Posted 4 Tháng 2, 2013 HÙNG VƯƠNG NGỌC PHẢ (Hệ văn bản Hồng Đức nguyên niên)[tiếp theo] II. Văn bản 1. Đã lâu quá rồi, bây giờ đọc lại Hùng vương ngọc phả trong lòng tôi bỗng trào dâng một cảm xúc gì đó tựa như là ngỡ ngàng. Không phải chỉ mình tôi, các nhà nghiêncứu ở Viên Hán Nôm hẳn đều quen thuộc với các văn bản thần tích ngọc phả và các thư tịch cổ viêt về các đền chùa của nước ta. Riêng tôi cũng có một kỷ niệm là tôi đã cùng một vài bạn đồng nghiệp biên soạn đựoc một cuốn tra cứu về các di tích lịch sử văn hoá Việt Nam . Gian khổ nhưng cũng thật là vui vì có làm như vậy trong mấy năm đó chúng tôi mới có điều kiện đọc đi đọc lại nhiều sách vở tài liệu liên quan đến đề tài này. Không phải chỉ đối với một di tích, khi viết về môpọt di tícacsau lại lại gặp lại tư liệu về di tích trước và trước đó nữa. Hùng vương ngọc phả là một tài liệu như vây. Vì HVNP rất quan trọng cho nên người soạn văn bia thần tích gia phả thường trích dẫn. Mà sự dẫn dụng đó phần nhiều là thích đáng hợp lý. Nếu nói gia phả là bộ sử của một nhà, một dòng họ, thì cuốn HVNP này quả thât là cuốn phả của cả dân tộc Việt Nam ta. Cái gì cũng có hai mặt: Ý nghĩa thì quan trọng như thế nhưng loại thần tích ngọc phả ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi những sự tích truyền thuyết hoang đường. Người mình bây giờ không phải không thích chuyện hoang đường, nhưng phải là cái gì thật lạ kỳ như Harry Potter chẳng hạn, còn chuyện Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, chuyện Thánh Dóng dánh giựac Ân v.v… thì từ thời tiểu học học mãi rồi! Cho nên dù là cuốn phả dân tộc thật đấy, nhưng có vẻ như là “kính nhi viễn chi”! Rốt cuộc là, từ hồi đầu thảo luận về thời Hùng vương những năm 70 thế kỷ trước đến nay sau hơn 40 năm, nhân một bài viết cần tìm đến HVNP, tra trên mạng không thấy một bản HVNP nào cả nguyên văn và bản dịch.Có thể có ai đó dã dịch và xuất bản gộp vào trong một tập nào đó với tên khác chăng? Cũng có thể như thế, nhưng tôi tin mình không lầm. Có một nhà nghiên cứu khá quen thạo đề tài này, tôi tuy chưa gặp mặt, nhưng đã có dịp có vài trao đổi ngắn với ông trên mạng. Tôi rất thú vị vì biết ông rât thú vị đối với việc tôi đang làm, đến mức bản dịch tôi thực hiện trên blog đựoc đoạn nào là ông tải ngay về trang của ông đoạn ấy. Hôm qua trước Noel mấy tiếng tôi làm xong bản dịch HVNP, sáng nay vào thăm trang của ông đã thấy ông loát đủ kèm theo một Comment nguyên văn như sau:Ngọc phả Hùng Vương hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ. Ngọc phả gồm 21 tờ, 42 trang chữ Hán. Tổng cộng gần một vạn chữ. Sau hơn nửa tháng (từ ngày 9 - 24. 12. 2011) miệt mài, cần mẫn, GS Ngô Đức Thọ đã dịch xong. Trong khoảng thời gian đó, cứ mỗi lúc ông dịch xong đoạn nào, tôi lại tải về đăng lên mạng của tôi đoạn ấy. Tôi đã từng nhiều lần sưu tầm nhưng chưa có một bản dịch Ngọc phả nào cho hoàn thiện. Thường thì người ta dịch từng đoạn , ai cần đoạn nào phục vụ cho công tác nghiên cứu của mình thì dịch đoạn ấy. Đây là bản dịch đầy đủ nhất cho đến hiện nay mà tôi biết được. Một lần nữa, xin ghi công và cảm ơn GS Ngô Đức Thọ (Phan Duy Kha- http://vn.360plus.yahoo.com/phan_duykha?l=f&id=1)Người nghiên cứu đối với nhau, gửi cho những nhận xét chân thành đúng lúc như thế quả thật như cho nhau một thang thuốc bổ. Đó là ông Phan Duy Kha xác minh cho tôi đựoc một điều: Bao nhiêu lâu rồi, tghế mà chúng ta chưa có một công trình biên khảo nào về ngọc phả Hùng vương được công bố. Bây giờ toi đã làm xong đựoc một việc nhỏ đó rồi, và ngay từ đầu tôi dã đưa lên mạng để mọi người ai cần tham khảo dẫn dụng thì có thể lưu lại. Con cháu của các vua Hùng thì phải chuyển cho nhau cuốn phả về sự nghiệp dựng nước của các cụ khi xưa.Có điều là tôi hiện nay chỉ mới có đựoc 2 văn bản (một của Viện NCHN, một của TVQG), cũng vì việc chung cả, hẳn còn nhiều vị có các bản Hùng vương ngọc phả khác. Nếu quý vị vui lòng gửi cho tôi một bản copy (bằng giấy –qua Bưu điên, hoặc bằng ảnh qua email -Địa chỉ ghi ở dưới) để tôi tập hợp hiệu khảo, giới thiệu để mọi người cùng nghiên cứu thì rất tốt cho học thuật. 2.Văn bản Hùng vương ngọc phả: Theo Nguyễn Khắc Xương hiện có 3 văn bản Hùng vương ngọc phả:1-"Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền", còn gọi là Cổ Việt Hùng thị thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyền, soạn năm Thiên Phúc nguyên niên (986 - Lê Đại Hành), bản sao vào triều Khải Định năm thứ 4 (1919), Kỷ Mùi, tháng 6, ngày 25.2 -“Hùng Vương ngọc phả thập bát thế truyền, soạn năm Hồng Đức nguyên niên (1470 - Lê Thánh Tông): " Hồng Đức nguyên niên, Nhâm Thìn xuân tam nguyệt cốc đán, Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyên Cố phụng soạn", năm Hoằng Đình nguyên niên (1619- Lê Kính Tông) sao lại: Hoàng triều Hoằng Định Nguyên niên, Cánh tý đông thập nguyệt cát nhật, Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính, Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao".3 - Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyền, Hàn lâm học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572 - Lê Anh Tông). Về mấy thông tin nói trên, đối với văn bản thứ hai ông ghi không đúng nguyên văn tên của văn bản: Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyện.Hai là năm Hoằng Định nguyên niên không phải là năm “1619 –Lê Kính Tông” như ông Xương ghi mà là năm 1601. Đối với văn bản thứ nhất ông Xương chưa trình bày hay chứng minh đặc điểm của nó, chỉ căn cứ vào niên đại ghi trên sách là Thiên Phúc nguyên niên (986) đã vội coi đó là “bản là bản cổ nhất và có lẽ cũng là bản ngọc phả đầu tiên mà sự tích các vua Hùng được soạn thành văn bản” thì cố nhiên kết luận đó chưa có tính thuyết phục.Chính vì vậy Ban Biên Tập mới có ghi chú:“Niên đại các bản Thần tích, Ngọc phả là một vấn đề còn phải nghiên cứu thêm. Tác giả tham luận chưa nói rõ nơi tàng trữ văn bản cũng như xuất xứ các bản dịch. Chúng tôi tạm bằng lòng với tham luận hiện có (B.B.T)” [1 ] 3. Bản Hùng vương ngọc phả (HVNP) của Bảo tàng Phú Thọ: Văn bản tôi dùng để làm bản dịch này là một bản của Viện NCHN sao chụp lại từ nguyên bản cuốn Hùng đồ thập bát diệp Thánh vương ngọc phả cổ truyện của Ty Văn hoá Phú Thọ, nay dã chuyển cho Bảo tàng Hùng vương Phú Thọ. Bản này gồm 21 tờ giấy chép hai mặt x 2 trang, trang 10 dòng x 21 chữ, đúng số tờ như đã ghi ở cuói sách:“ 以上共貳十壹張dĩ thượng cộng nhị thập nhất trang/ Ở trên cộng là 21 tờ giấy” Không kể 2 tờ đầu, một tờ chụp lại trang 1 bên trong đưa ra làm bìa. 1 tờ là bản khai của xã XuânLũng huyện Sơn Vi trấn Sơn Tây về các thửa ruộng thờ và quy định lễ vật (xôi, lợn dâng cúng hàng năm.Tờ 1a: Tên sách: Hùng đồ Hùng đồ thập bát diệp Thánh vương ngọc phả cổ truyện.Tờ 1b: Năm thực hiện việc hiệu đính và sao chép lại từ bản cổ: Hoàng triều Hoằng Định nguyên niên Canh Tí đông thập nguyệt cát nhật. Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính. Năm Canh Tí niên hiệu Hoằng Định thứ nhất mùa đông, tháng 10 (11-1601), ngày tốt. Sao bản lưu tại Quan lang phụ đạo Hùng vương tôn điệt phụ truyền tử kế dữ Nghĩa Động xã trưởng tạo lệ hộ nhi Trung Nghĩa hương giám thủ. (Bản sao lưu tại nhà Quan lang phụ đạo cháu chắt của vua Hùng, cha truyền con nối, cũng xã trưởng tạo lệ hộ nhi TrungNghĩa hương giám thủ. Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao. Chữ viết: Bản sao được thực hiện bởi chuyên gia thư tả Lê Đình Hoan làm việc ở Lễ phiên ( ban ở phủ chúa Trịnh tươngứng chức năng củ bộ Lễ). Toàn bộ bản chép cùng một kiểu chữ của một người. Đó là kiểu chữ Lệ viết nghiêng rất đặc trưng cho thư pháp triều Lê. Chữ Lệ cũng bắt nguồn từ chữ Triện nhưng có những cải tạo quan trọng, do Trình Miệu 程邈một người tù làm nô lệ thời Tần Thuỷ Hoàng sáng tạo cuối Tần phát triển đầu Hán, sau trở thành một trong bốn thể chữ chính của Hán tự (chính[tức Khải], thảo, lệ, triện), là thể chữ trang trọng, có kết cấu hợp lý, được số đong cho là đẹp. Chữ lệ ngay cả hình thức chữ “đứng” (trực) của nó vốn có đặc điểm hơi nghiêng một tí về bên phải; nhưng cũng có loại nghiêng nhiều hơn (thiên). Trung Quốc chủ yếu dùng loại chữ lệ đứng (xem ảnh nền đen).Trên ảnh đã dẫn chúng ta thấy chữ lệ đứng của Trung Quốc (nền đen bên phải) và chữ lệ nghiêng xcủa văn bản HVNP chúng tôi đang nghiên cứu. Có thể tỷ lệ chưa cao, nhưng chúng ta có cứ liệu cho thấy từ đầu Lê sơ (thế kỷ XV) và Lê trung hưng chữ lệ nghiêng đã đựoc dùng để viết các tài liệu của triều đình ( x. ảnh sắc chỉ năm Đại Hoà thứ 9/1451) Vì văn bản có ít nên chưa kết luận được Lê sơ về trước có thông dụng chữ lệ nghiêng hay không, nhưng thời Lê trung hưng thì lệ nghiêng là loại chữ đựoc nhiều người ưa thích. Thời Tây Sơn và đầu Nguyễn thỉnh thoảng cũng còn, nhưng nói chung ít gặp hơn trước.Vì thế các chuyên gia Hán Nôm phần nhiều đều nhận rằng loại chữ lệ nghiêng này mang đặc điểm niên đại các thế kỷ 15 -18 khá rõ. Có một đặc điểm nữa là loại chữ này hiếm, ít người biết và nhất là khó viết, vì thế ầu như rất ít khả năng bị làm giả. Ở bản ảnh trích ảnh dẫn trên tôi đã thể hiện đặc điểm chữ lệ nghiêng của văn bản HVNP, do đó chúng ta có cơ sở khoa học để xác định nguyên bản HVNP do Bảo tàng Phú Thọ lưu giữ đích thực là một thư tịch được sao chép năm vào năm Hoằng Định 1 (1601) tức là năm đầu tiên của thế kỷ XVII cách nay 410 năm.Ở bản ảnh trích ảnh dẫn trên, tôi đã thể hiện đặc điểm chữ lệ nghiêng của văn bản HVNP, do đó chúng ta có cơ sở khoa học để xác định nguyên bản HVNP do Bảo tàng Phú Thọ lưu giữ đích thực là một thư tịch được sao chép năm vào năm Hoằng Định 1 (1601) tức là năm đầu tiên của thế kỷ XVII cách nay 410 năm. Mừng vì ta còn giữ được bản Ngọc phả ấy khá cổ,nhưng lại hơi chớm lo, bởi vì nọi dung của nó thì chúng ta đã có nhiều bản sao rồi, nhưng lo mình bỏ công chứng minh bản ấy cổ quý lại "vẽ đường cho hươu chạy", biết đâu có ngày "hươu" bị chạy mất chăng?Ở trên tôi có nói hiện tôi chỉ có 2 văn bản mà tôi nghĩ có thể ta vẫn còn nhiều bản hơn. Trong lúc chờ đợi, tôi lục tìm trên mạng thấy đựoc một tư liệu quý và nghĩ là ở nước ngoài như Nhật, Mỹ, Pháp cũng có thể có vài văn bản. GS Nhật Bản có thể đã sớm đọc HVNP - có thể chính là bản tôi đang dùng làm việc tai đây (hoặc có nội dung khá tương tự) Ở trên tôi có nói hiện tôi chỉ có 2 văn bản mà tôi nghĩ có bởi vì trên mục "Hồng Bàng", Wikipedia có lập một tên hiệu các vua Hùng căn cứ vào tài liệu của GS Nhật Bản Nham Thôn Thành Doãn 岩村成允[2]khá nhất trí với bản tôi lập. Sau đây là bảng so sánh bản thế hệ các thế hệ vua Hùng do tôi lập (đã đặt trước bản dịch) và bản của Nham Thôn. Bản Nham Thôn gần như là trùng khít cả về thứ tự các thế hệ: Chỉ tính từ Kinh Dương vương bắt đầu đi làm vua phương Nam. Số đời là 18 đúng như các sử sách khác vẫn chép. Các tên hiệu chữ Hán đều hoàn toàn giống nhau. Cách đọc chỉ khác nhau 1 trường hợp: NĐT đọc Việp vương, Nham Thôn đọc Diệp vương: Chữ 曄 (yè) vẫn thường có2 cách đọc: Việp/ Diệp (NĐT đọc Việ p như âm vẫn quen dùng như trong tên tước của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc). Bản tiếng Anh của Wikipedia đọc là Hoa - chữ ấy không ít người đọc nhầm là chữ Hoa vì bên cạnh có chữ Hoa. Cả hiệu của Hùng vương thứ 18 Hùng Tuyền vương bản Nham Thôn cũng viết và đọc đúng là Tuyền vương (như NĐT đọc), trên bảng đã lập ghi "Tuyên" chắc do đánh máy sót dấu. Bản tiếng Anh của Wiki thì vẫn như không ít người đọc nhầm chữ 璿 [xuán] là Duệ vương. Tiếc rằng không ít bài viết về Hùng vương trên sách báo hiện nay vẫn cứ viết "Hùng Duệ vương" bất chấp xuất xứ!Tuyền và Duệ rất dễ nhầm, ngay cả HVNP cũng 1 lần viết nhầm thành chữ 日+ 睿 [3 ]. Tôi đã lập 1 bản khảo âm tự của liên quan đến chữ 璿 để mọi người tham khảo) [4 ] Như vậy qua so sánh sơ bộ với bản Nham Thôn chúng ta có cơ sở để tin rằng các văn bàn HVNP thuộc hệ Hồng Đức nguyên niên (1470) hiện còn khá tương đồng với nhau. Những sai khá tất không tránh khỏi, nhưng chủ yếu có thể chỉ ở chi tiết và văn tự. III.LỜI NGƯỜI DỊCH Đọc HVNP là chúng ta đã bước vào thế giới của những thần thoại huyền tích kỳ vĩ không chỉ liên quan đến thời kỳ lập quốc dựng nước mà còn xa hơn nữa đến cội nguồn tổ tiên của dân tộc. Các địa danh nhân danh trong HVNP sử sách đã viết nhiều bàn nhiều nhưng hầu như cũng chưa vén được bao nhiêu lớp sương mù nhiều ngàn năm. Vì vậy, dịch xong HVNP người dịch nhận ra rằng ở đây không có ngôn ngữ cho nguời chú thích khảo chứng để chứng minh những gì không đúng với lịch sử như chúng ta biết ngày nay. Thay vào đó trong cuộc đi như hành trình của chàng Ôđixê đi tìm dân tộc mình, rải rác ta có thể nhận ra những điều tưởng hoang đường lại được xác nhận ở một nguồn tin độc lập nào đó. Tôi muốn giới thiệu ở đây vài trường hợp: 1.Về nước Việt Thường Học giới VN & quốc tế đều Đại Việt sử lược (ĐVSL) là bộ sử có giá trị như thế nào. Ngay trang đầu nói về nguồn gốc và lịch sử Việt Nam , tác giả viết: VIỆT SỬ LƯỢC. Thủ Sơn các tùng thư. Tứ khố toàn thư (Sử bộ). Ảnh ấn bản.泮築城於越裳,號安陽王 Phán trúc thành ư Việt Thường, hiệu An Dương vương (ĐVSL, Q.1-1a)Câu này ngắn, chúng ta còn quay lại một lữa với vế sau. Bây giờ hãy xin chú ý đến vế đầu. Xin nói thêm: Bản dịch ĐVSL đến nay đã có hai bản dịch, nhưng khong bản nào in kèm nguyên văn chữ Hán. Bản chữ Hán thì trên mạng nay có nhiều, nhưng đều là bản điện tử, khi cần cũng tạm dùng đựoc, nhưng tôi gắmg sưu tập để bạn đọc có ngay nguyên bản in ảnh của bản Thú Sơn các tùng thư trong Tứ khố toàn thư (Sử bộ). Cả bản dịch cũng chụp ảnh để bạn đọc có trước mắt bản dịch của của Trần Quốc Vượng [5] để cùng bút giả kiểm xem đủ nguồn tư liệu liên quan. Đây rõ ràng là nói về thành hình ốc ở Cổ Loa bên Đông Anh, thế mà ĐVSL lại nói là ở Việt Thường! Chuyện gì lạ vậy. Thật vậy, trong một chú thích trước đó , Trần Quốc Vượng đã chú về Việt Thường: “Tập truyền vẫn cho là ở miền Nghệ - Tĩnh vì Việt Thường là ở phía Nam Giao Chỉ”. Ddeens câu dẫn trên, nhà sử học trẻ tuổi Trần Quốc vượng thật sự đã bị “sốc” vì ĐVSL nói Thục Phán đắp thành ở …Việt Thường! Nếu không nguyên bản Hán văn như trên có lẽ bút giả cùng bạn đọc cũng đã không thể tin vào mắt mình. Thành Cổ Loa mà lại là ở Việt Thường ư? Soạn giả ĐVSL (Trần Phổ hay Trần Tấn) có bé cái nhầm không đấy? Để thể hiện cú choáng này, học giả trẻ tuổi TQV (như trên trích ảnh sau đây) đã ghi một chú thích rất kiềm chế hay không chê vào đâu đựoc: “Theo lời ghi chép ở đây thị Việt Thường thị lại là đất Cổ Loa, Đông Anh, Phúc Yên”. Tôi khoanh tròn hai chữ “lại là” vài hai chữ ấy hay không chê vào đâu đựoc: vừa không vội chê ĐVSL chép nhầm, vừa thông báo cho người đọc biết sự ngỡ ngàng của ông vì tập truyền vẫn nói Việt Thường ở Nghệ Tĩnh, sao với câu này Cổ Loa cũng “lại là” Việt Thường? Tôi dự định trong bài này hễ động đến đâu cần tư liệu sử sách thì cố tìm nguyên bản Hán văn trưng ra ở đấy (chắc sẽ có chuyện lực bất tòng tâm!). Sự nghiệp nghiên cứu lịch sử dân tộc của chúng ta còn dài dài, người trước góp tư liệu cho người sau, chứ nếu ai cũng nói chung chung không thấy chứng cớ sử liệu đâu thì chẳng khác gì người đi kiện lâu ngày quá mất cả hồ sơ. Vậy thì chỗ nói Việt Thường ở miền Nghệ Tĩnh này, TQV nói “tập truyền” – nghĩa là người nọ bảo người kia, nhưng cụ thể ra sao cũng cần kê cứu: sử gia Trần Trọng Kim hình như chưa nói đến, nhưng cố GS Đào Duy Anh đã nói Việt Thường ở quận Cửu Đức, “tương đương với miền Hà Tĩnh ngày nay”. Đến Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư), bản dịch cũ không có chú thích từ Việt Thường. Khi làm chú thích bản dịch mới, tôi tra cứu thêm mấy tư liệu thư tịch và đã đưa cả ý kiến của cụ Đào vào chú thích từ Việt Thường: Nay tôi tìm được văn bản Thủy kinh chú (cũng bản in ảnh trong TKTT) iện cũng trích ảnh đưa vào đây để củng cố chúng cứ: “ Cửu Đức cửu di sở cực”: quận Cửu Đức là đất cuối cùng cửa cửu di (Sử TQ gọi các nước phía nam và phía đông TQ là “man di”, hoặc gọi chung là “cửu di”), cho nên lấy ý ấy để đặt tên quận. Trên đất của quận này thời nhà Chu có nước Việt Thường.“ Lâm Ấp ký nói: Thời nhà Chu, có nước di Việt Thường là nước xa nhất của “cửu di” nói đến trong Chu lễ. Nước Việt Thường đem chi trĩ trắng và ngà voi, thông qua 9 lần dịch mà đến [thăm/ giao hảo]” (Lịch Đạo Nguyên, Thuỷ kinh chú, Q.36 –tờ 24 ab) Với hai điều ghi liên tiếp trong cùng 1 trang: -Quận Cửu Đức là nơi xa nhất của cửu di.-Nước Việt Thường là nơi xa nhất của cửu di.Tức nước Việt Thường ở vị trí của quận Cửu Đức. Cửu Đức đựoc xác định là đất Hà Tĩnh hiện nay.Gần đây có tác giả kê cả Nghệ An, hoặc cả Nghệ An,Thanh Hoá (khu IV cũ): điều đó có lẽ cũng là lịch sử trên tiến trình mở rộng cương vực của Việt Thường. Nhưng chỉHà Tĩnh mới tương ứng với câu trích của Thuỷ kinh chú, vì Nghệ An và Thanh Hoá không bao gồm trong tên quận Cửu Đức ( Nghệ An là Hoan Châu, Thanh Hoá là Ái Châu). Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề đã nêu trên: Đất Việt Thường ở Hà Tĩnh, tại sao ĐVSL lại chép An Dương vương đắp thành ở Việt Thường? Khó hiểu quá. Thông thường cái gì khó hiểu thì người ta nghi có sai lầm. Tình tiết lặt vặt lẫn trong biên niên các năm không nói làm gì, đằng này, sự kiện lớn đùng, không cái mảy lông có thể bỏ qua! Hơn nữa đây lại là ghi chép ở phần mào đầu bộ quốc sử, có lẽ nào soạn giả của nó lại vô tâm vô tứ đến thế?Đọc xem, tra cứu ĐVSL không biết bao lần rồi, thế mà đối với câu này, sau khi đọc xong dịch xong Hùng vương ngọc phả bút giả bất giác phải thốt lên: “ĐVSL không nhầm!!”HVNP kể cho ta nghe Đế Minh cho Kinh Dương vương (huý Lộc Tục –theo Toàn thu, còn HVNP không chép tên huý Lộc Tục) đi làm vua phương Nam. Kinh Dương vương theo dãy núi Nam Miên (nghĩa là: dãy núi kéo dài về phía nam) mà đi. Trên đường đi vưong ngắm xem phong thuỷ, chon nơi hình thế thắng địa để đóng đô ấp [tức quốc đô]. Qua đất Hoan Châu (nay đổi là xứ Nghệ An. Nơi đó là các xã Nội Thiên Lộc, Tả Thiên Lộc, Tỉnh Thạch thuộc huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang) vua chọn được một vùng phong cảnh tươi đẹp, [núi non]muôn nhẫn lâu đài, gọi là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 ngọn. (Xưa gọi là Cựu Đô, nay gọi là Ngàn Hống). Khi đã định đô ở vùng Ngàn Hống, bản tính vua ưa thích môn phong thuỷ nên lại lên thuyền đi nữa, thuyền dạt vào vùng hồ Động Đình, rồi mới gặp con gái vua Động Đình hồ là Thần long. Vua đem Thần Long cùng về bằng đường bộ, xa giá rong ruỗi khắp các nơi sơn xuyên. Khi về qua cửa sông Bạch Hạc, vua thấy vùng này” Nghìn non nâng chủ, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về ngọ Tổ sơn Nghĩa Lĩnh” Vua nhận ra nơi này thế đất quý đẹp hơn đô thành cũ ở Hoan Châu, bèn lập điện chính ở Nghĩa Lĩnh để thỉnh thoảng ngự giá đến nghỉ, bên ngoài dựng đô thành Phong Châu (nay là Cựu đô thành ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hác -tức vùng Đền Hùng hiện nay. Nhưng không ở hẳn lại đấy, vua còn trở lại cựu đô Ngàn Hống ở Hoan Châu, còn kinh đô mới thì đặt làm đô ấp của nước Việt Thường. Như vậy ta thấy theo HVNP ngay từ thời Kinh Dương vương, tên nước đầu tiên đã gọi là nước Việt Thường, quốc đô lúc đầu đặt ở núi Thứu Lĩnh, Hoan Châu (cựu đô Ngàn Hống). Về sau cương vực Việt Thường mở rộng ra cả vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Vua (Kinh Dương) cho dựng đô mới tại Phong Châu (khu vực đền Hùng hiện nay). Vì thế, ĐVSL viết thành Cổ Loa ở Việt Thường là đúng sự thực lịch sử chứ không sai hoặc đáng ngờ! Chỉ vì chúng ta biết quá ít về giai đoạn này nên mới sinh đại hoài nghi như vậy! Liệu những ghi chép này có giúp chúng ta từ trong sương mù huyền thoại của HVNP nhận ra được vài thông tin lịch sử vô cùng quý giá cho việc tìm hiểu, nghiên cứu những bước đi đầu tiên trong quá trình dựng nước của tổ tiên chúng ta hay không hẳn còn phải trông đợi lớn ở sự thẩm định của học giới ngày nay. Tôii nghĩ rằng có lẽ trước nay chúng ta chưa quan tâm nên bỏ quên cả ký ức đi, nhưng lịch sử giai đoạn này vẫn có những thông tin đáng khảo cứu. Về việc đắp thành Cổ Loa ở Việt Thường làm cho cố GS Trần Quốc Vượng phải đặt dấu hỏi mà có lẽ cũng nhiều người (kể cả bản thân tôi) cũng chia sẻ mối đại nghi ngờ đó. Nhưng lạ quá, điều ghi đó không chỉ riêng của ĐVSL, mà cả Toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ cũng đều ghi như thế! Vậy thì phải chăng chúng ta đã có thể khẳng định một điều: Nước Việt Thường là khởi đầu của lịch sử Việt Nam. Quốc hiệu đầu tiên của nước ta là Việt Thường. Cương vực của Việt Thường lúc đầu ở vùng Hà Tĩnh, về sau mở rộng ra vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ hiện nay. Việc mở rộng cương vực của nước Việt Thường tôi sẽ trở lại cách sau một mục, bởi vì có vấn đề liên quan trực tiếp đến việc xây thành Cổ Loa cần trình bày tiếp sau đây. 2. Thục vương hay Hùng vương - ai xây thành Cổ Loa ? Khác với ghi chép về Việt Thường, thành Cổ Loa ngày nay không còn là thần tích hay huyền thoại nữa mà là cả khu di tích của một toà thành cổ có quy mô lớn nhất nước ta. Nhưng vua nào cho xây thành Cổ Loa? Vấn đề này, các bộ quốc sử từ ĐVSL, Toàn thư, đến Cương mục v.v...đều thống nhất ghi nhận Thục An Dương vương là người cho đắp thành Cổ Loa, tức Cổ Loa là thành của An Dương vương. Nhưng có một tài liệu nói khác: Đó là HVNP chúng ta đang đọc đây! Thục vương – HVNP chỉ chép Thục vương, không ghi tên là Phán như các tài liệu khác- là chúa Phụ đạo của Ai Lao (Ai Lao Phụ đạo chủ) cũng thuộc dòng phái của họ Hùng, từ xa nghe tin Hùng vương truyền ngôi cho rể là Tản Viên bèn đem quân sang đánh Hùng Tuyền vương (Tuyền 璿 chứ không phải “Duệ” hay “Tuấn” như không ít người đọc lầm) để đoạt lấy nước. Quân Thục vương nhiều lần thua trận, nhưng Hùng Tuyền vương cậy mình có thần lực, không chăm lo võ bị, quân Thục tiến đến tận nơi mà vương vẫn còn say khuớt. Quân lính nhiều người trở giáo theo Thục vương. Nhưng Hùng Tuyền vương vẫn trụ được. Tuyền vương bèn cho đắp thành ở Việt Thường, thành rộng nghìn trường, khoanh tròn như con ốc... -Chuyện kể liên tiếp, nhưng đây có thể là một cuộc giằng co lâu năm chứ không phải chuyện ngày mọt ngày hai.Nhưng việc đắp thành không thuận, đắp đến đâu đổ đến đây, rồi rùa vàng xuất hiện giúp Tuyền vương trừ quỷ ở núi Thất Diệu v.v...Trước khi ra đi, rùa vàng rút chiếc mong đưa cho Tuyền vương dặn chế chiếc nỏ, lấy cái móng làm lẫy, khi có giặc thì lấy nỏ thần ấy ra mà bắn ...Sau quân Thục lại kéo sang vây thành Cổ Loa, Hùng Tuyền vương cho gọi Tản Viên đem quân về cứu. Tản Viên đem quân về dàn trận trước cửa thành nhưng chỉ hư trương thanh thế chứ không giao chiến với quân của Thục vương. “Mấy hôm sau Tản Viên khuyên Hùng Tuyền vương: “Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền hoàng đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông, ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát....”Tuyền vương cho là phải, sai đưa thư nhường nước cho Thục vương. Thục vương sai sứ đến tạ ơn. Tuyền vương nhân đó tặng cho Thục vương cả chiếc nỏ thần, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt.Thục An vương đã được nhường nước, tưởng nhớ ơn đức trời biển của Hùng Tuyền vương bèn xa giá đến núi Nghĩa Lĩnh cho dựng Dao Đài để làm nơi quốc gia phụng thờ, dựng hai cột đá trong núi, chỉ tay lên trời thề rằng:-Nguyện trời cao mây xám lồng lộng xét soi: nước Nam trường tồn trường tại. Ngôi miếu Hùng vương nơi đây nếu vua sau kế trị mà bội ước nhạt thề thì sẽ bị rìu trăng búa gió trừng phạt, không phụ lời thề của tiền nhân. Đọc lời khấn xong, Thục vương lạy tạ rồi lên xe trở về kinh đô Phong Châu, cho triệu các dòng phái cành vàng lá ngọc của dòng họ Hùng ban cho danh hiệu Trung nghĩa huơng (làng Trung nghĩa), cấp cho dân tạo lệ hưởng dụng lâu dài, cấp 500 mẫu ruộng ruộng ở gò Nghĩa Lĩnh v.v.. Như vậy, theo HVNP, Hùng Tuyền vương có giao tranh với Thục vương, nhưng sau đó là một cuộc chuyển giao quyền lực êm thấm giữa những người trong tông tộc. Thục vương lên ngôi trị vì, sau nữa mới xẩy việc Triệu Đà đem quân sang đánh. Triệu Đà đánh không thắng phải giảng hoà, sai con là Trọng Thuỷ vào làm lính Túc vệ cho Thục vương, rồi Trọng Thuỷ cầu hôn với Mỵ Châu, xin xem rồi đổi lẫy nỏ. Nỏ thần không linh nghiệm, Thục vương thua chạy, cơ đồ họ Hùng bèn mất. Các sự kiện đắp thành Cổ Loa, rùa vàng giúp xây thành và cho vuốt để chế nỏ thần v.v..đều thuộc chủ thể là vua Hùng (Tuyền vương). Vua Hùng không bị bại trận bởi Thục Phán mà theo lời khuyên của Tản Viên đã nhường nước và cả chiếc nỏ thần cho Thục vương, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt. Nói đặc sắc vì những ghi chép này khác hẳn so với các bộ quốc sử và nhiều thư tịch cổ khác [ 6]. Người dịch chỉ nêu lên nét đặc sắc ấy để người đọc lưu ý khỏi bị trượt qua. Nhưng hình như chính ở diều này lại có nhiều ý kiến “phản bác” HVNP! Cũng là một sự hay nên có đối với học thuật [7].Trên đây là một vài đặc sắc của Hùng vương ngọc phả theo hệ nguyên bản Hồng Đức nguyên niên. Ngạn xuyên NGÔ ĐỨC THỌ Chú thích: [ 1] Thông báo Hán Nôm học 1995 ( tr.461-467). [ 2] 岩村成允. 《安南通史》, 許雲樵譯. 新加坡: 星洲世界書局有限公司(1957) [3 ] Xem ảnh chụp tờ 19ª (bên cạnh) [4 ] Xem Bản tra cứu tự âm chữ Tuyền (đặt ở cuối phần chú thích) [5] Việt sử lược. Trần Quốc Vượng dịch. H.,Nxb Văn Sử Địa, 1960. [6] Ở chỗ nói việc đắp thành hình ốc, nguyên bản HVNP viết: “ 於是築城于越裳 (Ư thị trúc thành vu Việt Thường”/ Bèn đắp thắp thành ở Việt Thường), cấu trúc ẩn chủ ngữ, tức vẫn là chủ ngữ liên tục từ các câu trước chưa thay đổi. Thấy vậy, một người đọc nào đó trước đây theo cách hiểu truyền thống ( Thục Phán đắp thành) bèn thêm sát ngoài khoang trắng hai chữ “屬王Thục vương”. Tôi lúc đầu cũng bị nhầm đọc dịch theo 2 chữ thêm ấy nên dịch xong thấy logic đoạn đó đảo lộn từ vua Hùng sang Thục Phán và ngược lại. Đọc kỹ mới phát hiện 2 chữ thêm đó làm cho người đọc sau bị nhầm! Bỏ không dùng hai chữ ấy, đoạn văn trở lại hợp logic từ đầu của HVNP. [7] Chẳng hạn x. Phan Duy Kha:Thử vén màn huyền thoại An Dương Vương,http://phanduykha. wordpress.com/2011/12/07/ Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 2, 2013 Hùng Vương Ngọc Phả là mảnh ghép cuối cùng, làm rõ: - Việt Thường Thị (tương đương thời nhà Chu, cần phân tích thêm một chút). - Hùng Vương XVIII: Hùng Tuyền Vương thay vì Hùng Duệ Vương (Tuyền = Suối = Suối nguồn = hợp lý). - Nghệ Tĩnh không phải Cựu Đô - nếu kết hợp dự liệu phân tích trong sách thì: làm rõ đây là quê hương vua Kinh Dương Vương tức của tổ tiên của Ngài. - Miền Thứu Lĩnh - Hà Tĩnh: Núi Thứu cũng chỉ đất Phật bên Ấn Độ, tuy nhiên theo NPHV thì rõ ràng, ý nghĩa gốc chính là quê vua Kinh Dương Vương - Đại Nhật Phật. - Ngàn Hống: 1000 = Thiên=Trời=Kinh Dương Dương; Hống: tiếng gầm của sư tử, theo Phật giáo có kinh Sư Tử Hống - bước qua Chính môn của 1 ngôi chùa thì đi vào: Cung Sư Tử, đi tới nữa sẽ ở trước điện Đại Hùng. Quê hương vua Kinh Dương Vương ở vùng Ngàn Hống, có nói trong cuốn sách Tùy Đường diễn nghĩa, của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 22 Tháng 2, 2013 HÙNG VƯƠNG NGỌC PHẢ(Bản Hồng Đức nguyên niên) BẢN DỊCH / Bản mới post có sửa lỗi+ ảnh chụp mguyên bản chữ Hán 18b-20b) Mục lục 1. <a href="http://vn.uploader.blog.yahoo.com/ngoducthohannom/composer?mid=371#_Toc312701835">KINH DƯƠNG VƯƠNG 涇陽王 2. LẠC LONG QUÂN tức HÙNG HIỀN VƯƠNG 雄賢王 3. HÙNG QUỐC VƯƠNG 雄國王 4. HÙNG VIỆP VƯƠNG 雄曄王 5. HÙNG HY VƯƠNG 雄羲王 6. HÙNG HUY VƯƠNG 雄暉王 7. HÙNG CHIÊU VƯƠNG 雄昭王 8. HÙNG VĨ VƯƠNG 雄暐王 9. HÙNG ĐỊNH VƯƠNG 雄定王 10. HÙNG UY VƯƠNG 雄威王 11. HÙNG TRINH VƯƠNG 雄禎王 12. HÙNG VŨ VƯƠNG 雄武王 13. HÙNG VIỆT VƯƠNG 雄越王 14. HÙNG ANH VƯƠNG 雄英王 15. HÙNG TRIỀU VƯƠNG 雄朝王 16. HÙNG TẠO VƯƠNG 雄造王 17. HÙNG NGHỊ VƯƠNG 雄毅王 18. HÙNG TUYỀN VƯƠNG 雄璿王CỔ VIỆT HÙNG THỊ NHẤT THẬP BÁT THẾ THÁNH VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ TRUYỆN TÍCH XƯA LƯU LẠI CỦA BẢN NGỌC PHẢ CHÉP TRUYỆN TIỀN THÁI TỔ CAO HOÀNG ĐẾ CỦA THÁNH TỔ HÙNG VƯƠNG SƠN THÁNH [ĐẾ MINH 帝明] Cháu ba đời của vua Viêm Đế là Đế Minh sinh Đế Nghi rồi đi tuần du phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh (giới hạn ở động Bạch Hổ tỉnh Vân Nam - xưa gọi là động Xích Quỷ, nguyên thuộc nước ta gọi là quận Giao Chỉ. Động Xích Qủy sau gọi là nước Xích Quỷ, nay đổi là nước An Nam) thì gặp nàng Vụ Tiên thần nữ, sinh ra Kinh Dương vương. [Đời thứ 1] KINH DƯƠNG VƯƠNG 涇陽王 Vua thông minh thánh trí, vượt trội hơn tầm của Đế Nghi. Đế Minh muốn truyền ngôi báu để làm chính thống cho muôn nước. Nhưng Kinh Dương vương cố nhường cho anh. Thế là Đế Minh lập Đế Nghi nối ngôi, cai trị phương Bắc, phong cho Kinh Dương vương quay mặt về phương nam mà cái trị thiên hạ [tức là làm vua phương Nam], gọi tên là nước Xích Quỷ.Kinh Dương vương kính tuân chỉ dụ của vua cha, đem quân lính theo núi Nam Miên mà đi về phía nam. Trên đường ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa để đóng đô ấp [tức quốc đô].Qua đất Hoan Châu (nay đổi là xứ Nghệ An. Nơi đó là các xã Nội Thiên Lộc, Tả Thiên Lộc, Tỉnh Thạch thuộc huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang) vua chọn được một vùng phong cảnh tươi đẹp, [núi non]muôn nhẫn lâu đài, gọi là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 ngọn. (Xưa gọi là Cựu Đô, nay gọi là Ngàn Hống).Vùng này giáp biển ở cửa Hội Thốn, đường núi quanh co, đường sông uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông, bèn xây dựng đô thành để định nơi cho bốn phương triều cốngBấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua Kinh Dương bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du hải ngoại. Vua trải xem địa đồ, bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng xem cảnh trời nước. Vua chợt thấy một thiếu nữ lưng eo dung nhan tuyệt sắc từ dưới nước đi lên. Vua cho là cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay, bèn sai quân chèo thuyền đến gần. Vua nói:-Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?Thiếu nữ đáp:-Thiếp tên là Thần Long, là con gái vua Động Đình. Thiếp ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay gặp thiên sứ, nguyện được hầu trầu khăn.Kinh Dương vương vui mừng đẹp ý, bèn dắt tay thiếu nữ bước vào trong long thuyền. Vua cho quay thuyền trở về thành đô, lập Thần Long làm Cung vi chính khổn (Hậu cung Chính khổn) Ngày sau vua lại đi tuần thú, rong ruỗi xa giá xem khắp các nơi sơn xuyên. Đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình đồi non chập chùng, sông đẹp núi lạ. Vua bèn tìm mạch đất, nhận được khí mạch từ trên núi Côn Lôn đi xuống, qua cửa Ải, lòng sông thoát mạch, rồng đi gần xa đến núi Tụ Long tiếp với châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà Kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chảy đến các làng Hạ Hoa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Ninh phủ Lâm Thao, rồi đến chùa Long Hoa thôn Việt Trì ở Ngã ba sông Bạch Hạc là dừng. Mạch này bên trái từ sông Lôi Hà núi đi đến đâu sông theo đến đó, qua các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương đột khởi núi Tam Đảo, Tả cung Tiên làm thanh long. Trùng sơn vạn thuỷ, nổi lên các dãy núi ở Lập Thạch, Bách Ngoã, Chu Diên, Thanh Tước, Ngọc Bội, Khai Quang. Phụ bên trái có các núi Châu Sơn, Sóc Sơn, Chung Sơn,Trà Sơn, Từ Sơn, Trạm Sơn, Tích Sơn, An Lão sơn thuộc xứ Kinh Bắc chầu về, dẫn đến Hải Dương, Đông Triều, Hoa Phong, Yên Tử thoát ra đến biển, Đồ Sơn tám xã làm Long đầu chầu án. Mạch bên phải từ Ba Thục, Hán Giang, Nhị Hà, Lô Giang, Thao Giang, núi chạy đến đâu sông theo đến đấy. Đến Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thập Châu, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Hà đến huyện Bất Bạt đột khởi núi Tản Viên. Hữu cung tiên làm Bạch hổ, muôn nhánh quần sơn nổi lên ở Minh Nghĩa, Phúc Lộc, Thạch Thất,Yên Sơn, Tây Phương, Sài Sơn, Tử Trầm, hũu bật đến Chương Đức, Đại Yên, Hương Tích sơn thuộc xứ Sơn Nam. Bên phải là Na Sơn, Nam Công, Vũ Phượng sơn, Đội sơn, Điệp sơn, Nghi Dương sơn, chầu phục vào trong, chảy thoát đến núi cửa biển Thần Phù ỏ núi Chính Đại thuộc Ái Châu, thoát đến Chích Trợ sơn, cửa Trà Lý làm đầu hổ chầu, lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đưòng, lấy Ngã Ba Lãnh ở sông Cả thuộc huyện Nam Xương làm Trung minh đường, núi Tượng Sơn ở Nam Hải làm Ngoại minh đường. Nghìn non nâng chủ, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về ngọn tổ sơn Nghĩa Lĩnh. Thu tận hình thế, vua nhận ra thế cục của đất này quý đẹp hơn đô thành cũ ở Hoan Châu, bèn lập Chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh để thỉnh thoảng ngự giá đến nghỉ. Bên ngoài lại dựng đô thành Phong Châu ( nay là Cựu đô thành ở thôn Việt Trì xã Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc), đặt quốc hiệu là nước Văn Lang (Đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, đến bắc Động Đình hồ, nam tiếp nước Hồ Tôn (nay là nước Chiêm Thành). Rồi vua ngự giá về cựu đô ở Hoan Châu. Việc dựng đô thành của vua, trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại dựng ở núi Nghĩa Lĩnh, nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm nơi đóng đô ấp của nước Việt Thường. Bấy giờ vua đi tùân thú trở về cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh vừa lúc cung phi con gái vua Thần Long có mang, rồng hiện điềm lành, khắp nhà rực ánh sáng đỏ, trong trướng hương thơm ngào ngạt toả ra. Cung phi nghỉ trong trướng ngọc khoảng một tuần (10 ngày) thì sinh ra Lạc Long quân. Lạc Long Quân huý Sùng Lãm, ở ngôi 400 năm, thọ 420 tuổi, sinh một bọc trăm trứng, an lành nở ra 100 con trai. Vương định 100 họ (tính), đặt 100 tên, xưng 100 hiệu, làm 100 vị thần, mỗi vị chiếm cứ một khu, đều xưng là Thuỷ tổ của Bách Việt, rất mực linh thiêng. Vua cha là Long Quân hoá sinh bất diệt, trở về biển thành Tiên, là Động Đình đế quân.Long quân bẩm sinh tư chất phi thường, tự có khí tượng đế vương, bèn được lập làm Hoàng thái tử. Bấy giờ có con gái của Đế Lai tên là Âu Cơ về sống ở quê mẹ tại động Lăng Sương huyện Thanh Nguyên châu Đà Bắc (nay đổi làm sách Lăng Sương huyện Bất Bạt). Một hôm Âu Cơ đi chới ở châu Trường Sa, gặp khi vua đi tuần thú ở Đà Giang. Vua thấy Âu Cơ dung nhan xinh đẹp, rất vừa ý, bèn lấy làm vợ, lập làm Hoàng phi. Thề ròi Kinh Dương vương sai Lạc Long quân ra ở tại đô thành núi Nghĩa Lĩnh tại Phong Châu thay vua cha làm việc nước.Kinh Dương vương ở ngôi 215 năm, thọ 260 tuổi. Lạc Long nhiếp chính. [Đời thứ 2]LẠC LONG QUÂN tức HÙNG HIỀN VƯƠNG 雄賢王 Long Quân lên nối ngôi, đổi hiệu là Hùng Hiền vương. Bấy giờ nàng Âu Lạc (tức Âu Cơ) có thai đã 3 năm 3 tháng 10 ngày, mây ngũ sức sáng bừng đầu núi Ngũ Lĩnh. Giờ ngọ ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tí cái thai trong bụng Âu Cơ chuyển động, đến giờ ngọ ngày 28 khắp nhà hương thơm toả nức, ánh sáng loé lên trong trướng, hoàng phi Âu Cơ sinh ra một bọc màu trắng như ngọc. Khi hoàng phi mới sinh, hương lạ thơm nức khắp núi Nghĩa Lĩnh và cả vùng đất tổ Phong Thứu, Ngọc Lĩnh, Liên Trì (đầm sen). Hiền vương thấy hoàng phi sinh tú bào hết sức dị thường , cổ kim thiên hạ chưa từng thấy. Người trong nước lấy làm lạ. Vua bèn triệu hội bách quan văn võ triều thần đến chầu ở chính điện. Giờ ngọ hôm ấy ba tiếng ống lệnh rung trời chuyển đất vang lên giữa không trung trong thành nội, núi sông cây cỏ muôn vật đều phải kinh hoàng, mây lành ngũ sắc sáng bừng khắp ba ngàn thế giới. Muôn chim bay chầu trên chính điện, dưới núi làn nước tung sóng cuộn dâng. Trăm kình nghê muông thú, muôn vật cá tôm gội gió mưa về chầu cống. Vua thấy quốc gia có điềm lành kỳ lạ, bèn xuống chiếu cho bá quan văn võ sửa sang áo mũ trai giới tịnh khiết đến tề tựu ở điện Kính Thiên đèn hương phụng hầu chầu lạy Hoàng thiên thượng đế, Tứ phủ vạn linh.Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay đến hội ở sân rồng điện Kính Thiên, rồi bốn vị thiên tướng hiện ra rất kỳ lạ. Các vị tướng ấy cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, mình mặc cẩm bào xanh, lưng thắt đai ngọc, chân đi hài sắt, nói cười đều loé hào quang lưỡi lửa. Rồi giữa các tầng mây hiện lên nhiều thiên quan thiên tướng. Ngọc Hoàng thượng đế xuống sắc: Hiền chúa Nam Miên bọc rồng trăm trứng, nở ra trăm trai trị nước.Nay sai Tứ đại Thiên vương phù giúp bảo hộ. Vậy ban sắc này.Hiền vương sai truyền long bài truyền các quan văn võ ngước lên trời cao vái vọng, rồi lạy tạ Thiên vương. Thiên vương nói:Bào ngọc trăm trứng, rồng lành giáng sinh. Thiên sứ báo cho Hiền vương đặt chiếu sắc của Ngọc hoàng Thượng đế lên chiếc mâm vàng đem đến ngôi chùa cổ ở núi Viễn Sơn, chuyển cho Từ Sơn Thiên Quang hoà thượng ở ngọn Thứu Lĩnh (sau đổi là Thiên Quang thiền tự) lưu giữ ở trong chùa, chọn quan trai giới chầu hầu, đèn hương không ngớt. Đến ngày bào trứng nở ra, Hiền vương theo lời dặn của Tứ đại thiên vương chờ đợi các trứng tự nhiên biến hoá. Hiền vương thành tâm làm lễ cầu đảo lớn. Thế là vào giờ ngọ ngày rằm tháng giêng trăm trứng an lành nở ra trăm con trai. Khắp Long thành đầy mây ngũ sắc, ánh lành toả rạng khắp nơi, hương trời thơm ngát bay toả khắp chốn núi sông. Trong khoảng một tháng các chàng trai không cần bú mớm mà lớn bật lên như người trưởng thành, tướng mạo phương phi, dáng hình kỳ tú, thân cao ba thước bảy tấc, cái thế anh hùng. Hiền vương triệu phi tần sáu cung đến phát các tấm gấm lĩnh để khâu may 100 bộ áo mũ cấp cho các chàng trai. Trong một ngày các cung nữ được ba lần cười vui, thường lấy hoa sen, lá sen trên hồ đem đến tặng cho các chàng trai. Được một trăm ngày, các chàng trai đã lớn, nhưng không biết nói, chỉ biết cười. Đúng trăm ngày, vào giờ Thìn ngày 20 tháng 7 cả trăm chàng trai đều cười vang, nói lớn: Trời sinh bậc thánh, Trị nước sinh vua, Thanh bình bốn biển, Thiên hạ vững yên. Thế là một trăm hoàng tử đều đến trước sân rồng ở điện Kính Thiên. Bỗng thấy một áng mây ngũ sắc từ trên không bay sà xuống sân rồng. Hiền vương thấy 8 vị thiên tướng đầu đội mũ đồng, mình mặc áo bào giáp sắt,chân đi hia bạc, lưng thắt khăn rồng quá độ (quá độ long cân?), tướng mạo sang quý sáng láng, mắt sáng như sao, miệng nhả hào quang hoả khí, tay cầm thần kiếm linh trượng, chày ngọc búa sắt, dàn hàng đứng hai bên tả hữu chờ lệnh. Bỗng không trung biến hoá, nhất thời mưa gió nổi lên,mây mù vờn bay vây quanh chính điện trên núi Nghĩa Lĩnh. Trong khoảnh khắc núi non mất hình, sông suối tràn dâng, không ai lường được chuyện gì xẩy ra. Sau khoảng ba giờ (nửa ngày) bầu trời lại tạnh sáng. Đó là 8 vị thiên tướng gọi là Bát bộ Kim Cương vâng sắc chỉ của Chư Phật ở Thượng thiên sai xuống hộ vệ 100 vị hoàng tử. Nay các hoàng tử đã trưởng thành đôn hậu minh mẫn, tám tướng phụng sai đưa các hoàng tử đến lạy mừng vua cha trị bình trong nước. Tâu xong các các thiên tướng biến hoá bay về trời, ban cho Hiền vương một lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một hòn ngọc trắng, một thanh kiếm thần, một quyển Thiên thư (sách trời), một chiếc thuớc ngọc, một chiêc mâm vàng, tất cả đều đặt trong chính điện. Hiền vương vâng mệnh đón nhận, coi đó là điềm lành lớn trời ban để trị yên thiên hạ. Hiền vương thấy 100 con trai bỗng nhiên đã trở nên cao lớn, thân cao bảy thước ba tấc, tay cầm thần khí thiên bảo, chia hàng đứng chầu hai bên tả hữu. Các hoàng tử lạy mừng phụ hoàng. Hùng vương xuống chiếu truyền rằng: Trăm con trời sinh của ta thánh văn thần vũ, hùng tài đại lược, giúp nước yên bình, thiên hạ ngước trông, thi nhân hoá đức, cha con vua tôi cùng vui. Hiền vương cho triệu bách quan đến lạy mừng rồi cùng triều hội để nghị bàn quốc sự, đổi hiệu thay tên. Trăm con trai trăm hiệu, vị thứ cao thấp trước sau. Trăm hoàng tử đều có tư chất hơn người, anh hùng bậc nhất xưa nay, thần tài thánh trí. Các quan triều đình lúc ấy cũng không ai dám phân biệt được trong các hoàng tử thì ai là người anh minh quyết đoán hơn, cho nên cũng khó đặt các danh hiệu. Triều đình tâu rằng: -Nước có Thánh vương, sinh các hiền tướng, đều là những bậc trong triều không ai sánh bằng, vậy nên chúng thần không ai dám bàn định danh hiệu các hoàng tử. Kính thỉnh Thánh phụ xét tài của các hoàng tử để định danh hiệu. Hiền vương phán rằng: -Chính sự lớn của triều đình phải có người anh tài nổi bật mới có thể đảm đương được. Trẫm vâng mệnh Trời gây dựng cơ đồ lớn lao, mở nước trị dân, theo mệnh trời sinh đựoc trăm con trai. Nay trẫm muốn phong truyền chức quan cho các con, Trẫm thành tâm lập đàn chay, mật khấn Hoàng thiên cùng vạn linh ngự hội để đặt định danh hiệu trăm quan. Bấy giờ vua lên đàn tràng khấn lễ cầu đảo lớn. Vua vừa cầu khấn xong, tự nhiên có cảm ứng, có vị thần ở phương Tây tới. Bỗng thấy một ông già râu tóc bạc phơ đầu đội mũ Phật gấm lĩnh, mình mặc áo vải nhuộm nâu, chân đi hia, tay cầm gậy tre ra chơi chùa Hoa Long ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc. Ông già rửa chân bên sông rồi ngồi nghỉ trên tảng đá phẳng trên con sông gọi là sông Nhị Hà. Hôm ấy có triều quan là Nguyên suý tiết chế tướng quân trấn thủ đô thành Phong Châu đang ngồi trên ngôi lầu bên sông. Quan Nguyên suý trông thấy ông Tiên đang xem phong thuỷ, cúi đầu nhìn xuống đáy sông, một chân ghếch lên tảng đá hình lưng rùa (Đá lưng rùa ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc; chùa Hoa Long ở bên bờ sông. Nay dấu tích ông Tiên hãy còn). Quan trấn thủ bền mời cụ già đến hỏi chuyện. Quan đem hết chân tình quốc sự bộc bạch với cụ già, mở tiệc khoản đãi rồi mời ông về điện vua trên núi Nghĩa Lĩnh. Triều quan vào tâu vua. Vua thân hành ra mời cụ già vào cung mở tiệc chúc mừng. Hiền vương hỏi: -Tiên sinh từ đâu đến ngao du phong cảnh ở đây? Nay trong nước có chuyện lạ, nhờ Tiên ông chỉ giáo cho. Tiên ông ha hả cười vang. Hiền vương vẫn đứng nói chuyện, hỏi Tiên ông: -Trẫm có điềm lành sinh đựoc trăm con trai trí tuệ thông minh thì tất cả đaọi khái cũng như nhau, cho nên khó đặt định danh hiệu vị thứ, cũng không biết ai anh ai em. Kính nhờ Tiên ông đặt tên, định thứ bậc giúp cho Tiên Ông đáp: -Ta sinh ở thời Hoàng Đế, theo học đạo Phật, ngao du nơi hải ngoại càn khôn. Trong ba ngàn thế giới ta thích đến nuớc Nam Miên ngắm xem phong thuỷ. Vua cho mời ta đến đây, ta có một quyển sách thần có thể bói xem mọi việc trong thiên hạ, gọi tên các vị Tiên. Huống chi quốc gia đã có thành tâm lập đàn cầu đảo, đã cầu tất ứng. Xin nhà vua thành tâm để lão vận trù một quẻ hỏi xem tiền định thế nào? Tiên Ông bèn xem mặt các hoàng tử, phân định thứ bậc anh em. Đoạn Tiên ông lấy bút giấy ra đặt tên cho một trăm hoàng tử. Viết xong, Tiên ông đặt tờ giấy lên chiêc mâm vàng. Để phân định thứ bậc anh em, Hiền vương lại gọi 100 hoàng tử đến hội ở chính điện để nhận tên đã ghi trong sách. Mọi người đồng thanh cần phải có bậc huynh trưởng đứng đầu. Rồi mọi người lại chia xếp thành hai hàng đối nhau đợi lệnh. Một người được gọi tên được lập làm Vương trừ thái tử (Thái tử nối ngôi vua), còn 99 người khác lần lượt đến trước mâm vàng nhận danh hiệu được ban. Từ đó thứ bậc anh em phân định rõ ràng, ai nấy đều vui. Xếp đặt mọi việc đã xong, Tiên ông tự nhiên biến hoá về trời. Hiền vương sai các quan thường xuyên đến chùa Từ Sơn Thiên Quang Hoà thượng cầu Phật ứng hộ. Vương trừ Thái tử tục danh là Hùng Lân sau đổi là Hùng quốc vương. Các con thứ có tên là Xích Lang, Quỳnh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yến Lang, Tiêu Lang, Diệu Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tán Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Hãn Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Thế Lang, Dạng lang, Tróc Lang, Sát Lang,Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiểu Lang, Điềm Lang, Kiềm Lang, Trường lang, Thuận Lang, Tẩm Lang, Thai Lang, Triệu Lang, Ích Lang, gồm 50 trai theo lệnh cha. Hương lang, Thiêm Lang, Thận Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Tịnh Lang, Hắc Lang, Quản Lang, Cao Lang, Tế lang, Mã Lang, Chiếu Lang, Khang Lang, Chỉnh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Miên Lang, Xuyến Lang, Yêu Lang, Thiếp Lang, Bái Lang, Tài Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhĩ Lang, Tào Lang, Nguyệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Canh Lang, Thải Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tuấn Lang, Tòng Lang, Thanh Lang, gồm 50 trai theo lệnh mẹ. Từ đó các hoàng tử đều đã có tên gọi, trưởng thành phương trưởng, ngồi chính toạ ở triều đường, vị thứ xếp trên các quan. Hiền vương bèn phong hầu riêng cõi, chia nước làm 15 bộ: Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sau là Hoan Châu. bảy là Bố Chanh, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hoá, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bình, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông. Trước đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng: -Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải lìa nhau thôi. Chia 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. Chia 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc. Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng; các vương tử gọi là Quan Lang vương, các vương nữ (công chúa) gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính. Thời bấy giờ trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, thi hành việc gì ai cũng được thích nghi. Vua vì thế đựoc rũ áo khoanh tay, hoà mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, đứng đầu so với các tiên vương, dẫu là phong hoá của thời thái cổ cũng không sánh kịp. Hùng Hiền vương hưởng nước dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều gọi là Hùng Vương. Ngọc lụa xe thư, núi sông một mối. Đó là Thuỷ tổ của Bách Việt. Hiền vương ở ngôi bốn trăm năm, sau về biển, hoá sinh bất diệt, làm Động Đình đế quân. [Đời thứ 3] HÙNG QUỐC VƯƠNG 雄國王 Thái tử là Hùng Quốc vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn, sau khi nối ngôi thi hành chính sự đức giáo, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, nước có tích luỹ của dư. Hoàn vũ thanh bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ, vua là bậc nhiều công hưng trị, càng sáng hơn các tiên vương, các đời đều tôn xưng là bậc hiền quân. Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ sơn tinh thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, chia đất đầu núi góc biển, hùng cứ một phương. 50 trấn đầu núi đều gọi là Quan lang phiên thần phụ đạo; 50 trấn góc biển đều gọi là Thuỷ thượng linh thần, tiện cho việc bảo hộ sinh dân, khuông phù xã tắc. Hùng Quốc vương hưởng ngôi hơn 221 năm, thọ 260 tuổi, sinh đựoc con trai con gái 50 hoàng tử. [Đời thứ 4] HÙNG VIỆP VƯƠNG 雄曄王 Thái tử Hùng Việp vương nối ngôi chính thống, nhớ công ơn sáng đẹp của tiền nhân để giáo hoá khích lệ sĩ phong. Lấy nhân nghĩa làm khuôn dân tục. Dựng xây tu sửa miếu đền, bách thần được thăng phong cấp bậc, hoá nhật thiên hạ sáng tưng bừng. Không đất nào không có nhân tài, trong hoà khí xuân phong vẳng nghe nhạc thiên uy, xuất hiện thái bình cảnh tượng. Ở đời có vầng sáng, thẳng thông với tiền nhân hướng trị thế cùng về. Vua hưởng ngôi 300 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Hy vương để kế thừa quốc thống. [Đời thứ 5] HÙNG HY VƯƠNG 雄羲王 Hùng Hy vương lên ngôi, nắm vận lớn bốn đời, nhạy bén hưng khởi trị bình, trong sửa văn đức thu phục nhân tâm, ngoài lập vũ công, chấn uy phong với nước lạ, khiến cho xã tắc yên bình, biên cương vô sự. Từ đó người xa bắc thăng trèo núi mà đến, vượt biển mà sang, chẳng đâu không thần phục, chốn xa nơi vắng, thảy đều thấm nhuần mỹ hoá thuần phong, trị công lỗi lạc, so với tiền vương không thẹn, đủ làm một đấng vua hiền. Hùng Hy vương hưởng quốc lịch 200 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Huy vương kế thừa quốc chính. [Đời thứ 6 ] HÙNG HUY VƯƠNG 雄暉王 Huy vương lên ngôi, noi theo quy chế của tiền vương, cũng có chí chăm việc nuôi dân. Nhưng kế thừa nền thái bình đã lâu, ngòi rãnh dễ tràn, cam chịu yến tiệc yên vui, không chịu khó nghĩ suy chính sự. Bấy giờ có Bà mo (vu nữ) tinh thông địa lý thông hiểu thiên văn, thường đem bí pháp thần cơ tâu vua, tự xưng là Tiên nhân, xin cho vào hầu trong cung để thưa đáp khi vua cần hỏi đến. Ngày sau đình thần có vị quan tâu rằng: - Bà mo ấy mù tịt về mo sử, xem ra chỉ là một mụ đàn bà bình thường thôi! Chỉ giỏi bàn luận vu vơ, thực chẳng biết trời đất thiên địa. Sao vua lại cho mụ ta hầu cận, bàn nói chuyện hoang đường? Bọn thần cho rằng bệ hạ đã bị mụ ta làm mê hoặc. Vua cho là phải, bèn sai bắt bà mo giam trong cung. Sau đó vua sai lập một đàn tế khác, cũng làm giả các voi trắng không ngà, voi đen ba chân, ngựa đỏ năm chân để cầu đảo với Thiên vương. Vua bảo đình thần: -Trẫm dùng kế ấy để xem người bà mo có biết giả trá hay không? Hoàng thiên tuy cao, nhưng nghe xong tỏ ý không bằng lòng, xem đến các đồ lễ thì hoàn toàn không linh ứng. Hoàng thiên bèn giáng tai ương để cảnh báo nhân quân không có đức. Bấy giờ Hùng Huy vương mới nghiệm biết đạo trời báo ứng ngay trước mắt. Bấy giờ vua cho đưa bà mo đến bảo: " Ngươi biết dò xét huyền cơ, nay trong ngước có triệu chẳng lành, ngươi có thể bay lên trời tìm hỏi xem lý do thế nào? Bà mo bèn nằm thiếp trong khoảng ba canh rồi nói lảm nhảm như người đang chiêm bao. Ba ta nói mình đã đến trước cửa khuyết Thiên đình, tâu rằng: "Tôi vâng mệnh quốc vương lên tâu thiên đình: Nay trần thế đang có tai ương, chưa biết nguyên do nào gây nên như thế? Ngọc Hoàng phán: -Ngươi mau trở về báo cho vua ngươi biết: Lưới trời lồng lộng, thưa mà không thể lọt. Trần hoàn lóc lóc [1] , có cầu có nguyện tất được tòng tâm. Hùng Huy vương mù quáng kiêu căng, rông càn làm lễ vật giả dối. Đó là do trời báo phạt, không chỉ giáng bấy nhiêu tai ương mà thôi. Ba năm sau [nếu không sửa chữa] tất sẽ có nạn giặc lớn! Nghe phán xong, bà mo liền tỉnh lại. Bà mo tâu lại mọi chuyện với vua. Huy vương nghe nói cả kinh. vẫn cho bà mo ở lại trong cung để nghiệm xem lời nói của bà ta có nghiệm hay không. Huy vương lại sai triều quan dựng đàn ở Trung Đô, các lễ vật như voi ngựa vàng bạc đều dùng đồ vật thật ở trung cung. Khi lễ nghi đã đầy đủ, vua thân lên đàn đọc văn khấn tế: -Ngu si lầm lỗi, đem vật uế dâng lễ Hoàng thiên. Sự hãy nhãn tiền, xét xem đủ thấy. Cúi xin Thượng đế chuyển hoạ làm lành, đội ơn vạn hạnh. Ngu si cúi ngước, cậy nhờ ơn đức Hồng quân! Vua khấn xong, bỗng thấy mây cuồn gió cuộn nổi lên, trời mung lung chuyển sắc. Khói hương trên đàn tế bay lên hoà sắc cùng mây lành đang toả xuống. Hùng Huy vương thảng thốt kinh sợ, khấu đầu lạy tạ rồi lên xe về cung. Vua lại sai bà mo lên thiên đình xin Hoàng thiên tha tội để nước nhà được yên. Bà mo trở về tâu với Huy vương: -Vua biết hối lỗi, đã đựoc Hoàng thiên xét soi. Tuy năm sau có giặc xâm lăng, nhưng trời cho nhân tài sinh ra để giúp nước, vua khỏi phải lo nghĩ nhiều! Vua tin lời.Quả nhiên ba năm sau bỗng có tin từ biên cương đưa về cáo cấp: Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi binh từ Bắc đạo tiến sang, giáo mác giáp trụ liên tiếp kín trời, tinh kỳ rợp đất, quả đúng như lời bà mo đã nói. Hùng Huy vương bèn cho đắp đàn tế, trai giới tịnh khiết rồi lên đàn thắp hương cầu khấn. Các quan triều đến dự hội tế suốt trong ba ngày. Sau đó mưa to sấm gió nổi lên, bỗng thấy một cụ già thân cao hơn 9 thước, mày râu bạc phơ đang cười nói nhảy múa ở chỗ ngã ba đường, ai trông thấy cũng phải lấy làm lạ, cho là bậc kỳ nhân. [Quan hầu] vào tâu vua, vua đích thân ra đón mời vào đàn tế, nói với kỳ nhân rằng: -Nay quân Bắc sang xâm lăng, thắng thua chưa biết thế nào, xin lão ông cho chỉ giáo. Lão ông trầm ngâm hồi lâu, rút thẻ bói quẻ rồi đáp: -Nếu tìm được người thì giặc này không đáng phải đánh dẹp! Nói xong cụ già vút lên không bay đi. Vua thấy vậy biết đó là lời dạy của Lạc Long quân. Thế là vua sai người hầu đi tìm khắp nơi trong nước. Sứ giả đến làng Phù Đổng quận Vũ Ninh (nay là huyện Tiên Du). Làng ấy có người nhà giàu tên là Ông Trưởng, ông 79 tuổi mà bà cũng đã 59 tuổi. Trước nhà có mảnh vườn trồng hoa. Sáng sớm ngày 6 tháng giêng năm Quý Hợi bà vào vườn hái hoa, thấy dấu chân người khổng lồ. Bà bèn gọi chồng cùng vào vườn xem, quả nhiên thấy có dấu chân của thần nhân. Ông chồng bảo bà vợ bước chân trái dẫm vào đó. Tự nhiên bà thấy cảm động trong người, rồi mang thai. Đến ngày 8 tháng Tư năm Giáp Tí bà sinh một con trai. Con được đúng một tuổi thì Ông Trưởng qua đời, chỉ còn mẹ già sáu mươi bú mớm nuôi con, lên ba tuổi đặt tên là Thiết Xung thần vương, ăn uống lớn phỗng, nhưng không biết nói cười. Ngày hôm ấy cậu bé đang nằm trong dóng, mẹ cậu nghe sứ giả đi rao khắp thiên hạ nói là tìm người có đại tài đi đánh giặc thì nói vui rằng: "Con ta chỉ biết ăn uống mà không biết đánh giặc để triều đình trọng thưởng quan tước mà trả ơn bú mớm cho mẹ". Nghe mẹ nói thế, cậu bé bỗng bật ra lời nói: -Xin mẹ gọi sứ giả vào đây!" Khi sứ giả vào nhà, cậu bé nói: -Ta là Thiết Xung thần tướng đây! Trời sinh ra ta để giúp nước, dẹp loạn cứu dân. Ngươi về triều thưa với vua cho ta một con ngựa sắt cao 10 thước, một cây vọt sắt dài 10 thước, một chiếc nón sắt rộng 3 thước, đưa mấy thứ ấy đến đây cho ta là vua không phải lo gì nữa! Sứ giả trở về chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh tâu vua đầy đủ mọi việc. Vua cả mừng, sai tìm đủ 50 trăm (=5.000) cân sắt để rèn thành ngựa sắt, vọt sắt, nón sắt. Đến giờ Mão ngày 7 tháng Giêng năm Bính Dần vua sai quan Tiết chế đem 10 vạn hùng binh đem ngựa sắt roi sắt nón sắt đến làng Phù Đổng. Thiết Đổng nói: Vua theo đúng hẹn, Vận nước lâu bền. Quân giặc phải tan, Một ngày giúp nước, Thiên cổ danh vang. Rồi Thiết Đổng nói với mẹ và họ hàng thân thích rằng: "Tính con hay ăn, xin soạn cho các món trâu rượu, hoa quả". Dân lang nghe thế nhà nhà đem trâu rượu đến. Chỉ trong chốc lát Thiết Đổng đã ăn xong bữa tiệc lớn để lên đường đi giúp nước cứu dân. Ngày hôm ấy mặt trời vừa đúng chính ngọ, Thiết Đổng cười vang một tiếng, đưa tay khịt mũi mười lần, tiếng vang như sấm, ánh mắt loé sáng như chớp rồi vươn mình cao hơn 18 thước. Vì chưa kịp may quần áo nên sai 10 vạn quân đi bẻ hoa lau đem về kết thành đồ mặc. Thiết Đổng lạy tạ mẹ: -Mẹ là Thánh mẫu, con là Thần vương. Một ngày lập công giúp nước, vạn năm hương lửa vô cùng! Thiết Đổng nói xong nhảy lên ngựa, thét vang như sấm: -Ta là Thiên tướng thần vương, vâng sắc chỉ xuống giúp nước! Rồi quất ngựa phóng như bay, chỉ phút chốc đã đến dưới chân núi Vũ Ninh huyện Yên Việt đại chiến với Thạch Linh thần tướng bên sườn núi Vũ Ninh. Quân nước Ân thua to tan chạy. Thạch Linh thần tướng bị bắt sống chém đầu. Bọn giặc còn lại chưa diệt hết, nhưng vọt sắt của Thiết Đổng thần vương đã bị rơi mất. Thần vương bèn nhổ lấy các bụi tre gai vung lên quét sạch các toán quân giặc! Khi đến núi Sóc xã Vệ Linh huyện Kim Hoa Thiết Đổng thần vương bèn cởi bỏ bộ áo hoa lau, phóng ngựa bay lên không rồi cưỡi lên các đám mây mà bay đi. Nay nơi ấy vẫn còn dấu chân ngựa in trên lèn đá. Nghĩ Thiết Đổng thần vương có đại huân lao giúp nước, nhưng chưa từng gặp mặt, không biết lấy gì báo đáp, Hùng Huy vương bèn truy tôn thần là Phù Đổng thiên vương, truy tôn bà mẹ làm Thánh mẫu, cho dựng đền thờ trên nền nhà cũ. (Nay ở xã Phù Đổng huyện Tiên Du và thôn Đổi Mã xã Vệ Linh huyện Kim Hoa có các đền miếu phụng thờ) Cấp cho làng Phù Đổng 100 khoảnh ruộng để đèn hương phụng thờ. Vua lại cho xây điện Cửu trùng tiêu (điện cao chín tầng) trên núi Nghĩa Lĩnh làm Kính Thiên linh điện để thời thường cầu đảo, vâng lĩnh ý trời. Từ đó trong cõi thái bình, nước nhà vô sự. Nhà Ân trải 27 đời vua hơn 640 năm không dám đem quân sang đánh nước Nam . Hùng Huy vương hưởng nước 87 năm, thọ 100 tuổi thì băng (Mộ táng ở trước núi, hướng Kiền Tốn). [Đời thứ 7] HÙNG CHIÊU VƯƠNG 雄昭王 Thái tử là Chiêu vương nối ngôi kế thừa đại thống. Vua cố gắng chuyên tinh chính trị, sau khi đựoc kế thừa thanh thế đánh giặc vang lừng của vua cha bèn cho cất cung khoá giáp, tỏ ý không dùng binh nữa, chỉ lo an dưỡng muôn dân, sửa sang giáo hoá. Rồi đó lấy chuyện trước làm răn, không dám làm càn dâng lễ uế tạp khiến cho hoàng thiên giận giáng tai ương, giặc ngoài biên mấy lần xâm phạm, sáu đời thừa huởng thái bình bỗng trở thành thời loạn. Từ đó vua kính sùng thiên đạo, kính thờ quỷ thần, phàm các nơi trên núi dưới biển ở đâu có hiển ứng linh thiêng đều sai trăm quan văn võ đến xây cất miếu điện, hoạ vẽ thánh tượng, thành tâm phụng thờ. Vua bèn ngự điện Kinh Thiên, cho xây cất Dao đài ngọc khuyết, tô vẽ cung tường, trang hoàng miếu vũ, bố trí nghi vệ nhất nhất trang nghiêm. Các đồ tế khí cũng đều cho vẽ rồng mây, ngày đêm đèn hương không ngớt. Hàng tháng cứ ngày sóc (mồng một) vọng (rằm) vua đều trai giới lên ngự điện coi chầu. Bên cạnh điện từ xưa có một ngôi chùa nguyên là nơi khi xưa Thượng thánh thường đến tu luyện thân tâm, chế thuốc linh đan hiệu dụng nhiệm màu, nhờ đó đắc pháp thành Tiên, hoá sinh bất diệt, giữa thanh thiên bạch nhật bay lên trời, về sau phát tích tại chùa này. Chùa được Thần Tiên bộ chúng giáng thế dực phù, núi sông chung đúc linh thiêng lạ đẹp, trời trăng tinh tú, Tứ đại Thiên vương, Bát bộ Kim cương,Nhị thập bát tú cùng bách thần tụ hội để theo hầu hộ vệ. Sơn tinh Thuỷ tinh, sông ngòi biển núi, trăm thú đến chầu, tất cả đều quy về một mối, xưa gọi là Từ Sơn cảnh Thừa Long tự ( nay đổi là Thiên Quang thiền tự). Nay Hùng Chiêu vương cũng đến ngự ở chùa ấy, truyền cho bách quan tả hữu tu sửa trong chùa, cả bốn vách chùa đều cho vẽ các ảnh tượng màu sắc huy hoàng, xung quanh chùa trồng cây trồng hoa làm phong cảnh. Nền móng đã thành, bèn truyền hịch cho các châu huyện nơi nào có tăng ni, đạo sĩ đến hội đồng làm lễ thì được cấp phát áo mũ, tụ hội đạo chúng để thuyết pháp giảng giải chân kinh, khai mở nguồn đạo. Đạo chúng dâng cúng hương hoa, bốn mùa thơm phức. Hùng Chiêu vương lại sai quần thần mồng một và ngày rằm dâng lễ chay (trai lễ), hai ban văn võ đứng chầu nghiêm trang, vua kính cẩn đọc sớ dâng quả. Tháp cửu tiêu tuy cao, nhưng đèn hương dễ thấu áng mây lành; một tấm thành tâm cảm cách thông đến thiên địa. Cầu tất ứng, uớc nguyện đều được tòng tâm. Bỗng thấy một lão ông mình vàng mặt ngọc cưỡi mây bay xuống. Vua lạy chào rồi mời lão ông vào trong điện chùa. Lão ông nói: -Ta là thần miền Tây vực, cư trú lâu ngày ở Biển Giác, chu du trên thuyền Bát nhã (Trí tuệ), không nhiễm lòng trần. Nay ta đang đi phơi thuốc ở đường đến Niết Bàn, thấy nơi đây dân chúng lòng thành cảm cách, râm ran tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây. Vua mừng thầm: “Nhân tâm thành ý, thiên ý tất thông" Trong chốc lát, cụ già lấy trong ống tay áo ra một chiếc móng rồng (long trảo) bằng ngọc đem trao cho vương. Liền đó một đám mây ngũ sắc hiện ra sáng loá cả núi rừng. Lão ông bước lên đám mây ấy mà bay lên trời. Bấy giờ Hùng Chiêu vương mới biết đó là đức Phật bèn sụp quỳ lạy tạ. Ngày hôm ấy vua truyền cho bách quan triều thần ăn ở chay tịnh rồi lập đàn cúng ở chùa, cung thỉnh bách thần đến hội ở núi Thượng Linh. Lời chúc văn viết rằng:" Ngày hôm nay Chiêu vương tôi may mắn được gặp một vị lão ông tặng cho một cặp kỳ vật, không biết nên đem làm gì cho đựoc quý báu? Chư vị thần linh nếu hay biết nguyện xin chỉ giáo cho". Chiêu vương vừa khấn xong bỗng thấy trên không rực sáng, rồi một đám mây lành sà xuống, Tứ đại thiên vương hiện lên giữa đàn. Thiên vương mình cao bảy thước, mày râu bạc trắng, đầu đội mũ hoa màu sắc rực rỡ. Chiêu vương lạy chào rồi mời thiên vương vào trong điện. Chiêu vương sửa sang áo mũ lạy chào. Thiên vương nói: -Hai vật quý Lão ông đem tặng là của Hoàng Thiên thượng đế, vua hãy dùng vật ấy để chế ra một cái chuôi kiếm và một quả ấn phù, cần phải mài dũa cho thật sáng để làm vật quốc bảo. Nói xong Thiên vương lại bước lên mây mà đi. Hùng Chiêu vương hướng về phía đầu núi mà vái vọng. Cũng nhân việc này vua cho đắp thánh tượng đặt ở trong chùa để phụng thờ. Rồi đó Chiêu vương ngự giá về cung, sai đem khối ngọc khắc thành quả bảo ấn, đem chiếc móng rồng bằng ngọc tạc thành cái chuối kiếm. Trên mặt ấn khắc 3 chữ "Thiên Linh ấn", trên chuôi gươm cũng khắc 3 chữ "Thiên Lĩnh nhẫn"( nhẫn cũng là kiếm). Từ đó xã tắc vô lo, triều đình yên tĩnh. Vua nghiệm ra một điều rằng lẽ trời rất mực huyền vi, đối với đạo trời vua dốc lòng ngày một thêm sùng chuộng. Một ngày kia tiết trời tạnh sáng, muôn cảnh đều tươi mới, quần hồng áo tía đầy thành, người và cảnh vật dịu yên trong ánh thiều quang. Quần thần dâng lời tâu: -Chúng thần nghe nói núi Tam Đảo là nơi quần Tiên thường hay đến hội. Vua vốn trọng việc quỷ thần, nên một phen đến đó ngoạn thưởng. Vua bèn truyền cho xa giá đi ngắm xem phong cảnh. Xe loan đến nơi, Chiêu vương mừng thấy đồi vóc núi gấm, lâu đài lớp lớp toả sáng ngàn tầm; suối biếc khe xanh lặng tung bọt sóng. Cảnh vật tranh sắc, hoa cỏ đua thơm. Đầu ngọn núi nhỏ có ngôi chùa cổ tên là chùa Tây Thiên dựng trên khoảnh núi địa thế như con rồng trắng bay sà xuống. Vua bèn cho dựng đàn tràng, sửa dọn lễ chay, sai quần thần dâng tiến đứng chầu. Vua làm lễ bái yết, mở một tràng công đức ở trong chùa, vua thân đến dâng lễ, sớm cầu tối nguyện trong bảy ngày bảy đêm, trai gái bốn phương kéo về dự hội đông như mây họp. Mọi người cùng vui thăm xem cảnh vật. Dẫu chim chóc chốn sơn lâm cũng được nghe kinh, tuy cá tôm dưới khe suối cũng vui nghe giảng kệ. Công đức viên thành, vương lại đến bên khe Thạch Bàn để xem tiên cảnh. Bỗng thấy trên lầu điện nguy nga khói sương lấp lánh, bốn phía quần hội rồng mây, mông lung lâu đài đất Phật hiện lên. Một bầu núi non, đúng là cảnh Bồng Lai thú vị. Vua bèn vào chùa Phù Nghi, đứng xem Tiên Đàn, khấn nhẩm lời cầu nguyện Hoàng Thiên thượng đế. Rồi vua truyền gọi triều thần văn võ đến hội chầu. Khi mọi người đã sửa sang áo mũ nghiêm trang, vua đọc văn khấn chúc: "Cúi nguyện Hoàng thiên cho các vị thần tiên giáng xuống cho Chiêu vương tôi cùng triều thần có dịp hạnh ngộ, thoả lòng mong uớc ba sinh". Đọc chúc xong vua sụp xuống lạy tạ. Nhưng sau ba ngày vẫn không thấy bóng dáng của các vị Tiên. Hùng Chiêu vương hồi hộp lo lắng, nhưng không biết phải làm thế nào? Vua bèn đến chỗ núi Long Đầu hướng về Tiên Đàn mật khấn. Đêm ấy vua chiêm bao thấy một vị thần linh hiện lên bảo rằng: "Tây đại sơn nhân thượng 西大山人上 [ 1] Bất kiến tâm hạ tướng. 不見心下相 [ 2] Hội đông túc danh nhân 會東足名人 [ 3] Doãn cư thượng khẩu vượng 允居上口旺 [4] [ 1] Chiết tự 2 chữ PHẬT , TIÊN. 西大Tây đại ; muốn viết cho rõ thì càn phải viết “西大人Tây đại nhân ”. Về chữ chiết tự này, xem thuyết minh rõ thêm sau đây: Chữ PHẬT 佛 có 08 chữ dị thể đã thống kê vào Tự điển như sau: Chúng ta chú ý có chữ .: chữ dị thể này tạo ra bằng phép viết hội ý: Người theo Nho giáo cho rằng Phật là “Người trời” ,cho nên viết Nhân 亻 + thiên天 = 佛. Tương tự như vậy, người theo Phật giáo cho rằng Phật là con người vĩ đại ở phương Tây (Tây thiên cực lạc), cho nên viêt Nhân Tây đạị file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CDucTho%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image002.jpg+ 西+ 大 =佛. Nhưng vì trong câu thơ bí hiểm này chữ sau cũng có cùng cách chiết tự đã có chữ nhân nên người đặt thơ giảm bớt 1 chữ nhân亻mà ai cũng đều hiểu rõ không nhầm lẫn. Còn chữ Sơn 山+ nhân亻 là chữ TIÊN 仙 mọi người đều biết cả rồi. [ 2] 不見心下相:Bất kiến là không thấy, chẳng thấy. Nhưng hai chữ này viết liền lại trong như chữ Quan/ Quán Chữ Tương 相trên chữ tâm 心dưới tức chữ Tưởng 想 . Quán tưởng là từ thuật ngữ Phật giáo, chỉ sựsuy tưởng triệt để [ 3] 會東足名人 Hội đông túc danh nhân/ Vết chân của danh nhân ở phía đông thôn thôn Hội./ xem ở nọi dung bản dịch [ 4 ] Doãn cư Thượng khẩu vượng 允居上口旺là chiết tự của chữ THÁNH B) Sơn nhân là chiết tự của chữ “ TIÊN 仙” = 山人 Chiêu vương nhận đựoc bài thơ thần bốn cấu đó xong liền xa giá về cung. Về đến dưới núi thấy một mỹ nhân phong tư xinh đẹp, cốt cách thanh cao đang đứng bên điện Cẩm Miếu xem xa giá nhà vua. Vương thích nhan sắc cô gái ấy, bèn lấy làm vợ. Đến khi về cung, Chiêu vương hỏi: "Nhà nàng ở đâu?" Cô gái đáp: -Thiếp là tiên nhân giáng sinh xuống trần ở Đông Lộ làm con của Ông Trưởng. Thiếp đã mấy mùa hoa vịnh sử ngâm kinh, che châu giấu ngọc để đợi bậc anh hùng. Gần đây trộm nghe bệ hạ làm kinh động đến cả Tây Thiên, dựng đàn tràng muốn cầu Tiên tử. Thiếp vì thế dẫu chẳng phải xa xôi cũng đến xem, may duyên trời tiền định cho thiếp được gặp quân vương, xin nguyện phụng hầu nơi màn trướng không phụ nguyện ước ba sinh. Chiêu vương nghe lời kể của mỹ nhân, biết hoàng thiên sai đưa tiên nữ đến cho mình. Thế là Chiêu vương sai quần thần sắm sửa sính lễ, rồi ngự xa giá đến nhà Trưởng Ông ở Đông Lộ xin nạp sính lễ. Rồi đó vương lên xe trở về kinh đô Phong Châu lập tiên nương làm vương phi chính nhất. Chưa đầy năm vương phi mang thai, rồi sinh một trai tư chất bẩm sinh thông minh, anh tài trác việt, đến tuổi trưởng thành được vua cha lập làm Thái tử nối quốc thống, hiệu là Hùng Vĩ vương. Về sau, Chiêu vương cùng hoàng phi nhờ có tiên thuật hưởng nước được 200 năm, tuổi thọ sánh ngang tuế nguyệt Kiều Bành, hoá sinh bất diệt. [ ] [Đời thứ 8] HÙNG VĨ VƯƠNG 雄暐王 Hùng Vĩ vương nối vị, kế thừa ngôi báu các đời tiên vương . Lúc mới nắm quyền, các việc chính sự thi thố kể cũng khả quan. Vương thấy lấy ấn kiếm đưa cho quần thần xem mà bảo: "Trẫm có hai vật báu linh thiêng, lo gì không trị được thiên hạ?" Từ đó thần uy của Vĩ vương càng chấn động, thanh thế lên cao, những kẻ gian phu trong bốn phương thảy đều vỡ mật run tim. Trong nước thái hoà, biên cương vô sự, thiên hạ ngợi khen là bậc vua hiền. Hiền Vĩ vương hưởng nước đựoc 100 năm thì băng. Truyền đến: [Đời thứ 9] HÙNG ĐỊNH VƯƠNG 雄定王 ở ngôi 80 năm. [Đời thứ 10] HÙNG UY VƯƠNG 雄威王 ở ngôi 90 năm. [Đời thứ 11] HÙNG TRINH VƯƠNG 雄禎王 ở ngôi 170 năm. [Đời thứ 12] HÙNG VŨ VƯƠNG 雄武王 ở ngôi 96 năm. [Đời thứ 13] HÙNG VIỆT VƯƠNG 雄越王 ở ngôi 105 năm. [Đời thứ 14] HÙNG ANH VƯƠNG 雄英王 ở ngôi 99 năm. [Đời thứ 15] HÙNG TRIỀU VƯƠNG 雄朝王 ở ngôi 94 năm. [Đời thứ 16 ] HÙNG TẠO VƯƠNG 雄造王 ở ngôi 92 năm. Trải qua 16 đời, đều xưng hiệu là Trị Bình Kiến Phu治平建夫. [Đời thứ 17] HÙNG NGHỊ VƯƠNG 雄毅王 Thừa hưởng nhiều đời thiên hạ thái bình, vương sinh ra đam mê tửu sắc, ham thích du chơi, không lo sửa sang võ bị. Vua nước Thục từ xa nghe tin nước Nam không mấy khi dùng đến việc võ nên muốn thống nhất dư đồ, nhưng sợ nước Nam có cây kiếm thần nên còn do dự chưa quyết Bấy giờ chúa Phụ đạo bộ Ai Lao là người có hùng tài đại lược, cũng vốn là tông phái của Hùng vương. Vua Thục biết thế bèn đem quân sang đánh bộ Ai Lao để đoạt chức chúa Phụ đạo. Bộ Ai Lao không kháng cự được bèn sai sứ giả sang cầu cứu với Hùng Nghị vương. Hùng Nghị vương thân đem 10 vạn tinh binh tiến thẳng đến dưới thành Ai Lao để cứu viện. Thục vương nghe tin bèn biên thư gửi cho Hùng Nghị vương, nói: "Quân Thục từ phía tây đến chỉ muốn bắt bộ chủ [Ai Lao] để truyền cho ngôi báu, đâu dám giơ càng bọ ngựa mà chống với muôn cỗ xe của nhà vua? Nghị vương thấy lời lẽ trong thư như thế bèn rút quân về. Thục vương bèn bắt được bộ chủ [Ai Lao] đem về nước mình, gả công chúa rồi nhường ngôi cho [người chủ bộ cũ của bộ Ai Lao ấy]. Thục vương sai sứ giả sang tạ ơn Hùng Nghị vương, xin coi nước Nam là huynh, nước Tây (Thục) là đệ, cùng nhau giảng hoà định ước, hai nước quan hệ đi lại với nhau. Hùng Nghị vương bằng lòng như thế. Từ đó nước Tây (Thục) và nươc Nam ta hưu binh. Hùng Nghị vương ở ngôi 160 năm, lập Thái tử là Hùng Tuyền vương. [Đời thứ 18] HÙNG TUYỀN VƯƠNG 雄璿王 Tuyền vương [ ] kế nối chính thống, gồm đủ thánh triết, tài lớn anh hùng, kế thừa cơ đồ lớn lao 17 đời tổ đắp tông bồi. Trong sửa võ bị, ngoài giữ biên cương, dốc chí hưng thịnh trị bình, giữ yên trong nước. Xa noi nền trị của các bậc tiền vương, kính sùng thiên địa, kính thờ quỷ thần, trời ban phúc lành, mến giúp quốc sự. Vì thế vương càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thần dân trong nước sửa thêm đền miếu, nghi vệ trang nghiêm, ngày ngày đều dâng hương hoa tỏ lòng thành kính phụng thờ. Châu huyện nào có quan cai quản thì mỗi tháng đôi lần viên quan ấy phải đến làm lễ mật khấn bách thần cầu nguyện cho mệnh mạch quốc gia dài lâu. Vương đích thân lên núi Nghĩa Lĩnh xem tôn điện của các tỏ tong cùng linh điện các danh tướng của lịch triều, thảy đều cho sửa sang tu bổ. Tăng thêm tầng cao của các dãy tường bao,lâu đài muôn trượng vươn cao như cột chống trời, ánh sáng bừng lên khắp bốn phía. Cuốn đất một bầu phong cảnh, dựng đàn yết lễ, truyền cho văn võ triều thần sửa sang áo mũ một màu làm lễ chầu chính. Rồi đó vương và quần thần lên xa giá đi thăm các cung Tiên ở Tam Đảo, Tản Viên, xem khắp địa thế những nơi núi non lạ kỳ phong cảnh tươi đẹp, cho dựng các điện miếu, mật khấn cầu phúc cầu con. Nhưng đến thời này lịch số cáo chung, cơ đồ họ Hùng đã đến hồi kết thúc. Tuyền vương chiêm bao thấy điềm rắn lớn, sau sinh được con gái hai nàng, đều là những trang thục nữa phụ đức trinh hiền, phong tư tuấn nhã, so ra thì Tề Khương, Tống nữ chỉ là hạng tầm thường, cha vua mẹ tiên, lứa duyên thật xứng hợp. Nàng chị là Mỵ Châu Tiên Dung công chúa, nàng em là Mỵ nương Ngọc Hoa công chúa, đựoc vua cha hết mức yêu quý. Mỵ Châu sau được gả cho Chử Đồng Tử ( ở xã Đa Hòa huyện Đông Yên phủ Khoái Châu xứ Sơn Nam ). Còn Mỵ nương công chúa, phụ vương có ý kín muốn tìm kẻ tuấn kiệt anh hùng nên giai kỳ chưa định. Vua bèn cho dựng hai ngôi lầu ở đầu núi Việt Trì, treo biển đề tên là Đãi hiền lâu (lầu đợi hiền) [ ], cho công chúa thứ hai đến ở lầu ấy. Tiếp đó truyền hịch truyền cho văn nhân tài tử khắp bốn phương đất nước đến hội ở kinh thành để thi tài, ai trúng tuyển sẽ được vua gả công chúa. Thế là bốn phương hào kiệt đều hoan hỉ nhảy múa, lũ lượt đông như mây họp kéo đến quốc đô. Hùng Tuyền vương đích thân ra đề ngự thí. Lúc bấy giờ thiên kinh vạn quyển đều nhòm xét ở cung tường Khổng Mạnh, tứ khoá tam truyện chẳng khiêm nhường Lục thao, Tam luợc của Tôn Ngô. Hiền tài trong thiên hạ đều có mặt cả ở trường thi Hội. Nhưng phần nhiều dược mặt này thì mất mặt kia, cùng lóc lóc trôi tuột cả, đều chưa phải là bậc toàn tài của đương thời. Duy có Sơn Tinh và Thuỷ tinh là hai bạn đồng học cùng thầy, có nhiều thuật pháp thông thiên nhập địa nhưng không đến kịp để dự thi. Hai ngày sau hai người mới tới kinh thành, dâng lời tâu lên vua: -Bọn thần thẹn nỗi kém tài, sống thừa trong vương quốc. Trộm nghe thánh thượng lớn mở khoa thi kén rể hiền. Bọn thần đến muộn, nhưng muốn được thi tài để gặp vận may không lọt ra ngoài hịch chiêu hiền của thánh thượng. Hùng Tuyền vương cả mừng, bèn đặc cách lên xe đến sông Bạch Hạc ngự thí cho hai người. Sơn Tinh đến ngồi ở đầu sông, Thủy Tinh trở về dưới đáy nước. Trong khoảnh khắc bỗng thấy mây mưa nổi lên giữa dòng, mặt sông gió tung bụi cuốn. Đáy biển vang tiếng động ầm ầm, trên không chớp loè loang loáng. Giao long, rùa, cá từng đoàn theo sóng tung lên muôn vạn lớp; kình, ngạc, côn, nghê nuốt muôn sóng ngàn sông. Một bầu trời đất, muôn trũng sóng cuồn. Trong khoảng tranh tối tranh sáng, những ai trông thấy đều phải rụng mật run tim. Sơn Tinh tay trái cầm quyển sách, tay phải cầm cây trượng, miệng niệm thần chú. Tay chỉ vào đâu nơi ấy hiện lên muôn quái nghìn kỳ, thảy đều do trượng đầu vung quét. Một biến một hoá đều là diệu pháp thần cơ, huyền vi khôn lường. Hùng Tuyền vương thấy hai hiền tài đều có phép thuật như nhau, không biết nên chọn gả công chúa cho người nào? Vua bèn lên xe trở về cung, triệu Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đến bảo: -Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điền, ngày trước vua Thục cầu hôn không gả. Nay hai khanh đều là bậc anh hùng, chưa biết phải thẩm định thế nào cho tiện. Vậy ai đem sính lễ đến trước thì trẫm gả cho người ấy. Thế là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh hẹn nhau: -Bọn ta cùng trở về sửa soạn sính lễ, để xem ai là người đến trước? Thuỷ Tinh trở về thuỷ cung ở Động Đình, lại còn phải tìm chọn lễ vật cho thật tân kỳ. Sơn Tinh thì chỉ xuống lầu cầm gâỵ trúc chỉ lên trời nhẩm khấn xin Ngọc hoàng ban cho các vật làm sính lễ. Khấn xong liền thấy voi trắng chín ngà cùng các đồ châu ngọc trân kỳ từ trên trời hiện xuống. Sơn Tinh bèn cho xếp đặt, vừa đúng giờ Tí (nửa đêm) đã đưa các đồ sính lễ đến trước lầu rồng của Tuyền vương. Tuyền vương bèn gọi công chúa đến báo cho biết đã gả Mỵ nương cho Sơn Tinh. Sơn Tinh bèn đưa rước ngay Mỵ Nương về sơn động ở núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thuỷ Tinh cũng đêm đủ lễ vật đến. Tuyền vương nói: "Sơn Tinh đã đem lễ đến trước rồi!".Thuỷ Tinh tức giân bỏ về thuỷ cung. Hùng Tuyền vương hưởng nước 115 năm rồi nhường ngôi cho rể là Sơn Tinh Tản Viên. Sơn Tinh cố từ không dám nhận. Tuyền vương nói: -Cơ đồ họ Hùng đã hết, khanh có thể lên thay. Tản Viên còn do dự chưa quyết thì Thục vương (là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, cũng là tông phái Hùng vương) từ xa nghe tin Tuyền vương nhường ngôi cho Tản Viên, bèn đem quân sang đánh Hùng Tuyền vương để xâm chiếm nước Nam . Vua (Tuyền vương) binh hùng tướng mạnh, Thục vương mấy lần bị đánh bại. Vương bảo với Thục vương: "Ta có sức thần, Thục vương không sợ sao?" Từ đó Tuyền vương bỏ bễ không hcăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc làm vui. Đến khi quân Thục kéo đến tận nơi, vua vẫn còn say khướt chưa tỉnh. Quân lính trở giáo đầu hàng quân Thục. Hùng Tuyền vương bèn đắp thành ở Việt Thường [ ] rộng nghìn trượng khoanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa Thành. Mới đầu thành đắp đến đâu đổ đến đấy. Bỗng thấy một con rùa vàng trên sông từ phía đông bơi đến, xưng là Giang sứ. Tuyền vương lấy mâm vàng đặt rùa lên đấy rồi hỏi rùa vì cớ gì mà thành đắp cứ đổ mãi? Rùa vàng đáp: -Đó là do quỷ hại. Phải trừ tinh khí của nó đi thì thành tự nhiên đắp xong. Tuyền vương đem rùa vàng đến một ngôi quán gần bên núi Thất Diệu giả làm khách đi đường vào ngủ trọ. Đêm ấy tinh quỷ ở bên ngoài gọi mở cửa. Rùa vàng hét to một tiếng, quỷ không vào được, đến khoảng gà gáy quỷ binh tan chạy cả. Rùa vàng bảo vua theo vết chân quỷ mà đuổi, đến núi Thất Diệu thì tinh khí của chúng bị thu nhốt hết. Tuyền vương sai đào núi lên, thu đựoc một cỗ nhạc khí cổ và mấy bộ xương người. Tuyền vương sai đốt huỷ, đổ tro xuống sông, đến khi ấy yêu khí của ma quỷ mới trừ hết. Từ đó việc đắp thành của Tuyền vương không quá nửa tháng là xong. Rùa vàng từ tạ ra đi, rút một chiếc móng đưa cho Tuyền vương mà dặn rằng: -Quốc gia yên nguy có số trời, nhung người cũng phải có phòng bị. Nếu thấy giặc đến thì dùng móng thiêng này làm cái lẫy nỏ mà bắn thì vương không có gì phải lo! Hùng Tuyền vương bèn sai bề tôi là Cao Lỗ chế nỏ thần, lấy cái vuốt thiêng làm máy, đặt tên là "Linh hoa kim trảo thần nỗ". Sau khi đã có nỏ thần, Hùng Tuyền vương thu họp tàn quân, tuyển thêm dân binh, rồi sai người đưa thư cho Tản Viên, nói: "Thục vương đem quân sang đánh, đã chiếm đô thành của ta, khanh mau đem quân đến cứu viện" Tản Viên bèn dẫn binh mã thẳng đến Loa Thành, dàn quân đối trận với Thục vương để khuếch trương thanh thế. Mấy hôm sau Tản Viên khuyên Hùng Tuyền vương: -Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền hoàng đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông, ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát. Trí lự như thế mới thật là cao! Tuyền vương cho là phải. Rồi Tuyền vương sai đưa thư nhường nước cho Thục vương. Thục vương sai sứ đến tạ ơn. Tuyền vương nhân đó tặng cho Thục vương chiếc nỏ thần, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt. Thục An vương đã được nhường nước, tưởng nhớ ơn đức trời biển của Hùng Tuyền vương bèn xa giá đến núi Nghĩa Lĩnh cho dựng Dao Đài để làm nơi quốc gia phụng thờ, dựng hai cột đã trong núi, chỉ tay lên trời thề rằng: -Nguyện trời cao mây xám lồng lộng xét soi: nước Nam trường tồn trường tại. Ngôi miếu Hùng vương nơi đây nếu vua sau kế trị mà bội ước nhạt thề thì sẽ bị rìu trăng búa gió trừng phạt, không phụ lời thề của tiền nhân. Đọc lời khấn xong, Thục vương lạy tạ rồi lên xe trở về kinh đô Phong Châu, cho triệu các dòng phái cành vàng lá ngọc của dòng họ Hùng ban cho danh hiệu Trung nghĩa huơng (làng Trung nghĩa), cấp cho dân tạo lệ hưởng dụng lâu dài, cấp 500 mẫu ruộng ruộng ở gò Nghĩa Lĩnh thuộc bản thôn. Lại cấp cho các cánh ruộng ở nhiều địa phương để thu tô thuế: trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới đến các xã ở Việt Trì hàng năm nộp hoa lợi để dùng vào việc đèn hương phụng thờ 18 đời vua Hùng từ Thánh tổ Cao hoàng đế đến các vua kế đời truyền nối. Thục An vương kế nối trị nước được 50 năm thì xẩy ra việc nhà Tần lập các đạo quân gồm những dân phạm tội phải chạy trốn lưu vong, những người đi ở rể bị bán làm binh, sai Hiệu uý Đồ Thư làm tướng chỉ huy, sai Sử Lộc đào cừ chở lương thực, tiến sâu vào đất Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Lương, đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận; lấy Nhâm Ngao làm Thái thú quận Nam Hải, Triệu Đà làm lệnh doãn huyện Long Xuyên (Nay ở đình Phân Thuỷ huyện Hưng Yên có miếu thờ). Câu đối ở miếu: Khai vật tế nhân, tưởng Việt thành thâu túc, Thuỳ sử nhất hoằng bích thuỷ, tiện vãn vận dĩ khải hồng đồ Niệm Nghĩa Lĩnh khai cương, Cạnh nhĩ sổ lý thanh sơn, lưu cao trạch nhi thành đô hội [ ] Rồi đó Nhâm Ngao, Triệu Đà thừa cơ gây hấn, đem quân sang xâm lược. Quân Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du Bắc Giang giao chiến với An vương. An vương lấy nỏ thần ra bắn. Triệu Đà thua trận bỏ chạy. Đà biêt Thục có nỏ thần, không thể đối địch đựoc, bèn cho con là Trọng Thuỷ vào làm lính hầu (túc vệ) trong cung An vương. Rồi Trọng Thuỷ cầu hôn vương nữ Mỵ Châu. Trọng Thuỷ dụ Mỵ Châu lấy trộm nỏ thần cho xem rồi tháo đổi cái lẫy khác. Sau đó Thuỷ về báo cho cha biết. Triệu Đà bèn phát binh đánh An vương. An vương không ngờ cái lẫy thiêng đã bị mất, khi ấy đang đánh cờ vây, cười nói: "Đà không sợ nỏ thần sao?". Quân Triệu Đà vây áp đến nơi, An vương lấy nỏ ra bắn, không hiệu nghiệm. An vương bẻ nỏ vứt đi rồi lui chạy. Thế là cơ đồ họ Hùng mất. Từ Triệu Vũ đế (huý Đà) kế trị đến các triều Đinh Lê Lý Trần cho tới nay triều Lê ta đều chuẩn y việc phụng thờ ở cung miếu, chuẩn cho làng Trung Nghĩa thuộc bản xã theo đúng lệ cũ được hưởng tạo lệ, miễn trừ tô thuế binh dân cùng là các khoản sưu sai tạp dịch, giao cho dân bản xã phụng thờ cầu chúc cho mệnhj mạch quốc gia trường tồn, lưu thơm muôn thủa. Ô hô! Thịnh thay! Năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ nhất (1470), mùa xuân, tháng Ba, ngày tốt. Hàn lâm viện trực học sĩ NGUYỄN CỐ phụng soạn. Ngạn Xuyên NGÔ ĐỨC THỌ dịch xong lúc 17g30 ngày 25-12-2011tại thư trai xóm Núi Trúc (Đội Cấn -Hà Nội) PHẦN II. VĂN BẢN 1. Đã lâu quá rồi, bây giờ đọc lại Hùng vương ngọc phả trong lòng tôi bỗng trào dâng một cảm xúc gì đó tựa như là ngỡ ngàng. Không phải chỉ mình tôi, các nhà nghiêncứu ở Viên Hán Nôm hẳn đều quen thuộc với các văn bản thần tích ngọc phả và các thư tịch cổ viêt về các đền chùa của nước ta. Riêng tôi cũng có một kỷ niệm là tôi đã cùng một vài bạn đồng nghiệp biên soạn đựoc một cuốn tra cứu về các di tích lịch sử văn hoá Việt Nam . Gian khổ nhưng cũng thật là vui vì có làm như vậổitong mấy năm đó chúng tôi mới có điều kiện đọc đi đọc lại nhiều sách vở tài liệu liên quanđến đề tài này. Không phải chỉ đối với một di tích, khi viết về môpọt di tícacsau lại lại gặp lại tư liệu về di tích trước và trước đó nữa. Hùng vương ngọc phả là một tài liệu như vây. Vì HVNP rất quan trọng cho nên người soạn văn bia thần tích gia phả thường trích dẫn. Mà sự dẫn dụng đó phần nhiều là thích đáng hợp lý. Nếu nói gia phả là bộ sử của một nhà, một dòng họ, thì cuốn HVNP này quả thât là cuốn phả của cả dân tộc Việt Nam ta. Cái gì cũng có hai mặt: Ý nghĩa thì quan trọng như thế nhưng loại thần tích ngọc phả ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi những sự tích truyền thuyết hoang đường. Người mình bây giờ không phải không thích chuyện hoang đường, nhưng phải là cái gì thật lạ kỳ như Harry Potter chẳng hạn, còn chuyện Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, chuyện Thánh Dóng dánh giựac Ân v.v… thì từ thời tiểu học học mãi rồi! Cho nên dù là cuốn phả dân tộc thật đấy, nhưng có vẻ như là “kính nhi viễn chi”! Rốt cuộc là, từ hồi đầu thảo luận về thời Hùng vương những năm 70 thế kỷ trước đến nay sau hơn 40 năm, nhân một bài viết cần tìm đến HVNP, tra trên mạng không thấy một bản HVNP nào cả nguyên văn và bản dịch.Có thể có ai đó dã dịch và xuất bản gộp vào trong một tập nào đó với tên khác chăng? Cũng có thể như thế, nhưng tôi tin mình không lầm. Có một nhà nghiên cứu khá quen thạo đề tài này, tôi tuy chưa gặp mặt, nhưng đã có dịp có vài trao đổi ngắn với ông trên mạng. Tôi rất thú vị vì biết ông rât thú vị đối với việc tôi đang làm, đến mức bản dịch tôi thực hiện trên blog đựoc đoạn nào là ông tải ngay về trang của ông đoạn ấy. Hôm qua trước Noel mấy tiếng tôi làm xong bản dịch HVNP, sáng nay vào thăm trang của ông đã thấy ông loát đủ kèm theo một Comment nguyên văn như sau: Ngọc phả Hùng Vương hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ. Ngọc phả gồm 21 tờ, 42 trang chữ Hán. Tổng cộng gần một vạn chữ. Sau hơn nửa tháng (từ ngày 9 - 24. 12. 2011) miệt mài, cần mẫn, GS Ngô Đức Thọ đã dịch xong. Trong khoảng thời gian đó, cứ mỗi lúc ông dịch xong đoạn nào, tôi lại tải về đăng lên mạng của tôi đoạn ấy. Tôi đã từng nhiều lần sưu tầm nhưng chưa có một bản dịch Ngọc phả nào cho hoàn thiện. Thường thì người ta dịch từng đoạn , ai cần đoạn nào phục vụ cho công tác nghiên cứu của mình thì dịch đoạn ấy. Đây là bản dịch đầy đủ nhất cho đến hiện nay mà tôi biết được. Một lần nữa, xin ghi công và cảm ơn GS Ngô Đức Thọ (Phan Duy Kha- http://vn.360plus.yahoo.com/phan_duykha?l=f&id=1) Người nghiên cứu đối với nhau, gửi cho những nhận xét chân thành đúng lúc như thế quả thật như cho nhau một thang thuốc bổ. Đó là ông Phan Duy Kha xác minh cho tôi đựoc một điều: Bao nhiêu lâu rồi, thế mà chúng ta chưa có một công trình biên khảo nào về ngọc phả Hùng vương được công bố. Bây giờ toi dã làm xong đựoc một việc nhỏ đó rồi, và ngay từ đầu tôi dã đưa lên mạng để mọi người ai cần tham khảo dẫn dụng thì có thể lưu lại. Con cháu của các vua Hùng thì phải chuyển cho nhau cuốn phả về sự nghiệp dựng nước của các cụ khi xưa. Có điều là tôi hiện nay chỉ mới có đựoc 2 văn bản (một của Viện NCHN, một của TVQG), cũng vì việc chung cả, hẳn còn nhiều vị có các bản Hùng vương ngọc phả khác. Nếu quý vị vui lòng gửi cho tôi một bản copy (bằng giấy –qua Bưu điên, hoặc bằng ảnh qua email -Địa chỉ ghi ở dưới) để tôi tập hợp hiệu khảo, giới thiệu để mọi người cùng nghiên cứu thì rất tốt cho học thuật. 2.Văn bản Hùng vương ngọc phả: Theo Nguyễn Khắc Xương hiện có 3 văn bản Hùng vương ngọc phả: 1-"Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền", còn gọi là Cổ Việt Hùng thị thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyền, soạn năm Thiên Phúc nguyên niên (986 - Lê Đại Hành), bản sao vào triều Khải Định năm thứ 4 (1919), Kỷ Mùi, tháng 6, ngày 25. 2 -“Hùng Vương ngọc phả thập bát thế truyền, soạn năm Hồng Đức nguyên niên (1470 - Lê Thánh Tông): " Hồng Đức nguyên niên, Nhâm Thìn xuân tam nguyệt cốc đán, Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyên Cố phụng soạn", năm Hoằng Đình nguyên niên (1619- Lê Kính Tông) sao lại: Hoàng triều Hoằng Định Nguyên niên, Cánh tý đông thập nguyệt cát nhật, Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính, Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao". 3 - Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyền, Hàn lâm học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572 - Lê Anh Tông). Về mấy thông tin nói trên, đối với văn bản thứ hai ông ghi không đúng nguyên văn tên của văn bản: Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyện.HaiÔng Xương chỉnh lại tên sách như thế phải chăng để cho hợp với cách đọc " thế truyền". Nhân thấy thư tịch Hán Nôm của ta có một số cuốn chép thần tích truyền thuyết lấy tên sách là Ngọc bảo cổ truyện, Ngọc phả cổ lục là tác giả nói đến phong cách như truyện kể. Văn bản thứ 1 ông đọc " vĩnh truyền" thì được, còn văn bản 2 và 3 tôi đọc là "truyện" chứ không đọc "truyền" là vì vậy. Một chi tiết khác: Hoằng Định nguyên niên là năm 1601 chứ không phải “1619 –Lê Kính Tông” như ông Xương ghi. Đối với văn bản thứ nhất ông Xương chưa trình bày hay chứng minh đặc điểm của nó, chỉ căn cứ vào niên đại ghi trên sách là Thiên Phúc nguyên niên (986) đã vội coi đó là “là bản cổ nhất và có lẽ cũng là bản ngọc phả đầu tiên mà sự tích các vua Hùng được soạn thành văn bản” thì rõ ràng là thiếu thuyết phục. Chính vì vậy Ban Biên Tập mới có ghi chú: “Niên đại các bản Thần tích, Ngọc phả là một vấn đề còn phải nghiên cứu thêm. Tác giả tham luận chưa nói rõ nơi tàng trữ văn bản cũng như xuất xứ các bản dịch. Chúng tôi tạm bằng lòng với tham luận hiện có (B.B.T)” [ ] [ ] Thông báo Hán Nôm học 1995 ( tr.461-467). 3. Bản Hùng vương ngọc phả (HVNP) của Bảo tàng Phú Thọ: Văn bản tôi dùng để làm bản dịch này là một bản của Viện NCHN sao chụp lại từ nguyên bản cuốn Hùng đồ thập bát diệp Thánh vương ngọc phả cổ truyện của Ty Văn hoá Phú Thọ, nay dã chuyển cho Bảo tàng Hùng vương Phú Thọ. Bản này gồm 21 tờ giấy chép hai mặt x 2 trang, trang 10 dòng x 21 chữ, đúng số tờ như đã ghi ở cuói sách:“ 以上共貳十壹張dĩ thượng cộng nhị thập nhất trang/ Ở trên cộng là 21 tờ giấy” Không kể 2 tờ đầu, một tờ chụp lại trang 1 bên trong đưa ra làm bìa. 1 tờ là bản khai của xã XuânLũng huyện Sơn Vi trấn Sơn Tây về các thửa ruộng thờ và quy định lễ vật (xôi, lợn dâng cúng hàng năm) Tờ 1a: Tên sách: Hùng đồ Hùng đồ thập bát diệp Thánh vương ngọc phả cổ truyện 雄圖十八葉聖王玉譜古傳Tờ 1b: Năm thực hiện việc hiệu đính và sao chép lại từ bản cổ: 皇朝弘定元年庚子冬十月吉日翰林侍讀阮仲重訂 Hoàng triều Hoằng Định nguyên niên Canh Tí đông thập nguyệt cát nhật. Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính Năm Canh Tí niên hiệu Hoằng Định thứ nhất mùa đông, tháng 10 (11-1601), ngày tốt. Sao bản lưu tại Quan lang phụ đạo Hùng vương tôn điệt phụ truyền tử kế dữ Nghĩa Động xã trưởng tạo lệ hộ nhi Trung Nghĩa hương giám thủ (Bản sao lưu tại nhà Quan lang phụ đạo cháu chắt của vua Hùng, cha truyền con nối, cũng xã trưởng tạo lệ hộ nhi TrungNghĩa hương giám thủ. Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao. Chữ viết: Bản sao được thực hiện bởi chuyên gia thư tả Lê Đình Hoan làm việc ở Lễ phiên ( ban ở phủ chúa Trịnh tươngứng chức năng củ bộ Lễ). Toàn bộ bản chép cùng một kiểu chữ của một người. Đó là kiểu chữ Lệ viết nghiêng rất đặc trưng cho thư pháp triều Lê. Chữ Lệ cũng bắt nguồn từ chữ Triện nhưng có những cải tạo quan trọng, do Trình Miệu 程邈một người tù làm nô lệ thời Tần Thuỷ Hoàng sáng tạo cuối Tần phát triển đầu Hán, sau trở thành một trong bốn thể chữ chính của Hán tự (chính[tức Khải], thảo, lệ, triện), là thể chữ trang trọng, có kết cấu hợp lý, được số đong cho là đẹp. Chữ lệ ngay cả hình thức chữ “đứng” (trực) của nó vốn có đặc điểm hơi nghiêng một tí về bên phải; nhưng cũng có loại nghiêng nhiều hơn (thiên). Trung Quốc chủ yếu dùng loại chữ lệ đứng (xem ảnh nền đen). Trên ảnh đã dẫn chúng ta thấy chữ lệ đứng của Trung Quốc (nền đen bên phải) và chữ lệ nghiêng của văn bản HVNP chúng tôi đang nghiên cúư. Có thể tỷ lệ chưa cao, nhưng chúng ta có cứ liệu cho thấy từ đầu Lê sơ (thế kỷ XV) và Lê trung hưng chữ lệ nghiêng đã đựoc dùng để viết các tài liệu của triều đình ( x. ảnh sắc chỉ năm Đại Hoà thứ 9/ ) Vì văn bản có ít nên chưa kết luận được Lê sơ về trước có thông dụng chữ lệ nghiêng hay không, nhưng thời Lê trung hưng thì lệ nghiêng là loại chữ đựoc nhiều người ưa thích. Thời Tây Sơn và đầu Nguyễn thỉnh thoảng cũng còn, nhưng nói chung ít gặp hơn trước.Vì thế các chuyên gia Hán Nôm phần nhiều đều nhận rằng loại chữ lệ nghiêng này mang đặc điểm niên đại các thế kỷ 15 -18 khá rõ. Có một đặc điểm nữa là loại chữ này hiếm, ít người biết và nhất là khó viết, vì thế hầu như rất ít khả năng bị làm giả. Ở bản ảnh trích ảnh dẫn trên, toi đã thể hiện đặc điểm chữ lệ nghiêng của văn bản HVNP, do đó chúng ta có cơ sở khoa học để xác định nguyên bản HVNP do Bảo tàng Phú Thọ lưu giữ đích thực là một thư tịch được sao chép năm vào năm Hoằng Định 1 (1601) tức là năm đầu tiên của thế kỷ XVII cách nay 410 năm.Mừng vì ta còn giữ được bản Ngọc phả ấy khá cổ, nhưng lại hơi chớm lo, bởi vì nội dung của nó thì chúng ta đã có nhiều bản sao rồi, nhưng lo mình bỏ công chứng minh bản ấy cổ quý lại "vẽ đường cho hươu chạy", biết đâu có ngày "hươu" bị chạy mất chăng?Trên tôi có nói hiện tôi chỉ có 2 văn bản mà tôi nghĩ có thể ta vẫn còn nhiều bản hơn. Trong lúc chờ đợi, tôi lục tìm trên mạng thấy đựoc một tư liệu quý và nghĩ là ở nước ngoài như Nhật, Mỹ, Pháp cũng có thể có vài văn bản. GS Nhật Bản có thể đã sớm đọc HVNP- có thể chính là bản tôi đang dùng làm việc tai đây (hoặc có nội dung khá tương tự) bởi vì trên mục "Hồng Bàng", Wikipedia có lập một tên hiệu các vua Hùng căn cứ vào tài liệu của GS Nhật Bản Nham Thôn Thành Doãn 岩村成允[ ]khá nhất trí với bản tôi lập. Sau đây là bảng so sánh bản thế hệ các thế hệ vua Hùng do tôi lập (đã đặt trước bản dịch) và bản của Nham Thôn. []岩村成允. 《安南通史》, 許雲樵譯. 新加坡: 星洲世界書局有限公司(1957) -Có thể thấy bản NĐT và bản Nham Thôn gần như là trùng khít cả về thứ tự các thế hệ: Chỉ tính từ Kinh Dương vương bắt đầu đi làm vua phương Nam. Số đời là 18 đúng như các sử sách khác vẫn chép. Các tên hiệu chữ Hán đều hoàn toàn giống nhau. Cách đọc chỉ khác nhau 1 trường hợp: NĐT đọc Việp vương, Nham Thôn đọc Diệp vương: Chữ 曄 (yè) vẫn thường có2 cách đọc: Việp/ Diệp (NĐT đọc Việ p như âm vẫn quen dùng như trong tên tước của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc). Bản tiếng Anh của Wikipedia đọc là Hoa - chữ ấy không ít người đọc nhầm là chữ Hoa vì bên cạnh có chữ Hoa. Cả hiệu của Hùng vương thứ 18 Hùng Tuyền vương bản Nham Thôn cũng viết và đọc đúng là Tuyền vương (như NĐT đọc), trên bảng đã lập ghi "Tuyên" chắc do đánh máy sót dấu. Bản tiếng Anh của Wiki thì vẫn như không ít người đọc nhầm chữ 璿 [xuán] là Duệ vương. Tiếc rằng không ít bài viết về Hùng vương trên sách báo hiện nay vẫn cứ viết "Hùng Duệ vương" bất chấp xuất xứ! Như vậy qua so sánh sơ bộ với bản Nham Thôn chúng ta có cơ sở để tin rằng các văn bàn HVNP thuộc hệ Hồng Đức nguyên niên (1470) hiện còn khá tương đồng với nhau. Những sai khác tất không tránh khỏi, nhưng chủ yếu có thể chỉ ở chi tiết và văn tự. (Tuyền và Duệ rất dễ nhầm, tôi đã lập 1 bản khảo âm tự của liên quan đến chữ 璿 để mọi người tham khảo, x. ảnh đặt sát dưới) LỜI NGƯỜI DỊCH:Đọc HVNP là chúng ta đã bước vào thế giới của những thần thoại huyền tích kỳ vĩ không chỉ liên quan đến thời kỳ lập quốc dựng nước mà còn xa hơn nữa đến cội nguồn tổ tiên của dân tộc. Các địa danh nhân danh trong HVNP sử sách đã viết nhiều bàn nhiều nhưng hầu như cũng chưa vén được bao nhiêu lớp sương mù nhiều ngàn năm. Vì vậy, dịch xong HVNP người dịch nhận ra rằng ở đây không có ngôn ngữ cho nguời chú thích khảo chứng để chứng minh những gì không đúng với lịch sử như chúng ta biết ngày nay. Thay vào đó trong cuộc đi như hành trình của chàng Ôđixê đi tìm dân tộc mình, rải rác ta có thể nhận ra những điều tưởng hoang đường lại được xác nhận ở một nguồn tin độc lập nào đó. Tôi muốn giới thiệu ở đây vài trường hợp: 1. Về nước Việt Thường:Người dịch muốn gửi đến bạn đọc vài điểm đáng lưu ý:1. HVNP nói Kinh Dương vương2.HVNP 2 lần nói đến nước Việt Thường:Lần thứ nhất: 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 26 Tháng 3, 2013 Tôi không lập được chủ đề mới, kính Ban QL xử lý giùm. Trong các chương trước, đã chứng minh Cờ Tướng được sáng tác bởi vua Trần Nhân Tông, nay bổ sung thêm dữ liệu liên quan: đó là cuốn sách Đông Chu Liệt Quốc cũng là sáng tác của Phật Hoàng. Mặt khác, tại Hồi 47: “Tri âm, Lộng Ngọc theo Tiêu Sử - Bội Tần, Triệu Thuẫn lập Di Cao”, kể về mối duyên tiền định giữa hai người, nàng Lộng Ngọc có tài thổi sáo còn chàng Tiêu Sử lại có tài thổi tiêu, khi hai người cùng hòa điệu, khiến cho các loại chim đều tụ họp đến, cùng kêu hát líu lo. Sau cả hai thành tiên cưỡi rồng, phượng bay lên trời. Trong hồi sách này có đoạn: “Tiêu Sử nói với Lộng Ngọc: Ta vốn là người tiên trên trời. Ngọc Hoàng thấy sử sách chốn trần gian nhiều chỗ lộn xộn, nên cho ta xuống đầu thai nơi nhà họ Tiêu nhà Chu để sửa sang lại. Người nhà Chu thấy ta có công về sử sách nên mới gọi ta là Tiêu Sử. Đến nay đã hơn trăm năm rồi, Ngọc Hoàng Thượng Đế cho ta làm chủ nơi núi Họa Sơn, vì cùng nàng trước kia có tiền duyên gặp nhau trong khúc nhạc lòng. Tuy nhiên dẫu đã nên duyên, chúng ta cũng không nên mãi ở chốn trần gian này. Nay, phượng, rồng đến rước, chúng ta nên đi ngay”. Đoạn văn cho phép chúng ta nghi ngờ tác giả viết về Đức Khổng Tử san định Ngũ Kinh, hoặc Đức Lão Tử viết cuốn Đạo Đức Kinh và cũng có thể hình dung núi Họa Sơn chính là Hoa Sơn, ngọn núi nổi tiếng trong Đạo giáo, đặc biệt Lão Tử cũng chính là Chử Đồng Tử (sẽ chứng minh trong Chương IX: TRƯỜNG SINH BẤT TỬ), như vậy hình ảnh vua Tần Mục Công lập miều thờ Lộng Ngọc đặt tên là Tiên nữ, cũng giúp chúng ta hình dung Lộng Ngọc chính là Tiên Dung. Tuy nhiên, tác giả khẳng định “Đến nay đã hơn trăm năm rồi” chứng tỏ nhân vật mà tác giả ám chỉ cũng trong thời gian gần, chúng tôi nhận định đó chính là Bồ Tát Nguyễn Minh Không - người sáng tác cuốn tiểu thuyết Phong Thần, viết về lịch sử nhà Chu cùng với lai lịch của các nhân vật trong lịch sử của Đạo giáo và Phật giáo. Cho nên, cuốn Đông Chu liệt quốc của tác giả sẽ là sự tiếp nối liên tục. Trong chương này, tác giả cũng ẩn ý phương Tây Nam bị sai độ số, là cung Tốn thay vì cung Không trong Hậu thiên Bát quái, đã được viết trong Hồi thứ nhất “Cười cười, khóc khóc, dê mắc lưới, ngựa sa lầy. Sợ thay! Sợ thay! Nước non tang tóc”. Trong hồi sách này, tác giả cũng đề cập đến chiếc hộp son chứa dãi của hai con rồng, đấy chính là chiếc hộp ấn dưới chân hổ vàng trong bức tranh dân gian Ngũ Hổ Hàng Trống và Đông Hồ, Việt Nam với hàng chữ “Pháp đại uy nỗ” tức biểu tượng của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, mà trải qua các triều đại Hạ, Thương, Chu chưa ai mở ra được. Không chỉ vậy, tác giả cũng giải thích chức “Nguyên soái” được dùng đầu tiên trong quân đội nước Tấn, đời Tấn Văn Công mà sau này Phật Hoàng Trần Nhân Tông viết về các nhân vật chính trong các cuốn tiểu thuyết như Nhạc Phi diễn nghĩa, Tiết Nhơn Quý chinh Đông… đặc biệt, trong các trận chiến với quân Nguyên Mông, danh tướng Trần Hưng Đạo với chức danh Nguyên soái của quân đội nhà Trần. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 4, 2013 TƯƠNG ĐỒNG VIỆT-ĐẢO BALI QUA CẤU TRÚC MỘT NGÔI ĐỀN BALI, NAM DƯƠNG. Nguyễn Xuân Quang Về văn hóa, Bali là một hòn đảo đặc biệt của Nam Dương. Bali cũng như nhiều đảo khác của Nam Dương liên hệ ruột thịt với cổ Việt nói riêng và với Bách Việt nói chung. Sự liên hệ này đã được chứng minh qua nhiều địa hạt, qua khảo cứu đa ngành. Xin kể ra một vài điểm chính yếu: .Cổ học: Ba Li nằm trong vùng Đất Sunda Nhỏ (Lesser Sunda Land) ngày xưa nối liền với lục địa Đông Nam Á . James Churchwards đã chứng minh có một lục địa Đất Mẹ (MotherLand) tên là Lục Địa Mu Continent of Mu (Mu chính là Việt ngữ Mụ là Mẹ) bao gồm vùng đất Nam Hải nối với Đông Nam Á. Nơi đây có một nền văn minh huy hoàng mà ông cho là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay. Gần đây Stenven Oppenheimer cũng chứng minh vùng Sundaland (gồm Lớn và Nhỏ) ở Nam Dương và lân cận cũng nối liền với Đông Nam Á và có một nền văn hóa huy hoàng được coi là nguồn cội của văn minh nhân loại (Địa Đàng ở Phương Đông). Cổ học cũng tìm đào được nhiều sọ người Nam Đảo, Hắc Đảo (Melanesia) ở Bắc Việt Nam và chứng minh rằng Lạc Việt hợp chủng tộc liên bang Văn Lang Hùng Vương bao gồm cả các tộc và văn hóa Nam Đảo, Hắc Đảo. .Ngôn ngữ học: Nam Dương ngữ liên hệ ruột thịt với Việt ngữ. Tiếng Việt hiện nay là tiếng Lạc Việt hợp chủng tộc có gốc Môn Khme thuộc nhánh Nam Á tức Lạc Việt nguyên thủy ở Lĩnh Nam. Tiếng này coi như là gốc, thân cây của tiếng Việt hiện tại. Cây ngôn ngữ Việt này có hai cành: một cành là tiếng Tầy Thái (Tai Kadai) tôi gọi là tiếng Lạc Việt Núi và cành tiếng Nam Đảo tôi gọi tiếng Lạc Việt Biển. .Di truyền học: dân Nam Dương có DNA giống dân Đông Nam Á trong đó có cổ Việt (cùng có Mitochondrial DNA Haloptype B cũng như sự thất thoát của các cặp cơ bản số 9 giữa hai thể di truyền CO II tRNA LYS). .Khảo cổ học tìm thấy nhiều cổ vật liên hệ giữa Nam Dương và Việt Nam ví dụ đồ đồng có văn hóa Đông Sơn tìm thấy tại Nam Dương như những loại rìu Roti, các trống đồng Đông Sơn. Tại Bali có trống của Đông Sơn xuất xứ từ Việt Nam mang xuống hay làm tại chỗ mang sắc thái Nam Dương, tại Bali có thêm một loại trống đặc biệt thuộc đại tộc Đông Sơn mà không một quốc gia nào khác có là trống Trăng Bali, Pegeng (xem Trống của Đại Tộc Đông Sơn Mang Sắc Thái Nam Dương và Trống Pejeng). .Động-Thực Vật Học cho thấy ở Nam Dương nói chung và ở Bali nói riêng có nhiều giống cùng loại thấy ở Đông Nam Á ví dụ như cọp Bali giống cọp Đông Nam Á tuy nhỏ con hơn (ngày nay đã tuyệt chủng, hình ảnh của loài cọp này còn thấy khắc trên trống đồng Nam Dương). Vân vân… Như thế văn hóa cổ Bali nói riêng có cùng chung những nét với văn hóa cổ Việt là chuyện tất nhiên. Sau này Ấn giáo tràn xuống Bali qua các thương nhân. Hơn chín mươi phần trăm dân Bali ngày nay theo Ấn giáo. Vì vậy cốt lõi của văn hóa Bali hiện nay là Ấn giáo pha trộn với văn hóa nguyên thủy bản địa Bách Việt vùng biển. Cốt lõi văn hóa Bali là Ấn giáo trộn với thần giáo, bái giáo, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, Vũ Trụ giáo của Bách Việt cổ. Cũng vì vậy mà Ấn giáo Bali có những sắc thái riêng khác hẳn với Ấn giáo ở Ấn-Độ. Vũ Trụ giáo trong Ấn giáo pha mầu với Vũ Trụ giáo của Bách Việt tạo thành những cung bậc, sắc giai mầu sắc tuyệt vời. Với sự pha trộn hài hòa này, con người Bali hàng ngày sống với các thần linh cõi trên, với con người thế phàm cõi giữa và với quỉ thần cõi dưới, cõi âm. Người Bali sống ở ba cõi thiên đường, trần thế và âm ty Ấn-Việt cùng một lúc. Văn hóa Bali tuyệt vời này đã thu hút hàng năm 8 triệu du khách trong và ngoài nước. Một trong những nét tiêu biểu của văn hóa Bali là những đền đài Bali với cấu trúc đặc thù hết sức thần kỳ. Hiểu được kiến trúc các đền đài Bali là ta nắm vững được một phần chính yếu của cốt lõi văn hóa Bali và ta thấy rõ được sự tương đồng giữa văn hóa Việt và Bali. Bali là đảo ngàn đền. Mỗi làng có vài ngôi đền. Mỗi nhà ít nhất có một đền nhỏ. Tất cả các ngôi đền hoặc hướng lên núi kala (theo k = v như kẻ = vẽ, ka = về, hướng về và -la là lả, là lửa, núi) hoặc hướng xuống biển kelod (, ke- = về, về phía và -lod là lạc, nác, nước, biển). Đây là chứng tích của văn hóa lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng, lên non xuống biển của Việt Nam nói riêng và của Bách Việt nói chung. Hướng lên núi kala là hướng quan trọng nhất. Đây là hướng Lửa ngành nọc mặt trời Lửa ứng với Viêm Đế-Kì Dương Vương có khuôn mặt nữ là Âu Cơ. Hướng xuống biển thường cho là phụ. Mặc dù hướng xuống biển nhưng đền vẫn phải quay về phía mặt trời mọc. Đây là hướng nước ngành nọc mặt trời nước Thần Nông-Lạc Long Quân thái dương. Trong mỗi làng có ba loại đền chính. Đền Tổ (Pura Puseh ; Puseh có Pu- là bố, phụ) quan trọng nhất do các vị thuộc ngành sáng lập làng đảm trách ở phía đầu làng hướng về núi tức kala của làng. Ở cuối làng hướng về biển tức kelod là đền của người chết (Pura Dalem), nơi đây cũng có nghĩa trang. Đền này liên hệ với Durga, khuôn mặt tàn ác của vợ thần Shiva là Parvati. Thần Shiva và Parvati có hai khuôn mặt sáng tạo và hủy diệt vì thế được thờ ở Đền Dalem này. Ở giữa làng có Đền Thánh Thần (Pura Desa) phù hộ cho dân làng trong cuộc sống hàng ngày. Tổng quát ta thấy rất rõ nguyên lý lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng, Núi Biển của các ngôi đền trong một làng Bali. Lệ làng còn giữ văn hóa Bách Việt. Đền hướng núi thuộc chim Âu Cơ. Đền hướng biển thuộc rắn Lạc Long Quân. Ngoài ra ba ngôi đền trong một làng cũng cho thấy liên hệ ruột thịt với Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo. Đền đầu làng hướng núi kala ứng với thờ thượng thế, đền giữa làng thờ thánh thần trung thế cõi giữa nhân gian và đền cuối làng hướng biển kelod thờ vong nhân và các khuôn mặt âm của Shiva và Parvati ứng với cõi âm hạ thế. Ta cũng thấy rõ đền cuối làng hướng biển thờ người chết cõi âm cũng ăn khớp với khuôn mặt cõi âm của Thần Biển Lạc Long Quân. Giống như ở Bách Việt, Bali còn giữ các tín ngưỡng thờ phượng từ thượng cổ như thờ bái vật, thần vật, phồn thực… nên ở Bali còn có các điện nho nhỏ thờ các loại này. Hãy khảo sát kiến trúc một ngôi đền tiêu biểu. Xin lấy ngôi đền Kehen ở Bangli, Ubud làm ví dụ. Đền Kehen ở Bangli, Ubud, Bali (ảnh của tác giả). Đền Kehen được xây vào thế kỷ 11 là ngôi đền lớn nhất và tinh xảo nhất ở phía đông Bali. Đền ở phía bắc Bangli và là đền quốc gia, quốc tổ (state temple) của vương quốc Bangli. Bangli có gốc là Bang giri với Bang là Đỏ. Bang ruột thịt với Việt ngữ bàng có nghĩa là đỏ như cây bàng là cây có lá đỏ (cây bàng lá đỏ, Trịnh Công Sơn). Giri là con gái, nàng, nường. Giri ruột thịt với Việt ngữ gái. Bangli có nghĩa là Nàng Đỏ. Dân Bangli hiện nay hiểu theo nghĩa Bangli chỉ Núi. Tên của một vương quốc thì Nàng Đỏ phải mang một nghĩa cao đẹp liên hệ với vũ trụ quan, nhân sinh quan, tín ngưỡng của Bangli. Nàng Đỏ phải liên hệ với mặt trời nữ. Việt Nam cũng có Nàng Đỏ. Âu Cơ Việt Nam là Nàng Lửa (Vụ Tiên là Nàng Nước, Thần Long là Nàng Gió và vợ Hùng Vương thứ nhất là Nàng Đất). Nàng Lửa là Nàng Đỏ (Âu biến âm với au là đỏ, hai má đỏ au), là Nàng Tỏ, là Nàng Mặt Trời, Thái dương thần nữ Việt Nam (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Âu Cơ Nàng Lửa có khuôn mặt lửa núi thế gian Li âm. Khuôn mặt núi này thấy rõ qua sự kiện là Mẹ Tổ Âu Cơ dẫn 50 con lên núi. Khuôn mặt núi Cấn này hôn phối với khuôn mặt Chấn biển Lạc Long Quân. Như thế Bangli Nàng Đỏ Núi liên hệ với Âu Việt phía Nàng Đỏ Núi Âu Cơ. Bangli là một thứ Âu Việt ở biển, ở hải đảo. Đền được coi là đền thu nhỏ của đền Besakih. Tên Kehen phát gốc từ Keren có nghĩa là ngọn lửa (Keren làm liên tưởng tới dầu kerosen đốt lửa) vì thế ngày xưa gọi là đền Thần Lửa Hyang Api (God of Fire). Từ Ke- ruột thịt với Việt ngữ Kẻ, Kì có một nghĩa là cọc, lửa, Núi Trụ Thế Gian. Kì Dương Vương là vua Núi Trụ Thế Gian, lửa đất thế gian Li có một khuôn mặt tương đương với núi Meru của Ấn giáo và Phật giáo. Con dân của Kì Dương Vương là Xích Quỉ tức Kẻ Đỏ, Người Mặt Trời. Kì Dương Vương đội lốt Viêm Đế. Viêm Đế tương đương với Brahma của Ấn giáo. Viêm Đế cũng lưỡng tính phái có khuôn mặt âm là Thần Nông. Vì thế mà Viêm Đế có hiệu là Thần Nông (ở ngành âm thì ngược lại, Thần Nông có hiệu là Viêm Đế). Đền Kehen thờ ba vị thần tối cao của truyền thuyết sáng thế Ấn giáo là Brahma, Shiva và Vishnu. Đền mang ý nghĩa Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ba vị thần sáng thế của Việt Mường là Đá Cần, Đá Cài và nàng Kịt. Đá Cần là thần Cọc đứng (như cần câu) biểu tượng cho nọc Lửa vũ trụ tức Càn ứng với khuôn mặt Càn của Brahma. Đá Cài là nọc ngang như cọc cài cửa biểu tượng cho nọc Lửa đất bằng thế gian Li ứng với khuôn mặt nọc lửa của Shiva và Nàng Kịt là khuôn mặt thần nữ, âm, nước ứng với khuôn mặt âm, nước của Vishnu. Theo tên đền như vậy nên đền có khuôn mặt thờ thần lửa vũ trụ Càn của đấng tạo hóa Brahma mang tính chủ. Đấng tạo hóa Brahma trong Ấn giáo lưỡng tính phái nòng nọc, âm dương. Ở đền này thờ thần lửa là khuôn mặt dương, lửa vũ trụ Càn của thần Brahma mang tính chủ. Đền xây trên một ngọn đồi mang hình ảnh của núi Meru. Như đã biết núi Meru có một khuôn mặt là Núi Trụ Thế Gian, Núi Thế Gian Đất Lửa hình kim tự tháp diễn tả bằng chữ viết nòng nọc vòng tròn-que là chữ hình nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) (cũng ở dưới dạng hình tám giác và trong không gian ba chiều là hình kim tự tháp) mang dương tính, lửa, mặt trời, Càn. Ta cũng thấy rõ Anh ngữ pyramid có gốc pyro- là lửa. Đền có hình đồi mang hình ảnh núi Meru kim tự tháp ăn khớp trăm phần trăm với sự thờ phượng vị Thần Lửa Brahman. Bố cục đền làm theo Tam Thế. Bố cục đền làm theo Tam Thế gồm có ba tầng sân có vòng thành có khắc chạm các tượng, hình và nối với nhau bằng các bậc tam cấp đi qua các cổng nhỏ khắc chạm tinh vi. Từ chân đồi phải leo lên các bậc thang vào đền bằng ba cửa. Chiếc cửa chính chỉ mở vào dịp lễ lạc và dành cho các quan chức dùng. Bình thường dùng hai cổng phụ hai bên. Một cổng phụ (ảnh của tác giả). Cổng phụ cũng được chạm khắc trang trí rất tinh vi theo những motifs tín ngưỡng tùy theo đặc tính riêng của mỗi đền. Cổng phụ mang cấu trúc của các cổng chẻ đôi (split gates). Những cổng chẻ đôi này có hình dạng một ngọn núi nhọn đầu có lẽ mang hình ảnh của núi Meru. Tôi gọi là cổng núi chẻ đôi. Cổng núi chẻ đôi mở vào trung thế. Mặt trong của hai bên trụ cổng rất bằng phẳng và láng bóng không có trang trí khiến ta có cảm giác như trái núi bị một nhát chém của lưỡi gươm thần chẻ núi ra làm đôi tạo ra cổng. Khoảng hở của cổng là lối vào. Như đã biết núi Meru có Trục Thế Giới là đường thông thương ba cõi Tam Thế. Khoảng hở của cổng giữa hai nửa núi chính là hình ảnh của Trục Thế Giới. Đứng trước cổng ta có cảm tưởng Núi Trụ Thế Gian tách mở ra làm hai để hiện ra Trục Thế Giới. Bước qua cổng Trục Thế Giới này là bước vào thế giới linh thiêng của Tam Thế. Người Bali phải ăn mặc và hành sử đúng theo qui luật tín ngưỡng. Du khách phái nữ không được mặc áo ngắn tay, hở ngực và phải quấn sarong. Phái nam phải quấn dây lưng. Đường lên cổng chính là một cầu thang có 38 bậc cấp . Hai bên cầu thang là các hình tượng tạc theo phong cách các vị thần trong tuồng bóng (Việt Nam hiện nay gọi là Rối Bóng) wayang dựa theo truyện truyền kỳ Ramayana. Trong các tượng này có một pho tượng ông cả, ông tiên chỉ làng dùng để đón chào khách thăm viếng. Tượng ông cả làng đón chào khách thăm viếng (ảnh của tác giả). Cổng là một tác phẩm điêu khắc tuyệt trần. Ở giữa trên cao có hình mặt lạ kala makara (makara có mak- là mặt), con của Shiva biểu tượng cho quỉ thần để canh gác đền. Hạ Thế Bước qua ba cổng này coi như bước vào thế giới thiêng liêng của thần linh. Tầng sân ngay sau cổng chính và hai cổng phụ là hạ thế. Nơi đây thờ phượng các thần linh cõi nhân gian và là nơi có các sinh hoạt nhân sinh như hội hè, đình đám, ca vũ nhạc kịch. Đập ngay vào mắt là một cây đa cổ thụ già hơn 700 năm được coi là một cây thiêng liêng trong văn hóa Bali. Ở trên cao của cây có “lầu trống” để hai cái trống lớn Lầu trống có hai chiếc trống mõ quấn sarong vàng (ảnh của tác giả). gọi là kul-kul. Ngày nay trống được hiểu theo nghĩa duy tục là dùng để triệu tập dân làng, báo động khi có tai ách, dùng để báo tử khi có nhân vật quan trọng nào chết… Thật ra trống mang một ý nghĩa biểu tượng tín ngưỡng trong Vũ Trụ giáo (xem dưới). Tường thành bao quanh có dát các đồ sứ Trung Hoa. Các đồ gồm sứ cổ đã bị cậy lấy mất. Các vật hiện nay đều là vật tái tạo. Tường có gắn gồm sứ Trung Hoa (ảnh của tác giả). Ở đây cũng có những người bán dạo dụ bán cho du khách những đồng tiền kim loại Trung Hoa nói là tiền cổ từ thời đền được xây vào thế kỷ 11. Sự hiện diện của gốm sứ và các tiền kim loại Trung Hoa ở đây cho thấy Bali vào thời này đã có giao thương với Trung Hoa và cũng cho thấy vương triều Bangli này rất giầu có. Sân trong Trung Thế là jeroan, nơi có chính điện thiêng liêng nhất của đền gọi là meru có 11 mái ngự trị khu này. Điện thờ vị thần chính của đền là Thần Lửa. Ngôi đền Meru chính (ảnh của tác giả). Ngôi đền Meru chính nhìn bên hông. Lưu ý vào một ngôi đền Bali, phái nam phải thắt lưng và phải nữ phải quấn sarong. Ngoài ra còn có những meru lỡ và nhỏ thờ các vị thần khác. Ở phía bắc có một chiếc ngai đá thờ ba vị thần chính của Ấn giáo là Brahma, Shiva và Visnu. Chiếc ngai đá thờ ba vị thần chính của Ấn giáo là Brahma, Shiva và Visnu (bali-travel-life.com). Trong các hình chạm khắc có hình Shiva cùng con là Ganesha và Durga. Đế chiếc ngai đá có con rùa biểu tượng cho thượng thế và hai con rắn quấn quanh biểu tượng cho âm thế. Như thế chiếc ngai đá có một khuôn mặt biểu tượng cho Trung Thế. Chiếc ngai biểu tượng cho đất, núi, Trung Thế thấy rõ qua hình nữ thần Ai Cập Isis tương ứng với Âu Cơ-Núi có biểu tượng là chiếc ngai (Tương Đồng Giữa Ai Cập Cổ với Cổ Sử Việt). Thượng Thế Từ trung thế dùng các bậc cấp đi lên thượng thế là một khu sân nhỏ trên cao phía trong cùng. Ở bên phải của sân thượng thế có ba điện ngai (throne shrines) biểu tượng cho tam thần Brahma, Shiva và Vishnu, những vị thần sáng thế của Ấn giáo. Cấu trúc đền theo Tam Thế với ngọn núi là trục thế giới, đền mang hình ảnh Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống). Ý Nghĩa Cấu Trúc Của Đền Kehen. Như đã nói ở trên cốt lõi văn hóa Bali là sự hôn phối giữa Vũ Trụ giáo Ấn giáo với Vũ Trụ giáo Bách Việt vì thế ta hãy nhìn cấu trúc ngôi đền này Bali dưới lăng kinh chung của Vũ Trụ giáo của hai nền văn minh Ấn-Việt . Vũ Trụ giáo đã thấy rõ qua .chủ đích của đền là thờ ba vị thần tối cao trong truyền thuyết sáng thế của Ấn giáo là Brahma, Shiva và Vishnu. Đền mang ý nghĩa Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo. .hình dạng đền trên núi mang ý nghĩa biểu tượng cho núi Meru của đền. .hình ảnh núi Meru của cổng chính. .qua bố cục Tam Thế của đền. .cây đa cổ thụ như đã nói ở trên. Sự thờ phượng cây đa của Bali giống như trong văn hóa Việt Nam và Bách Việt. Cây đa là cây thần thường được trồng ở đình miếu, chùa chiền. Cây đa có một khuôn mặt là Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) trong Vũ Trụ giáo (xem Cây Đa Rụng Lá Sân Đình, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt). Như đã nói, ở trên cao của cây đa có treo trống kul-kul. Như đã biết trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn mang trọn vẹn triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo. Ở đây chỉ thờ trống mõ mà không thờ cồng, chiêng cho thấy rõ trống là biểu tượng cho Vũ Trụ Tạo Sinh của đền. Ở đây trống thờ trên cao ở cây đa mang hình bóng Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) bắt buộc trống phải mang nghĩa tín ngưỡng của Vũ Trụ giáo. Tóm lại thờ trống mõ ở đây cho thấy đền có một khuôn mặt Vũ Trụ giáo. Hư Không, Vô Cực Đỉnh núi Meru là cõi hư vô. Đền có Tam Thế tất nhiên ở cõi thượng thế có hư không. Trở lại hai chiếc trống mõ kul-kul ở lầu trống trên cao ở cây đa. Phần chòm cây đa mang hình ảnh Cây Vũ Trụ, Cây Tam Thế là thượng thế. Dĩ nhiên thượng thề có hư không. Ngày nay trống này được hiểu theo nghĩa duy tục là dùng để báo động khi có tai ách, dùng để báo tử khi có nhân vật quan trọng nào chết… Nhưng phải hiểu theo một nghĩa cao hơn trong tín ngưỡng. Trong Vũ Trụ giáo trống có một khuôn mặt biểu tượng cho hư không, vô cực. Trống là không. Trống có một khuôn mặt hư không (tiếng trống thu không) (Ý Nghĩa và Chức Vụ Trống Đồng trong Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á). Trống ở đây làm bằng một khúc thân cây khoét rỗng tức một loại trống mõ (split drum). Mõ biến âm với mo, cái bao, bọc. Mõ biểu tượng cho hư không, không gian có hình bao, bọc, túi. Ở đây trống mõ có hình trụ mang nghĩa nọc, lửa. Trống mõ nọc biểu tượng cho hư không phía nọc lửa ứng với khuôn mặt của thần lửa Brahman, của đấng tạo hóa Brahma. Ở đây có khuôn mặt lửa vũ trụ Càn mang tính chủ. Ta cũng thấy hai trống trụ nọc là hai nọc là hai dương, thái dương. Hai que nọc cũng dùng để dùi làm lửa. Con rùa dưới chân ngai đá có mai hình vòm biểu tượng cho vòm hư vũ trụ, vòm hư không có một khuôn mặt hư vô. Hiển nhiên đền có một khuôn mặt biểu tượng cho hư vô, vô cực. Trứng Vũ Trụ, Thái Cực. Đền xây trên một ngọn đồi mang hình ảnh của núi Meru. Như đã biết, đền hình kim tự tháp có là hình nọc thái dương sing động. Nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói), hình tam giác, hình kim tự tháp mang dương tính, lửa, mặt trời, Càn. Đền có 8 tầng bậc. Số 8 là số Khôn tầng 1. Ta thấy rõ có sự hôn phối Càn Khôn giữa đền hình kim tự tháp Càn với 8 tầng bậc, Khôn. Nhìn dưới dạng nhất thể đền mang tính lưỡng hợp đại vũ trụ Càn Khôn. Cổng chính cũng mang hình ảnh núi Meru có tầng cấp bậc là mái. Nhìn từ mặt sau cổng chính thấy rõ trên chỏm nóc có hình bầu nậm, nhìn, dưới diện nhất thể là thái cực. Thấy rất rõ là trên chỏm nóc của cổng chính có hình bầu nậm, nhìn dưới diện nhất thể bầu nậm là trứng vũ trụ, thái cực. Chiếc ngai đá có phần trên hình trụ dương, lửa dưới chân có hai con rắn âm, nước, nhìn dưới dạng nòng nọc, âm dương nhất thể cũng mang hình ảnh thái cực. Như đã nói ở trên ở đền thờ Thần Lửa Brahman này có khuôn mặt thần tạo hóa Brahma lưỡng tính phái mang tính chủ. Khuôn mặt lưỡng tính phái ứng với trứng vũ trụ, thái cực. Nói rộng ra trong một ngôi đền Bali vị thần sinh tạo thường mang khuôn mặt lưỡng tính phái, nòng nọc, âm dương nhất thể. Vị này thường lớn hơn hết và đứng ở giữa tại chính điện. Ví dụ ở một ngôi đền thờ ba vị thần sáng thế chính là Brahma, Shiva và Vishnu thì vị thần tạo hóa lưỡng tính phái là vị thần chính. Chi tiết giúp ta nhận diện ra vị này. Ví dụ thần được quấn sarong có các ô vuông (ca-rô) đen (âm) và trắng (dương) giống như mầu đen trắng của đĩa thái cực. Lưỡng Nghi Nhìn dưới diện lưỡng cực riêng rẽ đền có một khuôn mặt lưỡng nghi. Ở bên cạnh điện tháp meru chính 11 mái có một khuôn mặt nòng nọc, âm dương lưỡng hợp nhất thể có hai đền tháp meru cỡ trung chỉ có 3 mái ứng với lưỡng nghi. Hai đền tháp Meru cỡ trung bên đền tháp chính ứng với lưỡng nghi. Tại chiếc ngai đá chạm hoa sen thờ ba vị thần chính của Ấn giáo là Brahma, Shiva và Visnu thì thần Shiva có một khuôn mặt Trụ Lửa và Thần Vishnu có một khuôn mặt sông nước (sông Hằng, có biểu tượng là con cá sấu) ứng với lưỡng nghi. Nói rộng ra trong một ngôi đền Bali thờ ba vị thần sáng thế thì hai vị thần hai bên ứng với lưỡng nghi. Chi tiết giúp ta nhận diện ra hai vị này. Ví dụ thần được quấn sarong đen ứng với cực âm và vị quấn sarong trắng ứng với cực dương. Tứ Tượng Núi Meru có đế vuông diễn tả tứ tượng. Đền cũng vậy. Cũng nên biết thêm là nếu trong một ngôi đền Bali có thờ 5 vị thần thì một vị thần chính là đấng sinh tạo, tạo hóa và bốn vị thần kia ứng với tứ phương, tứ tượng. Các chi tiết giúp ta nhận diện được các vị thần này. Tam Thế Đền có bố cục Tam Thế. Các điện thờ nhỏ cũng có ba mái Tam Thế. Điện thờ nhỏ ba mái Tam Thế (ảnh của tác giả). Chiếc ngai đá thờ ba vị thần chính của Ấn giáo là Brahma, Shiva và Visnu cũng có một khuôn mặt Tam Thế. Con rùa có mai vòm biểu tượng cho thượng thế. Hai con rắn biểu tượng cho hạ thế và trụ ngai biểu tượng cho núi trụ thế gian biểu tượng cho trung thế. Đền có cổng chính và hai cổng phụ là ba ngõ vào Tam Thế. Ba cổng này là một dạng cổng tam quan của các đền chùa, đình miếu Việt Nam. Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống). Như đã nói ở trên, cấu trúc đền theo Tam Thế với ngọn núi là trục thế giới, đền mang hình ảnh Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống). Ở đây ta thấy rất rõ cấu trúc đền giống hệt cấu trúc đền Hùng Vương ở Vĩnh Phú Việt Nam. Đền Hùng Vương cũng có Tam Thế là đền Thượng, Hạ và Trung và núi Nghĩa Lĩnh là Trục Thế Giới mang hình ảnh Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) (xem dưới và Cấu Trúc Đền Hùng Vương). Đền có cây đa thần mang hình ảnh Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống). Trục Thế Giới Đền nằm trên đồi mô phỏng theo núi Meru có một khuôn mặt Trục Thế Giới. Như đã nói ở trên , đền Tam Thế có biểu tượng là Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống). Thân cây là trục thế giới. Cổng chính với các cấp bậc đi lên có hình tháp có tầng có hình chỏm hình bầu nậm mang hình ảnh núi Meru. Như đã nói ở trên, Meru có một khuôn mặt là Trục Thế Giới. Chiếc ngai đá thờ ba vị thần sáng thế ứng với Tam Thế có một khuôn mặt Trục Thế Giới. Trục Thế Giới là khoảng hở của các cổng núi chẻ đôi mở vào tam thế. Sự Tương Đồng Giữa Đền Kelen với Đền Tổ Hùng, Vĩnh Phú, Việt Nam. Thật vắn tắt ta thấy rất rõ: -Đền Kelen thờ ba vị thần tổ tạo hóa Brahma, Shiva và Vishnu giống như đền Tổ Hùng (xin nhắc lại tôi dùng nhóm từ đền Tổ Hùng thay vì đền Hùng Vương. Tổ Hùng kể từ Viêm Đế-Thần Nông trở xuống). Ở cõi tạo hóa, thần Brahma lưỡng tính phái nhất thể ứng với Viêm Đế-Thần Nông nhất thể. Thần Shiva ứng với Viêm Đế tạo hóa và thần Vishnu ứng với Thần Nông tạo hóa. Ở cõi sinh tạo thế gian, Brahman với khuôn mặt sinh tạo thế gian ứng Đế Minh, Shiva với khuôn mặt thế gian ứng với Kì Dương Vương thế gian và Vishnu với khuôn mặt sinh tạo thế gian ứng với Lạc Long Quân thế gian. Như đã nói ở trên, theo truyền thuyết Mường thì Đá Cần ứng với Brahma, Đá Cài ứng với Shiva và Nàng Kịt ứng với Vishnu với khuôn mặt thái âm, nước. .Đền Kelen nằm trên sườn dốc của một ngọn đồi cao mang hình ảnh Núi Trụ Thế Gian Meru trong có Trục Thế Giới giống như Đền Tổ Hùng nằm trên sườn núi Nghĩa Lĩnh. Núi Lĩnh cũng mang hình ảnh Trục Thế Giới. Nghĩa Lĩnh với Nghĩa là nghĩa ơn, biết ơn, tạ ơn và Lĩnh là núi nhọn đỉnh núi dương. Nghĩa Lĩnh có một khuôn mặt là Trục Thế Giới thông thương ba cõi, là trục lộ có thể dùng để dâng cúng lời tạ ơn, cầu nguyện và tế vật tạ ơn tới vũ trụ, mặt trời, thần linh, tổ tiên Việt (Cấu Trúc Đền Hùng Vương). -Đền Kelen có 8 tầng sân ứng với Khôn và hình núi tháp trụ Meru có một khuôn mặt lửa Càn, thờ vị thần lửa Brahman ứng với Càn. Nhìn tổng quát mang tính Càn Khôn nòng nọc, âm dương giống như Tổ Hùng ứng với trứng vũ trụ phân chia ra hai ngành Lửa, Nước nòng nọc, âm dương ứng với Càn Khôn. -Đền Kelen có phân bố (lay-out) theo Tam Thế giống hệt đền Tổ Hùng cũng gồm có ba đền Thượng, Trung, Hạ ứng với Tam Thế. -Đền Kelen Tam Thế nằm trên đồi Trục Thế Giới diễn tả Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) giống hệt đền Tổ Hùng. -Đền Kelen có thờ trống giống như đền Tổ Hùng cũng thờ trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Trống thuộc loại trống vũ trụ Nguyễn Xuân Quang I (Cơ Thể Trống Đồng). -Đền Kelen tại trung thế, có điện chính thờ Thần Lửa cũng giống như ở Đền Trung tại đền Tổ Hùng có thờ Lửa. -Đền Kelen, tại trung thế có chiếc ngai đá hình thạch trụ khắc hoa sen (loài hoa mọc dưới nước) đứng trên đế lưng rùa (biểu tượng vòm trời thiếu âm khí gió tức nòng Khôn dương) và hai con rắn quấn quanh (biểu tượng cho thái âm nước tức nòng Khôn âm) mang hình ảnh thạch trụ của ngành Khôn âm, có một khuôn mặt là mặt trời nước, êm dịu. Tại đền Tổ Hùng có một thạch trụ được gọi là tảng đá thề của An Dương Vương. An Dương Vương có một nghĩa là Vua Mặt Trời Êm Dịu ngành mặt trời nòng nước Lạc Long Quân. An Dương Vương cũng liên hệ với con Rùa Vàng Kim Qui giống ngai đá đứng trên con rùa ở đây. Dù cho có là chuyện trùng hợp thì đây cũng là điều thú vị. -Đền Kelen có cây đa cổ thụ giống đền Tổ Hùng có cây thông cổ thụ. Cây được thờ phượng có một khuôn mặt mang hình bóng của Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) -Đền Kelen là đền quốc gia, là đền quốc tổ của vương triều Bangli, Nàng Đỏ, Nàng Lửa, Nàng Núi ứng với Âu Cơ là Nàng Lửa dòng Viêm Đế-Kì Dương Vương. Đền Tổ Hùng cũng thờ Âu Cơ. Đền Tổ Hùng là đền quốc tổ Việt Nam có một khuôn mặt Âu Lạc (tại đền Tổ Hùng thờ cả Lạc Long Quân và Âu Cơ). -Đền Kelen có biểu tượng nổi bật là cổng chính hình núi Meru trên nóc cổng có hình bầu nậm biểu tượng cho nòng nọc, âm dương. Đền Tổ Hùng có biểu tượng nổi bật là Lăng Hùng Vương thứ 6, trên nóc có hình bầu nậm biểu tượng cho nòng nọc, âm dương. -Điện meru chính có 11 mái thờ thần Lửa Brahman có số 11 là số Đoài vũ trụ tầng 2 (11 = 8 + 3) khí gió. Hùng Vương có một khuôn mặt thần bầu trời khí gió Đoài vũ trụ. …… Kết Luận Qua ý nghĩa và cấu trúc đền thờ Bali ta thấy rõ có sự tương đồng, hòa hợp giữ văn hóa Ấn giáo và văn hóa Việt Nam, Bách Việt. Vũ Trụ giáo của Ấn giáo đã hòa đồng với Vũ Trụ giáo của Việt Nam một cách tuyệt vời. Điều này không có gì là nghịch lý cả vì Bali nói riêng và Nam Dương nói chung nguyên thủy cùng một đại tộc Bách Việt. Điểm thấy rõ và thuyết phục nhất là sự tương đồng đến độ kinh ngạc giữa đền Kelen và đền Tổ Hùng. Một lần nữa cho thấy ở Nam Dương, Đa Đảo có những tộc Bách Việt Biển hay Hải Đảo. Ngược lại cũng phản chiếu cho thấy có sự hiện diện của văn hóa Đa Đảo, Hắc Đảo trong văn hóa Lạc Việt hợp chủng tộc tức văn hóa Việt Nam ngày nay. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 4, 2013 SƠ BỘ TÌM HIỂU TIỂU THUYẾT CHƯƠNG HỒI VIẾT BẰNG CHỮ HÁN CỦA VIỆT NAM TRẦN NGHĨA I. TIỂU THUYẾT CHƯƠNG HỒI VIỆT NAM KHÔNG PHẢI CHỈ CÓ MỘT “HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ” Lâu nay, khi nói về tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán của Việt Nam, ta chỉ nghĩ đến một tác phẩm tường chừng như duy nhất: Hoàng Lê Nhất thống chí. Nhưng mấy năm gần đây, do những cố gắng trong việc sưu tầm thư tịch Hán Nôm, và sự mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài, đặc biệt là với các nước thuộc cộng đồng văn hiến chữ Hán như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản… chúng ta đã nhìn lại và phát hiện trước cũng như sau Hoàng Lê nhất thống chí còn có một loạt tác phẩm cùng loại mà nếu gom vào một chỗ, chúng sẽ chiếm một khoảng không nhỏ trong khu vườn văn học Việt Nam. Ấy là Hoan Châu ký, Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí, Đào hoa mộng ký, Việt Lam xuân thu, Hoàng Việt long hưng chí và Trùng Quang tâm sử(1). Hoan Châu ký còn có tên là Thiên Nam liệt truyện Nguyễn Cảnh Thị Hoan Châu ký, biên soạn vào khoảng năm Chính Hòa (1680 - 1705) đời Lê. Tác giả là một người thuộc dòng họ Nguyễn Cảnh (họ kép), nhưng chưa rõ tên cụ thể. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 2 dị bản Hoan Châu ký, một bản mang ký hiệu VHv.4079 (thay cho ký hiệu cũ là VHv.4199) và một bản mang ký hiệu VHv.3588 (thay cho ký hiệu cũ là VHv.4200), đều là những bản sao. VHv.4079 được chép lại vào thời Gia Long (1802-1819); VHv.3588 được chép lại vào năm Thành Thái thứ 6 (1894). Cả hai bản đều do dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ An hiến tặng cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sách đã được dịch và xuất bản lần đầu(2). Nam triều công nghiệp diễn chí còn có tên là Việt Nam khai quốc chí truyện, do Nguyễn Bảng Trung soạn, Phong Sơn Dương Thận Trai đề tựa, Tri huyện huyện Phù Ninh tên là Giản đề bạt. Nguyễn Bảng Trung tên thực là Nguyễn Khoa Chiêm (1659-1736), tự Bảng Trung, tước Bảng Trung Hầu, nguyên quán Hải Dương, sinh quán Hương Trà, Thừa Thiên, làm quan đến chức Cai bạ phó đoán sự. Dương Thận trai và Tri huyện Giản đều là người sống vào đầu triều Nguyễn(3). Hiện có 4 truyền bản Nam triều công nghiệp diễn chí sau đây, đều ở dạng viết tay: 1 bản của Viện Hán Nôm, ký hiệu A.24/1-2; 1 bản của Viện Sử học, ký hiệu HV.503; 2 bản của Thư viện Hiệp hội châu Á Paris, ký hiệu HM.2140 và HM.2141. Tất cả đều mang tiêu đề Việt Nam khai quốc chí truyện, có lẽ do người đời Nguyễn chữa lại. Tên gọi bạn đầu của tác phẩm, theo gia phả họ Nguyễn Khoa, là Nam triều công nghiệp diễn chí. Sách đã được dịch và xuất bản(4). Hoàng Lê nhất thống chí nguyên tên là An Nam nhất thống chí, theo Ngô Giáp Đậu thì phần đầu sách do Học Tốn viết; phần tiếp theo do Trưng Phủ viết (xem Hoàng Việt long hưng chí tự tự). Học Tốn là tên tự của Ngô Thì Chí (1753 - 1788), hiệu Uyên Mật, người Tả Thanh Oai, Hà Tây, con trai thứ hai của Ngô Thì Sĩ, làm quan đến chức Thiêm thư bình chương sự. Ông là tác giả 7 hồi đầu của Hoàng Lê nhất thống chí. Trưng Phủ là tên của Ngô Thì Du (1772 - 1840), hiệu Văn Bác, cháu gọi Ngô Thì Sĩ bằng bác ruột, làm Đốc học Hải Dương. Ông là tác giả 7 hồi tiếp theo (từ hồi 8 đến hồi 14). Mấy hồi cuối (từ hồi 15 đến hồi 17) tương truyền do Ngô Thì Thuyến (có người đọc là Thiến) viết. Hiện có 12 dị bản Hoàng Lê nhất thống chí đều ở dạng viết tay: 6 bản của Thư viện Viện Hán Nôm, mang các ký hiệu A.22/1-2 (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí, Học Tốn Công trứ, Trưng Phủ Công tục. Cuối hồi 1, có một đoạn lời bình), A.883 (in ảnh trên giấy tây, tiêu đề Lê quí ngoại sử, Sơn Nam Thanh Oai huyện Tả Thanh Oai Thiêm thư Ngô Thì Thuyến soạn, Long phi Kỷ Hợi niên (1899) hạ lục nguyệt thập ngũ nhật, Hàn lâm viện thị độc sung Bắc Kỳ Thống sứ phủ thụ đệ ngũ hạng Lục sự Nguyễn Hữu Thường phụng lục), VHv.1542/1-2 (tiêu đề An Nam nhất thống chí, bản này cùng loại với bản do Nguyễn Hữu Thường chép), VHv.1296 (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí, có “mi phế”), VHv.1534 1/2 (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí, có dấu ấn của Hoàng Xuân Hãn), VHv.1534/B (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí, chỉ có 8 hồi đầu, hồi thứ 8 chép chưa hết); 1 bản của Thư viện Quốc gia Hà Nội (tiêu đề An Nam nhất thống chí, chỉ có 7 hồi đầu); 4 bản của Thư viện Hiệp hội Châu Á Paris, mang các ký hiệu HM.2224 (7) (tiêu đề An Nam nhất thống chí, chép từ sách Ngô gia văn phái, Tập 7, Quyển 19-20, phần Học Tốn Công di thảo), HM.2134 (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí, Học Tốn Công trứ, Trưng Phủ Công tục; bản này chép từ bản A.22 của Viện Hán Nôm), Ms.b.21 (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí, Gia Long tam niên Giáp Tí (1804) quí đông sóc, Lê Cảnh Hưng Quý Mùi khoa Tiến sĩ Tả Thanh Oai nhân Ngô Thì Nhậm biên tập, cuối hồi 1 có một đoạn lời bình. Đây là sách của Fonds Landes), và 1 bản chưa lên ký hiệu (tiêu đề An Nam nhất thống chí, Thiêm thư bình chương Học Tốn Công di thảo. Đây là sách của Fonds Demiéville). Sách đã được dịch và xuất bản nhiều lần(5). Đào hoa mộng ký còn gọi là Đào hoa mộng tục Đoạn trường tân thanh, do Tiên Phong Liên Đình soạn, Lê Bỉnh Đức đề thơ, Tương Giang Mai Cát Phủ đề từ và viết các phần bình luận. Tiên Phong Liên Đình tên thật là Nguyễn Đăng Tuyển, hiệu Mộng Liên Đình và Hy Lượng Phủ, người làng Hoài Thượng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc, đỗ Tú tài năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), là Giám sinh Quốc tử giám, làm Chủ sự Bộ Hộ, thăng Thị độc, Sử quán biên tu, cuối cùng giữ chức Tri phủ Thuận Thành. Ông có đi sứ Trung Quốc. Ngoài Đào hoa mộng ký, Nguyễn Đăng Tuyển còn có tác phẩm như Yên Đài anh ngữ, Quốc phong thi hợp thái, Sử ca (soạn năm 1860). Lê Bỉnh Đức tên thật là Lê Hựu, hiệu Thiệu Hiên và Lộc Đàm Chủ Nhân, nguyên Tổng đốc Bình Thuận. Tương Giang Mai Cát Phủ chưa rõ tên thật và tiểu sử. Trong sách, ở Q1, sau tiêu đề Lan Nương tiểu sử, còn ghi tên một người nữa là “Cấn Phong Hà Đạm Hiên”; cuối chuyện Hội chân ký do Tiên Phong Liên Đình soạn, có chép: “Nguyễn Sinh kể lại chuyện mình cho bè nghe, ai cũng lấy làm lạ. Có người tên là Hà Sinh bèn dựa theo chuyện kể, viết Lan Nương tiểu sử cho chàng (tức Nguyên Sinh - TN), đặt tên là Đào họa mộng”, người cùng tham gia sáng tác Đào hoa mộng ký với Nguyễn Đăng Tuyển, nhưng cũng chưa rõ tên thật và tiểu sử. Hiện có 2 dị bản Đào hoa mộng ký, đều ở dạng viết tay, được tàng trữ tại Viện Hán Nôm mang các ký hiệu VHv.2152 và A.436. Bản VHv.2152 nguyên là sách của Bảo tàng lưu niệm Nguyễn Du, mang ký hiệu ban đầu là 392 M-ND. Đáng tiếc là tác phẩm chỉ còn 2 quyển đầu trong số 8 quyển tất cả, theo mục lục ở đầu sách cho biết. A.436 là bản sao từ Q.1 nhưng chưa đầy đủ, của bản VHv.2152. Đào hoa mộng ký ngoài chính văn, còn có các phần phụ như “độc pháp”, “hồi bình” và “giáp bình”, một hình thức mang ý nghĩa lý luận phê bình (bình điểm) văn học thường xuất hiện trong các loại tiểu thuyết cổ. Việt Lam xuân thu còn gọi là Hoàng Việt xuân thu hay Việt Lam tiểu sử, biên soạn khoảng cuối thế kỷ XIX, được sửa sang lại và xuất bản vào năm Duy Tân Mậu Thân (1908). Người khởi thảo, tương truyền là Vũ Xuân Mai (xem Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 2, Nxb. KHXH, H. 1990, tr.179). Người biên tập và đề tựa là Lê Hoan. Vũ Xuân Mai quê phường Xuân Yên tỉnh Hà Nội (cũ), đậu Cử nhân năm Kiến Phúc Giáp Thân (1884) làm Tri huyện huyện Phúc Thọ (Hà Tây). Lê Hoan (1856-?) người thôn Cự Lộc, xã Nhân Mục (làng Mọc), tổng An Đình, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Nội (cũ) (nay là xã Nhân Chính, phường Thượng Đình, quận Đống Đa, Hà Nội. Theo Thanh Trì Lê Lưu thị thế phả, Lê Hoan từng giữ các chức Binh Bộ Thượng thư kiêm Đô sát viện Hữu đô ngự sử, Tổng đốc Ninh Thái Hải Yên, tước Phú Hoàn Nam. Trong bài tựa viết cho sách khi xuất bản, Lê Hoan có nói ông tìm thấy bản thảo Việt Lam xuân thu trong hòm sách một gia đình cựu học. Khi mang ra đọc, ông lấy làm tiếc là về mặt kết cấu cũng như mạch lạc câu chuyện trong sách chưa được “xảo điệu tinh kỳ” lắm, cho nên nhân lúc rỗi rãi, ông đã “lạm gia tài tước”, mạn phép tác giả tỉa tót, cắt xén, cốt làm cho tác phẩm mang tính văn học hơn, rồi đưa in, đặt tên là “Việt Lam tiểu sử” để phân biệt với chính sử. Trong sách có “giáp phế”, “giáp bình”. Hiện có 12 dị bản Việt Lam xuân thu : 5 bản của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm mang các ký hiệu VHv.1819/1-3 (sách in, thiếu 10 hồi cuối), VHv.1683 (viết tay thiếu 32 hồi cuối) và VHv.2085 (viết tay, thiếu 9 hồi đầu và hồi 60 ở cuối sách); 2 bản của Thư viện Viện Sử học mang các ký hiệu HV.84 (sách in, đủ cả 3 quyển và 60 hồi) và HV.141 (viết tay); 1 bản của Thư viện Quốc gia Hà Nội, ký hiệu R.451 (viết tay, chỉ có Q.2 với các hồi từ 22 đến 40); 1 bản của Hiệp hội Châu Á Paris, ký hiệu HM.2184 (viết tay); 1 bản của Thư viện Quốc gia Paris, ký hiệu A.69/1-2, có “giáp phê” của người đời sau; 1 bản của Bảo tàng Guimet Paris, ký hiệu MG.FV.55732 (sách in); và 1 bản của Đông Dương văn khổ Nhật Bản (mang tiêu đề Việt Lam tiểu sử). Hoàng Việt long hưng chí biên soạn xong vào năm Thành Thái Giáp Thìn (1904), tác giả Ngô Giáp Đậu (1853 - ?), hiệu Tam Thanh, biệt hiệu Sự Sự Trai, người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai (Hà Tây), đậu Cử nhân năm Thành Thái thứ 3 (1891) làm Đốc học. Ngoài Hoàng Việt long hưng chí, ông còn là tác giả một số cuốn giáo trình về sử như Trung học Việt sử toát yếu, về địa lý như Hiện kim Bắc Kỳ địa dư, v.v… Hiện có 1 bản Hoàng Việt long hưng chí tàng trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.23 (viết tay). Sách đã được dịch và xuất bản lần đầu.(6) Trùng Quang tâm sử do B.G sáng tác, Hiến Hán dịch, lần lượt đăng trên Binh sự tạp chí ở Hàng Châu (Chiết Giang, Trung Quốc) từ số 81 tháng 1 - 1921 đến số 132 tháng 4-1925. Có người cho “B.G” chính là B.C, chữ C xếp chữ nhầm thành G (xem Phan Bội Châu toàn tập tập 3, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1990, tr.288 chú thích 1). “B.C” tức Bội Châu hay Phan Bội Châu (1867 - 1940), hiệu Thị Hán, biệt hiệu Sào Nam, người làng Đan Nhiễm, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, một chính khách nổi tiếng, được người trong nước hết sức kính mến vào những năm đầu thế kỷ XX. “Hiến Hán” là bút danh của người “dịch” thực ra là biên tập tác phẩm này để đăng tạp chí. Tác phẩm sau khi biên tập, có khác với lúc đầu chút ít về tên người, tên đất, cũng như số chương hồi. Hiện có 3 dị bản về Trùng Quang tâm sử đều ở dạng viết tay: 2 bản của Viện Hán Nôm chép theo bản thảo lúc đầu, ký hiệu VHv.1524 (tiêu đề Hậu Trần dật sử), Sào Nam Phan Bội Châu trứ. Bản này chép vào năm 1957 và VHv.2716 (tiêu đề Hậu Trần dật sử, Sào nam Phan Bội Châu trứ. Bản này chép vào năm 1964, theo bản VHv.1524); 1 bản của Thư viện Quốc gia Hà Nội, ký hiệu R.2258 (tiêu đề Hậu Trần dật sử). “Hậu Trần dật sử” là tên do người chép đặt tạm, do lúc bấy giờ chưa biết tên thật của tác phẩm. Sách đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản nhiều lần(7). Các tác phẩm kể trên trước nay có nhiều cách hiểu về mặt thể loại. Từng được xếp vào diện “cổ tích”, như Trùng Quang tâm sử, những “trang sử lòng ở trại Trùng Quang” mà tác giả cuốn sách coi như “cổ sử” hoặc “cố sự”, tức “chuyện đời xưa” đem ra kể cho “quốc dân đồng bào” nghe (xem đoạn đầu Trùng Quang tâm sử). Xếp vào diện “lịch sử” như Nam triều công nghiệp diễn chí, Việt Lam xuân thu và Hoàng Việt long hưng chí. Nam triều công nghiệp diễn chí được Dương Thận Trai và Tri huyện Giản gọi là “chí” hay “chí truyện” (xem Việt Nam khai quốc chí truyện tự và Việt Nam khai quốc chí truyền bạt), trong khi Ngô Giáp Đậu gọi là “truyện chí” (Xem Hoàng Việt long hưng chí tự tự). Việt Lam xuân thu được coi như cùng loại với sách Xuân thu của Khổng Tử; nếu hiểu “xuân thu” theo nghĩa rộng, chỉ loại sách “lịch sử” nói chung, thì “Việt Lam xuân thu” có nghĩa là lịch sử cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở nước Việt. Hoàng Việt long hưng chí được tác giả xếp vào loại “chí” hoặc “truyện chí”, cùng tính chất với Nam triều công nghiệp diễn chí (xem Hoàng Việt long hưng chí tự tự). “Chí”, “chí truyện”, “truyện chí”, hay “xuân thu” ở đây đều được hiểu là những phân nhánh của “chính sử” hoặc “lịch sử”. Xếp vào diện “tiểu thuyết” như Hoan Châu ký, Hoàng Lê nhất thống chí và Đào hoa mộng ký. Hoan châu ký, được tác giả gọi “bái quan dã sử” (Lời bạt). Hoàng Lê nhất thống chí có lúc còn được cài thêm vào nhan đề sách mấy chữ “Lê quí ngoại sư” (như ở bản A.883). “Bái quan dã sử” hoặc “ngoại sử” đều là những cách gọi khác nhau của tiểu thuyết(8). Riêng Đào hoa mộng ký của Mai Cát Phủ). Nhưng hai chữ “tiểu thuyết” ở đây, trong cách hiểu của người xưa không phải lúc nào cũng đồng nhất với khái niệm tiểu thuyết hiện đại. Có thể thấy vào thời kỳ các tác phẩm trên ra đời, ở nước ta, trong quan niệm sáng tác cũng như trong nghiên cứu phê bình văn học vẫn còn nhiều chỗ lẫn lộn về ranh giới giữa “văn” và “sử”. Ngay trong lĩnh vực “văn” , việc phân chia thể loại cũng chưa thật rạch ròi(9). Với cách nhìn của chúng ta ngày nay, Hoan Châu ký, Nam triều công nghiệp diễn chi, Hoàng Lê nhất thống chí, Đào hoa mộng ký, Việt Lam xuân thu, Hoàng Việt long hưng chí và Trùng Quang tâm sử đều là những tác phẩm văn học thực thụ và đều mang đặc trưng của thể loại “tiểu thuyết chương hồi”, một thể loại văn học quen thuộc ở các nước thuộc cộng đồng văn hiến Hán. Điều này được tự cụ thể hóa trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức ở cùng tác phẩm vừa kể. Trước hết, ta thấy ở các tác phẩm vừa nêu, toàn bộ câu chuyện được chia ra làm nhiều mảng, hay đúng hơn, tác phẩm do nhiều “hồi” hoặc “tiết” có quan hệ vừa “khép” vừa “mở”, vừa “gián cách” vừa “liên tục” hợp lại mà thành. Mỗi mảng như thế, ở Hoan Châu ký và Trùng Quang tâm sử được gọi là “tiết” (Hoan Châu ký có 16 tiết, Trùng Quang tâm sử có 22 tiết); ở Hoàng Lê nhất thống chí, Đào hoa mộng ký, Việt Lam xuân thu và Hoàng Việt long hưng chí được gọi là “hồi” (Hoàng Lê nhất thống chí có 17 hồi, Đào hoa mộng ký theo mục lục có 20 hồi, Việt Lam xuân thu có 60 hồi, Hoàng Việt long hưng chí có 34 hồi). Riêng Nam triều công nghiệp diễn chí thoạt nhìn, tưởng như tác phẩm được viết liền mạch từ đầu chí cuối, chỉ chia “quyển” mà không chia “hồi” hoặc “tiết”. Nhưng đọc kỹ nguyên bản, ta thấy ở cuối Q.4 có câu: “Vị tri Tú phượng nhập Nam triều báo tín nhược hà, thả khán hạ hồi phân giải”, cuối Q.5 có câu: “Vị tri hư thực như hà, thả thính hạ hồi phân giải”, cuối Q.7 có câu: “Vị tri hậu sự nhược như hà, thả thính hạ hồi phân giải”; từ đó có thể nghĩ mỗi “quyển” ở đây được tác giả xem như một “hồi”, Nam triều công nghiệp diễn chí có cả thảy 8 quyển, cũng tức là 8 hồi. Mỗi “hồi” hoặc “tiết” như vậy trong cùng một tác phẩm thường có độ dài xấp xỉ như nhau, kể lại một câu chuyện nhỏ tương đối hoàng chỉnh. Mở đầu các “hồi” hoặc “tiết” là 2 câu đối ngẫu, mỗi câu từ 7 đến 16 chữ (riêng Nam triều công nghiệp diễn chí mỗi “hồi” (quyển) được mở đầu bằng một bài từ hoặc một bài thơ thất ngôn Đường luật, trừ hồi thứ 2 và hồi thứ 7; Trùng Quang tâm sử trước mỗi “tiết” là một cụm từ 4 chữ) vừa dùng để khái quát nội dung, vừa dùng làm đầu đề cho “hồi” đó hoặc “tiết” đó, gọi là “hồi mục”. Kết thúc mỗi “hồi” hoặc “tiết” thường lại có 2 câu đối ngẫu nữa, mỗi câu 7 chữ, cùng một câu văn lề lối (sáo ngữ) kiểu “muốn biết (…) như thế nào, xem hồi sau sẽ rõ”, một là nhằm dự báo nội dung của “hồi” tiếp theo, hai là nhằm kích thích sự tò mò của người đọc (Riêng Trùng Quang tâm sử không thấy sử dụng hình thức này). Ở một số tác phẩm, ngoài những tiêu chí nói trên, còn có các phần mang tính chất bình luận văn học (bình điểm) như “độc pháp”, “hồi bình”, “giáp bình”, “my phê”,… cũng là hiện tượng thường thấy trong tiểu thuyết chương hồi của các nước cùng khu vực. “Độc pháp” thường đặt ngay ở đầu sách, tổng luận về nội dung hoặc giải thích, nhấn mạnh một số điểm cốt yếu thuộc chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Chẳng hạn đoạn văn đặt ở đầu hồi 1 của Hoàng Lê nhất thống chí, bài từ Lâm giang tiên và phần “phê bình” của Mai Cát Phủ đầu hồi 1 của Đào hoa mộng ký, bài Truyện tự đặt ở đầu hồi 1 của Việt Lam xuân thu, đoạn văn đặt ở đầu tiết 1 của Trùng Quang tâm sử đều có thể xem là “độc pháp”. “Hồi bình” là những lời bình luận viết cho từng hồi một, đặt liền sau “hồi mục”, thấy xuất hiện ở Đào hoa mộng ký. Riêng Hoàng Lê nhất thống chí, “hồi bình” lại đặt ở cuối hồi 1 và đây cũng là trường hợp có “hồi bình” duy nhất ở tác phẩm này. “Giáp bình” là những lời bình luận viết xen kẽ trong từng hồi hoặc từng tiết, thấy xuất hiện nhiều nhất ở Việt Lam xuân thu. “My phê” là những câu chữ bình luận viết ngay lên khoảng giấy trống đầu trang sách, thấy xuất hiện nhiều nhất ở Trùng Quang tâm sử. II. NGUỒN GỐC TIỂU THUYẾT CHƯƠNG HỒI VIẾT BẰNG CHỮ HÁN CỦA VIỆT NAM Việt Nam cũng như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản,… đều có tiểu thuyết chương hồi. Nhưng như vậy không có nghĩa là con đường dẫn tới sự hình thành tiểu thuyết chương hồi ở các nước thuộc cộng đồng văn hiến Hán này đều hoàn toàn giống nhau. Tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán của Việt Nam có nguồn gốc khác với Trung Quốc. Ở Trung Quốc, tiểu thuyết chương hồi bắt nguồn từ thoại bản. “Thoại” có nghĩa là “cố sự”, bản gốc. “Thoại bản” tức bản gốc mà nghệ nhân hay người kể chuyện (thuyết thoại nhân) dùng làm chỗ dựa để giảng về truyện xưa tích cũ cho người ta nghe, một hình thức văn nghệ dân gian chớm lên từ đời Đường và đặc biệt thình hành vào giai đoạn Tống Nguyên do rất đỗi hợp “goût” của tầng lớp thị dân mới trỗi dậy hồi đó. Có thể chia thoại bản Trung Quốc thành hai loại lớn: tiểu thuyết và giảng sử. “Thoại bản tiểu thuyết” thường ngắn, viết bằng văn bạch thoại, phản ánh đời sống của quần chúng lớp dưới như những người buôn bán nhỏ, thợ thủ công, phụ nữ bình thường… Thí dụ các thoại bản Phùng Ngọc Mai đoàn viên, Thố trảm Thôi Ninh. Ở loại này, lời văn thường sinh động, bình dị. Trước phần chính văn, thường có mấy câu mào đầu bằng thơ, từ hoặc một mẩu chuyện ngắn, cốt lôi kéo thính giả tới nghe kể chuyện, gọi là “đắc thắng đầu hồi” (gây hứng thú ngay từ hồi đầu) hoặc “nhập thoại” (vào câu chuyện kể). Trong khi miêu tả nhân vật hoặc tường thuật sự kiện, thường xen vào những câu văn vần để cho câu chuyện thêm sinh động. Buổi kể chuyện thường dừng lại ở đoạn gay cấn nhất, nhằm lôi cuốn người nghe đến nghe tiếp vào lần sau, đêm sau. Kết thúc mỗi buổi kể hoặc đoạn kể, thường dùng những câu thơ hoặc bài từ ngụ ý “khuyên giới”. “Thoại bản giảng sử” so với “thoại bản h” thường dài hơn, viết bằng văn ngôn, đôi khi cũng pha phách văn bạch thoại. Loại thoại bản này chịu nhiều ảnh hưởng của chính sử. Nội dung dựa vào truyện tích lịch sử là chính, như Tân biên Ngũ đại sử bình thoại chẳng hạn. Nhưng cũng có khi vừa giảng sử, vừa chen vào những mẩu chuyện đời thường, như Đại Tống Tuyên Hòa di sự, Đại Đường Tam Tạng thủ kinh thi thoại, v.v… Chính trên nền tảng phát triển rôm rả của thoại bản mà tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc đã ra đời, với những tác phẩm tiêu biểu như Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du ký,… trong đó Tam quốc diễn nghĩa là một trong những cuốn tiểu thuyết chương hồi ra đời sớm nhất, lưu hành rộng rãi nhất và được nhân dân Trung Quốc cũng như nhân dân thế giới đặc biệt ưa thích. Khác với Trung Quốc, Việt Nam không có thoại bản(10). Sự ra đời của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam trước hết liên quan tới các bản thần tích, thần phả được ghi lại từ truyền thuyết dân gian, theo khuynh hướng ngày một hệ thống hóa, với quan niệm cả dân tộc đều sinh ra từ một bọc, có chung một cội nguồn. Hệ thống hóa, nhưng lại phải tách bạch, Cùng xuất từ một nguồn, nhưng lại phát triển có lớp lang. Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh,… được biên soạn và nhiều lần sửa chữa, bổ sung trong tình thần như vậy. Đặc biệt khoảng thế kỷ 15, 16, triều đình nhà Lê sai một số nho thần có trình độ học vấn uyên bác như Đào Cử (1449 - ?), Nguyễn Bảo (TK.XV), Lê Tung (1451-?), Nguyễn Bính (TK.XVI)… sưu tầm, chỉnh lý và viết lại một cách đầy đủ, có hệ thống các thần ở nước ta, làm thành bộ Ngọc phả (còn gọi là Ngọc phả lục hay Ngọc phả cổ lục), đặt tại Bộ Lễ, thông qua đó để cấp bằng sắc, quản lý các di tích lịch sử, văn hóa trên phạm vi cả nước, kết hợp với việc giáo dục truyền thống cho dân. Bộ Ngọc phả chính thức đặt tại Bộ Lễ (Quốc triều Lễ Bộ chính bản) này, nay đã mất, nhưng một số bản thần tích, thần phả chép lại từ bộ sách gốc trên về sau vẫn còn lưu giữ ở các địa phương từng được Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội tổ chức soa chép lại thành 537 tập Thần tích hiện để tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mang ký hiệu AE(11). Qua các tập Thần tích, hay đúng hơn, bộ Ngọc phả triều Lê được khôi phục lại một phần này, ta có thể mường tượng cách hệ thống hóa các thần trong “Quốc triều Lễ Bộ chính bản” ở thế kỷ XV, XVI như sau: Dưới mỗi mục thần (Nhân thần, Nữ thần, Thiên tầhn, Sơn thần, Thủy thần, Dương thần, Âm thần) lại còn chia ra thành nhiều nhánh (Càn chi, Khảm chi, Cấn chi, Chấn chi, Tốn chi, Ly chi, Khôn chi, Đoài chi) và dưới mỗi nhánh, lại chia làm Thượng đẳng thần, Trung đảng thần… Cũng qua Ngọc phả đời Lê, ta còn thấy quá trình các anh hùng dân tộc được truyền thuyết hóa, rồi thần linh hóa và cuối cùng, tiểu thuyết hóa như thế nào. Thí dụ chuyện Ngô Long chép trong Hà Nội Hàm Long thần tích AE a1/1, trích từ “Nam Việt Hùng triều Duệ Vương Long thần xuất thế phù quốc uy linh Đại Vương tự điển” (Quốc triều Lễ Bộ chính bản Thượng đẳng phúc thần). Ngô Long, với một địa chỉ cụ thể, một sự tích thần kỳ, đã được những người lập truyện xây dựng như một nhân vật tiểu thuyết thực thụ. Mới lên tám, đã có tài “thất bộ thành chương”, làm xong một bài thơ trong vòng bảy bước. Ngô Long còn làu thông cả “bách gia chư tử”, “tam lược lục thao”, “Thái Công phù phép” và đặc biệt, ông còn sáng tác không ít thơ “Đường luật”, dù đang sống dưới triều Hùng ! Có thể nói mỗi một bản thần tích trong Ngọc phả là một thiên tiểu thuyết, một “bái quan dã sử”! Chính phương pháp hệ thống hóa từ các đơn lẻ và lối viết sinh động, hấp dẫn, gây ấn tượng mạnh trên đây của Ngọc phả, trong chừng mực nhất định, đã ảnh hưởng đến tiểu thuyết chương hồi Việt Nam về sau, rõ nhất là ở Hoan Châu ký, một tập gia phả được cải dạng thành tác phẩm văn học. Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của thể văn biên niên, thực lục và kỷ sự. Ở sử biên niên (như Đại Việt sử ký toàn thư) và thực lục (như Lam Sơn thực lục, Trung hưng thực lục, Đại Nam thực lục) các biến cố lịch sử được trình bày theo niên đại các triều vua. Lối viết này để lại dấu ấn khá đậm nét trong Hoan Châu ký, Nam triều công nghiệp diễn chí, Việt Nam xuân thu và Hoàng Việt long hưng chí. Có thể nêu một vài ví dụ. Nam triều công nghiệp diễn chí, Q.6 viết: “Lại nói năm Thịnh Đức Nhâm Dần thứ 10, tháng giêng, trung tuần, Nguyên soái công tử Hiệp Đức bèn chuyển quân đến đóng ở xa Vũ Xá, cùng các tướng bàn kế tiến đánh”. Việt Lam xuân thu. Hồi 20 viết: “Năm Bính Tuất, Khai Định thứ 1 (Minh Vĩnh Lạc thứ 5), mùa xuân, tháng giêng, ngày Giáp Dần, tiến quân về phía Trù Giang” v.v… Nhiều đoạn trong tác phẩm đã hành văn y như sử biên niên, lấy năm tháng làm tuyến ngang (kinh), sự kiện làm tuyến dọc (vĩ). Chẳng hạn Hoan Châu ký, Hồi 2, Tiết 2 có đoạn: “Ngày 12, gặp dịp sinh nhật của Tiết chế Trưởng quận công, trăm quan vào chúc mừng. Lễ xong, mở tiệc lớn chiêu đãi. Trong quân ai nấy đều vui say. Ngày 14 tháng 8 vào giờ Dần, quan Tiết chế cùng các tước đốc quân thủy bộ cùng tiến về sông Hát yết kiến miếu Trưng Vương (…). Ngày 15, vào giờ Thân, quân tiến đến cửa Nam thành Thăng Long, tạm nghỉ. Ngày 18…”. Thậm chí có tác phẩm như Hoàng Việt long hưng chí, bên cạnh sự kiện, còn kèm theo những chú giải đôi khi khá dài dòng về tên người, tên đất như chúng ta thường gặp ở các bộ sử chính thống. Ở thể loại kỷ sự, mỗi sự kiện là một thứ dây giềng (cương) xuyên qua một chuỗi chi tiết (mục), câu chuyện nhờ đó có đầu có đuôi, không bị cắt xén. Hoàng Lê nhất thống chí và Trùng Quang tâm sử đại để chịu ảnh hưởng cách thể hiện này. Nhưng nói gì thì nói, tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán của Việt Nam chắc chắn sẽ khó ra đời nếu thiếu cái “hích” đầy quyết định của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Sẽ không có Hoan Châu ký, Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí, Việt Lam xuân thu, Hoàng Việt long hưng chí, kể cả Trùng Quang tâm sử nữa nếu không xuất hiện Tam quốc diễn nghĩa(12), Thủy hử(13) trước đó. Và cũng sẽ không có Đào hoa mộng ký, nếu không xuất hiện Kim Vân Kiều truyện(14), Hạnh hoa thôn(15), Đào hoa ảnh(16) trước đó(17). Chính tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc đã cung cấp thể loại và kiểu mẫu cho văn học chữ Hán Việt Nam trong bước đi lên, đổi mới và phát triển. Đặc biệt là Tam quốc diễn nghĩa. Có thẻ nói không một tác phẩm nào trong số các tiểu thuyết chương hồi viết về đề tài lịch sử của Việt Nam lại không chịu ảnh hưởng nhiều hoặc ít ở Tam quốc diễn nghĩa, từ tư tưởng sáng tác đến nghệ thuật tự sự, miêu tả. Thí dụ Hoan châu ký trong hồi 1 tiết 2, từng vì việc Nguyễn Tử Nha định sử dụng Lê Trang Tông làm bung xung theo kiểu Tào Tháo sử dụng Hán Hiến Đế truyện quấn Tam quốc diễn nghĩa. Hay Nam triều công nghiệp diễn chí, chỉ trong phạm vi Q.1 trong số 8 quyển của tác phẩm, đã có ít ra là 4 trường hợp dính dáng đến Tam quốc diễn nghĩa: Quận Lập muốn bắt chước Quan Vân Trường “đơn đao phó hội”; Phùng Khắc Khoan xuấu xí, nhưng có cái tài của Gia Cát, Lưu Cơ; Phan Ngoạn tự xưng là Quang Vũ tái sinh; Trịnh Tùng mắng Phùng Khắc Khoan muốn bắt chước Trương Lương đêm ít Châu về theo Lưu Bị. Với Đào hoa ảnh, Hạnh hoa thôn và Kim Vân Kiều truyện cũng vậy. Các tác phẩm vừa nêu, nhất là Kim Vân Kiều truyện đã trở thành đối tượng mô phỏng trên một vài phương diện nào đó của Đào hoa mộng ký, một tiểu thuyết “diễm tình”, thuộc loại “tài tử giai nhân”, viết về tình yêu nam nữ. Có thể nói tiểu thuyết chương hồi Việt Nam ra đời là kết quả của những hối thúc từ bên trong do sự vận động nội tại của bản thân nền học thuật chữ Hán Việt Nam sinh ra, cộng với những kích thích từ bên ngoài do giao lưu văn học mang lại. Đây cũng là tình hình từng diễn ra ở văn học nhiều nước thuộc cộng đồng văn hiến Hán như Nhật Bản, Triều Tiên,… III. NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CHƯƠNG HỒI VIẾT BẰNG CHỮ HÁN CỦA VIỆT NAM Có thể chia tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán của Việt Nam ra thành hai nhóm lớn: tiểu thuyết chương hồi viết về đề tài lịch sử gồm Hoan Châu ký, Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí, Trùng Quan tâm sử và tiểu thuyết chương hồi viết về đề tài tình yêu gồm Đào hoa mộng ký. Nội dung phản ánh cũng như nghệ thuật diễn tả thuộc từng nhóm có nhiều điểm khác nhau. Ở nhóm thứ nhất, Trùng Quang tâm sử kể lại cuộc nổi dậy đầy khí thế của nhân dân ta do Trần Quý Khoáng cầm đầu chống lại ách đô hộ của nhà Minh vào đầu thế kỷ 15 tại Nghệ An… Hoàng Việt xuân thu viết về thất bại khó tránh của cha con Hồ Quý Ly và thắng lợi dương nhiên của anh em Lê Lợi trong việc lãnh đạo nhân dân ta đánh đuổi quân ngoại xâm, giải phóng đất nước, giành lại độc lập và chủ quyền cho dân tộc. Hoan Châu ký tái hiện công cuộc Trung hưng của nhà Lê sau khi bị họ Mạc tiếm ngôi, cùng những đóng góp về mặt võ công của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Hoan Châu lúc này được coi là rất xuất sắc và chỉ sau họ Trịnh. Nam triều công nghiệp diễn chí phác họa lại 133 năm Trịnh - Nguyễn phân tranh, từ lúc Nguyễn Hoàng vào trấn giữ Thuận Hóa cho đến khi Chúa Ngãi mất. Tác phẩm cũng đã dành một phân lượng không nhỏ để nói về công lao của Chúa Nguyễn trong việc mở mang, kiến tạo nửa phần đất nước phía Nam, vừa là nơi “dung thân”, vừa là chỗ dựa để tranh giành quyền lực cùng chúa Trịnh ở phía Bắc. Hoàng Lê nhất thống chí là hiện thân sức mạnh của phong trào nông dân khởi nghĩa ở nước ta trong thế kỷ 18 đã đánh bại ba tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, đập tan mưu đồ tái chiếm Việt Nam của nhà Thanh, đưa giang sơn về một mối. Hoàng Việt long hưng chí là một bổ sung và tiếp nối của Hoàng Lê nhất thống chí. Ở đây, những nét bút còn mờ nhạt về phía chúa Nguyễn trong Hoàng Lê nhất thống chí đã được tô đậm hoặc vẽ lại một cách công phu, tỉ mỉ hơn. Nhất là quá trình Nguyễn Ánh xóa bỏ nhà Tây Sơn, nhân những lục đục không tự dàn xếp được trong nội bộ triều đình Quang Toản. Tiểu thuyết còn bao quát cả mười mấy năm tại vị của Nguyễn Ánh lúc này là Gia Long, nhằm tạo cho câu chuyện “Trung hưng” của nhà Nguyễn có một dáng vóc trọn vẹn. Dễ dàng thấy những khúc quanh quan trọng trong lịch sử Việt Nam từ cuối đời Trần đến đầu đời Nguyễn đều được các tiểu thuyết chương hồi của ta đề cập tới. Ở nhóm thứ hai, giường như có một thử nghiệm chuyển đổi về đề tài tiểu thuyết. Trước Đào hoa mộng ký, kể cả nhiều thập kỷ sau đó nữa, hễ nói đến tiểu thuyết chương hồi, người ta chỉ nghĩ đến tiểu thuyết lịch sử. Có biết đâu dưới dạng chương hồi còn có thể viết về chuyện cổ tích (các tiểu thuyết thần thoại, thần ma, thần quái), chuyện tâm lý xã hội (tiểu thuyết thế tình), chuyện trào phúng (tiểu thuyết phúng thích), chuyện tình yêu nam nữ (tiểu thuyết diễm tình, tiểu thuyết tài tử giai nhân) v.v… Vậy là để “đổi món”, Đào hoa mộng ký đã chọn đề tài tình yêu. Nhưng viết về tình yêu, không khéo vẫn cứ rơi vào sáo cũ. Từng có một số tác phẩm văn học thậm chí nổi tiếng, vẫn chưa thoát khỏi tình trạng vay mượn đề tài của nước ngoài. Đào hoa mộng ký viết: “Các truyện diễn âm phần nhiều dựa vào tiểu thuyết phương Bắc (chỉ Trung Quốc - TN) mà dịch ra tiếng phương Nam (chỉ Việt Nam - TN), ngay như Hoa tiên, Kim Vân Kiều gọi là sách của danh gia cũng không tránh khỏi. Thỉnh thoảng có một vài cuốn sách tuy hư cấu thật đấy, nhưng phải cái câu chuyện thì quê kệch, văn vẻ thì vụng về, muốn tìm cho ra một câu chuyện tươi mát, bút mục có hồn, quả là không dễ. Nào biết đâu từ thuở khai thiên lập địa tới nay, tài tử giai nhân đời nào chẳng có (…). Cứ cầm bút viết thẳng những câu chuyện ấy cùng những con người ấy, e còn chưa nói hết sự kỳ diệu của nó, hà tất phải ngược lên hàng nghìn năm trước để mượn thần thế, tìm chuyện tìm người, bằng vào đấy mà thăng hoa bút mực!”. Vậy là, cũng để canh tân, Đào hoa mộng ký đã chọn ngay một câu chuyện về người Việt Nam xảy ra trên đất Việt Nam làm đề tài sáng tác: cuộc tình duyên giữa Nguyên Sinh và Lan Nương. Nguyên Sinh người Giang Bắc, là con một cựu thần nhà Lê. Khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc, chàng theo gia đình chạy tới Giang Tây. Tại đây, Nguyên Sinh gặp Lan Nương, một ca kỹ nổi tiếng. Như có một sức mạnh huyền bí nào đó run rủi, hai bên - một trai tài, một gái sắc - bất giác cứ quấn vào nhau. Rồi trải qua một phen “bi-hoan-li-hợp”, cuối cùng họ mới hiểu hóa ra “đằng trai” là hậu thân của Kim Trọng, “đằng gái” là hậu thân của Thúy Kiều, và tất cả những người chung quanh họ không một ai nằm ngoài danh mục những kẻ mà kiếp trước vốn dĩ là nhân vật Truyện Kiều. Chẳng hạn Trần Thư tiền thân là Thúy Vân, Dư Mỗi tiền thân là Từ Hải, Huệ Nương tiên than là Đạm Tiên, v.v… Nhân vật Truyện Kiều phải sống thêm một cuộc đời nữa để chứng kiến hạnh phúc đôi lứa tròn đầy giữa Lan Nương và Nguyên Sinh dưới bóng Phật tổ từ bi, điều mà trong kiếp trước cả hai chưa thực sự được hưởng. Về phương diện nghệ thuật, các tác phẩm lệ thuộc rất nhiều vào quan niệm về “tiểu thuyết”, một vấn đề từng gây trăn trở, xáo trộn và chia rẽ không ít trong giới sáng tác phê bình văn học hồi này. Khi bàn về cách tiếp cận Đào hoa mộng ký, một tác phẩm diễm tình, Tương Giang Mai Cát Phủ viết: “Xem tiểu thuyết, phải “nhận chân” (thực sự để tâm vào) mới gọi là có “nhãn lực” lớn (biết cách xem). Đại phàm các sách “bái quan dã sử” (tiểu thuyết) xưa nay phần nhiều do các bậc tài hoa sáng tác. Có kẻ nhàn rỗi không biết làm gì, bèn rong chơi nơi bút mực. Có người tài cao nhưng chẳng gặp thời, đành lưu lạc giang hồ, bất đắc dĩ phải mượn truyện “Ô Hữu Tiên Sinh” (chuyện hư cấu) để bộc bạch sự nghiệp hoàng lương. Cũng có kẻ nói toàn chuyện hiếm thấy, cốt biểu tỏ tài năng lỗi lạc của mình. Lại có người dùng những lời lẽ mà người nghe đến phát sợ, nhằm làm vơi bớt nỗi bất bình tức uất của bản thân. Cho nên không nhất thiết phải có một nhân vật đích thực như thế, một câu chuyện đích thực như thế. Vậy mà trang giấy cứ lâm ly, ngòi bút cứ thổn thức; con người ấy, sự việc ấy, tình cảnh cứ hệt như thật, khiến người xem xúc động, tinh thần được cổ vũ, tưởng chừng như gặp Tiêu Lang, Tống Ngọc chốn thần giao, vào quán Sở lầu Tần nơi cõi mộng. Rồi bỗng dưng mà tới, bỗng dưng mà đi. Hiện hữu ư? Không hiện hữu ư? Chân thật ư? Hư cấu ư? Mắt xem đến đâu lòng hiểu đến đấy, bất cần phải phân biệt đâu là có, đâu là không, đâu là thật, đâu là giả. Sáng tác mà được như vậy, phải nói là trong văn có tranh vẽ; người đọc mà thấy được điều đó, cũng tựa thể trong mắt có ngọc châu” (ĐHMK, Q.2, phần Phê bình). Từ đoạn văn trên có thể rút ra mấy ý chính: - Đặc trưng mang tính thể loại của tiểu thuyết là hư cấu. - Nhưng sự hư cấu này vẫn có khả năng đạt tới một sự thật hơn cả sự thật ngoài đời. - Chính cái “thật hơn” đó, cái thật mang tính nghệ thuật, qua sự trừu tượng hóa, khái quát hóa… của tiểu thuyết, đã có sức mạnh truyền cảm, chinh phục trái tim và khối óc người đọc. - Người biết đọc tiểu thuyết là người tìm thấy cái mà tác giả muốn trao gửi, tức là “tâm”, chứ không phải phương tiện để trao gửi tức “văn chương”. Nhưng những người viết tiểu thuyết lịch sử lại quan niệm vấn đề theo một lối khác. Như trên kia đã nói, họ tự nguyện đem tác phẩm của họ đặt vào một góc khiêm tốn trong ngăn kéo dành cho các bộ chính sử. “Tiểu thuyết” với họ, dù được mệnh danh là “chí”, “chí truyện” hay gì gì chăng nữa, thì bất quá cũng là một dòng nhỏ, một nguồn bổ sung cho quốc sử. Mà đã là “quốc sử” thì phải “thực”, trăm phần trăm chính xác, chứ không thể là “hư”, thêu dệt, vẽ vời, dựng chuyện… Tất nhiên nói vậy thôi. Trong thực tiễn sáng tác, để thu hút người đọc, các tác giả cũng đã phấn đấu làm sao cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, tình tiết trở nên ly kỳ, nhân vật trở nên sinh động, nghĩa là đều phải gia công nghệ thuật. Cái gọi là “nhân chân” (người thật), “sự chân” (hợp tình) ở đây không ít thì nhiều đều có châm chước, xuất nhập cả. Không thế, họ đã không chọn hình thức tiểu thuyết chương hồi, một thể loại văn học thường dành cho độc giả những hồi hộp, bất ngờ thú vị và độc giả cũng không cứ phải xem tác phẩm của họ, vì đã có những bộ sử chỉnh chiện như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục… kia rồi! Ở nhóm tiểu thuyết viết về tình yêu, từ quan niệm tiểu thuyết không thể không hư cấu, tác giả Đào hoa mộng ký đã mạnh dạn sáng tạo không những về nội dung câu chuyện mà cả trong nghệ thuật trình bày. Hình thức tiểu thuyết chương hồi vừa có phần chữ Hán dành cho bình luận, vừa có phần chữ Nôm viết theo thể thơ lục bát, phải kể là một độc đáo. Ở nhóm tiểu thuyết viết về lịch sử, do biết khai thác chỗ mạnh của tiểu thuyết chương hồi, một số tác phẩm, nổi nhất là Hoàng Lê nhất thống chí, biết kết hợp “sử” với “văn”, làm cho tác phẩm tuy thực mà hư, tuy hư mà thực, nhờ vậy đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ, có thể sánh cùng các bộ tiểu thuyết lịch sử ưu tú của các nước cùng khu vực. Hoan Châu ký, một cuốn gia phả trình bày dưới dạng tiểu thuyết chương hồi, cũng có mặt sáng tạo riêng của nó. Tuy nhiên, hình tượng nhân vật trong Đào hoa mộng ký nói chung chưa sắc nét. Phần bình luận bằng văn xuôi của tác phẩm tuy có nhiều cái mới, nhưng phần sáng tác bằng văn vần thì còn lâu mới đuổi kịp Truyện Kiều, một kiệt tác mà Đào hoa mộng ký muốn vượt qua. Ở nhóm tiểu thuyết lịch sử, do không biết tận dụng mặt sở trường của tiểu thuyết là hư cấu, nên hầu hết các tác phẩm, trừ Hoàng Lê nhất thống chí và Trùng Quang tâm sử, nghệ thuật đều không cao. Ở Đây hình tượng nhân vật thường khô khan, văn vẻ kém hình ảnh và ít khả năng gợi cảm. Riêng Việt Lam xuân thu tuy có chú ý hơn đến vấn đề hư cấu, nhưng một số chỗ lại quá đà, làm cho tính chất “truyền kỳ” của tiểu thuyết lấn át tính chất “truyền tín” của chính sử, ảnh hưởng đến niềm tin của độc giả. Thí dụ tác phẩm đã dựng lên chuyện Lê Lợi hợp tác với giặc Minh để tiêu diệt nhà Hồ, là điều không thể nào xảy ra ở một nhân vật mà tác giả vốn xem như biểu tượng của sự trầm tĩnh, khôn ngoan, kiên định. Những hạn chế trên đây thật ra không khó hiểu đối với tiểu thuyết chương hồi Việt Nam, một nền tiểu thuyết còn nhiều no trẻ. Dẫu sao thì mảng tiểu thuyết này cũng đã mang lại cho người đọc những hiểu biết nhất định về lịch sử dân tộc được trình bày một cách không quá khô khan “khó ngốn” như sử, góp phần nào nhu cầu thưởng thức văn học nói chung(16). CHÚ THÍCH (1) Trên Tạp chí Nam phong, từ số 48, Nguyễn Hữu Tiến có dịch và giới thiệu bộ tiểu thuyết chương hồi nhan đề Lĩnh Nam dật sử mà theo lời tựa của sách thì tác phẩm này do Trần Nhật Duật người đời Trần dịch từ chữ Hán ra Hán văn. Nhưng đúng như Nguyễn Đổng Chi, tác giả Việt Nam cổ văn học sử từng cảm nhận: “Xét câu văn và lối sắp đặt thì còn hồ nghi lắm” (VNCVHS, Nxb. Hàn Thuyên, 1942, tr.273). Gần đây, chúng tôi độc cuốn Trung Quốc thông tục tiểu thuyết thư mục của Tôn Giai Đệ. Tác giả xuất bản xã, Bắc Kinh, 1958, ở tr.150 có giới thiệu lai lịch bộ sách đỏ như sau: “Lĩnh Nam dật sử 28 hồi, khắc in vào năm Gia Khánh thứ 14 (1809) đời nhà Thanh. Hiện còn loại bản khổ nhỏ, ngoài bìa đề “Lâu Ngọc Lâu tàng bản”. Một loại bản khổ nhỏ khác ngoài bìa đề “Văn Đạo Đường tàng bản”. Sách do Hoàng Nại Am người đời Thanh soạn. Trong sách có ghi Hoa Khê Dật Sĩ biên thứ: Túy Viên Cuồng khách bình điểm; Trác Trai Trương Khí Giã và Trúc Viên Trương Tích Quang đồng tham hiệu. Đầu sách có bài tựa của Tây Viên Lão Nhân viết năm Giáp Dần, Càn Long thứ 59 (1794), một bài tựa nữa của Trương Khí Giã. Bản Văn Đạo Đường thiếu hai bài tựa trên, nhưng lại có bài tựa của Lý Mộng Tùng viết năm Tân Dậu, Gia Khánh thứ 6 (1801) và một bài Phàm lệ gồm 4 mục. Nại Am người Quảng Đông. Tên thực cũng như quê hương bản quán, chờ tra cứu”. Có thể thấy bản Lĩnh Nam dật sử viết tay hiện tàng trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.856/1-3, cuốn mà Nguyễn Hữu Tiến đã dựa vào để dịch, chỉ là một “ngụy tác” hay đúng hơn, đánh tráo một bộ tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc. (2) Hoan Châu ký, Nguyễn Thị Thảo dịch, GS Trần Nghĩa khảo đính và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 1988. (3) Hoàng Xuân Hãn, trong bài Đúng 300 năm trước (Tập san Sử Địa, số 26 Sài Gòn, 1974), dựa vào Quốc triều hương khoa lục, cho rằng “Tri huyện Giản” tên thực là Nguyễn Giản, người xã Yên Định, huyện Thụy Anh, xứ Sơn Nam (nay thuộc Thái Thụy, Thái Bình), đỗ Hương cống năm 1807, làm quan đến Án sát. Cũng trong bài viết trên, dựa vào Đại Nam thực lục Chính biên, ông cho giữ chức Tham hiệp trấn Sơn Tây đầu đời Nguyễn (Dẫn theo Nam triều công nghiệp diễn chí, Bd lại có sửa chữa của Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga, Ngô Đức Thọ giới thiệu, sách sắp xuất bản). (4) Trịnh Nguyễn diễn chí, Ngô Đức Thọ dịch, Sở VH - TT Bình Trị Thiên xuất bản, 1986; Mộng bá vương, Ngô Đức Thọ dịch, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1990. (5) Bd. của Cát Thành xuất bản năm 1912; Bd của Ngô Tất Tố xuất bản năm 1942, tái bản năm 1958; Bd. của Nguyễn Đăng Tấn - Nguyễn Công Liên xuất bản năm 1950 dưới tiêu đề Hậu Lê thống chí; Bd. của Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch xuất bản năm 1964, tái bản vào các năm 1970, 1984. (6) Hoàng Việt long hưng chí, Ngô Đức Thọ, Mai Xuân Hải, Nguyễn Văn Nguyên dịch, Ngô Đức Thị giới thiệu và chỉnh lý. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993. (7) Bd. của Trần Lê Hữu, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1957, dưới tiêu đề Hậu Trần dật sử; Bd của Nguyễn Văn Bách, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1971, dưới tiêu đề Trùng Quang tâm sử. (8) “Bái” trong “Bái quan dã sử” nguyên nghĩa là “gạo tấm”. “Bái quan”, theo Nhan Sư Cổ, chỉ chức quan nhỏ do triều đình cử về các địa phương để tìm hiểu, phong tục tập quán cùng lời ăn tiếng nói ở nông thôn, ghi lại và tâu lên cho vua biết. Những tư liệu ghi lại đó gọi là “bái quan dã sử” hay “bái quan tiểu thuyết” - những câu chuyện vụn vặt, “tấm mẳn” thu lượm được từ nơi thôn dã. “Ngoại sử” là cách gọi khác của “bái sử” (bái quan dã sử) hay “tiểu thuyết”. (9) Thậm chí đến năm 1941, khi Dương Quảng Hàm đưa in bộ Việt Nam văn học sử yếu, trong sách còn xếp Hoàng Lê nhất thống chí vào thể loại “truyện ký”, bên cạnh Lĩnh Nam chích quái, Truyền kỳ mạn lục, Thượng Kinh ký sự… (xem Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, tr.288 - 289). (10) Trong kho thư tịch Hán Nôm Việt Nam hiện có một cuốn sách nhan đề Lưu Kính thoại bản, mang ký hiệu AB.594, soạn theo thể văn kể chuyện, mỗi câu 6 chữ, nhưng không thuộc ngôn ngữ văn học khu vực thời cổ tức Hán ngữ, mà thuộc về ngôn ngữ văn học dân tộc Việt Nam tức văn Nôm. Vả chăng loại “thoại bản” như thế này ở nước ta cho đến nay chưa thấy có trường hợp thứ hai. (11) Bao gồm thần tích thuộc các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Đông, Hà Nam, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Kiến An, Lạng Sơn, Nam Định, Ninh Bình, Nghệ An, Phú Thọ, Phúc Yên, Quảng Yên, Sơn Tây, Thái Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Vĩnh Yên dưới triều Nguyễn. (12) Tam quốc diễn nghĩa: do La Quán Trung (1330 - 1400?) người đời Minh soạn. Bản in sớm nhất hiện còn là bản ấn hành vào năm 1522, thời Minh Gia Tĩnh. Đây là bộ tiểu thuyết lịch sử dài viết theo kiểu chương hồi đầu tiên của Trung Quốc, nội dung kể lại quá trình từ hưng thịnh đến suy vong của ba nước Ngụy, Thục, Ngô. (13) Thủy hử: do Thi Nại Am (1296? - 1370?) người đời Minh soạn, nội dung kể lại cuộc khởi nghĩa nông dân cuối thời Bắc Tống, do Tống Giang lãnh đạo. (14) Kim Vân Kiều truyện : do Thanh Tâm Tài Nhân, người đời Thanh soạn, gồm 20 hồi. (15) Hạnh hoa thiên: do Cổ Đường Thiên Phóng Đạo Nhân, người đời Thanh soạn, gồm 14 hồi. Đào hoa mộng ký có dẫn. (16) Đào hoa ảnh: do Từ Chấn, người đời Thanh soạn, gồm 12 hồi. Đào hoa mộng ký có dẫn. (17) Riêng bộ Lĩnh Nam dật sử 28 hồi hiện có trong kho sách Viện Hán Nôm, ký hiệu A.856/1-3, ghi: “Ma Văn Cao hiệu Dịch Sơn Động Sĩ người vùng sông Đà sáng tác, Nhật Duật tức Chiêu Văn Vương dịch và đề tựa năm Hưng Long Đinh Dậu (1297), Quốc Toản tước Hoài Văn Hầu hiệu chính, Trương Hán Siêu hiệu Thặng Am bình luận”. Đây chỉ là một ngụy tác như trên kia đã chứng minh. Trên thực tế, Việt Nam không có và không thể có một cuốn tiểu thuyết chương hồi nào ra đời trước Tam quốc diễn nghĩa và Thủy hử. (18) Khi viết bài này, tôi có tham khảo một số chỗ trong bộ sách Trung Quốc cổ điển văn học từ điển do PTS. Trịnh Khắc Mạnh cho mượn. Nhân đây, xin cảm ơn PTS. Riêng bộ Lĩnh Nam dật sử 28 hồi hiện có trong kho sách Viện Hán Nôm, ký hiệu A.856/1-3, ghi: “Ma Văn Cao hiệu Dịch Sơn Động Sĩ người vùng sông Đà sáng tác, Nhật Duật tức Chiêu Văn Vương dịch và đề tựa năm Hưng Long Đinh Dậu (1297), Quốc Toản tước Hoài Văn Hầu hiệu chính, Trương Hán Siêu hiệu Thặng Am bình luận”. Đây chỉ là một ngụy tác như trên kia đã chứng minh. Trên thực tế, Việt Nam không có và không thể có một cuốn tiểu thuyết chương hồi nào ra đời trước Tam quốc diễn nghĩa và Thủy hử. Lĩnh Nam dật sử : tác giả Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Các thông tin sau thời Trần Nhân Tông có trong cuốn truyện này (rất ít và cực kỳ tinh vi) là được sửa đổi và thêm thắt vào để chứng tỏ được sáng tác vào thời Minh.Cuốn Lĩnh Nam dật sử hàm ý các cuốn tiểu thuyết chương hồi có nguồn gốc Lĩnh Nam, hay nói đúng hơn là Đại Việt chứ tên gọi này không ăn nhập vào nội dung cuốn truyện. Ý nghĩa này giống như cuốn Lĩnh nam chích quái vậy.Trong cuốn Lĩnh Nam dật sử này, có đề cập đến các nhân vật quan trọng nhất trong các cuốn sách Thủy Hử, Tam Quốc Chí, Tây Du Ký, Tùy Đường diễn nghĩa như là những cuốn tiểu thuyết của Đại Việt. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 4, 2013 Thi Sách là người huyện Chu Diên, quận Giao Chỉ. Năm 20 tuổi, ông cưới Trưng Trắc (con gái lạc tướng huyện Mê Linh), làm vợ. Bất bình chế độ cai trị của nhà Đông Hán, Thi Sách (lúc bấy giờ đang làm Huyện lệnh huyện Châu Diên[2]) bèn vận động nhân dân cùng nổi lên chống lại. Theo giúp ông có lắm người giỏi việc quân, như Đô Dương, Lê Đình Lượng, Phùng Thị Chính,... Năm Giáp Ngọ (34), Tô Định sang thay Tích Quang làm Thái thú quận Giao Chỉ, làm nhiều điều bạo ngược, Thi Sách gửi thư đến cảnh cáo. Tô Định đem đại quân đến đàn áp, ông bị giết chết năm Kỷ Hợi (39). Tháng Hai năm sau (40), vợ ông là Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị nổi dậy đánh đuổi được Tô Định, trả được nợ nước, thù nhà. Sau, khi chép về cuộc khởi nghĩa này, Hậu Hán thư đã khen Thi Sách là người “rất hùng dũng”[3]. Theo Nại Tử xã Thần miếu sự tích Thi Nại Am Thủy hử nguyên gốc tại xã Hồng Hà, Đan phượng, Hà Nội(Trang 8 - 12) có ghi như sau:Dương Thi Sách là người Chu Diên là con của Lạc tướng Dương Thái Bình, mẹ là Hồ Thị Nhữ, sinh ngày mùng 10 tháng 6. Nhe nói Ả Lã Nàng Đê (Trưng Trắc)là người có nhan sắc kiều diễm mà vẫn chưa lấy chồng bèn nói với Lạc tướng, Lạc tướng nói rằng: Ta và Lạc tướng Phong Châu trước đã có nguyện ước. Nay nghe có nàng Ả đó phải chăng là duyên tiền định vậy. Bèn cho người đến hỏi đón về( tức ngày mùng 10 tháng 11). Ở đất Chu Diên hai họ đều cùng vui mừng. Bấy giờ có người phương Bắc là Tô Định giữ chức Thái thú Giao Chỉ là người cai trị bạo ngược hà khắc, tạp dịch nặng nề khiến người phương Nam không khỏi lầm than oán thán. Tô Định rượu chè vô độ nghe nói có con gái của Lạc tướng đất Mê Linh là Trưng Ả Nương là người có sắc đẹp hơn người. Hắn liền đem quân đến đóng ở bên sông, rồi xông hẳn vào đất Mê Linh hỏi Trưng công. Trưng công cứ thực mà kể lại, nói rằng:Một người con gái há được được gả cho hai người tài giỏi chăng? Tô Định từ tạ rồi ra thu binh mã tiến thẳng đến Chu Diên tới nhà Dương Thi để hỏi. Thi Sách tuy xuất thân học trò song cũng nổi tiếng thao lược, bèn kháng cự lại, đôi bên mắng rồi đánh nhau. Khi đó Tô Định lập mưu trước tiên dùng khí giới mà Dương Sách thì tay không. Thi Sách tuy có chí dũng há, song sao có thể lấy sức bọ để đánh lại với vạn cỗ xe xe vậy. Ông thua chạy đến Tử Khê mà Dương công đường cùng vậy ( tức ngày 11 tháng 12 thì hoá ). Dương Công đã chết. Tô Định tìm giết hết họ hàng nhà Dương công, Trưng nữ vương bèn chạy về đất Mê Linh bàn bạc nói rõ sự tình của Thái thú. Lạc tướng Trưng công liền chiêu mộ binh sỹ tinh nhuệ làm quân tiên phong. Trưng nữ vương vì căm ghét To Định là kẻ tham tàn bạo ngược giết chồng mình nên đã dấy quân đến hỏi tội Tô Định. Sau đó đánh chiếm được 65 thành ở vùng Lĩnh Nam, rồi lên ngôi vua, tôn phong cho chồng là Quốc vương Thiên tử Đông Hán Đại vương, còn mình thì tự xưng là Quốc Thiên tử, coi tên Ả Lã Nàng Đê là tên thụy. Thời Đông Hán lệnh cho Mã Viện đến xâm chiếm, Trưng vương đánh nhau ở đất Lãng Bạc. Đánh nhau với Mã Viện từ đầu đến cuối là hơn 150 trận Vương biết tình thế không thể chống đỡ được, nên rút về đóng giữ ở Tử Khê, lập miếu thờ Dương công.Phường Tử Khê, Nại Tử vốn là nơi Dương Công Thi Sách bại trận chạy đến Châu Vi mà chết ở địa phận Nại Tử. Trưng nữ khôi phục lại đất nước, lên ngôi ban cho phường Nại Tử không phải đóng tô thuế, phu dịch. Phường Tử Khê, Nại Tử vâng mệnh. Cho họp các quan tôn Dương công làm Quốc vương Thiên tử Đại vương, ở thời Đông Hán xưng là Đông Hán Đại vương... Thi Nại Am (Nại Am Tử) là bút danh của Bồ Tát Nguyễn Minh Không, với tác phẩm Thủy Hử chính là hàm ý Nại Tử xã Thần miếu sự tích ở trên. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 26 Tháng 4, 2013 Bài 2: Những bức tượng cổ chưa từng thấy trên thế giới 21:30 07/06/2011 (ĐNĐT) - Nhiều khả năng từ hơn 2.000 năm trước đã tồn tại một mối giao lưu từ rất xa đến với vùng di chỉ khảo cổ, văn hóa Đông Sơn. Ảnh chụp bức tượng người đàn ông châu Phi lõa thể được tìm thấy lần đầu tiên tại Đông Sơn (Thanh Hóa) năm 1970 (trái) và Phiên bản bức tượng người phụ nữ châu Phi được người dân Đông Sơn đem đến Viện Khảo cổ học năm 1980 Tiếp tục câu chuyện về bức tượng đồng người đàn ông châu Phi lõa thể trong bộ sưu tập của ông Lâm Dũ Xênh (xã Bình Đông, Bình Sơn, Quảng Ngãi), TS Nguyễn Việt - Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á cho hay, khoảng năm 1970, Viện Khảo cổ học khai quật lại di chỉ khảo cổ Đông Sơn (Thanh Hóa). Những phát hiện từ 30 năm trước Tại đây, GS Diệp Đình Hòa được dân làng Đông Sơn cho xem và chụp ảnh một số hiện vật tìm thấy từ các ngách đá núi ven làng. Trong đó có bức tượng đồng màu xanh, đen cao khoảng 12cm, tạo hình theo lối khuôn sáp, thể hiện một thanh niên tóc xoăn ngắn, mắt lồi, miệng nhô, trên mỗi bên má có hai vách ngăn song song như cách người da đỏ Nam Mỹ trang trí trên mặt. Bức tượng ở trần, thể hiện tư thế rất lạ: chân phải đứng thẳng, chân trái vắt lên cao được nâng đỡ bởi cánh tay trái, còn cánh tay phải vòng cong như cùng với chân, tay trái ôm che một vật gì đó. Đặc biệt, bộ phận dương vật phóng đại rất lớn. Phần cổ và thắt lưng hiện hai đường ngấn lõm cùng cách để lộ dương vật và hoa vú cho thấy đây là tượng khỏa thân. Bên cạnh đó là hàng loạt yếu tố kỹ thuật rất đặc trưng khiến bức tượng khác hẳn mọi nền nghệ thuật đã phát hiện ở Việt Nam cũng như trên thế giới. "Sự khác lạ đó và việc bức tượng phát hiện ngẫu nhiên khiến dường như không nhà nghiên cứu nào lưu tâm tìm hiểu và công bố. Nhưng dù được làm ở đâu thì sự hiện diện của nó ở Đông Sơn là một điều hiển nhiên đến kinh ngạc!" - TS Nguyễn Việt nói. Đến năm 1977, trong công bố chung về một số nhận thức mới rút ra từ cuộc khai quật Đông Sơn năm 1970, các tác giả Diệp Đình Hòa và Chử Văn Tần mới lần đầu tiên công bố ảnh chụp bức tượng nhằm gợi ý về khả năng tồn tại từ hơn 2.000 năm trước một mối giao lưu từ rất xa ở vùng đất Đông Sơn. Đúng 10 năm sau, một ông già từ Thanh Hóa đem theo một bức tượng đồng đến Viện Khảo cổ học với hy vọng Viện sẽ mua lại. Theo lời ông, đó là hiện vật người dân đào được ngẫu nhiên trong vườn nhà tại làng Đông Sơn, nơi phân bố di tích văn hóa Đông Sơn. Viện Khảo cổ không được phép mua lại những hiện vật như vậy nhưng đã kịp chụp ảnh và làm một khuôn silicon phiên bản. Đó là một bức tượng nữ có kích thước gần bằng bức tượng nam nói trên, chất liệu đồng xanh nâu, còn khá nguyên ven, chỉ có phần nửa đùi chân bên trái bị gãy. Khuôn mặt của pho tượng này cũng thể hiện rõ những đặc tính "Phi châu": môi dày, nhô, mắt lồi, trên hai má đều có hai đường rạch ngắn song song. TS Nguyễn Việt cho hay: "Có thể nói, hai bức tượng giống nhau hoàn toàn về kỹ thuật chế tác và phong cách nghệ thuật. Theo sự phục dựng của tôi thì đó là một cụm tượng đôi rời nhau. Trong đó, tượng nữ mặt ngửa lên trời, hai chân như muốn khép, một tay che mặt, một tay che bộ phận sinh dục nằm gọn trong vòng tay, chân của pho tượng nam. Quả là một sự hội ngộ kỳ thú. Hoặc cũng có thể khi phát hiện, người dân đã tìm thấy cả một đôi nhưng giấu đi một chiếc?". Hé mở mối giao lưu tiền sử kỳ bí Từ khi sang làm nghiên cứu sinh ở Đức năm 1984 đến nay, TS Nguyễn Việt luôn mang ảnh bức tượng nam và phiên bản bức tượng nữ bên mình. Qua hàng trăm lần thăm các bảo tàng và hội nghị quốc tế, ông đều đưa ra hỏi, hy vọng phát hiện nơi nào đó trên thế giới có cùng phong cách tạo tượng như vậy, song chưa lần nào nhận được lời chỉ dẫn thuyết phục. Lần gần nhất, những vật này được TS Việt đưa ra hỏi các đồng nghiệp trên thế giới là mùa hè 2008, khi ông tham dự Đại hội Khảo cổ học thế giới lần thứ 6 tổ chức ở Dublin (Ireland). Vẫn không có bất kỳ tín hiệu nào về nguồn gốc đôi tượng này. "Tính đến nay đã gần 25 năm ròng rã tôi đi tìm gốc rễ của bức tượng. Và rồi bất ngờ đã xảy đến khi tôi được nhà sưu tập Lâm Dũ Xênh cho xem bức tượng ở nhà ông. Một bất ngờ không thể giải thích được nguyên do đã hé mở con đường tìm ra mối giao lưu tiền sử kỳ bí vào loại nhất trong cuộc đời hơn 40 năm học tập, khai quật và nghiên cứu khảo cổ học của tôi" - TS Nguyễn Việt tâm sự. Ông cho hay, tuy hai tay và dương vật của bức tượng này đã gãy nhưng những chi tiết còn lại hoàn toàn trùng khớp với phong cách kỹ thuật, nghệ thuật của hai bức tượng tìm được ở Đông Sơn. Điểm dễ nhận ra nhất tính họ hàng, không thể trộn lẫn của ba bức tượng này là ở hai đầu nhô xoắn đinh vít dưới bàn chân. Riêng khuôn mặt thì có thể nói ba bức tượng thực sự là một gia đình. Khuôn mặt vát má, nhọn cằm với hai đường rạch song song hai bên má. Mắt lồi, môi dày, miệng nhô của cùng một mẹ sinh ra. "Ba bức tượng này mang phong cách rất lạ ở Đông Nam Á và cũng chưa từng thấy nơi nào trên thế giới có những bức tương tự cả về phong cách nghệ thuật, trình độ kỹ thuật lẫn nội dung. Có bức rõ ràng tìm thấy ở di chỉ Đông Sơn nhưng không ai cho rằng nó thuộc văn hóa Đông Sơn. Chúng tôi thấy trình độ đúc đồng, khắc, làm tượng rất cao. Vì vậy ngờ rằng khoảng đầu Công nguyên đã có những tiểu quốc người châu Phi da đen đến nước ta và vùng phân bố rất rộng, khởi đầu từ Đông Sơn (Thanh Hoá) rồi theo các nhóm người di cư vào đến tận Sa Thầy (Kon Tum)". Trên thực tế, tại vùng Sa Thầy gần đây đã phát hiện được nhiều di vật liên quan đến văn hóa Đông Sơn, trong đó phải kể đến nhiều chục trống đồng cổ. Đến lúc này TS Nguyễn Việt mới có thể thờ phào, bởi dẫu bức tượng người châu Phi loã thể mà ông Lâm Dũ Xênh sưu tập được là bức duy nhất còn lại sau khi hai bức tìm thấy trước đó đang lưu lạc nơi nào không rõ thì cuối cùng một tia sáng le lói cũng đã hiện ra trên con đường truy tìm những sứ giả kỳ bí đã đến với Đông Sơn. Ông cho biết, gần đây có một số tài liệu cho thấy cách đây mấy chục nghìn năm có làn sóng người châu Phi di chuyển dần sang Đông Nam Á. Hiện còn tồn tại một số nhóm người da nâu đậm, tóc xoăn ngắn như những người Xê Mang, Negrito ở Malaysia, Philippines. "Liệu chăng trong quá khứ, tổ tiên của họ từng làm thành những bộ lạc hay tiểu quốc hùng mạnh ở vùng lục địa Đông Nam Á và sáng tạo ra nghệ thuật tượng khỏa thân rất sinh động như ba bức tượng trên?" - ông đặt câu hỏi. Và đó cũng là định hướng để ông và các đồng nghiệp tiếp tục tập trung nghiên cứu Sa Thầy và các vùng phụ cận với mục tiêu tìm ra cội nguồn xuất xứ của những sứ giả xa xăm và kỳ bí này. TIN LIÊN QUAN Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 4, 2013 SỰ THẬT & TRUYỀN THUYẾT CỦA TRÚC LÂM ĐẠI SĨ XUẤT SƠN ĐỒ Phật Hoàng Trần Nhân Tông Nhận thấy, tầm quan trọng của Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ trong lịch sử và văn hóa Việt Nam nên BBT TCMT đã đăng bài giới thiệu tới bạn đọc. Vì bài viết có nội dung sâu sắc, hàm chứa nhiều chi tiết đắt giá nên Nhà nghiên cứu Trịnh Quang Vũ đã diễn giải rất chi tiết, vì vậy bài nghiên cứu có hơi dài so với quy định số trang của Tạp chí. BBT TCMT trích đăng làm 2 kỳ số 242 (2-2013) và 243 (3-2013). Xin mời bạn đọc theo dõi. Trong lịch sử nước ta có một số bức tranh cổ gần 700 năm thời Trần được viết trong cuốn Lược sử Mỹ thuật Việt Nam năm 2001, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin: Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ dài 3,1m, rộng 0,4m. Bức tranh cuộn Họa thư cổ này có một sức sống mãnh liệt tồn tại qua nhiều giai đoạn lịch sử chiến tranh khốc liệt, qua nhiều triều đại còn lại đến ngày nay là báu vật lưu hi hữu trên đời của Đại Việt. Bức Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ với nội dung về vua Trần Nhân Tông dời núi Vũ Lâm được Trần Giám Như vẽ năm 1363, nay được lưu giữ tại bảo tàng Liêu Ninh -Trung Quốc. Do thời buổi kinh tế thị trường, công ty đấu giá quốc tế Poly (Bảo Lợi – Bắc Kinh) tổ chức đấu giá các tinh phẩm thư họa, trong đó có bức Trúc Lâm Đại sĩ (nguyên do một công ty ở Bắc Kinh năm 2006 phối hợp với Bảo tàng Liêu Ninh phục chế những kiệt tác mỹ thuật trong cố cung triều Thanh để triển lãm năm 2006). Tuy là bản phục chế nhưng đã được mua với giá cao bất ngờ 1,8 triệu USD gây chấn động, xôn xao nhất là đối với các nhà nghiên cứu. Ông Lý Bách Lâm Phó viện trưởng Viện nghiên cứu thư họa Trung Quốc hoàn toàn bị bất ngờ. Ông cho là “hiện tượng phi lý tính”, đấu được giá bất thường, rất cao ngoài dự liệu. Chủ nhân mua bức họa phẩm này giữ kín tên để bảo vệ bức tranh. Giá trị nghệ thuật bức tranh Trúc lâm đại sĩ xuất sơn đồ Bức tranh cuộn theo lối hiện thực, cụ thể Vẽ Phật hoàng Trần Nhân Tông tu ở động Vũ Lâm dời núi. Bố cục tranh gồm 2 trường đoạn: Trường đoạn 1: Trúc Lâm đại sĩ xuất núi. Ngài ngồi trên kiệu võng đốt trúc đã xuống tóc, tuổi trạc 50, trán cao, mày dài, ánh mắt sáng ngời thông tuệ, nhân từ, ngồi tọa thiền, mặc áo cổ tràng vạt, tay phải lần tràng hạt, xung quanh có đoàn tùy tùng, kẻ vác lọng tết bằng lá cọ, người gánh theo bộ đồ uống trà, kẻ cầm gậy long trúc, các nhà sư người Hồ mặc áo trật vai, thiền phái Nam tông, có hạc dẫn đường. Theo phía sau là đạo sĩ Lâm Thời Vũ cưỡi “đâu tử”, người tâm giao với Đại sĩ phía sau. Các lão sư người Hồ dung mạo khác thường, đầu hói, râu quai nón, dáng điệu thanh nhã, khoan thai, người cầm tích trượng, người bưng sách kim sách, đặc biệt có vị đại sư kém mắt được dẫn qua cầu đá, gió lộng thổi bay áo thiền, làm lộ rõ đôi vòng bạc ở cổ chân nơi Ấn Độ xa xôi, tất cả đều đi chân không. Theo đoàn có voi trắng chở kinh, trang hoàng lộng lẫy cầu kỳ với đôi ngà cong dài, các dải ruy băng trang trí gắn các hạt châu, hoa cúc, đỉnh đầu voi trắng có gắn hình hoa sen cách điệu và chạm mặt trời. Trên lưng voi phủ thảm xứ Ba Tư, trên đặt bành voi hai tầng, chạm khắc hình trang trí rộng, các giao điểm ruy băng gắn hoa cúc to treo 37 chao lông, lục lạc, chuông đồng rất mĩ lệ. Cách trang trí thời Trần mang đặc điểm mỹ thuật Đại Việt phong cách Đông Nam Á, rất giống với trang trí voi ở Thái Lan, Campuchia, Myanma ngày nay. Nền tranh mây núi chập chùng, xa xa sông Ngô đồng lấp lánh, sóng vỗ, bờ sông dập dờn hoa lau, cây ngô đồng, thông già trơ gốc… Trường đoạn II: Vẽ quan tứ trụ triều đình đứng tiền trạm, hoàng đế Trần Anh Tông nghênh đón vua cha cùng bách quan, quân lính mang kiệu, lọng, voi ngựa, rước phật hoàng về kinh đô trước khi ngài ra Yên Tử. Tranh vẽ đoàn người dài có nhịp điệu, vẽ rất chi tiết về nghi chế nghênh đón của thời Trần: kiệu lọng ba tầng tay ngai chạm trổ hình rồng mây thời Trần, các nét chạm khắc tầng lớp, ô hộc tỉ mỉ, ngai tựa hình lá đề. Các loại đòn khiêng, kiệu mái, kiệu võng đều chạm rồng mây. Đặc biệt ngai kiệu hoàng đế trang trí dầy đặc ba tầng, tua lọng ngai to lớn, thắt quả bồng có hình lá đề kép cùng đôi tay ngai chạm rồng mây. Xung quanh là các võ sĩ khiêng kiệu đội mũ lục lăng, quân cẩm y vệ cầm thiết chùy, côn, thiết giản đứng hầu cùng con bạch mã thắng yên cương, trên phủ một tấm gấm lớn. Một nội thị đòn gánh chạm rồng mang theo lò đun nước pha trà theo đoàn tùy tùng. Trong bức tranh lịch sử này họa sĩ đã thể hiện rất rõ về hình ảnh trang phục thời Trần (Đại Việt sử ký toàn thư). Hoàng đế Anh Tông nét mặt nghiêm cẩn, dáng vóc đường bệ, buộc khăn trên búi tóc bỏ núi phía sau, áo hoàng bào kép 5 thân tay thụng, cổ tròn hai lớp, quần dài chân đi giày cao cổ. Bách quan mặc áo gấm tía tay thụng, mũ chữ đinh kiểu lục lăng, có tai mũ quấn cong ra sau, đi giầy da. Các quân cẩm y vệ (thân quân) vác bảo kiếm hộ vệ, một đại quan vác thượng phương bảo kiếm đứng hầu. Bố cục toàn bức tranh diễn tả phong cảnh thiên nhiên Ninh Bình hùng vĩ, với các dãy núi cao xa mờ, mây vờn núi, đoàn người ven theo đường nhỏ, vách núi dọc theo sông Ngô Đồng có nhiều loại cây cỏ, hoa lá tươi tốt xum xuê. Bên đường những cây Ngô đồng, thông già, cây sưa cổ thụ, gốc rễ xù xì, với những thân cây nghiêng ngả, trơ cành cùng những khóm trúc ngả nghiêng theo gió cuốn theo rực rỡ, hoa cỏ xứ nhiệt đới phương Nam. Họa sĩ là người rất am hiểu, quen thuộc thiên nhiên Vũ Lâm, nên đã miêu tả những nhân vật trong tranh cùng với phong cảnh Vũ Lâm, dưới nét bút thần diệu phong cách đồ họa Việt, có đường nét viền là chủ yếu khi vẽ trúc, vẽ đá khác với lối thủy mặc của Trung Quốc là đậm nhạt hòa cùng, tạo nét chấm phá (không có đường viền ngoài) tạo mảng trong không gian. Cách vẽ đường viền từ diễn tả cây, hoa lá, dáng điệu người cùng voi, ngựa, kiệu võng cho thấy rõ ràng, đường nét hình mạnh, liên tục chuẩn mực làm rõ chi tiết trang trí Việt cổ. Động Vũ Lâm căn cứ chỉ huy cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Năm Giáp Ngọ Hưng Long thứ 7 (1294) Đại sĩ về thăm lại Vũ Lâm- Bích động. Năm sau (1295) Đại sĩ về lại Động Vũ Lâm tu hành, Ngài đã làm bài thơ “Vũ Lâm thu vãn”. Bài thơ đó như sau: Hoa kiều đảo ảnh trám khê hoành Nhất mạt tà dương thủy ngoại minh Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc Thấp vân như mộng viền chung thanh Nghĩa là: Lòng khe in ngược bóng cầu hoa Hắt sáng bờ khe vệt nắng tà Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ Mây giăng như mộng tiếng chuông xa (PGS- TS Trần Thị Băng Thanh dịch (thơ văn Lý Trần) Hình ảnh thơ Vũ Lâm thu vãn của Phật hoàng đã được họa sĩ sáng tác từ cây cầu đã bắc qua bờ khe của sông Ngô Đồng ở hành cung lúc chiều tà, non nước rơi đầy lá đỏ, nghe tiếng chuông chùa Sở ở Văn lâm do vua Trần Thái Tông xây. Thời Thái Tông đã cho mở bến thuyền, gọi là bến Thánh, phía trái sông Ngô Đồng nơi hai trái núi đứng sát bờ sông. Núi đứng bên còn gọi là Bến Thánh. Năm Bảo Phù (1273-1278) vua Trần Thái Tông cho xây cung điện Thái Vi. Phong cảnh thiên nhiên ở động Vũ Lâm tuyệt đẹp đã được họa sĩ vẽ làm nền tranh, bố cục khéo léo, tạo nhịp điệu sống động khi Trúc Lâm đại sĩ xuất núi trở thành một họa phẩm lịch sử đầy ấn tượng, chuyển tài nhiều thông điệp văn hóa của thiền phái Trúc Lâm ban đầu. Những nhân vật lịch sử: Phật hoàng Trần Nhân Tông, đạo sĩ Lâm, các nhà sư người Hồ, vua Anh Tông cùng đoàn tùy tùng nghênh đón, cho ngày nay thấy rõ cụ thể di ảnh lịch sử của quá khứ, từ trang phục, nghi chế, quân lính, voi ngựa cách đây ngót 700 năm là vô cùng quý giá. Bức tranh đã được đánh giá cao ở Trung Quốc là báu vật thư họa lưu giữ trong cố cung nhà Thanh và bảo tàng Liêu Ninh. Điều đó càng chứng minh giá trị về tranh đề tài lịch sử được lưu giữ bằng hội họa của mỹ thuật Đại Việt thời Trần. Hiện nay, đền Thái vi còn bia dựng năm Vĩnh Thịnh 11 (1715) thời Lê Trịnh viết: “Nơi đây sơn thủy hữu tình, quả như Bồng Lai xuất hiện. Vua cho xây cung điện, thập phương noi theo. Phía phải, suối khe khuất khúc, nước bạc lấp lánh. Phía trái núi non trùng điệp đã xếp chênh vênh… đẹp tựa thiên đình”. Những bí mật chìm nổi của bức họa thư Trúc lâm đại sĩ xuất sơn đồ Hoàng đế Trần Anh Tông đón Phật Hoàng Nguồn gốc xuất hiện của bức họa thư tàng ẩn nhiều bí mật của lịch sử. Cuối thế kỷ XIII, quân Mông Cổ đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn, quân Tống đại bại. Tả thừa tướng Lục Tú Phu cõng vua Tống nhảy xuống biển chết. Hậu cung và các quan chết theo rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 10 vạn xác chết trôi nổi trên mặt biển. Xác vua Tống cũng có trong số đó (Đại Việt sử ký toàn thư trang 45 tập II). Hốt Tất Liệt diệt xong nhà Nam Tống đặt ách thống trị trên toàn Trung Hoa lập ra nhà Nguyên. Trong cảnh mất nước các nho sĩ người Hán bị nhấn chìm dưới đáy xã hội, giới nho sĩ văn nhân thành lập hội tương tế. Nhà Nguyên xếp nhà nho dưới gái điếm (Hội họa cổ Trung Hoa NXB Mỹ Thuật/T140-1993), kẻ sĩ bị bạc đãi. Hội họa Nguyên không có gì đặc sắc. Trong hoàn cảnh đó các tác phẩm hội họa được coi là sản phẩm kiếm sống, khởi sinh ra một phong cách “văn nhân họa” còn gọi là đại phu họa (hội họa của các đại phu). Tuy nhiên, vẫn nổi lên Triệu Mạnh Phủ, sau này có Nguyên tứ gia: Hoàng Công Vọng, Ngô Trấn, Nghê Toản và Vương Mông. Họ đều là người vùng Giang Nam chuyên vẽ Sơn thạch, thủy mặc và trúc thạch mang phong cách ẩn sĩ. Ngoài ra còn hàng chục họa sĩ cũng theo lối này. Cuối triều Nguyên (giữa thế kỷ XV) nhà Nguyên suy thoái, đại loạn, dân Hán nổi lên chống Nguyên khắp nơi. Từ 1345 có ba cuộc khởi nghĩa chống xâm lược Nguyên lớn như: Trần Hữu Lượng, Trương Hữu Thành và Chu Nguyên Chương. Trần Hữu Lượng khởi nghĩa ở Bái Trạch năm 1354 thắng lợi, chiếm cứ một vùng rộng lớn các tỉnh Giang Tô, Hồ Quảng (Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông). Cùng năm đó sai sứ xin hòa thân với Đại Việt (TT/T2/134). Năm 1355 Chu Đức Dụ nổi lên đến năm 1359 cũng sai sứ sang thông hiếu với Đại Việt (lúc đó đổi tên là Chu Nguyên Chương Vua Minh). Bấy giờ vua Minh đang cầm cự với Trần Hữu Lượng chưa phân được thua. Vua Trần sai người lên phía Bắc để dò la xem hư thực (Trần Hữu Lượng là con trai thứ hai Trần Ích Tắc, cháu ruột vua Trần Nhân Tông nên sau khi khởi nghĩa đã có giao hảo với nhà Trần). Theo Trần gia ngọc phả thì Trần Ích Tắc là con thứ năm vua Trần Thánh Tông, em vua Trần Nhân Tông. Trần Hữu Lượng đã giấu gốc tích, hoàng tộc Việt của mình để khởi nghĩa và có một số nguyên do như sau: Khi Trần Ích Tắc đem gia quyến và quân đội đến đầu hàng nhà Nguyên năm 1295 đã được phong làm An Nam quốc vương. Quân Nguyên xâm lược đưa Ích Tắc về nước đã thất bại, phải chạy về Tầu. Khi Nguyên thế tổ chết (1294) con nối ngôi là Nguyên Thành Tông thấy vai trò lịch sử của Ích Tắc đã hết nên đã hạ chỉ thu hồi ruộng đất đã cấp cho Ích Tắc và đưa về Ngạc Châu. Sự thay đổi đột ngột lớn này đã làm cho đời sống thiếu thốn, con cái li tán. Điều đó đã ảnh hưởng tới Trần Hữu Lượng. Cha con Ích Tắc vẫn có mộng làm vua do thần nhân báo mộng “khi vua Thái Tông sinh Ích Tắc, vụ thần ba mắt từ trên trời xuống nói bị thượng đế quở trách, xin thác sinh là con vua, sau lại trở về phương bắc”. Khi Ích Tắc ra đời, giữa trán có vết lờ mờ hình con mắt, hình dáng giống hệt người trong mộng… (TT/T2/55). Sau năm khởi nghĩa, tháng 6 năm 1360 Trần Hữu Lượng xưng đế quốc hiệu là Hán, đặt niên hiệu Đại Nghĩa, kinh đô ở Nam Kinh, chiếm cứ một vùng rộng lớn Chiết Giang, Hồ Quảng (Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông). Trần Giám Như ở Hàng Châu thuộc vùng đất của Trần Hữu Lượng nên mới có thể vẽ tranh ca ngợi vua Trần Nhân Tông vị anh hùng đã hai lần chiến thắng giặc Nguyên xâm lược Đại Việt. Là họa sĩ vẽ chân dung nhưng ông đã sáng tác bức Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ năm 1363 với ý đồ ca ngợi truyền thống Đông A (Trần) oai hùng để cổ vũ Trần Hữu Lượng khi đã xưng đế được 3 năm. Ông tuy nổi tiếng vẽ chân dung hàng đầu ở Hàng Châu nhưng vẫn giữ kín gốc tích của mình, nên sử liệu thời Nguyên Minh cũng không rõ lại lịch nhưng nói rõ là ngụ cư ở Hàng Châu. Trần Giám Như cũng có quan hệ với Triệu Mạnh Phủ một họa sĩ nổi danh lúc bấy giờ. Ông còn để lại một bức chân dung vẽ danh sĩ nổi tiếng nước Cao Ly (Triều Tiên) là Lý Tế Hiền vẽ năm Nguyên Nhân Tông (1319). Tranh vẽ cả người ngồi trên ghế tựa, áo choàng dài đội mũ tam sơn bên đôn gỗ cao (khổ tranh lớn 1,77mx 0,93m). Ông sống ở Trung Quốc từ năm 1315 đến 1341. Voi chở kinh và các thiền sư Ấn Độ Cuộc tranh hùng của Trần Hữu Lượng với Chu Nguyên Chương bất phân thắng bại trong nhiều năm. Năm 1366 Hữu Lượng đánh nhau với Chu Nguyên Chương ở hồ Phiên Dương. Hữu Lượng bị tên bắn lén chết trận. Chu Nguyên Chương đem quân đến vây thành Vũ Xương. Con Lượng là Trần Lý đầu hàng năm 1366. Năm sau nhà Nguyên mất, Chu Nguyên Chương trở thành Minh Thái Tổ (1367). Bức tranh Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ đã trở thành báu vật của các hậu duệ Trần lưu lạc ở Trung Nguyên, nhưng lại là đối thủ của Minh Thái Tổ nên bức tranh đã được giấu kín 60 năm sau. Qua hai đời vua đến năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420) nhà Minh thịnh trị, đã cướp xong nước ta, ổn định xâm lược bức tranh được tái xuất hiện do hai chủ nhân tranh được truyền tiếp theo là Trung thư xá nhân Trần Đăng và nhà sư già Giao Chỉ (Giao Chỉ học Phật nhân) Trần Quang Chỉ là hậu duệ nhà Trần. Ông Chỉ đã có bài tán viết vào dưới tranh để giới thiệu. “Đại sĩ là con vua Trần Thái Tông, trước khi sinh, vua cha đã mơ thấy Thượng đế ban cho thanh bảo kiếm. Khi sinh, Vua đẹp đẽ thông thái (mỗi ngày có thể đọc vạn lời, khi lớn lên thông tam giáo nhưng yêu thích đạo phật. Vương thông hiểu lịch số, binh pháp, y dược, âm luật, các môn đều thấu hiểu đến chỗ uyên bác. Trong việc trị nước, lấy tinh thần nhân ái để giải quyết mọi việc, lấy lòng thành thực đối đãi với bề tôi, coi họ như tay chân, phủ dụ trăm họ như con ruột, nhẹ hình phạt, thuế mà, giữ chữ tín trong việc thưởng công, phạt tội. Tuổi hơn 40 thì “siêu nhiên”, bỏ ngai vàng, truyền ngôi cho thế tử, vào động Vũ Lâm tu đạo, mặc áo sư, rồi làm am trên đỉnh núi Yên Tử ở, 6 năm không xuống núi, mặc áo cỏ, ăn lá cây cần khổ tích hạnh chân tu “các độ”. Sau đó trải rộng tính tình ở gò núi đi khắp nơi trong nước, nay các danh sơn thắng cảnh đâu cũng còn lưu dấu vết “trác tích” (tu hành) của người. Bấy giờ có đạo sĩ Lâm Thời Vũ trong nước cùng theo Đại sĩ đi khắp nơi, có lúc viễn du hóa độ lân quốc đến Chiêm thành, khất thực trong quốc đô. Vua nước đó lấy lễ đón mời, đối đãi hết sức kính cẩn, lại sắm sửa thuyền bè, nghi trượng đầy đủ thân hành tiễn về nước. Sau đem đất hai châu cúng dàng nay là hai châu Thuận, châu Hóa vậy. Đến năm sau, đi không ngồi xe, đầu không đội nón, hình dung khô khan, áo bỏ vai lam lũ, người trong nước gặp không ai biết đấy là vua. Thiền Tông của Đại sĩ vốn từ hậu duệ của Thần Hội đời Đường, trong nước chưa phát triển thiền học rộng, đến Đại sĩ thì tông môn đại hưng thịnh, cho nên dòng áo đen một nước suy tôn là sơ tổ…khi nhập thất ngồi ngay ngắn lặng lẽ mà hóa…khi đốt có thần quang ngũ sắc bốc lên, suốt đêm không tan…người trong nước thấy cảm ứng linh thiêng, khắp nơi các chùa đều thờ phụng cúng dâng, cầu đảo đều ứng nghiệm. Sự tích Đại sĩ đã có sách truyền đăng lục ghi chép, người Giao Chỉ có thể truyền đạt. Tôi nhận thấy bức tranh này, dám biểu đạt một vài điều đại quát dưới tranh, may chi mọi người xem được khiến cho công hạnh của Đại sĩ không bị mai một. Vĩnh lạc năm 18, ngày thượng nguyên năm Canh tý Người học Phật ở Lô Giang Trần Quang Chỉ Tích phủ lạy hai lạy kính cẩn ghi... Đạo sĩ Lâm Thời Vũ cùng đoàn chuyển kinh Trịnh Quang Vũ (mời các bạn xem tiếp phần II số tháng 3/2013)Điểm nổi bật trong bức tranh là một "nhà sư Ấn Độ" bị mù được dẫn qua cầu bằng một nhánh cây trúc dẫn đường bởi một "đạo sĩ Việt". Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 5, 2013 NHÀ MINH CƯỚP SÁCH CỦA TA ĐEM VỀ TÀU This entry was posted on Tháng Mười 1, 2012, in Lịch sử Việt Nam and tagged nhà minh, Đại Việt. Bookmark the permalink. Để lại phản hồi Phạm Cao Dương Trong Khởi Hành số 90, tháng 4 năm 2004, dưới nhan đề “Từ Lĩnh Nam Chích Quái Đến Các Tài Liệu Bị Quân Minh Tịch Thu Đem Về Tàu”, tôi đã viết một bài về việc người Tàu tịch thu sách của ta. Vì bài viết quá ngắn và vì tôi không chỉ rõ các nguồn tài liệu nên sau đó nhiều người thắc mắc. Trong số những vị này, có người là độc giả thuần túy, có người là sinh viên cũ của tôi và cũng có người là học giả có uy tín và rất khả kính. Bác Sĩ Trần Văn Tích là một trong các học giả uy tín và rất khả kính này. Trần Bác Sĩ đã bỏ công viết hẳn một bài đăng với nhan đề “Chuyện Người Tàu Lấy Sách Của Ta” trên Khởi Hành số 92, tháng 6 năm 2004 sau đó và gián tiếp đặt câu hỏi với tôi. Vốn ngưỡng mộ Bác Sĩ từ lâu nhờ đọc các công trình khảo cứu của ông, đồng thời lại có dịp gặp ông dù chỉ thoáng qua khi ông tới thăm Quận Cam và Viện Việt học sau đó nên tôi thấy cần phải viết bài này để được làm quen với ông, đồng thời giải đáp đôi chút những thắc mắc của các độc giả mà tôi đã nhận được. Gốc gác của bài viết này là như vậy. Nhưng năm 2004 khác với năm 2012. Năm 2004 hiểm họa xâm lăng nước ta của người Tàu chưa lộ rõ và chưa thật sự nguy hiểm như trong năm 2011 và bây giờ là năm 2012. Cập nhật hóa và phổ biến những gì tôi thấy được cho bạn bè nói riêng và cho tuổi trẻ Việt Nam nói chung là một điều tôi thấy nên làm mặc dầu tôi vẫn muốn kiếm thêm tài liệu để viết thêm nhiều nữa. Phải nói là chuyện tôi viết bài đăng trên Khởi Hành số 90 kể trên cũng là do tôi đọc Khởi Hành số 89 y hệt Bác Sĩ Trần Văn Tích viết bài đăng trên Khởi Hành số 92 vì ông đọc Khởi Hành số 90. Có điều sự thắc mắc của tôi về chuyện người Tàu tịch thu hết các sách vở của ta đem đốt hết hay đem về Tàu là có từ lâu. Thắc mắc nhưng đồng thời cũng là một nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục, đặc biệt là mỗi khi tôi có việc phải tìm hiểu về hai thời Lý Trần, hai triều đại đã đóng góp rất nhiều cho vinh quang của xứ sở và của dân tộc mình. Tôi biết nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục của tôi cũng là của chung của cả dân tộc tôi, dù cho là tôi đang làm công chuyện tìm hiểu và nghiên cứu. Tôi cũng biết tìm hiểu và nghiên cứu là phải có cái đầu lạnh chừng nào hay chừng ấy, càng lạnh càng tốt, nhất là nghiên cứu về quá khứ, nhưng dù muốn hay không tôi vẫn là người Việt Nam. Có lẽ tôi không theo kịp Trần Quân ở điểm này. Có điều những gì tôi viết ra chỉ là một gợi ý và gợi ý về những sách vở và tài liệu liên hệ tới nước Đại Việt đương thời do chính người Đại Việt viết, trong đó có học thuật, tư tưởng, phong tục, tập quán, sử ký, địa lý và tất nhiên gồm cả văn chương, thi ca…, những gì có thể giúp cho người thời đó và người sau này tìm hiểu về nước Đại Việt và dân tộc Đại Việt. Những sách vở, tài liệu này tôi tin là nhiều lắm, nhiều hơn là những gì ta hiện có, cộng thêm với những gì được liệt kê trong danh sách những sách đã mất mà các cụ ta sau này còn nhớ được và viết lại trong sử sách do các cụ viết. Tôi dám tin là như vậy vì đây là cả một kho tàng tổ tiên ta đã tạo dựng được trong suốt bốn trăm năm thịnh trị nhất của lịch sử dân tộc mình. Tôi cũng dám tin như vậy vì trong bài tựa củaViệt Âm Thi Tập, sưu tập thơ của thời Lý-Trần và thời Lê Sơ do Phan Phu Tiên khởi đầu và Chu Xa thực hiện, Lý Tử Tấn đề tựa. Cả ba đều là người đương thời. Những sụ hiểu biết của các ông còn rất nóng. Phan Phu Tiên đậu Thái Học Sinh năm 1396 đời Vua Trần Thuận Tông, Lý Tử Tấn đậu đồng khoa Thái Học Sinh với Nguyễn Trãi, khoa Canh Thìn (1400) triều Nhà Hồ, còn Chu Xa thì trẻ hơn một chút vì sách được soạn xong năm 1459 dưới triều Vua Lê Nhân Tông, tiếp nối công trình của Phan Phu Tiên hoàn thành năm 1433, niên hiệu Thuận Thiên triều Vua Lê Thái Tổ nên những gì các ông biết về sách vở, thi ca của hai Triều Lý và Trần phong phú đến mực nào cũng như hành động tịch thu sách của người Việt của Nhà Minh là như thế nào. Lý Tử Tấn trong bài tựa củaViệt Âm Thi Tập cho biết là sau cơn binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn. Nguyên văn như sau: “… Như các vua Triều Trần là Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông, Nghệ Tông, cùng là Chu Tiều Ẩn tiên sinh (Chu An), các ông họ Phạm ở Hiệp Thạch (Phạm Sư Mạnh), họ Lê ở Lương Giang (Lê Quát), Nguyễn Giới Hiên (Nguyễn Trung Ngạn) và anh em ông Phạm Kính Khê (Phạm Tông Mại, Phạm Ngộ) đdều có tập thơ riêng lưu truyền ở đời. Về sau, vì binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn.” Điều cần phải để ý là đây mới chỉ là thơ mà thôi. Sự thịnh trị này đã được chính Minh Thái Tổ ghi nhận khi ông ban cho sứ thần của ta bốn chữ Văn Hiến Chi Bang vào năm 1368 và Trần Nguyên Đán (1325 – 1390), cha vợ của Nguyễn Phi Khanh hay ông ngoại của Nguyễn Trãi đã miêu tả qua câu thơ bất hủ “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì” (trăm họ vui ca mừng thời thịnh trị). Cái gì đã làm cho Đại Việt là một nước văn hiến? cái gì đã làm cho trăm họ Đại Việt âu ca lạc thịnh thì? Cái gì đã làm cho một nước nhỏ bằng bàn tay thắng được quân nhà Tống và luôn cả quân Mông Cổ, điều thượng quốc của người Việt trong nhiều thế kỷ và luôn cả hiện tại, tôi muốn nói là chính nước khổng lồ Trung Quốc, không làm được? Đó phải là những câu hỏi mọi người nghiên cứu về thời này phải tìm hiểu để trả lời. Những sách vở do người Đại Việt đương thời biên soạn hay sáng tác chắc chắn là những nguồn hiểu biết vô cùng quan trọng về đất nước và con người Đại Việt mà những ai, kể cả người Tàu đương thời, có nhu cầu tìm hiểu hay chỉ vì vì tò mò, cũng muốn đọc và lưu giữ. Nếu quả như vậy thì phần nào những sách vở, tài liệu này vẫn chưa bị mất và vẫn còn nằm đâu đó bên Tàu, dưới hình thức này hay hình thức khác, nếu kiên trì tìm kiếm và có phương pháp tìm kiếm, người ta vẫn có thể thấy lại được. Tất nhiên là với tất cả sự dè dặt tối thiểu mà một nhà sưu tầm, khảo cứu cần phải có. Ý được gợi ra nhưng câu trả lời đầu tiên được ghi nhận gần như là không tưởng vì nếu cứ nhất định căn cứ vào tài liệu của thời đó để lại thì làm gì có chuyện người Tàu lấy sách của ta đem về Tàu. Minh Thành Tổ trong hai đạo sắc dụ của ông có hạ lệnh cho tướng lãnh, quân binh của ông đem về Tàu đâu. Câu trả lời của tôi là căn cứ vào các sách sử của ta. Tôi có thể chưa có dịp đọc hết các sách vở, tài liệu có thể chứa những chi tiết về chuyện này, nhưng trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, chính sử của nhà Nguyễn và trước đó, Lê Quý Đôn (1726 – 1784) trong Lê Triều Thông Sử đã viết rất rõ điều này. Trước hết, trong Lê Triều Thông Sử, phần “Nghệ Văn Chí,” Lê Quý Đôn có viết: ”Đến đời Nhuận Hồ mất nước, tướng nhà Minh là Trương Phụ lấy hết sách vở cổ kim của ta gửi theo đường sông về Kim Lăng.” Còn trongKĐVSTGCM, phần Chính Biên, quyển XXXIII, sau phần nói về việc vua nhà Minh cho in các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh và Tính Lý Đại Toàn và sai Giám Sinh Đường Nghỉa sang nước ta ban phát cho những người Nho học có chép thêm”Còn các sự tích và sử sách của nước ta từ đời Trần trở về trước đều tịch thu đưa về Kim Lăng.” Gần ta hơn, Trần Quốc Vượng, giáo sư sử học thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Hà Nội, trong tuyển tập nhan đề Văn Hóa Việt Nam, Tìm Tòi và Suy Gẫm cũng viết ”Cướp được nước ta, trong 20 năm trời bên nền đô hộ hà khắc về chính trị, vơ vét tham tàn về kinh tế, giặc Minh đã thi hành một chính sách hủy diệt độc ác về văn hóa, giặc Minh đã quyết tâm đập cho tan nát những cơ cấu văn hóa dân tộc xây dựng suốt hơn 400 năm, chủ yếu dưới thời Lý – Trần. Vua Minh đã trực tiếp ra mật lệnh cho bọn tướng xâm lăng khi tiến quân vào nước ta, thấy bất cứ cuốn sách vở nào, gặp bất cứ tấm bia đá nào đều phải thiêu hủy, đập phá hết. Tên tướng Trương Phụ lượm lặt hết các sách vở cổ kim của ta, đóng thùng chở về Kim Lăng. Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418 ), nhà Minh còn sai tiến sĩ Hạ Thì và hành nhân Hạ Thanh sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và sự tích xưa nay do người Việt viết. Năm 1419, nhà Minh lại cho người đem sách Khổng giáo, Đạo và Phật giáo của Trung Quốc sang thay thế cho những sách trước kia chúng lấy đi. Chính sách hủy diệt văn hóa thâm độc đó đã phá hoại gia tài văn hóa, tinh thần của dân tộc ta không phải là ít. Nếu không, cái gia tài văn hóa, văn học tư tưởng thời Lý Trần để lại sẽ phong phú biết chừng nào!” Tất nhiên các nhà nghiên cứu thận trọng vẫn có thể nói rằng những ghi chú kể trên đều là bởi những người của nhiều thế kỷ sau này viết nên vẫn chưa đủ thuyết phục, và ta vẫn cần phải có thêm bằng chứng. Thực sự thì ta không biết Lê Quý Đôn rồi sau này các nhà san định bộKĐVSTGCM đã căn cứ vào đâu để ghi chép như trên. Có thể các vị này đã căn cứ vào Lê Quý Đôn còn Lê Quý Đôn thì căn cứ vào những gì ông đọc được và nghe được từ những người của thời trước ông. Chúng ta cần ghi nhớ là Lê Quý Đôn là người chịu khó tìm tòi, học hỏi. Ông đã đọc rất nhiều và rất rộng và ghi chép rất cẩn thận. Còn Trần Quốc Vượng thì đã không nêu rõ các nguồn sử liệu ông đã dùng. Nhưng sử gia này cũng là người làm việc rất tỉ mỉ và có phương pháp nên chắc chắn đã không đưa ra những ghi nhận về sự kiện kể trên một cách hồ đồ vô căn cứ. Dù sao, một khi nghi vấn đã được đưa ra, ta vẫn cần phải truy tầm vừa bằng tài liệu nếu có và vừa bằng suy luận cặn kẽ chừng nào hay chừng nấy. Trước hết ta hãy đọc lại những phần chính liên hệ tới vấn đề sách vở của người Việt trong ba sắc chỉ của Minh Thành Tổ được ghi trong Việt Kiệu Thư, được dịch và in lại trong Thơ Văn Lý Trần,công trình được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu có uy tín và đáng tin cậy của Việt Nam trong thế kỷ trước, để thấy lại phần nào chi tiết liên hệ, nhất là sắc chỉ thứ hai, ban hành vào ngày 16 tháng 6 năm 1407, theo đó thì vị hoàng đế này đã nhiều lần bảo các tướng sĩ của ông ta là phải hủy diệt lập tức những sách vở của người Việt này, nhưng các tướng lãnh của ông đã không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Còn quân lính thì phần đông không biết chữ…thì khi “đài tải” sẽ bị mất mát nhiều. Tại sao lại “đài tải”? Tại sao lại lo mất mát nhiều? Đến sắc chỉ thứ ba ban hành ngày 24 tháng 6 năm 1407, Minh Thành Tổ lại ra lệnh cho các tướng lãnh của ông phải cấp tốc thu hồi những văn kiện ông ban hành từ trước: “Nay An-nam đã bình định xong [...] trừ các loại chế dụ ra, còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành Quốc Công đã lĩnh hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi chuyện, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ lại rơi vào tay bọn kia thì rất bất tiện.” thì người ta thấy sự kiện đã quá rõ rệt là lệnh của vua Nhà Minh đã không được triệt để thi hành và các sách vở quân Minh thu được đã không bị đốt bỏ hết. Một số khác trên đường đài tải đã bị mất mát rất nhiều. Ngoài ra, ngoài ba dụ chỉ hiện được người ta biết tới, chắc chắn còn nhiều văn kiện mật khác hoặc đã được niêm phong gửi lại triều đình Kim Lăng, hoặc đã bị hủy bỏ trong thời điểm này. Chúng chứa đựng những gì hiện tại chúng ta chưa biết được. Do đó nếu chúng ta chỉ căn cứ vào sắc chỉ thứ nhất (được nói tới trong Thơ Văn Lý-Trần), ban hành ngày 21 tháng 8 năm 1406, cho Chu Năng kể trên, mà bảo rằng không hề có chuyện người Minh đem sách vở của ta về Tàu, tôi e rằng quá vội vã. Chúng ta chỉ có thể biết rõ hơn chừng nào kiếm ra được những tài liệu mật này. Đây gần như là một việc mò kim đáy biển. Tuy nhiên còn có những lý do khác khiến ta có thể viện dẫn được. Thứ nhất là tính tò mò của các tướng sĩ nhà Minh, một tính tự nhiên và phổ quát của con người mà họ không tránh được, đặc biệt ở những người có học khi họ kiếm được những sách nói về những điều họ đã học, ở đây tôi muốn nói tới các sách về Tam Giáo đặc biệt là sách của Hồ Quý Ly và của Chu Văn An, chưa kể tới hoàn cảnh họ phải sống xa nhà. Thứ hai là các nhu cầu quân sự, hành chánh và bình định. Các tướng sĩ trong ban tham mưu của Chu Năng và sau này của Trương Phụ và các nhà hành chánh sau này nữa chắc chắn phải thu thập bất cứ tài liệu gì họ thu thập được, phân tích nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ để hiểu rõ kẻ địch của họ và của dân bản địa mà họ phải bình định và cai trị. Nghiên cứu rồi sau đó đem theo mình và giữ lại làm của riêng là một việc làm tự nhiên của họ; còn triều đình nhà Minh thì ở xa, làm sao có thể theo dõi chặt chẽ được. Câu hỏi kế tiếp người ta có thể nêu lên là cho đến những ngày hiện tại đã có tác phẩm nào của người Việt sau nhiều thế kỷ luân lạc đã được người ta khám phá ra dưới hình thức này hay hình thức khác chưa? Câu trả lời là có. Đó là Việt Sử Lược và Thiền Uyển Tập Anh. Hai cuốn sách này xuất hiện từ thời nhà Trần và đã được người sau chép hay viết lại.Việt Sử Lược đã bị thất truyền rất lâu, mãi đến thời Càn Long nhà Thanh (1736 – 1795) mới được đem in, nói là theo bản của tuần phủ Sơn Đông thu nhặt được đem dâng lên vua với người hiệu đính là Tiền Hi Tộ, người Giang Tô, người đã san định bộ Thủ Sơn Các Tùng Thư. Việt Sử Lượcđược lưu trữ ở Thủ Sơn Các Tùng Thư và ở Khâm Định Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh và đã được nhiều nhà xuất bản Trung Quốc ấn hành. Giáo Sư Trần Quốc Vượng đã phiên dịch sang Việt ngữ, giới thiệu và chú giải. Trong bản dịch này Trần Quốc Vượng có nói tới Thiền Uyển Tập Anh khi ông bàn về việc các người họ Lý bị đổi thành họ Trần, nhưng đến Lê Mạnh Thát thì sau khi đối chiếu nội dung của Thiền Uyển Tập Anh với An Nam Chí Nguyên, nhà học giả Phật giáo uyên thâm này đã khẳng định là: “Khi quân Minh đánh chiếm được nước ta vào năm 1407, Thiền Uyển Tập Anh đã bị chúng thu gom và sau này được dùng một phần để viết An nam chí nguyên.” Trên đây là những gì tôi ghi tạm để cấp thời chia sẻ với mọi người, đặc biệt là giới trẻ khi hiển họa mất nước của dân tộc ta trước những mưu toan vừa công khai vừa tiệm tiến và vô cùng thâm độc của người Tàu đang diễn ra ở cả ngoài biển đảo lẫn trên đất liền, ở dọc biên giới với những khu rừng đầu nguồn, trên cao nguyên cũng như dưới đồng bằng dọc theo bờ biển từ Móng Cái đến Cà Mau, đối với đất đai cũng như đối với con nguời. Tất cả đã trở thành một một mối ưu tư và một đề tài vô cùng nóng hổi cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của tổ quốc và tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu chiến sĩ ở cả hai bên đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua nhân danh bảo vệ đất nước . Bài viết, do đó, chắc chắn còn nhiều thiếu sót và sơ hở. Tôi sẽ xin bổ túc khi có dịp. Riêng về giá trị văn chương của thi phú của ta thì tôi không dám lạm bàn vì sự hiểu biết và khả năng của tôi về khía cạnh này không đủ. Nếu tôi có đọc các tác phẩm thuộc loại này thì chỉ là để tìm hiểu về các thời kỳ hay các nhân vật liên hệ tới lịch sử. Tuy nhiên nếu người Tàu có làm chuyện hủy diệt hay chép lại hay viết lại sách hay đạo văn của ta khi họ xâm lăng nước ta vào đầu thế kỷ XV thì họ chỉ nhằm triệt tiêu khả năng tinh thần, lòng tin tưởng và hãnh diện của dân tộc ta để phòng ngừa hậu họa, không phải chỉ ở thời điểm xâm lăng hay đô hộ mà vĩnh viễn sau này nữa. Đây là một chính sách vô cùng tàn độc nếu ta dùng tữ ngữ chung của nhiều người khi nói tới hay viết về giai đoạn lich sử này của dân tộc và của đất nước ta. Một chính sách không phải chỉ phát xuất từ tham vọng Đại Hán mà còn có thể được coi như phản ảnh của một mặc cảm, một sự sợ hãi lo âu trước sự thành công không thể ngờ được của Đại Việt trước sự thất bại của Thiên Triều Trung Quốc, một chính sách và một hành vi nếu được thực hiện vào thời điểm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI hiện tại, quốc gia chủ trương sẽ phải chính thức và long trọng xin lỗi. Có điều người ta cần phải ghi nhớ là người Tàu luôn luôn kiêu căng, tự coi nước mình là một nước lớn là duy nhất văn minh, chung quanh họ đều là man di mọi rợ, Việt Nam hay Đại Việt đi chăng nữa cũng chỉ là man, Nam Man, nằm ngoài rìa của Hoa Hạ, của Trung Hoa thời Dân Quốc, của Trung Quốc thời Cộng Sản hiện tại…Những chiến thắng của người Việt trong các thời Lý Trần, đặc biệt là chiến thắng chống quân Mông Cổ trong khi người Tàu thực hiện không nổi là những gì họ không chấp nhận được. Còn nếu vị Hoàng Đế sáng lập nên Triều Đại Nhà Minh là Minh Thái Tổ ban cho sứ Đại Việt bốn chữ Văn Hiến Chi Bang, vô tình ông đã khai tử cả một nền văn hóa riêng của Đại Việt mà đao phủ là hậu duệ của ông, Minh Thành Tổ. Là người sáng lập nên một triều đại mới, Minh Thái Tổ có thể có một cái nhìn rộng rãi bao dung nhưng những người kế vị ông coi đó là một sự xúc phạm đến thiên triều khi chính tình của nhà Minh đã ổn định. Cuối cùng ta cũng không nên quên là kiêu căng nhưng người Tàu vẫn luôn mở cửa để thu góp chất xám từ các xứ chung quanh bằng cách đòi hỏi các xứ này phải cống những người tài giỏi khi các nước này còn độc lập hoặc ruồng bắt những người này khi các nước họ bị xâm lăng hay đô hộ đem về Trung Quốc. Điều này đã xảy ra trong thời quân Minh xâm lăng nước ta khi vua Minh hạ lệnh cho Trương Phụ và các tướng tá của ông này “tìm tòi dò hỏi những người ẩn dật ở núi rừng, có tài, có đức, thông suốt năm kinh, văn hay, học rộng, thạo việc, am hiểu thư toán, nói năng hoạt bát, hiếu đễ, chăm làm ruộng, tướng mạo khôi ngô, gân sức cứng rắn, cùng những người hiểu biết nghề cầu cúng, làm thuốc, xem bói, dều đưa sang Kim Lăng, sẽ trao cho quan chức, rồi cho về trấn trị các phủ, châu huyện”. Lệnh này phải được hiểu là nhằm thâu góp nhân tài của Đại Việt để phục vụ cho thiên triều ở Trung Quốc hơn là để sau này cho về phục vụ trong ngành hành chánh ở Đại Việt vì nếu cho họ phục vụ ngay tại Đại Việt, cần gì phải đưa họ về Kim Lăng, đường xá vừa xa xôi, vừa tốn kém, vừa nguy hiểm. Đưa về phục vụ ở Đại Việt chỉ là miếng mồi không hơn, không kém, giữ họ lại Trung Quốc để khai thác mới là chính. Một trường hợp điển hình cho chính sách tom góp và thu dụng nhân tài của nhà Minh đương thời là trường hợp của Hồ Nguyên Trừng, con trưởng của Hồ Quý Ly. Bị bắt đưa về Tàu nhưng Nguyên Trừng đã không bị ghép tội và bị xử cực hình vì ông đã bằng lòng đem tài riêng của mình, tài chế súng thần cơ, và sự hiểu biết của mình về tình hình Đại Việt ra giúp cho nhà Minh hay cung cấp cho nhà Minh những chỉ dẫn cần thiết để diệt nhà Hậu Trần, trái lại, ông đã được trọng dụng, làm quan đến chức á khanh, công bộ tả thị lang và đã được pháo binh Trung Quốc thời đó kính trọng và sau này tế như là thánh tổ của họ. Nói cách khác, người Tàu luôn luôn có chính sách thu góp mọi thứ ở chung quanh về làm giàu cho xứ họ. Đối với họ, nước họ phải là nhất, các nước chung quanh không được phép hơn họ. Do đó cái gì có giá trị họ thu góp hết, trong đó có sự hiểu biết, có sách vở, có các sản phẩm nghệ thuật, có văn chương, thơ phú… Thu góp và để nguyên như vậy hay sửa đổi đi nhưng tất cả đều phải trở thành di sản văn hóa riêng của họ, điều sau này họ tiếp tục làm, người Nhật cũng làm và người Mỹ, người Anh, người Pháp cũng làm; nhưng ở không thời nào, không người nào có mưu toan thâm độc và tàn bạo như người Tàu dưới thời nhà Minh xâm lăng Đại Việt. Hậu quả là từ sau thời Minh thuộc, người Việt không bao giờ có được những vinh quang đáng nể đối với người ngoài, đáng hãnh diện cho chính mình như thời trước đó nữa./. Kỷ niệm Ngày Giỗ Trận Đống Đa năm Nhâm Thìn 2012 Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 12, 2013 Ngọc phả Hùng Vương: Chuyện hoang đường có khi là sự thật Ngọc phả không phải là lịch sử nhưng qua đó chúng ta có thể tìm thấy bóng dáng của lịch sử. Có những điều tưởng như hoang đường nhưng có khi lại là sự thật, ví như những ghi chép về Kinh Dương Vương trong Ngọc phả. Ghi chép về Kinh Dương Vương và kinh đô Ngàn Hống là chính xác? Vậy nhưng, trong nghiên cứu lịch sử lại không đơn giản như thế. Chúng ta không thể chỉ căn cứ vào niên đại của Đại Việt sử lược. Bởi nếu vậy thì giải thích thế nào khi chính sử sách của Trung Hoa ghi rằng: "Đời Đào Đường, Nam di có Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần, rùa được nghìn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ khoa đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay, vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là lịch rùa" (Sách Thông chí do Trịnh Tiêu đời Tống soạn). Sự kiện trên sách Thông giám cương mục của Chu Hi đời Tống soạn ghi là vào năm 2353 TCN. Sách Sử ký Tư Mã Thiên thì ghi rằng: "Năm Tân Mão Chu Thành Vương năm thứ 6 (1110 TCN) đất Giao Chỉ ở phía Nam có Việt Thường Thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con chim trĩ trắng". Đại Việt sử lược của ta cũng chép sự kiện này và tách bạch hai thời kỳ Việt Thường và Hùng Vương thành hai thời kỳ khác nhau, cách nhau đến 400 năm: "Đến đời Chu Thành Vương, Việt Thường Thị mới dâng chim trĩ trắng, sách Xuân thu gọi Việt Thường Thị là Khuyết Địa, sách Đái Kỷ gọi là Điêu Đề. Đến đời Trang Vương nhà Chu ở bộ Gia Ninh có một người kỳ dị biết dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, gọi là nước Văn Lang, lấy sự thuần chất làm phong tục, buộc dây làm chính sự, truyền được 18 đời, đều xưng là Hùng Vương". Sách Lâm ấp ký được dẫn lại trong Thủy kinh chú (thế kỷ 6) của Trung Hoa thì định vị cụ thể: "Cửu Đức là nơi tột cùng của Cửu Di, cho nên lấy để đặt tên cho quận. Chỗ đặt tên quận ấy là một nước di của Việt Thường cực xa. Chim trĩ trắng, ngà voi qua 9 lần dịch tiếng mà đến". Cửu Đức là tên huyện thời Ngô, tương ứng với vùng bắc Hà Tĩnh ngày nay, nơi có Ngàn Hống (tức núi Hồng Lĩnh). Những ghi chép trên lại hoàn toàn phù hợp với Ngọc phả Hùng Vương, khi cho rằng Kinh Dương Vương vị vua đầu tiên của 18 đời Hùng Vương vốn đóng đô ở Ngàn Hống. Thậm chí, khi đã tìm ra đô mới ở Việt Trì thì ông cũng chỉ cử Hoàng thái tử là Lạc Long Quân ra đô mới, còn ông vẫn ở đô cũ. Về vấn đề Kinh Dương Vương và kinh đô Ngàn Hống, Ngọc phả Hùng Vương và Đại Việt sử lược dường như ghi chép chính xác hơn là sự nhào nặn của Đại Việt sử ký toàn thư, bộ sử chính thống của thời Lê! Bản đồ vị trí Cựu đô Ngàn Hống xác định theo Ngọc phả Hùng Vương (theo GS Ngô Đức Thọ). Chuyện hoang đường có khi là sự thật Vậy thì, chúng ta đánh giá Ngọc phả Hùng Vương như thế nào? Chúng ta không thể đòi hỏi Ngọc phả phải chính xác như sự thật lịch sử. Nhưng trong Ngọc phả có bóng dáng của lịch sử mà ta cần tìm hiểu. Ngọc phả là tâm linh, tình cảm, là khát vọng tìm hiểu của ông cha ta xưa về cội nguồn dân tộc. Và, như nhận định của GS Ngô Đức Thọ sau khi dịch trọn vẹn văn bản quý báu này: "Đọc Ngọc phả Hùng Vương chúng ta bước vào thế giới của những huyền tích kỳ vĩ không chỉ liên quan đến thời kỳ lập quốc dựng nước mà còn xa hơn nữa đến cội nguồn dân tộc. Các địa danh, nhân danh trong Hùng Vương Ngọc phả sử sách đã viết nhiều, bàn nhiều nhưng hầu như cũng chưa vén được bao nhiêu lớp sương mù ngàn năm. Vì vậy, dịch xong Hùng Vương Ngọc phả, người dịch nhận ra rằng, ở đây không có ngôn ngữ cho người chú thích, khảo chứng để chứng minh những gì không đúng với lịch sử như chúng ta biết ngày nay. Thay vào đó, trong cuộc đi như hành trình của chàng Ôđixê đi tìm dân tộc mình, rải rác ta có thể nhận ra những điều tưởng như hoang đường lại được xác nhận ở một nguồn tin độc lập nào đó" (Lời người dịch). Kính nhờ Ban Quản Trị diễn đàn đóng lại chủ đề Minh Triết Cổ sau ngày Tết Ông Công Ông Táo chầu Trời, qua hơn 1 năm đăng tải. Trân Trọng cảm ơn. Share this post Link to post Share on other sites