cao thượng, tâm trí sáng suốt, người nào cũng đã xa lìa mọi sự tham lam, hờn giận, ngu si, và đã tu đặng các môn phạm hạnh cả.8- Trong khi chúng sanh sanh về cõi tôi, thì tự nhiên đủ tướng mạo Tỳ khưu, đều có cạo tóc và đắp y một cách chỉnh đốn cả.9- Chúng sanh trong cõi tôi muốn ăn, thì tự nhiên có bình bát thất bảo cầm ở nơi tay và đủ các món đồ ăn ngon đẹp đầy bát. Khi ấy lại nghĩ rằng: Chúng ta chớ nên dùng những đồ này, nguyện đem bố thí, trước hết dâng cúng cho các Đức Phật, Bồ Tát, Thinh Văn, và Duyên Giác, sau nữa thì chúng sanh nghèo hèn và các loài ngạ quỷ đói khát đều dùng no đủ. Còn phần chúng ta thì nên tu pháp thiền định, hưởng sự vui đẹp tức là món ăn.10- Mọi người suy nghĩ như vậy, liền đặng pháp Tam muội, gọi là “Bất khả tư nghị hạnh”, có sức thần thông, dạo đi tự tại, không có sự gì ngăn ngại tất cả. Độ trong giây phút, mọi người được dạo khắp thế giới mà cúng dường Phật, bố thí và diễn thuyết các pháp cho chúng sanh nghe rồi trở về nước thì vừa đúng bửa ăn.11- Tôi nguyện trong thế giới của tôi không có tám món chướng nạn và các sự khổ não, và cũng không có những người phá hư giới luật.12- Tôi nguyện trong thế giới ấy có nhiều món châu báu rất lạ lùng và không cần gì phải dùng đến ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Các vị Bồ Tát tự nhiên xung quanh thân thể có hào quang sáng chói, soi khắp các nơi, thường chiếu luôn không có ngày đêm, chỉ xem lúc nào bông nở thì cho là ban ngày, lúc nào bông xếp lại cho là ban đêm mà thôi. Còn khí hậu thường điều hòa, không nóng quá cũng không lạnh quá.13-Nếu các vị Bồ Tát nào bổ xứ làm Phật các cõi khác, thì trước hết ở nơi cõi tôi, rồi đến cung Trời Đâu xuất, sau mới giáng sinh đến cõi ấy.14- Tôi nguyện hóa độ chúng sanh đều thành Phật hết rồi, tôi mới hiện lên trên hư không mà nhập diệt.15-Trong lúc tôi nhập diệt, thì có nhiều món âm nhạc tự nhiên kêu vang đủ pháp mầu nhiệm và các vị Bồ Tát nghe đều tỏ đặng các lẽ huyền diệu.16-Thưa Đức Thế Tôn! Tôi nguyện khi làm Bồ Tát mà dạo trong các cõi Phật, xem thấy những thức trang nghiêm những châu báu, những hình trạng, những xứ sở, và những hạnh nguyện của chư Phật, thì tôi đều cầu đặng thành tựu tất cả.17 - Tôi nguyện các vị Đẳng Giác Bồ Tát đều ở trong cõi tôi mà đợi đến thời kỳ sẽ bổ xứ làm Phật, chớ không thọ sanh các cõi nào khác nữa. Nếu các vị nào muốn đến cõi khác thành Phật mà hóa độ chúng sanh, thì tùy theo ý nguyện.18-Thưa Đức Thế Tôn! Trong khi tôi tu đạo Bồ Tát, nguyện đặng cõi Phật rất tốt đẹp nhiệm mầu. Các vị Bồ Tát phát Bồ Đề tâm, tu Bồ tát hạnh, mà đặng bực bổ xứ thành Phật, đều sanh về trong cõi tôi cả.19-Thưa Đức Thế Tôn! Tôi nguyện đặng như vậy, tôi mới thành Phật, và nguyện ngồi khoanh chưn trên tọa Kim Cang ở dưới cây Bồ Đề, trong giây lát chứng thành Chánh Giác.20- Khi thành Phật rồi, tôi biến hóa ra các vị hóa Phật và các vị Bồ Tát, nhiều như số các sông Hằng, đặng dạo các thế giới mà hóa độ chúng sanh, giảng dạy các Pháp nhiệm mầu và khiến cho hết thảy nghe Pháp rồi đều phát Bồ Đề Tâm, cho đến khi thành đạo cũng không đổi dời tâm trí.21- Khi tôi thành Phật rồi, chúng sanh ở trong các cõi nếu thấy đặng tướng tốt của tôi, hằng in nhớ trong tâm luôn luôn, cho đến khi thành đạo cũng không quên.22-Tôi nguyện chúng sanh trong cõi tôi, người nào cũng đủ căn thân toàn vẹn, không hư thiếu món gì. Nếu các vị Bồ Tát muốn xem thấy tướng tôi, hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, thì đều thấy đặng cả. Khi thấy rồi, liền phát Bồ Đề tâm, và lại trong lúc thấy tôi, những sự hoài nghi về đạo pháp tự nhiên hiểu biết đặng cả, không cần đợi tôi giải quyết nữa.23- Tôi nguyện khi tôi thành Phật rồi, thì tôi đặng thọ mạng vô cùng vô tận, không kể xiết. Còn các vị Bồ Tát trong cõi tôi cũng đặng sống lâu như vậy.24-Trong lúc tôi thành Phật, có vô số Bồ Tát đủ tướng mạo Tỳ khưu, người nào cũng cạo đầu, đắp y, cho đến khi nhập Niết Bàn thì những tóc không khi nào để mọc dài, và những y cũng không khi nào đổi bận như đồ người thế tục.Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện rồi, liền thọ ký cho Vương Chúng Thái Tử rằng: “Hay thay! Hay thay! Ngươi là người Đại Trượng phu, trí huệ sáng suốt, tỏ biết mọi lẻ, phát nguyện rất lớn và rất khó khăn, làm những việc công đức rất rộng sâu, không thể nghĩ bàn đặng. Chính ngươi là bậc trí huệ nhiệm mầu, mới làm đặng mọi sự như vậy.Bởi ngươi vì hết thảy chúng sanh mà phát thệ nguyện rất nặng lớn và cầu đặng cõi Phật rất trang nghiêm như thế, nên ta đặt hiệu ngươi là: Văn Thù Sư Lợi. Trải vô lượng hằng sa số kiếp về sau, ngươi sẽ thành Phật hiệu là: Phổ Hiền như Lai ở thế giới rất đẹp đẽ, tên là Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Chi, thuộc về bên phương Nam.Tất cả mọi sự trang nghiêm của ngươi ước ao thảy đều thỏa mãn.Này Văn Thù Sư Lợi, từ rày sắp về sau, trải hằng sa kiếp, ngươi tu Bồ Tát đạo, trồng các căn lành, và tâm trí thanh tịnh. Ngươi hằng vì chúng sanh mà giáo hóa cho chúng nó đều dẹp trừ được các món tâm bịnh, vậy nên chúng nó đều xưng ngươi là một ông Thầy thuốc hay, có một món thuốc thần để chữa lành được bịnh phiền não.Vương chúng Thái Tử thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự thệ nguyện của tôi đặng như lời Ngài thọ ký đó, thì tôi xin cả thế giới đều vang động và các Đức Phật mười phương đều thọ ký cho tôi nữa”.Vương chúng Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu lễ Phật, tự nhiên giữa hư không có các thứ tiếng âm nhạc vang rền diễn ra các pháp mầu nhiệm, và có các thứ bông tươi tốt thơm tho rải xuống như mưa.Các vị Bồ Tát ở các thế giới khác xem thấy như vậy, liền hỏi các Đức Phật rằng: “Do nhân duyên gì mà có điềm lành như thế?”Các Đức phật nói rằng: ”Nay Chư Phật ở mười phương đều thọ ký cho Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát sau sẽ thành Phật, nên hiện ra điềm lành ấy”.Vương chúng Thái Tử thấy vậy, lòng rất vui mừng, liền đãnh lễ Phật, rồi ngồi nghe thuyết Pháp.Từ đó sắp sau, Thái Tử mạng chung, bào thai ra các thân khác và đời khác, kiếp nào cũng giữ gìn bản thệ, quyết chí tu hành, học đạo Đại thừa, làm hạnh Bồ tát, hóa độ chúng sanh đều thành Phật đạo, mà cầu cho thỏa mãn những sự cầu nguyện của mình.Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Bodhisatva Muniusri) Lưỡi gươm vàng trí tuệ Văn Thù Sư Lợi cũng được gọi là Mạn Thù Thất lỵ, có nghĩa là Diệu Đức, Diệu Cát Tường. Diệu Đức được hiểu là mọi đức đều tròn đầy. Thủa xưa, Ngài là con thứ ba của vua Vô Tránh Nhiệm có tên là Thái tử Vương Chúng. Ngài cúng dường Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sanh nên được hiệu là Văn Thù Sư Lợi. Sau khi Phật Bảo Tạng thọ ký cho Ngài phải trải vô lượng hằng hà sa số kiếp về sau, thì Ngài sẽ thành Phật ở thế giới thanh tịnh Vô Cấu Bảo Chi thuộc về bên phương Nam, hiệu là Phật Văn Thù. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi xuất hiện hầu như trong tất cả các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật…như là một nhân vật thân cận nhất của Đức Phật Thích Ca. Ngài có lúc thì chính thức thay mặt Đức Thế Tôn diễn nói Chánh pháp, còn có lúc đóng vai người điều khiển chương trình để giới thiệu đến thính chúng một thời pháp quan trọng của Đức Bổn Sư. Ngài thấu hiểu Phật tánh bao gồm cả ba đức: Pháp thân, Bát Nhã và Giải thoát cho nên trong hàng Bồ tát Ngài là thượng thủ. Là vị Bồ tát tiêu biểu cho trí tuệ, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen. Biểu tượng đặc thù của Ngài là trên tay phải, dương cao lên khỏi đầu, là một lưỡi gươm đang bốc lửa. Nó mang hàm ý rằng chính lưỡi gươm vàng trí tuệ nầy sẽ chặt đứt tất cả những xiềng xích trói buộc của vô minh phiền não đã cột chặt con người vào những khổ đau và bất hạnh của vòng sinh tử luân hồi bất tận và đưa con người đến trí tuệ viên mãn. Trong khi đó, tay trái của Ngài đang cầm giữ cuốn kinh Bát nhã trong tư thế như ôm ấp vào giữa trái tim. Đây là biểu trưng cho tỉnh thức, giác ngộ. Đôi khi, chúng ta cũng thấy tay trái của Ngài cầm hoa sen xanh, biểu thị cho đoạn đức. Có nghĩa là dùng trí tuệ để dứt sạch mọi nhiễm ô tham ái, như hoa sen ở trong bùn mà không nhiễm mùi bùn. Nói một cách khác là Bồ tát không phải người ẩn nơi non cao rừng thẩm, hoặc sống trong cảnh thanh tịnh u nhàn, mà là người sống chung đụng với quần chúng, lăn lộn trong đám bụi trần để cứu độ chúng sinh, nên có lúc họ ra làm vua, có lúc làm quan, cũng có khi làm kẻ tật nguyền nghèo khổ…Tuy sống trong dục lạc dẫy đầy, mà Bồ tát vẫn giữ tâm thanh tịnh không bị ô nhiễm như người đời. Đó là nhờ trí tuệ dứt sạch tham ái, viên thành đoạn đức. Chiếc giáp Ngài mang trên người gọi là giáp nhẫn nhục. Nhờ nó nên các mũi tên thị phi không xâm phạm vào thân. Nó có thể che chở cho Ngài vẹn toàn tâm từ bi do đó bọn giặc sân hận oán thù không thể nào lay chuyển được hạnh nguyện của Bồ tát. Bồ tát không bao giờ rời chiếc giáp nhẫn nhục bởi vì nếu thiếu nó thì họ không thể nào thực hiện được tâm Bồ đề. Nói về Phật giáo Á Châu, thì Ngũ Đài Sơn bên Trung Quốc được xem như là nơi trụ tích của Văn Thù Bồ tát. Ngũ Đài Sơn thuộc địa phận tỉnh Sơn Tây và có năm ngọn núi quần lại với nhau là Đông đài, Tây đài, Nam đài, Bắc đài và Trung ương đài. Phong cảnh rất thanh tú với hồ nước lung linh, những dòng sông trong veo uốn khúc cộng thêm những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú như những bức tranh thủy mặc, nên từ lâu được coi là chốn bồng lai tiên cảnh, trú xứ của những vị Tiên theo truyền thuyết Trung Hoa. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Ngài Văn Thù trụ lại ở núi Thanh Lương phía Đông Bắc và hiện đang thuyết pháp cho chư Bồ tát nghe. Mà núi Thanh Lương sau nầy được ám chỉ là núi Ngũ đài. Vì thế mà vào đời nhà Đường (736 sau T.L) có vị Thiền sư Đạo Nhất, một vị cao tăng, đã thực hiện một chuyến hành hương trên Ngũ đài sơn. Sư gặp một một lão tăng cưỡi trên mình một con voi trắng ở phía đối diện. Lão tăng nói ngày mai sẽ gặp được Văn Thù Bồ tát, nói xong thì lão tăng biến mất. Sư quá đổi vui mừng và suốt đêm nghĩ lại chùa Thanh Lương, trung tâm của núi Ngũ đài. Sáng hôm sau vào lúc tinh mơ, Sư đã thức dậy, một mình nhắm hướng Tây lên núi. Sư lại gặp vị cưỡi con voi trắng hôm qua và vị tăng khuyến khích sư tiếp tục đi lên núi. Khi sư đi về hướng Tây Bắc, đi qua một cây cầu thì Sư thấy một dinh thự hùng vĩ trang nghiêm như một tu viện, tất cả đều bằng vàng. Sau đó Sư gặp lại vị lão tăng và không còn nghi ngờ gì nữa, Sư biết chắc vị lão tăng kia chính là Văn Thù Bồ tát hóa hiện. Sư mừng đến độ choáng váng phải một lúc sau Sư mới hoàn hồn tỉnh lại. Nhân cơ hội nầy Sư đã tham vấn về những khúc mắc trong Phật pháp và Bồ tát cũng ân cần hỏi han về tình trạng Phật pháp ở quê hương Sư. Từ giã Bồ tát bước đi chừng trăm bước, Sư ngoái đầu nhìn lại, tất cả đều biến mất. Sư Đạo Nhất đem tất cả những điều chứng kiến được tâu trình lên vua Đường Huyền Tôn. Nhà vua rất thu hút bởi chuyện nầy nên sai thiết lập ngôi Kim Cát Tự. Đây là ngôi chùa vĩ đại được kiến trúc theo mô hình mà Sư nhớ lại được hoàn tất vào cuối thế kỷ thứ 8. Một nhà sư khác người Nhật tên là Viên Nhân (Ennin) cũng đã hành hương đến Ngũ Đài Sơn vào năm 840 sau T. L. Ông đã lưu lại đây hơn hai tháng và đã ghi lại những điều chứng kiến được như sau:”Vào khoảng đầu hôm, chúng tôi, một nhóm tăng khoảng mười người đột nhiên trông thấy trên bầu trời hướng Đông của thung lũng xuất hiện một cây đèn thần. Ánh sáng ban đầu chỉ nhỏ cỡ chừng bằng một cái bình nhưng sau đó lớn dần lên bằng cả cái nhà. Chúng tôi quả thật rúng động trước cảnh tượng nầy, vội vã quỳ xuống đánh lễ và niệm lớn danh hiệu Bồ tát Văn Thù. Rồi thì một cây đèn khác lại hiện ra gần chúng tôi hơn. Hai ngọn đèn này nhìn từ xa, cách nhau khoảng chừng 100 bộ, tỏa ánh sang rất rực rỡ cho đến khoảng nữa đêm thì tàn lụi dần và biến mất”. Trong cuốn hồi ký nầy, sư Viên Nhân cũng mô tả lại những kiến trúc, đền đài, những nơi thờ phượng ở trên Ngũ Đài Sơn, kể cả bức tượng Bồ tát Văn Thù rất nổi tiếng tại chùa Hoa Nghiêm. Đây là bức tượng Bồ tát cưỡi trên mình con sư tử lớn bằng cả một ngôi nhà năm gian. Con sư tử trông thật siêu nhiên, vĩ đại và sống động giống như là thật vậy. Khi nhìn, chúng ta có cảm tưởng như là nó đang đi và thở hơi khói ra ở miệng. Sư Viên Nhân viết thêm rằng:” Bức tượng nầy phải đúc đến lần thứ bảy mới hoàn thành bởi vì tất cả những lần trước, lần nào cũng bị bể cả. Cuối cùng nhà điêu khắc thành tâm khấn nguyện cùng Bồ tát Văn Thù xin Ngài hiện ra cho ông ta thấy hình ảnh trung thực nhất mà Bồ tát muốn miêu tả về mình. Sau khi cầu nguyện, nhà điêu khắc mở mắt ra và vô cùng kinh ngạc khi thấy Văn Thù Bồ Tát cỡi trên mình con sư tử màu vàng xuất hiện trước mắt. Một khoảnh khắc sau đó, Bồ tát bay lên đám mây ngũ sắc và mất hút dần vào khoảng không. Nhà điêu khắc vô cùng vui mừng và cảm kích khi được trông thấy hình ảnh thực sự của Bồ tát, nhưng đồng thời ông cũng không cầm được nước mắt vì hối hận khi đã diễn tả sai lầm về Bồ tát từ trước đến nay”. Con sư tử biểu thị công năng của trí tuệ. Bồ tát do trí tuệ viên mãn để thuyết pháp dẹp tan tất cả mọi tà thuyết. Vai trò tuyên dương Diệu Pháp của Bồ tát Văn thù, chúng ta có thể tìm thấy trong kinh: “Văn Thù Sư Lợi nói về cảnh Giới Bất Tư Nghị của Phật”. Đây là một tuyên ngôn của lý tưởng Bố tát đạo được công bố bởi một vị đại Bồ tát đại biểu cho trí tuệ. Mục tiêu, lý tưởng của Bố tát đạo không phải chỉ là để vượt qua vòng sanh tử, đạt đến cảnh giới Niết bàn mà là hoàn thành Phật đạo để cứu độ chúng sanh. Đặc biệt vai trò tuyên dương diệu pháp của Ngài đã được phô trương quá xuất sắc trong kinh”Duy Ma Cật”. Trưởng giả Duy Ma Cật là một cư sĩ tại gia nhưng tu hành chứng đắc, mật hạnh viên thông mà ngay cả những bậc đại đệ tử của Phật cũng không có vị nào sánh bằng. Vì muốn độ người nên Ngài thị hiện ở thành Tỳ Da Ly, dùng vô lượng của cải để nhiếp độ dân nghèo, giữ giới hạnh trong sạch để nhiếp độ kẻ phá giới, dùng hạnh nhẫn nhục để nhiếp độ kẻ giận dữ sân hận, dùng đại tinh tấn để nhiếp độ kẻ biếng nhác, nhất tâm thiền tịch để nhiếp độ kẻ tâm loạn, dùng trí huệ để nhiếp độ kẻ vô trí. Dù hiện thân bạch y mà giữ giới hạnh trong sạch của Sa Môn, dù ở tại gia mà không đắm nhiễm cõi đời, thị hiện có vợ con quyến thuộc mà thường tu thanh tịnh hạnh, dù mặc đồ quý báu mà dùng tướng tốt để trang nghiêm, dù ăn uống theo người đời mà lấy Thiền duyệt làm mùi vị, hoặc đến chỗ cờ bạc, xướng hát vẫn tùy cơ độ người. Tất cả người gặp đều cung kính cúng dường. Một hôm vì muốn tạo cơ duyên để hoằng pháp lợi sanh, ông đã mượn cớ bị bệnh để tạo dịp giảng giải giáo lý cho chúng sanh. Đức Phật đã biết rõ căn “bệnh” của ông nên đã lần lượt yêu cầu các vị đại đệ tử thay mặt mình đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Thế nhưng tất cả những đại đệ tử của Phật trong quá khứ đã từng bị trưởng giả Duy Ma cật chất vấn về tâm pháp và sở học mà không một ai trả lời trôi chảy trước kiến thức Phật pháp uyên thâm và biện tài vô ngại của ông nên tất cả đều sợ hãi từ chối. Vài thí dụ điển hình như: Một hôm A Nan cầm bát đến trước nhà Bà la môn để xin sữa cho Thế Tôn khi Ngài có bệnh. Khi ấy Duy Ma Cật đến hỏi ông rằng: - Này A Nan! Làm gì mà cầm bình bát đến đứng đây sớm thế? A Nan đáp: - Thưa Cư sĩ! Thế Tôn thân có chút bịnh, cần dùng sữa bò nên tôi mới đến đây. Cư sĩ Duy Ma cật nói: - Thôi, thôi! A Nan chớ nói như thế. Thân Như Lai là thân Kim cương, ác đã dứt sạch, thiện đã viên mãn, đâu còn bệnh nào, đâu còn khổ não. A Nan, hãy im lặng về đi. Chớ phỉ bang Như Lai, chớ cho người khác nghe biết lời nầy. A Nan, Chuyển Luân Thánh Vương chỉ có chút ít phước đức mà còn chẳng bịnh tật, huống chi là Như Lai vô lượng phước tu, thù thắng khắp nơi. A Nan, nếu ngoại đạo nghe được thì họ sẽ nghĩ rằng: Sao gọi Phật là Thầy cho được? bệnh của mình không chữa nỗi mà chữa được bệnh cho người khác ư? A Nan, nên biết, thân Như Lai tức là pháp thân, chẳng phải thân sắc dục. Phật là Thế tôn siêu việt ba cõi. Thân Phật là vô lậu, các lậu đã sạch, thân Phật vô vi, chẳng lọt vào số lượng. Thân Phật như thế thì còn có bệnh gì? A Nan đành im lặng ra về. Một hôm khác Trưởng giả Duy Ma Cật gặp La Hầu La. Ông hỏi: - Thưa ông La Hầu La! Ông là con của Phật, vì đạo bỏ ngôi vua mà xuất gia, thế việc xuất gia đó có những lợi ích gì? La Hầu La trả lời: - Sự lợi ích của việc xuất gia đúng như pháp. Trưởng giả Duy Ma Cật nói thêm: - Này La hầu La! Ông chẳng nên nói lợi ích của công đức xuất gia. Tại vì sao? Vô lợi ích, vô công đức mới là xuất gia. Nếu đứng về pháp hữu vi, mới nói có lợi ích, có công đức. Còn việc xuất gia là pháp vô vi mà trong pháp vô vi chẳng có lợi ích và công đức. La hầu La! Việc xuất gia chẳng có bỉ thử đối đãi, lìa sáu mươi hai kiến chấp. Ở nơi Niết Bàn, là thọ dụng của người trí, là chỗ hành của bậc Thánh, hay hàng phục ma chúng, độ ngũ đạo, tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực, lập ngũ căn, chẳng làm phiền não người khác, lìa mọi thứ ác, dẹp các ngoại đạo, siêu việt giả danh, ra khỏi bùn lầy thế gian, chẳng bị dính mắc, vô ngã và ngã sở, vô sở lãnh thọ, tâm chẳng nhiễu loạn, ham hộ niệm chúng sinh, tùy thuận Thiền định, lìa những tội lỗi. Nếu được như thế mới là chơn xuất gia. Cuối cùng chỉ có Văn Thù Sư Lợi thay mặt Đức Phật đến thăm bịnh của Trưởng giả Duy Ma Cật mà thôi. Cùng đi với Bồ tát Văn Thù còn có 8000 Bồ tát, 500 Thanh văn và trăm nghìn Thiên nhơn để xem một cuộc tranh luận về giáo pháp của hai nhân vật kiệt xuất nầy. Duy Ma Cật hỏi: Thế nào là hạt giống Như Lai? Văn Thù Sư Lợi trả lời: - Có thân là hạt giống Như Lai, vô minh, ái dục là giống, tham sân si là giống, tứ điên đảo là giống, lục nhập là giống, thất thức xứ là giống, bát tà pháp là giống, cửu não là giống, thập bát thiện đạo là giống. Nói tóm lại, sáu mươi hai kiến chấp và tất cả phiền não đều là hạt giống Phật. Duy Ma Cật hỏi: Tại sao? Văn Thù đáp: - Nếu kẻ thấy vô vi vào chánh vị thì không thể phát tâm Vô thượng Bồ đề nữa. Ví như chỗ gò cao thì không thể sanh hoa sen, mà nơi bùn lầy ẩm thấp hoa sen mới sanh được. Cũng thế, kẻ thấy pháp vô vi vào chánh vị thì chẳng còn có thể sanh khởi Phật pháp, trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh sanh khởi Phật pháp thôi. Nên biết tất cả phiền não là hạt giống Như Lai, ví như chẳng xuống biển cả thì chẳng được bữu châu vô giá. Cũng thế, chẳng vào biển phiền não thì chẳng thể nào được ngọc báu Nhất Thiết Trí vậy. v Chủ điểm nền tảng của kinh Duy Ma Cật là triển khai nhận thức về thực tại trên căn bản của nguyên lý bất nhị, tức hệ tư tưởng tánh Không của Bát nhã. Nguyên lý bất nhị hướng dẫn nhận thức khởi đi từ những thực tại sai biệt mà khám phá ra thực tại tối hậu là nhận thấy bản thể chân thật (tuyệt đối) ngay trong các thực tại sai biệt ấy. Để nhận thức được thực tại chân thật nầy, Bồ tát cần đi qua cánh cửa bất nhị, tức là cánh cửa giao thông cho Bồ tát qua lại giữa Niết bàn và sanh tử. Bây giờ, Duy Ma Cật bảo các Bồ tát rằng:Này nhơn giả Bồ tát! Làm sao nhập pháp môn bất nhị? Hãy tùy sở ngộ của mình mà nói ra. Tất cả 32 vị Bồ tát lần lượt trả lời về câu hỏi nầy, nhưng cư sĩ Duy Ma Cật đều không hài lòng về các câu trả lời đó. Cuối cùng tới ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: - Theo ý tôi, nơi tất cả vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, lìa nơi vấn đáp. Ấy là nhập pháp môn vô nhị. Khi đó Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng: - Chúng tôi mỗi mỗi đã tự nói xong. Nay đến lượt Nhơn giả nói:”Thế nào là nhập pháp môn bất nhị của Bồ tát?” Duy Ma Cật im lặng. Văn Thù tán thán rằng: - Lành thay! Lành thay! Cho đến chẳng có văn tự, lời nói mới là chơn nhập pháp môn bất nhị. Bất nhị là cảnh giới của “đại trí tuệ bình đẳng”, có nghĩa là 2 cũng không và 3 cũng không. Nếu nói tới pháp môn bất nhị nầy thì phải lìa xa hẳn ngôn thuyết ở cảnh giới vong ngôn, tuyệt tự. Không thể đem hết thảy ngôn thuyết của tất cả các pháp mà hiểu rỏ được, cũng không thể chỉ bảo được và cũng không thể biết được. Không thể hỏi và trả lời được, thì đó mới là “pháp môn bất nhị”. Văn Thù Bồ Tát đồng thời cũng còn quan hệ mật thiết với ngọn núi Ghandhamana, “ngọn núi tỏa thơm mùi hương báu”. Trong bộ kinh “Văn Thù Sư Lợi Nhập Diệt”, Ngài được mô tả là đã từng đến viếng dãy Hy Mã Lạp Sơn để chuyển hóa 500 vị đại tiên cư trú tại đây trở về với Phật giáo. Và sau đó, kinh nầy cũng mô tả cảnh Ngài nhập diệt, khi dùng lửa tam muội tự thiêu đốt xác thân của mình. Xá lợi của Ngài được đưa về đỉnh núi Hương Sơn, nơi mà vô số lượng các Thiên, Long, quỷ , thần sẽ tu tập đến để làm lễ tôn kính Ngài. Núi Hương Sơn này đã được nhà học giả Pháp Lamotte xác định là Gandhamana. Sau hết, chúng ta thờ phượng Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là để hướng về trí tuệ sẵn có của chúng ta. Vô minh, ái dục đã đưa chúng ta lặn hụp trong vòng sinh tử luân hồi, chịu chập chồng muôn nỗi khổ đau. Chúng ta hãy thức tỉnh để quay về với trí tuệ sẵn có của mình và dùng thanh gươm trí tuệ chặt đứt lưới tham ái để vượt ra khỏi bể khổ thâm sâu. Vâng, chỉ có trí tuệ mới có đủ công năng cứu chúng ta ra khỏi vòng luân hồi nghiệp báo. Thêm nữa, Bồ tát là tấm gương sáng cho lợi tha, chúng ta phải dùng lưỡi kiếm trí tuệ nầy để cứu thoát mọi người trước kẻ thù phiền não, của con rắn độc tham sân si. Có thực hành được như vậy, mới xứng đáng đánh lễ đức Văn Thù Sư Lợi tay cầm kiếm, mình mặc giáp, ngồi trên lưng sư tử. Công đức ở trong tự tánh chẳng phải bố thí, cúng dường mà được. Cho nên nói phước chẳng bằng công đức, bố thí chẳng kịp trì kinh là vậy Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 3, 2013 SỰ TÍCH ĐỨC PHỔ HIỀN BỒ TÁT Khi Đức Phổ Hiền Bồ Tát chưa xuất gia học đạo, còn làm con thứ tư của vua vô Tránh Niệm, tên là Năng Đà Nô. Nhờ Phụ Vương khuyên bảo, nên Thái Tử mới phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và chúng sanh trong ba tháng. Lúc ấy có quan Đại thần Bảo Hải thấy vậy, khuyên rằng: “Nay Điện hạ có lòng làm đặng món công đức rất tốt như thế, xin hãy hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề, mà cầu đặng thành Phật, hơn là cầu sự phước báu hữu lậu nơi cõi nhơn Thiên, vì cõi ấy còn ở trong vòng sinh tử”. Năng Đà Nô Thái Tử nghe quan Đại thần khuyên bảo như vậy, liền thưa với Phật Bảo Tạng rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi có món công đức cúng dường Ngài và đại chúng trong ba tháng, xin hồi hướng về đạo vô thượng Chánh Giác, nguyện phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bồ tát mà giáo hóa mọi loài chúng sanh, đặng thành Phật đạo, và nguyện đặng cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm, bao nhiêu những sự tốt đẹp và sự giáo hóa chúng sanh đều y như thế giới của Đức Phổ Hiền Như Lai vậy”. Đức Bảo Tạng Như Lai nghe Năng Đà Nô Thái Tử phát nguyện như thế, liền thọ ký rằng: Hay thay! hay thay! Ngươi phát thệ nguyện rộng lớn, muốn độ hết thảy chúng sanh đều thành Phật Đạo. Trong khi tu Bồ tát đạo, dùng trí kim cang mà phá nát các núi phiền não của mọi loài chúng sanh, vì vậy nên ta đặt hiệu ngươi là: Kim Cang Trí Huệ Quang Minh Công Đức, trãi hằng sa kiếp làm nhiều công việc Phật sự rất lớn, rồi đến thế giới Bất Huyến ở phương Đông mà thành Phật, hiệu là Phổ Hiền Như Lai, chừng đó những sự tốt đẹp trang nghiêm của ngươi đã cầu nguyện thảy đều thỏa mãn”. Khi Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký rồi, tự nhiên giữa hư không có nhiều vị Thiên tử ở các cõi Trời đem đủ thứ bông thơm đẹp đến mà cúng dường và đồng thinh khen ngợi. Năng Đà Nô Thái Tử thưa với Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu những sự ao ước của tôi ngày sau quả nhiên đặng như lời Ngài thọ ký, nay tôi kính lễ Ngài và chư Phật mà xin làm sao hằng sa thế giới có đủ món hương rất tốt rất thơm, mùi bay khắp trong các cõi, và mọi chúng sanh, hoặc ở trong địa ngục, ngạ quỷ cùng súc sanh, cho đến các người ở cõi Thiên Thượng Nhơn gian, đương mắc phải nghiệp báo gì, nếu ngửi đặng món hương thơm ấy, tức thì đều đặng rảnh khổ và lại hưởng sự an vui”. Năng Đà Nô Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu mà lễ Phật, thì trong các thế giới mười phương tự nhiên có mùi hương thơm bay khắp cả. Lúc đó mọi loài chúng sanh ngửi đặng mùi hương ấy, lòng dạ hớn hở, các bệnh phiền não thảy đều tiêu trừ. Năng Đà Nô Thái Tử nhờ Phật thọ ký như vậy, thân tâm vui mừng, bèn đảnh lễ Phật, rồi ngồi xuống nghe Ngài thuyết Pháp. Năng Đà Nô Thái Tử nhờ công đức đó, nên sau khi mạng chung, sanh ra các thân khác và các đời khác, kiếp nào cũng nhờ lời thệ nguyện mà chăm làm các việc Phật sự và hóa độ chúng sanh, đặng cầu cho mau viên mãn những sự của mình đã ao ước. Bởi Ngài có lòng tu hành tinh tấn như vậy, nên nay đã thành Phật, ở cõi Bất Huyến, và hóa thân vô số ở trong các thế giới mà giáo hóa chúng sanh Share this post Link to post Share on other sites
Posted 27 Tháng 3, 2013 SỰ TÍCH ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT Đức Đại Thế Chí khi chưa xuất gia học đạo, thì Ngài chính là con thứ hai của vua Vô Tránh Niệm tên là Ni Ma Thái Tử. Ngài vâng lời phụ vương khuyên bảo, phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và đại chúng trọn trong ba tháng. Quan Đại thần là Bảo Hải thấy vậy, bèn khuyến thỉnh rằng: “Thưa Điện hạ! Trong sự tu phước có hai thứ: một là tu phước hữu lậu hai là tu phước vô lậu. Song phước hữu lậu dầu có to tát thế nào, thì chỗ cảm báo cũng chỉ ở trong cõi Nhơn Thiên hưởng phần khoái lạc mà thôi: chớ không thoát khỏi luân hồi sanh tử. Còn như phước vô lậu, thì chỗ kết quả ở ngoài ba cõi bốn dòng, kiếp kiếp đời đời tiêu diêu tự tại. Vậy xin Điện hạ nên vì tất cả chúng sanh mà cầu đặng “Nhứt Thiết Trí” đem công đức ấy hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề, thì sự phước báu không khi nào cùng tận, mà lại đặng viên mãn cái tâm nguyện nữa. Ni Ma Thái Tử nghe quan Đại Thần khuyên nói rành rẽ như thế, liền chấp tay thưa với Phật Bảo Tạng rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi xin đem công đức cúng dường Phật và chúng Tăng trong ba tháng, và những hạnh tu tập của tôi đã từng làm, như là: Ba nghiệp của thân 1- Không sát hại chúng sanh,2- Không trộm cắp của người và3- Không tà dâm Bốn nghiệp của miệng. 1- Không nói láo xược2- Không nói thêu dệt3- Không nói hai lưỡi4- Không nói độc dữ thô tục Và ba nghiệp của ý 1- Không tham nhiễm danh lợi và sắc dục2- Không hờn giận oán cừu3- Không si mê ám muội, cùng các món hạnh tu thanh tịnh của tôi, mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và cầu đặng một thế giới rất trang nghiêm đẹp đẽ, như cõi Phật Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quan Minh Sang Vương Như Lai, mà Ngài đã thọ ký cho huynh trưởng tôi đó vậy. Khi Đức Phật ấy thành đạo, trước hết tôi ra khuyến thỉnh Ngài nói đủ Pháp Tam Thừa liễu nghĩa mà hóa độ chúng sanh. Trong khi đó, tôi cũng còn tu Bồ Tát Đạo, làm việc Phật sự, dạy dỗ mọi người và làm những sự lợi ích cho các loài hữu tình, mà cầu mau đặng hoàn mãn các món công hạnh đã thệ nguyện. Đến chừng Phật Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai diệt độ rồi, thì tôi sẽ thành đạo, kế ngôi Phật truyền Chánh Pháp mà hóa độ chúng sanh. Những sự trang nghiêm đẹp đẽ trong quốc độ tôi, cùng là thời kỳ diệt độ và kiếp sơ trụ thế của Chánh Pháp tôi, đều nguyện y như công cuộc ứng hóa của Đức Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai vậy”. Phật Bảo Tạng nghe mấy lời của Ni Ma Thái Tử nguyện, liền thọ ký rằng: “ Theo như lòng của ngươi muốn thành tựu một thế giới rộng lớn trang nghiêm, thì qua đời vị lai, trải hằng hà sa kiếp, người sẽ được hoàn mãn các sự cầu nguyện ấy. Vì người có lòng mong cầu một thế giới rất đẹp rất lớn như thế, nên ta đặt hiệu cho ngươi là “Đắc Đại Thế”, tức là Đại Thế Chí Bồ Tát. Sau khi Phật Biến Xuất Nhứt Thiết công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai nhập Niết Bàn rồi, người bổ xứ làm Phật, hiệu là: Thiện Trụ Trân Bảo Như Lai, kế tiếp ra đời mà hóa độ mọi loài hàm thức”. Ni Ma Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi liền thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự nguyện cầu của tôi quả đặng như lời Ngài thọ ký đó, tôi xin kính lễ Ngài và nhờ Ngài làm sao cho các thế giới đều vang động và ở giữa hư không có rải xuống nhiều thứ hoa thơm đẹp, lại có các Đức Phật ở các thế giới mười phương cũng đều thọ ký cho tôi như vậy nữa”. Ni Ma Thái Tử thưa rồi, vừa cúi lạy Phật, tức thì các thế giới mười phương, cả núi sông, cây cối, và những vật có hình chất, đều rung động ra thành tiếng vang rền khắp cả, còn giữa hư không lại có các thứ bông rất thơm tho và tốt đẹp rơi xuống như mưa. Các Đức Phật ở mười phương đều đồng tình thọ ký rằng: “Tại cõi Tán đề lam, có người đệ tử của Phật Bảo Tạng Như Lai tên là Ni Ma, con thứ hai của Vua Vô Tránh Niệm, có phát tâm cúng dường Phật và đại chúng trót ba tháng, đem công đức ấy mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề và nguyện đặng ở cõi thế giới trang nghiêm. Vì vậy nên trải qua hằng sa kiếp, người ấy sẽ bổ xứ thành Phật, sau khi Đức Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quan Minh Sang Vương Như Lai đã nhập Niết Bàn” Ni Ma Thái Tử nhờ Phật Bảo Tạng và các Đức Phật mười phương thọ ký rồi, lòng rất vui mừng, hằng chăm tu tập công hạnh vô lậu mà cầu cho mau thỏa mãn những điều tâm nguyện. Từ đó về sau, Ni Ma Thái Tử mạng chung rồi đầu thai ra thân khác đời khác, kiếp nào cũng hằng giữ bổn nguyện, quyết chí tu hành, học đạo Đại Thừa, làm hạnh Bồ Tát, mở mang trí huệ cho chúng sanh và làm những sự nhiễu ích, đặng dìu dắt các loài ra khỏi sông mê mà bước lên đường giác. Hiện nay, Ngài Đại Thế Chí (tức là Ni Ma Thái Tử) đương làm một vị Đẳng Giác Bồ Tát, hầu gần Đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc, trợ đương Phật hóa, tiếp dẫn chúng sanh, chờ đến thời kỳ quả mãn công viên mới bổ xứ làm Phật.SỰ TÍCH ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT Đức ĐẠI THẾ CHÍ khi chưa xuất gia học đạo thì Ngài chính là con thứ hai của Vua VÔ TRÁNH NIỆM tên là NI MA Thái Tử. Ngài vâng lời Phụ Vương khuyên bảo, phát tâm cúng dường Phật BẢO TẠNG và đại chúng trọn trong ba tháng. Quan Đại thần là BẢO HẢI thấy vậy bèn khuyến thỉnh rằng:“Thưa Điện Hạ! Trong sự tu Phước có hai thứ: một là tu Phước Hữu Lậu, hai là tu Phước Vô Lậu. Song Phước Hữu Lậu dầu có to tát thế nào thì chỗ cảm báo cũng chỉ ở trong cõi Nhơn Thiên hưởng phần khoái lạc mà thôi, chớ không thoát khỏi luân hồi sanh tử. Còn như Phước Vô Lậu thì chỗ kết quả ở ngoài ba cõi bốn dòng, kiếp kiếp đời đời tiêu diêu tự tại. Vậy xin Điện Hạ nên vì tất cả chúng sanh mà cầu đặng Nhứt Thiết Trí, đem công đức ấy hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề, thì sự Phước Báu không khi nào cùng tận, mà lại đặng viên mãn cái tâm nguyện nữa”.NI MA Thái Tử nghe quan Đại Thần khuyên nói rành rẽ như thế, liền chấp tay thưa với Phật BẢO TẠNG rằng:“Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi xin đem công đức cúng dường Phật và chúng Tăng trong ba tháng và những hạnh tu tập của tôi đã từng làm, như là: Ba Nghiệp của thân: KHÔNG SÁT HẠI chúng sanh, KHÔNG TRỘM CẮP của người và KHÔNG TÀ DÂM; Bốn nghiệp của miệng: KHÔNG NÓI LÁO XƯỢC, KHÔNG NÓI THÊU DỆT, KHÔNG NÓI THÔ TỤC; Ba nghiệp của ý: KHÔNG THAM NHIỄM danh lợi và sắc dục, KHÔNG HỜN GIẬN oán cừu, KHÔNG SI MÊ ám muội, cùng các món hạnh tu thanh tịnh của tôi, mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và cầu đặng một thế giới rất trang nghiêm đẹp đẽ, như cõi Phật BIẾN XUẤT NHẤT THIẾT CÔNG ĐỨC QUANG MINH SANG VƯƠNG Như Lai, mà Ngài đã thọ ký cho Huynh Trưởng tôi đó vậy”. Khi Đức Phật ấy thành đạo, trước hết tôi ra khuyến thỉnh Ngài nói đủ Pháp Tam Thừa liễu nghĩa mà hóa độ chúng sanh. Trong khi đó, tôi cũng còn tu Bồ Tát đạo, làm việc Phật sự, dạy dỗ mọi người và làm những sự lợi ích cho các loài hữu tình, mà cầu mau đặng hoàn mãn các món công hạnh đã thệ nguyện. Đến chừng Phật BIẾN XUẤT NHẤT THIẾT CÔNG ĐỨC QUANG MINH SANG VƯƠNG Như Lai diệt độ rồi, thì tôi sẽ thành đạo, kế ngôi Phật truyền Chánh Pháp mà hóa độ chúng sanh. Những sự trang nghiêm đẹp đẽ trong quốc độ tôi, cùng là thời kỳ diệt độ và kiếp sơ trụ thế của Chánh Pháp tôi, đều nguyện y như công cuộc ứng hóa của Đức Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai vậy”.Phật BẢO TẠNG nghe mấy lời của NI MA Thái Tử nguyện liền thọ ký rằng:“Theo như lòng của ngươi muốn thành tựu một thế giới rộng lớn trang nghiêm, thì qua đời vị lai, trải hằng hà sa kiếp, người sẽ được hoàn mãn các sự cầu nguyện ấy. Vì người có lòng mong cầu một thế giới rất đẹp rất lớn như thế, nên ta đặt hiệu cho ngươi là ĐẮC ĐẠI THẾ, tức là ĐẠI THẾ CHÍ Bồ Tát. Sau khi Phật BIẾN XUẤT NHẤT THIẾT CÔNG ĐỨC QUANG MINH SANG VƯƠNG Như Lai nhập Niết Bàn rồi, người bổ xứ làm Phật hiệu là: THIỆN TRỤ TRÂN BẢO Như Lai kế tiếp ra đời mà hóa độ mọi loài hàm thức”.NI MA Thái Tử nghe Phật BẢO TẠNG thọ ký rồi liền thưa rằng:“Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự nguyện cầu của tôi quả đặng như lời Ngài thọ ký đó, tôi xin kính lễ Ngài và nhờ Ngài làm sao cho các thế giới đều vang động và ở giữa hư không có rải xuống nhiều thứ hoa thơm đẹp, lại có các Đức Phật ở các thế giới mười phương cũng đều thọ ký cho tôi như vậy nữa”.NI MA Thái Tử thưa rồi vừa cúi lạy Phật, tức thì các thế giới mười phương cả núi sông, cây cối, và những vật có hình chất, đều rung động ra thành tiếng vang rền khắp cả, còn giữa hư không lại có các thứ bông rất thơm tho và tốt đẹp rơi xuống như mưa. Các Đức Phật ở mười phương đều đồng tình thọ ký rằng:“Tại cõi Tán Đề Lam có người đệ tử của Phật BẢO TẠNG Như Lai tên là NI MA, con thứ hai của Vua VÔ TRÁNH NIỆM phát tâm cúng dường Phật và đại chúng trót ba tháng, đem công đức ấy mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề và nguyện đặng ở cõi thế giới trang nghiêm. Vì vậy nên trải qua hằng sa kiếp, người ấy sẽ bổ xứ thành Phật, sau khi Đức BIẾN XUẤT NHẤT THIẾT CÔNG ĐỨC QUANG MINH SANG VƯƠNG Như Lai đã nhập Niết Bàn”.NI MA Thái Tử nhờ Phật BẢO TẠNG và các Đức Phật mười phương thọ ký rồi, lòng rất vui mừng hằng chăm tu tập công hạnh vô lậu mà cầu cho mau thỏa mãn những điều tâm nguyện. Từ đó về sau, NI MA Thái Tử mạng chung rồi đầu thai ra thân khác đời khác, kiếp nào cũng hằng giữ Bổn Nguyện, quyết chí tu hành học đạo Đại Thừa, làm hạnh Bồ Tát, mở mang trí huệ cho chúng sanh và làm những sự nhiễu ích, đặng dìu dắt các loài ra khỏi sông mê mà bước lên đường giác. Hiện nay, Ngài ĐẠI THẾ CHÍ đương làm một vị Đẳng Giác Bồ Tát, hầu gần Đức Phật A MI ĐÀ ở cõi Cực Lạc, trợ đương Phật hóa, tiếp dẫn chúng sanh, chờ đến thời kỳ quả mãn công viên mới bổ xứ làm Phật. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 4, 2013 Hư Không Tạng Bồ Tát Ngọc báu trên đầu sáng nhiệm mầuDiệt trừ tội chướng cho chúng sinhCúi đầu đảnh lễ bậc Sám chủBa chướng tiêu, phúc tuệ viên dung Tôi nghe như vầy, một thuở đức Phật trụ ở núi Khư Ðà La, nương theo chỗ sở trụ của bậc tiên nhân Chánh Giác, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo và một ngàn vị Bồ tát của Kiếp Hiền mà ngài Di Lặc đứng đầu. Lúc bấy giờ, trưởng lão Ưu Ba Ly liền đứng dậy, sửa sang y phục, làm lễ đức Phật mà bạch rằng: - Thưa đức Thế Tôn! Trước đây, ở trong kinh Công Ðức, ngài nói là tên của Ðại Bồ tát Hư Không Tạng có thể trừ tất cả nghiệp ác chẳng lành, sửa trị vua Chiên đà la... cho đến Sa môn Chiên đà la, các ác luật nghi. Như việc ác này muốn sửa trị thì phải quan sát Bồ tát Hư Không Tạng ra sao? Giả sử được thấy thì làm sao ở chung để bố tát tăng sự? Nếu Ưu bà tắc phá năm giới, phạm tám giới trai, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na xuất gia phạm bốn trọng cấm, Bồ tát tại gia hủy phạm sáu trọng pháp, Bồ tát xuất gia phạm tám trọng cấm... mà những người lỗi như vậy đức Thế Tôn trước đây ở trong Tỳ ni nói rằng, quyết định tẩn xuất đuổi đi như hòn đá lớn đã vỡ. Nay ở trong Kinh này, đức Phật nói rằng, Bồ tát Hư Không Tạng đại bi có thể cứu các khổ và nói chú để trừ tội lỗi. Giả sử có người này thì làm sao biết được? Lấy gì làm chứng? Nguyện xin đức Thiên Tôn phân biệt giải nói! Ðức Phật bảo ngài Ưu Ba Ly rằng: - Ông và người giỏi trì Tỳ ni đời vị lai cần phải giáo hóa những chúng sinh phạm tội này và an ủi ý của họ! Lời hoằng thệ đại từ của Thế Tôn không lường, chẳng bỏ tất cả. Ở Kinh Công Ðức thậm thâm nói về pháp sửa trị tội gọi là quyết định Tỳ ni, có ba mươi lăm đức Phật cứu thế đại bi mà ông phải kính lễ. Khi ông kính lễ phải mặc áo tàm quí, như mắt phát sinh nhọt sinh ra hổ thẹn sâu sắc, như người bệnh ghẻ theo lời dạy của lương y, ông cũng như vậy, nên sinh ra tàm quí. Ðã sinh ra tàm quí rồi, từ một ngày cho đến bảy ngày lễ mười phương Phật, xưng danh hiệu của ba mươi lăm vị Phật và đặc biệt xưng danh hiệu Bồ tát Hư Không Tạng đại bi. Hành giả tắm gội thân thể, đốt mọi thứ hương thơm danh tiếng như kiên hắc trầm thủy, lúc sao mai mọc, quì dài chắp tay, buồn khóc nước mắt như mưa xưng danh hiệu Hư Không Tạng mà bạch rằng: “Thưa Ðại đức! Ðấng Ðại bi Bồ tát! Ngài thương nghĩ đến con nên vì con hiện thân”. Bấy giờ, phải khởi lên tư tưởng này: “Trên đỉnh Bồ tát Hư Không Tạng đó có ngọc Như Ý. Ngọc Như Ý ấy tạo ra sắc vàng tía”. Nếu thấy ngọc Như Ý tức là thấy Thiên quan (mũ trời). Trong thiên quan này có ba mươi lăm tượng Phật xuất hiện. Trong ngọc Như Ý có mười phương Phật tượng xuất hiện. Thân Bồ tát Hư Không Tạng lớn hai mươi do tuần. Nếu hiện đại thân cùng với Bồ tát Quán Thế Âm.v.v... thì Bồ tát này ngồi kiết già, tay nắm vua ngọc Như Ý. Ngọc Như ý ấy diễn xướng mọi pháp âm hợp cùng Tỳ ni. Nếu Bồ tát này thương xót chúng sinh nên hóa làm hình dáng Tỳ kheo và tất cả sắc tượng, hoặc ở trong mơ, hoặc khi ngồi thiền, dùng ấn ngọc Ma ni in vào cánh tay người đó. Hoa văn của dấu ấn có chữ Trừ tội. Ðược chữ này rồi thì trở lại trong chúng Tăng nói giới như cũ. Nếu Ưu bà tắc được chữ này thì chẳng ngăn chận xuất gia. Giả sử người chẳng được chữ này thì liền trong hư không có tiếng xướng lên rằng: “Tội diệt! Tội diệt!” Nếu không có tiếng trong không cho biết Tỳ ni thì trong mơ thấy Bồ tát Hư Không Tạng bảo rằng: “Tỳ ni tát! Tỳ ni tát!” Ông giáp Tỳ kheo nào đó, ông giáp Ưu bà tắc nào đó, lại khiến cho cho họ sám hối từ một ngày cho đến bốn mươi chín ngày. Nhờ sức lễ bái ba mươi lăm đức Phật và Bồ tát Hư Không Tạng nên tội ông giảm nhẹ. Người biết pháp lại sai bảo họ làm vệ sinh cầu tiêu (chuồng xí) trải qua tám trăm ngày mà ngày ngày bảo họ rằng: “Ông làm việc bất tịnh! Ông nay phải một lòng làm vệ sinh tất cả cầu tiêu, không cho người biết. Làm vệ sinh xong tắm gội sạch, làm lễ ba mươi lăm đức Phật, xưng danh hiệu Hư Không Tạng, hướng về mười hai bộ Kinh, năm vóc gieo xuống đất, nói lên tội ác của ông”. Sám hối như vậy lại trải qua ba mươi bảy ngày. Bấy giờ, kẻ trí nên gom gần lại ở trước tượng Phật mà xưng danh hiệu ba mươi lăm vị Phật, xưng danh hiệu Văn Thù Sư Lợi, xưng danh hiệu của Bồ tát Kiếp Hiền... được những vị ấy làm chứng, rồi lại bạch yết ma pháp thọ giới như trước. Người này nhân sức khổ hạnh nên tội nghiệp tiêu trừ vĩnh viễn, chẳng chướng ngại ba thứ nghiệp Bồ đề. Ðức Phật bảo ngài Ưu Ba Ly rằng: - Ông hãy giữ gìn phép quán Hư Không Tạng này, vì chúng sinh không tàm quí đời vị lai phạm nhiều nghiệp ác mà phân biệt giảng nói rộng rãi. Khi nói lời này thì Bồ tát Hư Không Tạng ngồi kiết già, phóng ra ánh sáng màu vàng, trong ngọc hiện ra ba mươi lăm đức Phật rồi bạch đức Phật rằng: - Thưa đức Thế Tôn! Ngọc báu Như Ý này từ Thủ Lăng Nghiêm sinh ra. Vậy nên chúng sinh thấy ngọc thì được như ý tự tại. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sắc bảo Ưu Ba Ly rằng: - Ông hãy giữ gìn Kinh này, chẳng được vì nhiều người giảng nói rộng rãi! Ông chỉ làm một người giữ gìn Tỳ ni vì chúng sinh không nhẫn nhục đời vị lai mà làm con ngươi của tròng mắt (nhãn nhục) vậy. Ông hãy thận trọng chớ quên mất! Ngài Ưu Ba Ly nghe lời đức Phật nói hoan hỷ phụng hành... Share this post Link to post Share on other sites
Posted 6 Tháng 4, 2013 Phật Tỳ Lô Giá Na Ngài Tỳ Lô là một pháp thân. Trên đảnh của các Đức Phật khác thì chỉ có một cái cục thịt gọi là đảnh nhưng chỉ riêng Ngài thì lại có tới... ba cái cục thịt lận, cái này chồng lên cái kia. Ngài bắt ấn Trí Quyền. Toàn thân màu xanh và cũng phát hào quang màu xanh da trời. Hào quang tỏa sáng rất là mãnh liệt và khi đối diện với Ngài thì mọi người đều có nhận xét rằng: “Không hề có cái bóng tối” do vậy mà Ngài còn được gọi là Đại Nhật (cái mặt trời lớn, mặt trời của mình là nhỏ vì còn có bóng tối). Ngài coi cái Liên Hoa Tạng, ở đây các vi trần thế giới tạo thành từng đám y như đám mây vậy. Những đám mây này có hình dáng to lớn như những hòn núi và được đặt tên là núi Tu Di. Những sinh vật ở đây đều có tầm cỡ rất là lớn. Một ví dụ về cái tầm cỡ xa và rộng của nó: Những vị Bồ Tát, tuy là rất là xa với nhau, nhưng trong cái tầm nhìn của người vào được Liên Hoa Tạng thì lại thấy rằng các Ngài lại rất gần với nhau và tạo thành một cái biển, cái biển này được đề cập đến trong công thức tụng niệm hằng ngày: Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. Và trong cảnh mênh mông bát ngát này thì nếu nhìn kỹ thì sẽ nhận thấy rằng trong những cái núi này lại có một núi cao hơn những núi khác. Đây là trung tâm của Liên Hoa Tạng. Trong đây là nơi cư ngụ của Pháp Thân. Trong đảnh của Ngài lại có kinh Kim Cang Đảnh là một bộ kinh bàn về các thần lực của các Chư Phật và Bồ Tát. Vào tới đây và dùng công thức: “Phản Bổn Hoàn Nguyên” có nghĩa là thực chứng cái chuyện: “Phật ở trong ta, ta ở trong Phật” qua tiếng nổ kinh hồn “SuBham” của năm chày kim cang đụng nhau và cùng lúc ấy năm pháp thân (A Di Đà, Quan Thế Âm, Hộ Pháp Kim Cang Vương và chính hành giả cùng với Ngài Tỳ Lô) đại diện cho ngũ uẩn đều hoà tan với nhau trong ánh sáng của sự Tịch và Chiếu. Như vậy, Ngài có cái điểm rất là đặc biệt là khuyến khích chuyện dùng “Tướng để thấy Tánh” và đặc điểm này sẽ chấm dứt trong công thức vừa nói ở trên. Mến. Tâm chú của Ngài lại là tâm chú của Đức Đại Trí Văn Thù Sư Lợi đó là “Ah” và có hình dáng như là số 31 ở trên vài cái nóc chùa. Ngài phát Hào Quang màu trắng xanh y như tia hồ quang. Và khi nhìn kỹ thì thấy cái Đảnh của Ngài gồm ba cái chồng lên nhau, trong khi đó các Đức Phật khác thì chỉ có một cục mà thôi. Vì nhận ra cái khác biệt này, nên mình cũng muốn vào đó (cái đảnh của Ngài) để coi có gì lạ. Thế là Ngài cầm mình và trong một cái duỗi tay, mình vào trong đó thì cũng là những cảnh tiếp độ của những Đức Phật và Bồ Tát sống lẫn lộn với nhau. Và trong cái trung tâm của cái biển người này có một cuốn kinh đó là Vi Diệu Kinh. Cuốn Kinh này dạy mình cách nhận dạng các Đức Phật và các vị Bồ Tát. Đệ nhận thấy rằng ở đây cái sự yên lặng nó có trọng lượng hơn khi đệ chưa vào Liên Hoa Tạng. Bộ kinh được Ngài Tỳ Lô Giá Na... mã hoá bằng ánh sáng và nhét vô đảnh của đệ. Sau khi xuất định, đệ nặng đầu cả mấy ngày lận. Đi tới cõi Tịnh Độ nào thì đệ cũng đọc lại lời Đại Nguyện. Thì ở đây khi đọc lời Đại Nguyện thì một linh ảnh bỗng nhiên xuất hiện: Tọa độ gốc của cái Thấy là từ dưới nhìn lên và ở ngay trung tâm một cái khoảng trống như một xa lộ khổng lồ: trên cùng và ở cuối cái xa lộ là Ngài Tỳ Lô Giá Na với ấn Tỳ Lô (hay Trí Quyền Ấn) đó là tay phải chồng lên bàn tay trái và nắm ngón tay trỏ của bàn này. Bên Trái của Ngài là những Bồ Tát được xếp hàng như là ghế trong rạp xi nê vậy đó. Các Ngài đều ngồi trên hoa sen năm cánh màu vàng. Vì là bên trái và theo Vi Diệu Kinh thì đây là những Bồ Tát nghiêng về "Trí Tuệ". Ở giữa là một phần trống trải và rộng lớn như là một xa lộ khổng lồ như đã trình bày ở trên. Khi cái "Thấy" chú ý về phía bên phải của Ngài Tỳ Lô Giá Na thì cũng thấy cảnh như vậy: Các vị Bồ Tát cũng ngồi trên các hoa sen, năm cánh màu vàng. Và theo kinh Vi Diệu thì đây là tập đoàn Bồ Tát nghiêng về "Thực Hành". Và như vậy các Ngài ngồi thành từng hàng và hàng gần nhất của cái "Thấy" là các vị Bồ Tát ở cõi Sơ Thiền (cõi này gồm ba từng, ở đây là hàng) rồi tới các vị ở Nhị Thiền (cũng gồm ba tầng/hàng) và Tam... rồi Tứ... Và cái "Thấy" cũng nhận ra một Bồ Tát trên đầu lại phát ra những hào quang có đủ bảy màu, ông ta ngồi ngoài bìa của từng Tiểu Quang Thiên, (từng chót bẹt của Nhị Thiền) và khi nhìn kỹ thì đây là... đệ. Khi nhận dạng ra được như vậy thì một tư tưởng phát từ Ngài Tỳ Lô Giá Na vào cái "Thấy" như sau: Đây là tư thế tối ưu của ông khi độ. Vì ảnh hưởng của Đàn Pháp sáu mặt của Om Mani Padme Hùm mình cũng thấy Ngài Tỳ Lô cũng gồm sáu mặt: Mặt thứ nhất là... Tỳ Lô với Trí Quyền Ấn, mặt đằng sau là Con Người: Vào đây thì mình hiểu rằng, chỉ khi là tu sĩ ở Con Người thì cơ hội vào Liên Hoa Tạng là cao nhất. Hình bên Trái của Ngài là: pháp hội bàn về Trí. Hình bên Phải của Ngài là pháp hội bàn về Hành. Ở dưới là các cõi Tịnh Độ. Và cuối cùng ở phía trên đầu Ngài là A Tỳ Địa Ngục. Và nguyên tắc chung để di chuyển từ hình ảnh này qua hình ảnh khác mà không bị trở ngại là phải tạo nhiều phước báu trong các công việc "quên mình cứu người" khi sinh hoạt bình thường. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 3 Tháng 8, 2013 Sự tích đức Phật Di Lặc Nói về đức Phật Di Lặc chắc rằng đại đa số quí vị đều nhớ đến hình tượng của một ông Phật ngồi phạch ngực, mập, bụng to và miệng cười toe toét. Có khi quí vị thấy bên cạnh Ngài có 6 đứa con nít, đứa thì móc lỗ tai, đứa thì móc miệng, đứa thì thọc lét v.v… Những hình tượng đó như là một trò đùa. Mình không biết tại sao lại có chuyện đùa ở trong chùa như vậy. Đó là ý nghĩa chúng ta cần phải biết. Nói đến đức Di-lặc chúng tôi phải khảo lịch sử từ Ấn Độ sang Trung Hoa để quí vị khỏi lầm lẫn. Nhiều tà thuyết bây giờ dựng đức Phật Di-lặc làm chỗ tiêu chuẩn để họ lôi cuốn Phật tử. Đức Phật Di Lặc là tên dịch của thuở xưa. Sau này có dịch ra nhiều tên khác nhưng vì chúng ta đã quen kêu là đức Phật Di Lặc. Chữ Di Lặc là phiên âm tiếng Phạn, Tàu dịch là Từ Thị (Thị là họ, Từ là từ bi). Có thuyết nói rằng khi bà mẹ của Ngài mang thai Ngài, khởi lòng thương không nỡ giết hại chúng sanh và không ăn thịt cá được cho nên nói là “Từ”. Vì Ngài sanh nơi bà mẹ đó cho nên gọi là Từ Thị. Nhưng có thuyết lại nói khác hơn. Vì thuở xưa Ngài tu về từ bi tam-muội cho nên sau này có tên là Từ Thị. Nhưng tên Ngài là A-dật-đa cũng là tiếng Phạn dịch âm. Dịch theo chữ Tàu là Vô Nan Thắng (Vô là không, Nan là khó) tức là không có thể nào hơn được. Đối với Ngài về trí tuệ và hạnh tu ít người hơn được, nên có tên Vô Nan Thắng. Đó là nói về đức Phật theo thói quen của chúng ta. Nếu nói theo kinh thì gọi là Bồ tát Di Lặc. Hồi đức Phật còn tại thế, Bồ tát Di Lặc là một người có lịch sử sanh ở miền Nam Thiên Trúc, ở trong dòng Bà-la-môn. Sau gặp Phật, Ngài xuất gia, tu theo hạnh Bồ tát. Đó là hình ảnh thật có lịch sử rõ ràng ở Nam Thiên Trúc. Phật Di Lặc Khảo nhiều kinh, trước hết tôi dẫn kinh A-hàm. Trường A-hàm có nói thế này: Đức Phật dạy rằng sau này ở cõi Ta-bà, tâm con người càng ngày càng ác, mười nghiệp thiện họ bỏ qua mà luôn tạo nhiều nghiệp ác. Cho đến bao giờ họ quí mười nghiệp ác cũng như thuở xưa quí trọng mười nghiệp thiện và tuổi thọ chúng sanh giảm xuống đến cuối cùng còn mười tuổi thì đức Phật Di-lặc ra đời. Khi nghiệp ác nhiều thì tuổi thọ theo đó mà giảm. Bao giờ tuổi thọ con người chỉ còn mười tuổi, cũng như bây giờ tuổi thọ chúng ta coi là một trăm tuổi vậy, thì lúc đó thế giới sẽ có những tai nạn đao binh. Đao binh ở đây không phải là người ta giết chết nhau, mà chính những lá cây cỏ cũng có thể biến thành gươm bén. Chúng ta bị chặt bị cắt mà chết. Qua tai nạn đao binh đó tới tai nạn tật dịch tức là đau ốm bệnh dịch. Vì vậy đại đa số dân chúng trên thế giới này chết mòn chỉ còn sót lại một ít người tu hành ẩn trên núi trên non. Họ còn sống thừa lại. Khi họ sống qua cái thời gian chết đó rồi, họ tìm thấy bà con dòng họ của họ chết hết, chỉ còn sót lại lưa thưa vài người, lúc đó, họ mới biết rằng từ hồi đó tới giờ dòng họ mình làm điều ác, bây giờ mới bị quả báo chết như vậy. Cho nên họ nỗ lực tu mười điều thiện lại. Khi bắt đầu tu mười điều lành thì tuổi thọ họ tăng, cứ một trăm năm thì tăng lên một tuổi. Đến bao giờ tuổi thọ lên đến sáu mươi bốn ngàn tuổi, lúc đó dân chúng đông đảo thuần hậu, làm lành thì Phật ra đời ở dưới cội cây Long Hoa gọi là hội Long Hoa. Như vậy quí vị tưởng tượng bây giờ chúng ta đang ở cái mức tám mươi tuổi thọ mà cứ một trăm năm giảm xuống một tuổi, giảm tới còn mười tuổi, rồi tăng lên cho đến sáu mươi bốn ngàn tuổi, thì thời gian từ đây cho tới đó còn bao xa? Theo sách Phật thì khi Phật Thích-ca nhập diệt thì đức Di-lặc cũng nhập Niết-bàn. Ngài sanh lên cung trời Đâu-suất ở trong nội điện sống bốn ngàn tuổi. Sau đó Ngài mới sanh trong thế giới Ta-bà, thành đạo dưới cội cây Long Hoa giáo hóa chúng sanh kế tiếp đức Phật Thích ca. Vậy tưởng chừng bao lâu Phật Di Lặc ra đời? Vậy mà có một số người nghe trong kinh nói đức Phật Di Lặc ra đời nghe nói hội Long Hoa, rồi họ bịa ra ít bữa đức Phật Di Lặc ra đời, vài bữa hội Long Hoa đến v.v… Đó là những tà thuyết để lừa bịp những Phật tử học mà không hiểu Phật pháp, lại có người tự xưng là Phật Di Lặc hoặc tự cổ động rằng mình sẽ chờ đón đức Phật Di Lặc. Quí vị xét, nếu chúng ta tin đức Phật Di Lặc chỉ còn một phen bổ xứ lên cung trời Đâu-suất, sau này hạ sanh ở thế giới Ta-bà thành Phật, nếu tin lời Phật Thích-ca nói trong kinh thì chúng ta phải tin luôn thời gian đã định ngày Phật ra đời. Chúng ta tin đức Phật Di Lặc, có hội Long Hoa mà quên thời gian đó. Rồi cứ hờ hững, cứ nghe ai nói đức Phật Di Lặc ra đời thì vội vàng chạy tới đảnh lễ mong cầu v.v… Đó là cái sai lầm quá lớn để những tà thuyết lợi dụng danh từ Phật giáo tuyên truyền mê tín dị đoan. Người Phật tử chân chánh phải hiểu rõ điều đó. Đó là tôi khảo về lịch sử từ những bộ kinh gọi là Di Lặc thượng sanh, Di Lặc hạ sanh và Di Lặc bản nguyện. Những kinh đó đều do đức Phật Thích-ca nói ra. Coi kỹ những bộ kinh đó rồi, chúng ta biết rõ lịch sử đức Di Lặc, vậy đừng nghe lời của một số người bàn tán, dựng lên những điều sai lầm. Đó là chúng tôi nói về đức Phật Di Lặc ở Ấn Độ. Bây giờ nói tới đức Phật Di Lặc ở Trung Hoa. Đức Phật Di Lặc sang Trung Hoa hồi lúc nào? Thật ra nếu căn cứ theo hình tượng chúng ta thờ thì không có hình tượng của đức Bồ-tát ở Ấn Độ, mà là hình tượng đức Di Lặc ở Trung Hoa. Đó là một ông già bụng phệ lùn mập, như vậy là đức Di Lặc ở Trung Hoa chớ không phải ở Ấn Độ. Di-lặc ở Trung Hoa ra đời lúc nào? Điều đó chúng ta phải khảo lại. Có nhiều thuyết nói đức Di Lặc hiện giờ đang ở trên cung trời Đâu-suất. Ngài chưa tới thời kỳ giáo hóa chúng sanh ở thế giới này. Nhưng với tinh thần người hiểu Phật giáo Đại thừa thì Bồ-tát có báo thân, ứng thân và nhất là hóa thân. Tùy căn cơ chúng sanh mà các ngài ứng hóa vô lượng thân không thể lường được. Cho nên sử Trung Hoa có kể mà tôi nhớ đại khái có hai hóa thân của Bồ tát Di Lặc. Một hóa thân gọi là Ngài Tăng Can ở gần chùa Quốc Thanh đời nhà Tùy, tức là ở khoảng thế kỷ thứ sáu. Nói rằng Ngài có một cái am gần chùa Quốc Thanh và đi thuyết giáo nơi này nơi nọ. Có lắm lúc Ngài cỡi cọp về, chúng trong chùa thấy hoảng kinh. Khi đến khi đi không ai lường được. Có lần Ngài ôm về một đứa bé gởi trong chùa đặt tên là Thập Đắc. Thỉnh thoảng có một ông ăn mặc rách rưới ở trong núi lạnh đi ra, tuyết phủ đầy mình gọi là Hàn Sơn. Hàn Sơn và Thập Đắc được coi như là hai người ăn mày trong chùa. Các ngài là hai vị hóa ra ăn mặc rách rưới ngủ ngoài hành lang. Tới bữa ăn thì đợi chúng ăn xong hết, còn những thừa cặn gì đó ngài trút lại dùng. Có khi các ngài còn lượm cơm dưới sàn nước, rửa lại mà ăn. Chúng trong chùa coi các ngài như hai kẻ ăn mày không kém, nhưng mà có cái lạ là nhiều khi hai ngài hứng làm thơ. Những bài thơ của các ngài không ai hiểu gì hết. Một hôm bất chợt, sau một bữa trưa chúng tăng nghỉ hết, hai ngài trèo lên cổ của ngài Văn-thù và ngài Phổ Hiền ngồi. Một ông tăng ở dưới tăng xá thình lình đi lên, thấy như vậy ngạc nhiên quá mới chạy đi báo cho ông trụ trì hay. Ông trụ trì lôi hai ông xuống rầy quở đủ thứ hết. Hai vị đó là bạn thân của ngài Tăng Can. Ngài Tăng Can tịch rồi. Một hôm ông chủ huyện có bệnh nan y, ông nằm chiêm bao thấy ngài Tăng Can tự xưng là đức Di Lặc bảo ông đến đảnh lễ Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền và chỉ cho ông một phương thuốc uống hết bệnh. Muốn đảnh lễ hai vị đó thì vào chùa Quốc Thanh hỏi tên Hàn Sơn, Thập Đắc vì đó là Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền. Ông huyện đó theo lời chỉ tìm thuốc uống lành bệnh, mới tìm đến chùa Quốc Thanh để gặp hai vị Hàn Sơn, Thập Đắc. Khi đó ông trụ trì thấy ông huyện tới hỏi hai chú ăn mày trong chùa thì ông ngại quá không muốn kêu. Nhưng ông huyện cho biết ông mong mỏi gặp hai vị đó. Buộc lòng ông trụ trì mời hai vị ra. Hai vị nắm tay đi ra. Vừa thấy hai vị ông huyện quì mọp xuống lạy. Hai vị mới cười và nói: “Cái lão Tăng Can bày đặt làm cho ta phải bại lộ rồi.” Hai Ngài, cõng nhau chạy tuốt vô rừng mất. Do đó mới biết hai vị là hiện thân của Văn-thù, Phổ Hiền, còn ngài Tăng Can là hiện thân của đức Di Lặc. Nhưng biết thì chuyện đã rồi, không ai ngờ để đảnh lễ các ngài được hết. Một vị khác vào thế kỷ thứ mười đời Ngũ đại ở Trung Hoa gọi là Bố Đại Hòa thượng. Vị đó gần gũi chúng ta nhất, tức là ông già quảy cái đãy to tướng, mặt tròn, miệng cười, bụng phệ, áo phạch ngực. Ngài Bố Đại Hòa thượng lúc nào cũng quảy một túi lớn, đi trong nhân gian gặp chỗ nào có cái gì, Ngài xin bỏ vô đãy. Đến chỗ có con nít đông, Ngài ngồi xuống phân chia cho chúng nó, vui chơi với chúng nó. Cho nên người ta thấy miệng Ngài lúc nào cũng cười vui vẻ thích thú. Đó là hình ảnh đức Di Lặc, một vị Hòa thượng bụng lớn, mập, miệng cười toe toét.Tại sao gọi ngài Bố Đại Hòa thượng là Di Lặc? Nói rằng Ngài đi xin như vậy có nhiều chuyện xảy ra cho Ngài lạ lắm. Trong sử có nói đủ, ở đây tôi chỉ lược vài điểm thiết yếu cho quí vị biết mà thôi. Ngài đi xin và sống một thời gian như vậy ở tỉnh Minh Châu. Tại đó Ngài lang thang nơi này nơi nọ. Thời đó là thời Thiền Tông còn thạnh hành ở Trung Hoa. Một hôm Hòa thượng Thảo Đường gặp Ngài hỏi: “Đại ý Phật pháp thế nào?” Đang quảy bị trên vai Ngài liền để xuống. Vị Hòa thượng hỏi thêm: “Chỉ có thế thôi hay có con đường tiến lên?” Ngài mang cái bị để lên vai và đi. Đó là câu trả lời của Ngài. Trong lịch sử Thiền tông, cũng câu hỏi đó, Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền đem ra hỏi Tổ Hoàng Bá liền bị ăn gậy. Ở đây ngài Bố Đại Hòa thượng đối với câu hỏi đó, Ngài chỉ buông cái bị xuống đất. Hỏi có con đường tiến lên nữa không, Ngài mang bị lên vai đi tuốt. Những hình ảnh đó là thế nào? Như vậy mà người ta vẫn chưa biết thế nào, tung tích ra sao? Nhưng một hôm Ngài sắp thị tịch, mới trở về chùa. Ngồi bên bàn thạch Ngài làm một bài kệ rồi tịch. Bài kệ đó như thế này: Di Lặc chân Di Lặc Phân thân thiên bách ức Thời thời thị thời nhân Thời nhân tự bất thức Ngài nói rằng: Di Lặc thật Di Lặc. Phân thân trong muôn ức. Thường thường chỉ dạy người đời. Người đời tự không biết. Nhờ bài kệ đó mà người ta mới biết Bố Đại Hòa thượng là hóa thân của đức Di Lặc. Vì vậy muốn vẽ hình đức Di Lặc người ta liền vẽ hình Bố Đại Hòa thượng. Đó là đức Di Lặc ở Trung Hoa. Bây giờ chúng ta thờ phượng là thờ hình ảnh đức Phật đó. Chớ đức Bồ-tát Di Lặc ở Ấn Độ thì mình không biết. Còn đức Di Lặc ở cung trời Đâu-suất lại càng không biết hơn nữa. Chúng ta chỉ biết Di Lặc hóa thân ở Trung Hoa với một hình tượng là Bố Đại Hòa thượng. Đó là phần khảo về lịch sử. Đây mới nói về ý nghĩa đức Phật Di Lặc, ngày vía mùng một Tết. Ngày vía này là ngày vía gì của đức Di Lặc. Ở Ấn Độ thì không biết ngày nào, ở Trung Hoa hóa thân hai, ba đời, cũng không biết ngày nào. Nói ở cung trời Đâu-suất lại càng không biết hơn nữa.Như vậy ngày vía Phật Di Lặc là ngày vía gì? Chúng ta đừng nghĩ rằng phải đợi có ngày sanh ngày tịch mới gọi là ngày vía. Đây là ý nghĩa thâm sâu trong nhà Thiền. Các Tổ đã khéo léo chọn ngày mùng một Tết làm ngày vía đức Phật Di Lặc. Chúng ta lạy Ngài với câu: Long Hoa Giáo Chủ đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật. Chư Tổ thấy thế gian xem ngày mùng một Tết là ngày định đoạt của suốt một năm. Ngày này mọi người dè dặt từng lời nói, dè dặt từng hành động, dè dặt từng tên người đến thăm mình, dè dặt đủ thứ chuyện. Như vậy ngày mùng một Tết là ngày đầy đủ ý nghĩa của tương lai mình. Trong nhà chùa ngày mùng một Tết có ý nghĩa gì? Các Tổ lấy ngày mùng một Tết làm ngày vía đức Phật Di Lặc cũng là ngày tương lai rực rỡ, ngày tương lai sẽ thành Phật. Sáng mồng một chúng ta lạy Phật, lạy vía đức Di Lặc, là đặt hết cả niềm hy vọng vào tương lai, hy vọng chúng ta sẽ thành Phật. Không hy vọng giàu có sang trọng gì mà chỉ hy vọng sẽ thành Phật. Đó là ý nghĩa sâu đậm nhất của ngày mùng một Tết để chúng ta lễ đức Phật Di Lặc.Ý nghĩa thứ hai là hình ảnh vui cười của đức Di Lặc. Đó là hình ảnh hạnh phúc. Vì vậy có chỗ thay vì để danh từ Di Lặc lại để một con người hạnh phúc.Tại sao là con người hạnh phúc? Tới đây tôi bước sang giai đoạn sâu của Thiền tông.Hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp? - Ngài quăng cái bị xuống mà không trả lời gì hết.Hỏi: Có con đường tiến lên không? - Ngài quảy bị lên vai mà đi. Đại ý Phật pháp không có gì lạ. Nói thẳng e quí vị phiền, mà không nói e cho rằng giấu giếm. Đại ý Phật pháp chỉ có một chữ xả là được. Chấp tức là chấp mình chấp người nhân, ngã, Phật pháp, quyền thế, danh vọng v.v… Như vậy cái mà buông tất cả đó là đại ý Phật pháp. Nói như vậy đó e quí vị khó hiểu. Tôi nói câu chuyện hơi bình dân một chút mà không kém quan trọng. Tổ Hoàng Bá thấy Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền, một vị Thiền sư cao nhất trong nhà Thiền, giữa quãng đời Đường. Ngài dạy rằng, chỉ cần có một hạnh bố thí là đầy đủ tất cả. Bố thí là cho món này món kia, tức xả hay buông bỏ. Chỉ có một hạnh xả là đầy đủ tất cả. Nói về hạnh tu Sư thúc, Sư bá mình, Ngài phê bình rằng: Trong hàng đệ tử của Mã Tổ, trên tám mươi vị Thiện tri thức, nhưng mà khi nói đến người tiêu chảy, hay nói quê mùa hơn một chút là nếu nói đến con người ỉa chảy, thì chỉ có Hòa thượng Qui Tông là con người ỉa chảy đầy đất. Nói đến ỉa chảy quí vị đừng nghĩ theo lối quê mùa của mình, đó là xả tất cả. Chỉ có Hòa thượng Qui Tông là con người xả được tất cả. Con người xả là con người đáng quí hơn hết. Như vậy quí vị thấy rõ ràng xả là một pháp khiến cho người đạt đến viên mãn trong đạo, nếu nói theo Thiền tông. Vì vậy sau khi Ngài buông cái túi xuống rồi, hỏi còn có gì nữa không thì, Ngài quảy túi lên vai. Tới đó đừng tưởng rằng hết rồi, mình tưởng không còn gì nữa. Chính buông hết rồi, mình mới được một quảy lên vai tự tại. Cho nên nhà chùa có câu “Bỏ tất cả là được tất cả”. Nhưng nói bỏ tất cả để được tất cả thì mình còn tham quá. Bây giờ chỉ cần bỏ tất cả vậy là đủ rồi. Chính cái hạnh xả đó là chỗ rất sâu và đưa chúng ta tới chỗ cao siêu của người giải thoát. Vì vậy trong nhà Thiền tông nói ta không có một pháp dạy người mà chỉ tùy phương tiện nhổ đinh tháo chốt thôi. Nhổ đinh tháo chốt là xả, là phá chấp. Xả được là xong việc. Đến đây tôi đi sang giáo lý để quí vị dễ thấy dễ tu hơn. Nói đến xả là nói đến hạnh phúc cho nên quí vị nghe danh từ thường dùng nhất là Hỷ Xả. Hai cái đó cái nào là nhân cái nào là quả. Có thể nói hỷ là nhân, xả là quả, cũng có thể nói ngược lại xả là nhân hỷ là quả. Tại sao vậy? Như hằng ngày có vị nào làm phật lòng mình một chút khiến mình bực bội. Khi bực bội thì không vui. Giờ đây người đó xin lỗi mình, mình liền vui vẻ mới tha được. Còn giận thì không tha được. Trường hợp hỷ là nhân, xả là quả. Vui vẻ mà tha thứ cho họ, như vậy mới là ổn. Giận không thể tha thứ được. Trường hợp đó hỷ là nhân. Bởi vì mình vui nên mình mới xả, mới được cái quả xả. Nhưng ở đây nói con người hạnh phúc đó phần lớn xả là nhân hỷ là quả. Bởi vì chúng ta có xả được chúng ta mới vui. Nếu chúng ta không xả được thì chúng ta không bao giờ vui được. Tôi nói một việc hết sức là tầm thường, như trong gia đình quí đạo hữu, người chồng làm phật ý người vợ, trong lúc phật ý thấy nhau có vui không? Không nói chuyện nhau, không nhìn mặt nhau. Bao giờ xả được thì lúc đó mới vui vẻ nói chuyện được. Như vậy trường hợp đó do xả mà được vui. Nếu không xả thì không vui. Đó là thí dụ nhỏ, tôi thí dụ rộng hơn. Trường hợp chúng ta đối với người ngoài đời hay bè bạn, nếu họ có hành động hiếp mình hoặc có lời nói cao hơn mình. Lúc đó mình làm sao? Mình về mình có an ổn được không? Không vui đó là tại sao? Tại nhớ ông đó nói gác mình, hoặc ăn hiếp mình, ông ỷ mạnh hiếp yếu. Khi nghĩ như vậy thì về nhà ngủ không được, lăn lộn hoài nằm không yên. Muốn được ngủ yên phải làm sao? Nếu mình còn nghĩ rằng người ta ăn hiếp mình, người ta gác mình. Lúc đó mình có cảm thấy vui vẻ hạnh phúc hay không? Chắc không bao giờ có hạnh phúc được hết. Lúc đó mình sống ở trong phiền não ở trong tam độc chứ không có hạnh phúc. Bây giờ người nào mà bỏ được cái đó thật là hạnh phúc. Vì vậy hồi đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài đi khất thực ở vùng Bà-la-môn, vị lãnh tụ Bà-la-môn nổi tức đi theo Ngài. Ngài đi trước ông đi theo sau mắng. Ông mắng bao nhiêu mắng Ngài cứ chậm rãi đi. Đi tới ngã tư đường Ngài trải tọa cụ ngồi. Ông chạy tới trước mặt hỏi: “Ngài thua tôi chưa?” Ngài liền đáp bằng một bài kệ: Người hơn thì thêm oán Kẻ thua ngủ không yên Hơn thua hai đều xả Ấy được an ổn ngủ Hơn người thì người tức nên oán. Mà người ta oán mình có vui hay không? Thua người về ngủ không được nằm lăn qua trở lại hoài. Như vậy cả hai đều là cội gốc của đau khổ, của phiền não. Thành ra cái hơn cái thua hai cái bỏ phăng đi thì người đó được an ổn ngủ. Tối đến thì nằm xuôi cẳng ngủ khò, không lo không tính, không phiền muộn gì hết. Đó là người hạnh phúc. Hạnh phúc từ đâu mà có? Từ cái xả mà có, chứ chúng ta cứ ôm ấp phiền não trong lòng hoài thì làm sao mà hạnh phúc được. Quí vị nhớ, nếu trong gia đình chúng ta không xả được cứ giận vợ giận con hoài thì cũng không vui. Ra ngoài xã hội cứ nhớ người này ăn hiếp mình, người kia nói gác mình, người nọ khinh mình, gì gì đó, người ôm trong lòng cả bụng như vậy thì người đó lúc nào cũng đau khổ, lúc nào cũng là phiền não hết. Chỉ người nào nghĩ nói gác mình như gió thổi ngoài tai, rồi ngủ khò không thèm nhớ, thì đó là hạnh phúc chớ gì. Người nào mà trong nhà cũng như ở ngoài gặp cái gì phật ý, xem đó như là lỡ lầm của người không gì quan trọng hết, không có gì phải phiền muộn, người được như vậy mới là con người hạnh phúc. Đầu năm, chúng ta quen chúc cho nhau, một năm đầy hạnh phúc. Chúc hạnh phúc mà cứ phiền giận hoài thì làm sao mà hạnh phúc được. Như vậy chỉ là một cái chúc suông. Ở đây tôi không chúc gì cho quí vị hết mà chỉ khuyên: “Năm nay tập tiêu chảy kha khá một chút” chừng nào quí vị tiêu chảy được như ngài Qui Tông lúc đó quí vị sẽ tràn trề hạnh phúc. Đó là tôi chỉ nói hạnh phúc nho nhỏ của thế gian. Còn nếu nói đến hạnh phúc cao siêu hơn nữa, tức là đạt đến cứu kính giải thoát thì trong kinh cũng dạy chúng ta đừng chấp cảnh, chấp người, đừng chấp tâm, đừng chấp pháp. Nếu chúng ta buông hết những cái chấp đó thì Niết-bàn hiện tại, vĩnh viễn hạnh phúc. Không chấp tức là xả. Xả được mới thật là vĩnh viễn hạnh phúc. Vì vậy nói tới đức Di-lặc là nói tới hạnh hỷ xả nên người Trung Hoa tượng trưng Ngài bằng hình ảnh ngài Bố Đại Hòa thượng, một hình ảnh vui vẻ tươi cười lúc nào cũng sẵn sàng hỷ xả. Vậy năm nay quí vị lễ đức Phật Di Lặc là nhớ đến hạnh hỷ xả của Ngài, nhớ đến cái miệng vui cười hạnh phúc của Ngài. Nếu quí vị sống được cái hạnh phúc đó thì quí vị chẳng những hạnh phúc ở hiện tại mà hạnh phúc vĩnh viễn của người vào Niết-bàn.Đó là ý nghĩa sự tích đức Phật Di Lặc mà hôm nay chúng tôi nói.NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT http://loiphatday.org/su-tich-duc-phat-di-lac Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 4, 2014 Địa Tạng Vương Bồ Tát: Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục Thường Ngọc (Tri thức trẻ) Hồng danh Địa Tạng có nghĩa như đất đai rộng lớn chứa hết vạn vật. Địa Tạng Vương Bồ Tát có một chùm lông trắng xoáy nằm ở trên trán, giữa hai mắt, tay trái cầm Như Ý Châu, tay phải cầm Tích trượng có sáu vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi. Có nhiều sự tích về Ngài, nhưng hai ấn bản về thân thế được lưu truyền nhất về Ngài phải kể đến là Đức Địa Tạng sinh ra trong một gia đình vốn thuộc dòng dõi Bà-La-Môn, tên là Kolita Moggallàna hay còn gọi là Mục Kiền Liên. Ngài là người có đức, có tâm nhưng bà Thanh Đề mẹ Ngài lại mang nhiều sát nghiệp. Bà Thanh Đề chết đi, bị đày xuống Vô gián địa ngục, phải chịu sự trừng phạt đau đớn, không thể siêu thoát. Mục Kiền Liên thương mẹ, thiền định niệm Phật trước linh cữu bà nhiều ngày, Đức Phật cảm động nói với Ngài vào ngày rằm tháng Bảy, hãy cùng chư tăng tổ chức một buổi lễ để cầu nguyện và hộ niệm cho cửu huyền thất tổ và mẹ Ngài. Mục Kiều Liên làm theo cuối cùng bà Thanh Đề cũng được giải thoát. Về sau Ngài cùng người bạn từ thuở niên thiếu Upatissa, Xá Lợi Phất, được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thu nhận làm đệ tử. (Trích trong quyển Thập Đại Đệ Tử). Đây cũng chính là điển tích nói về lễ Vu Lan (Xá tội vong nhân) vào ngày 15/7 âm lịch hàng năm, là ngày những người con nhớ ơn công lao sinh dưỡng và tình yêu thương của mẹ. Bông hồng cài áo là nghĩa cử cao đẹp do Thiền sư Thích Nhất Hạnh đề xướng ở Việt Nam Biết được có nhiều người cũng sa chân vào chốn lầm than, Ngài đã đến trước Đức Phật nói rằng Ngài nguyện xuống địa ngục, cứu vớt chúng sinh. Bao giờ địa ngục hết chúng sinh lầm than mới xin thành Phật. “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ-đề”. Đức Địa Tạng Vương trong tôn tượng tay trái cầm Châu Như Ý, tay phải cầm Tích Trượng, ngồi tòa sen trên mình Đế Thính Ấn bản thứ hai lưu truyền lại rằng Ngài là hoàng tử xứ Tân La (Nay thuộc Nam Hàn) tên là Kim Kyo-Gak (Kim Kiều Giác). Tuy là người sinh ra trong hoàng tộc nhưng hoàng tử Kim Kiều Giác là người giản dị, đạm mạc, thích đọc sách Thánh hiền.Năm 24 tuổi Ngài xuất gia, dắt theo con chó trắng tên là Thiện Thính (Đế Thính) đi khắp nơi tìm chốn thanh tịnh để tĩnh tu. Cuối cùng Ngài chọn núi Cửu Hoa (nay thuộc An Huy Trung Quốc) và thiền định tròn 75 năm tại đó. Tương truyền một hôm Ngài đang thiền định thì bị một con rắn nhỏ cắn vào chân nhưng Ngài vẫn bất động, ngay lập tức có một người phụ nữ tuyệt đẹp từ vách núi bay ra cúi lạy, đưa thuốc cho ngài, để tạ lỗi người đó đã tạo ra dòng suối Long Nữ tuyền nổi danh ở núi Cửu Hoa. Sự tích về ngài còn gắn liền với chuyện cha con Văn Các lão nhân là Mẫn Công và nhà sư Đạo Minh. Mẫn Công là trưởng giả giàu có, hay tích đức làm việc thiện, thường xuyên cúng dường, bố thí cho các nhà sư, người nghèo. Con trai Mẫn Công ngưỡng mộ Đức Địa Tạng, đến xin xuất gia, hiệu là Đạo Minh. Sau Mẫn Công vì muốn thuận tiện cho việc nghe giảng pháp đã bái Đạo Minh làm thầy. Đây là giai thoại nổi tiếng trong chốn Thiền môn. Khi ở tuổi 99 vào ngày 30 tháng 7, Ngài gọi chúng cao tăng đệ tử lại để từ giã. Tương truyền lúc đó từ khắp núi rừng phát ra tiếng gào khóc thảm thiết của muông thú, cỏ cây héo rũ, mây phủ che kín, khắp nơi tỏa ra mùi hương thơm ngát. Sau khi viên tịch, nhục thân của Ngài được chúng đệ tử đặt vào một động đá. Ba năm sau, chúng tăng mở động ra phát hiện nhục thân vẫn nguyên vẹn như khi còn sống bèn đem đến bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh để thờ cúng. Địa Tạng Vương Bồ Tát và hai cha con Văn Các lão nhân Địa Tạng Vương là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh dưới địa ngục và bảo vệ trẻ em. Nhiều người tin rằng những đứa trẻ yểu mạng, vì thương nhớ cha mẹ và người thân nên quanh quẩn bên sông, không chịu qua cầu Nại Hà đi đầu thai. Lúc này Đức Địa Tạng sẽ xuất hiện, an ủi, giảng giải và giúp đỡ chúng tạo công đức qua sông.Tại Trung Quốc, trú xứ của Đức Địa Tạng Vương là núi Cửu Hoa (một trong Tứ đại danh sơn). http://www.phattuvie...c/giaolycanban/ Share this post Link to post Share on other sites